Các Bài suy niệm Chúa Nhật 1 Mùa Vọng Năm A

470

CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG_A

Lời Chúa: Is 2, 1-5; Rm 13, 11-14; Mt 24, 37-44

———

Mục lục

1. Lòng hiếu khách (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Bất ngờ và thức tỉnh (Gm. Giuse Trần Văn Toản)

3. Sẵn sàng cho tình yêu (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

4. Tỉnh thức  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

5. Chuẩn bị gì cho ngày Chúa đến (Sr. Anna Như Ý, MTG.Thủ Đức)

6. Hạnh phúc bất ngờ  (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)

7. Không ngờ  (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)

8. Sống tỉnh thức  (Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

9. Tỉnh thức chờ đợi Chúa đến (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)

10. Tỉnh thức đợi chờ (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

11. Dọn lòng đón Chúa (Lm. Minh Vận, CRM)

12. Người đến để con tim được vui trở lại  (Lm. Giuse Trương Đình Hiền)

13. Ngày và đêm  (Lm. Bùi Quang Tuấn)

14. Có thể đây là năm cuối đời tôi  (Lm. Hà Ngọc Đoài)

15. Lên tàu hy vọng  (Lm. Phạm Quốc Hưng)

16. Ngày quang lâm  (Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

17. Chúa sẽ đến cho con người hạnh phúc Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm,SJ)

18. Niềm tin yêu phó thác (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)

19. Âm vang mùa Vọng  (Lm. Giuse Lê Quan Trung)

20. Đợi chờ, nhưng phải hành động  (Jos.Vinc.Ngọc Biển)

21. Niềm vui bất ngờ  (Thiên Phúc)

22. Tỉnh để chờ  (Anmai)

23. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 1 Mùa Vọng_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

24. Bồi hồi mong đợi  (Trầm Thiên Thu)

25. Mục đích ChúaGiêsu giángsinh là để cứuđộ chúngta(Lm.Đaminh Trần ĐìnhNhi)

26. Hãy chỗi dậy  (Lm. Trần Bình Trọng)

27. Vui sống  (Lm.Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

28. Cuộc đời là phù vân  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

29. Thức tỉnh (Lm. Vũ Đình Tường)

30. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng. (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

31. Đất hy vọng (Jorathe Nắng Tím)

32. Mùa Vọng mong Chúa đến  (Lm. Nguyễn Xuân Trường)

33. Chờ Chúa đến  (Lm. John Nguyễn)

34. Bảo vệ và tôn trọng sự sống  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

35. Chúa Nhật I Mùa Vọng. Năm A  (Lm. Antôn)

36. Con Người sẽ đến   (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)

 

Mục lục

1. Chờ đợi trong hy vọng  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Sẵn sàng đón Chúa  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Sống tỉnh thức  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Tỉnh thức và sẵn sàng (Lm. Giacôbê Tạ Chúc)

5. Tỉnh thức và cầu nguyện (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

6. Nền hòa bình tuyệt đẹp (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

7. Bất ngờ  (Trầm Thiên Thu)

8. Con Người sẽ đến  (P. Trần Đình Phan Tiến)

9. Bất ngờ Chúa đến  (AM. Trần Bình An)

10. Đêm sắp tàn, ngày gần đến  (JM. Lam Thy, ĐVD)

11. Anh em hãy sẵn sàng  (Fx. Đỗ Công Minh)

12. Tỉnh thức và chờ đợi  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

13. Tỉnh táo bảo vệ phẩm chất cao đẹp của mình  (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

14. Biết mong chờ (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

15. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng (Jos. Hoàng Mạnh Hùng)

16. Kẻ trộm đến (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

17. Tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến (Lm. Đan Vinh)

18. Sống tỉnh thức và sẵn sàng  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

19. Canh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa  (Dã Quỳ)

20. Tỉnh thức chờ Chúa đến (Huệ Minh)

21. Chúa Nhật 1 Mùa Vọng_A  (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)

 

.

LÒNG HIẾU KHÁCH

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Cuộc gặp gỡ giới trẻ châu Á do Cộng đoàn Taizé tổ chức tại Hong Kong vào tháng 8 năm 2019 đã chọn đề tài “Chúng ta đừng quên lòng hiếu khách”. Câu Kinh Thánh này được trích dẫn từ Thư gửi tín hữu Do Thái: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết” (Dt 13,2). Nếu chúng ta cần tỏ lòng hiếu khách, là vì Thiên Chúa cũng rất quảng đại đón tiếp chúng ta. Qua công trình tạo dựng, Ngài đã gọi chúng ta từ hư vô tới hiện hữu. Khi chúng ta phạm tội, Ngài đã giang rộng vòng tay đón chào chúng ta trở về. Lòng hiếu khách của Thiên Chúa, vừa tạo dựng chúng ta, vừa tha thứ cho chúng ta với tình cha nhân hậu thắm thiết.

Chúng ta đã bước vào Mùa Vọng, là thời điểm nhắc nhớ chúng ta: Con Thiên Chúa đã đến trong lịch sử. Tài liệu hướng dẫn suy niệm của Cộng đoàn Taizé viết: “Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là tình yêu, trao gửi cho chúng ta tình bằng hữu. Một cách khiêm nhường, Chúa Kitô đứng trước nhà chúng ta và gõ cửa. Như một người nghèo, Người hy vọng và chờ đợi sự hiếu khách của chúng ta. Nếu ai đó mở cửa cho Người, Người sẽ bước vào”. Vâng, Chúa Giêsu đã đến trần gian cách đây hơn hai ngàn năm. Ngày hôm nay, Người vẫn tiếp tục đến trong tâm hồn chúng ta. Người kiên nhẫn gõ cửa và chờ đợi chúng ta mở cửa. Đó không phải là cánh cửa của một căn nhà, nhưng là cửa tâm hồn. Những ai mở rộng cửa tâm hồn để đón chào Chúa, chắc chắn sẽ gặp được bình an và hạnh phúc.

Lòng hiếu khách đối với Ngôi Lời nhập thể, nhưng mỗi chúng ta cũng phải có lòng hiếu khách đối với anh chị em mình, bởi vì, như lời tác giả thư Do Thái trích dẫn trên đây, trong khi chúng ta đón tiếp anh chị em, chúng ta được đón tiếp các thiên thần của Thiên Chúa và được đón tiếp chính Chúa Giêsu, vì Người đã tự đồng hóa với những người bé mọn, cô thế cô thân và không nơi nương tựa.

Để thể hiện lòng hiếu khách một cách cụ thể, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Sự tỉnh thức được nói đến trong Kinh Thánh, chính là sự khôn ngoan, cân nhắc và thận trọng để lựa chọn cho mình một hướng đi, một nghề nghiệp và một lối sống. Tỉnh thức cũng là sự sẵn sàng để bất cứ Chúa đến lúc nào, chúng ta không bị bất ngờ. Câu chuyện ông Nôê và trận đại hồng thủy là một bài học cho con người ở mọi thời đại. Khi ông Nôê đóng tàu, có nhiều người chê cười nhạo báng vì cho đó là điều ảo tưởng vô ích. Con người ngày nay cũng bỏ ngoài tai những lời giáo huấn của Chúa. Họ chỉ chú ý đến cuộc sống hiện tại, lấy vật chất làm tiêu chuẩn, lấy lợi nhuận làm định hướng cho cuộc đời.

Theo thánh Phaolô, tỉnh thức nghĩa là sống đàng hoàng, như ban ngày và từ bỏ những hành vi ám muội. Những kẻ trộm cắp hay hành động về ban đêm. Thánh nhân khuyên chúng ta: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu”. Ngài cũng giải thích chi tiết khái niệm “sống giữa ban ngày”:  không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương”. Nhờ vậy, khi Chúa đến, chúng ta được thanh thản tâm hồn để đón Người.

“Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”. Sự chờ đợi nào cũng dễ làm cho chúng ta nóng lòng sốt ruột. Chúa đã hứa: những ai kiên trì và trung thành tỉnh thức sẽ được Chúa ban thưởng, vì họ có lòng hiếu khách và trân trọng đợi chờ ngày Chúa đến. Ngày Chúa đến trước hết là khi chúng ta kết thúc cuộc đời. Ai cũng sợ chết nhưng chẳng ai phủ nhận được sự chết. Dù trường thọ cao niên, dù dồi dào bổng lộc, chẳng ai sống mãi trên đời. Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: Giờ chết là giờ phán xét riêng. Mỗi người phải trình diện trước nhan Chúa về hành vi cử chỉ của mình đối với Chúa và đối với tha nhân.

Ngày Chúa đến cũng là ngày “quang lâm”, tức là Chúa đến trong vinh quang để phán xét nhân loại. Đó là ngày vinh quang đối với những ai sống công chính, nhưng là ngày đại họa cho những kẻ sống hận thù. Chúa Giêsu là vị Thẩm phán công minh, sẽ căn cứ vào mối tương quan với tha nhân của chúng ta mà xét xử (x. Mt 25, 31-46).

Lời ngôn sứ Isaia (Bài đọc I) mang sắc thái của một lời hiệu triệu, kêu gọi mọi tín hữu hãy lên đường tiến về Giêrusalem để đón Chúa. Những hình ảnh được diễn tả trong Bài đọc I cho thấy Giêrusalem là trung tâm điểm của thế giới. Mọi nơi đều hướng về trong niềm vui mừng hân hoan. Đây là sự khai mở một triều đại mới của lịch sử. Chúa đến để chúc phúc cho dân người. Nếu chúng ta lắng nghe lời hiệu triệu này mà đón Chúa, thì cuộc sống của chúng ta sẽ an bình tốt đẹp và nở hoa. Có Chúa hiện diện, sẽ không còn chiến tranh. Con người sẽ “đúc gươm đao thành cuộc thành cày; rèn giáo mác nên liềm nên hái”. Một xã hội thanh bình sẽ được thiết lập nếu ta biết mở rộng tâm hồn để đón Chúa và thực thi giáo huấn của Người.

Chúa Giêsu đã đến trong lịch sử, cách đây hơn hai ngàn năm. Ngày hôm nay Chúa vẫn đến với tâm hồn cá nhân mỗi người. Chúng ta hãy thể hiện lòng hiếu khách đối với Chúa, vừa đón Chúa đến trong tâm hồn, vừa dọn đường để Người đến nơi mọi nẻo đường trần gian, hầu vương quốc hòa bình của Chúa được lan tỏa khắp nơi.

Về mục lục

.

BẤT NGỜ VÀ THỨC TỈNH

Gm. Giuse Trần Văn Toản

Giáo Hội bắt đầu năm phụng vụ với mùa vọng. Đây là mùa đón chờ Chúa đến. Trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật I Mùa Vọng năm A, Mt 24, 37-44, Chúa Giêsu cảnh báo: “Các con hãy sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”. Đây là tính bất ngờ của việc Chúa đến, và vì bất ngờ, nên phải luôn tỉnh thức.

Tính bất ngờ của việc Chúa đến: Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu trưng dẫn sự kiện xảy ra thời ông Noe: “Thời ông Noe thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noe vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy” (c.37-39). Trong lịch sử thánh, Chúa đã bất ngờ giáng sinh trong máng cỏ như một hài nhi của một gia đình di dân không tìm được quán trọ tại Belem (Mt 2,7). Tính bất ngờ của việc Chúa đến vẫn còn xảy ra trong hiện tại cho đến ngày cánh chung. Vì, một trong những cách mà Chúa ưu tiên chọn lựa để đến với ta hàng ngày là Chúa đến qua những người đói khát, người khách lạ, trần truồng, đau yếu, tù đày (Mt 25,31-46).

Vì bất ngờ nên phải thức tỉnh: Chúa Giêsu so sánh với thái độ thức tỉnh canh chừng kẻ trộm của người chủ nhà: “Anh em hãy biết điều này, nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (c.43-44). Trong biến cố Chúa đến lần thứ I tại Belem, chỉ một nhóm nhỏ thức tỉnh và đã gặp Chúa. Đó là Mẹ Maria và Thánh Giuse, ông Giacaria và bà Isave, các mục đồng và các nhà đạo sĩ, ông Simeon và bà Anna. Để đợi chờ Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang, sách Khải Huyền dạy ta phải thức tỉnh mới lắng nghe được tiếng Chúa gõ cửa đời ta: “Hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn. Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3, 19-20).

Thức tỉnh là sống tốt giây phút hiện tại: Quá khứ là những gì đã qua, tương lai là những gì chưa tới, và ta chỉ có hiện tại để sống. Chính vì thế, ta cần ý thức rằng: thường thì ta không thể thay đổi quá khứ, nhưng có thể phá hủy hiện tại bằng cách quá tiếc nuối quá khứ, và quá lo lắng cho tương lai. Thức tỉnh sống hiện tại là phải sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của đời ta. Vì là ngày cuối cùng, nên phải “cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi sự” (2Cr 5,9). Và lời khuyên của Thánh Phaolô luôn là cần thiết và hữu ích: “Thưa anh em, chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ (1Tx 5, 4-6)… Hãy từ bỏ những hành vi ám muội… không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghanh tị… chớ lo lắng và thỏa mãn những dục vọng xác thịt” (Rm 13,11-14).

Thức tỉnh cần thinh lặng trở lại với lòng mình để thiết lập tương quan với Thiên Chúa: Thường xuyên trở lại với lòng mình trong thinh lặng nội tâm, tâm hồn ta được coi như mảnh vườn thiêng liêng, trong đó, Chúa Thánh Thần như “Bác Làm Vườn” thường xuyên chăm sóc và chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ thiêng liêng giữa ta với Thiên Chúa. Trong cuộc gặp gỡ này, Chúa thức tỉnh hồn ta về khát vọng Thiên Chúa của ta vì ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Từ khát vọng này, đi đến ý thức rằng không phải ta khát vọng Thiên Chúa trước, mà thực ra, chính Thiên Chúa khát vọng ta, và vì thế Ngài luôn đến tìm ta, chờ đợi ta, và vui thích ở với ta. “Mỗi buổi chiều, trong gió hiu hiu, Thiên Chúa đến địa đàng đi dạo và đàm đạo với Adam và Eva (x. Kn 3,8). Đây là lúc ta có thể thốt lên như Thánh Augustinô: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng con cho Chúa, và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa mà thôi”. Khát vọng này tạo nên sự thức tỉnh trong cuộc sống, như hơi thở, như nhịp đập của con tim, như dòng máu lưu thông trong thân thể…

Thiết lập tương quan với Chúa để ta cũng thiết lập tương quan với tha nhân: Đó là tương quan của ta với con người thời đại. Người môn đệ Chúa Kitô, theo gương mẫu của Thầy Chí Thánh trong mầu nhiệm Nhập Thể, tìm thiết lập các tương quan bằng chia sẻ cuộc sống với những cảm thông, bao dung, và đồng hành. Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công đồng Vaticanô II viết: “Vui Mừng và Hy Vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô” (số 1). Hơn nữa, người Kitô hữu, còn tìm thiết lập các tương quan bằng tinh thần yêu thương và khiêm tốn phục vụ nhau như Đức Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thế: “Nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau”. Nhất là, người môn đệ của Đức Kitô sống theo lý tưởng của Đức Kitô trong mầu nhiệm Vượt Qua, đã hiến thân vì anh chị em, “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng là phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho muôn người”. Trong tương quan với tha nhân, không những ta gặp được Chúa mà còn bước theo gương mẫu yêu thương, phục vụ, và tận hiến.

Thiết lập tương quan với Chúa và với tha nhân, để ta cũng thiết lập tương quan với thiên nhiên trong tâm tình ngợi khen, tạ ơn và trách nhiệm: Thông điệp “Chăm sóc ngôi nhà chung – Laudato si” đã dùng bài ca vạn vật của Thánh Phanxicô để ca tụng Đấng Tạo Thành: “Lạy Thiên Chúa của con, chúc tụng Chúa qua người chị của chúng con, Mẹ trái đất, là người nuôi dưỡng và chi phối chúng con, là người sản sinh hoa trái phong phú với biết bao hoa thơm cỏ lạ” (số 1). Và số 9 viết: “Là Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi đón nhận thế giới như một bí tích của sự hiệp thông, một cách chia sẻ cùng Thiên Chúa và anh chị em đồng loại trên quy mô toàn cầu…”. Chính trong tương quan với thiên nhiên này, mà ta ý thức ta và thiên nhiên có cùng một nguồn gốc là Đấng Tạo Thành, để ta tận hưởng thiên nhiên như ân phúc của Thiên Chúa, đồng thời ta ý thức trách nhiệm cộng tác với Đấng Tạo Thành để chăm sóc thiên nhiên, hướng về Trời Mới Đất Mới của Nước Thiên Chúa, ngày Chúa Giáng Lâm trong vinh quang.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!

Về mục lục

.

SẴN SÀNG CHO TÌNH YÊU

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Giả sử trần gian này vắng bóng tình yêu, một nhân loại sẽ không bao giờ tồn tại và giả sử nhân loại này quên mất ý nghĩa tình yêu đích thật, nhân loại sẽ sống trong hỗn loạn, tội lỗi, sự xấu ngập tràn. Cần có một Tình Yêu đích thật giáng thế, để con người có thể đối chiếu, tỉnh thức với những cám dỗ, tránh được những dục vọng thấp kém đánh mất tình yêu đích thực để sống.

Tỉnh thức

Tỉnh thức chẳng bao giờ là thừa, chung quanh và ngay ở trong con người ta cũng đầy những cám dỗ, những ảo tưởng, những tham lam để sống.

Trong trần gian, những buôn bán chợ đời, những rong ruổi, vất vả lo âu, như trang Tin Mừng diễn tả: “Thời ông Nô-ê thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy.” (Mt 24, 38).

Ta có thể nói, không có thời gian để dừng lại, để suy nghĩ; nhưng vấn đề không biết dừng lại xem xét lại và để hồi tâm, con người đang tự đánh mất niềm vui sống đích thực. Cuộc sống đâu chỉ là ăn uống, làm lụng, hưởng thụ, ngày qua ngày như trả nợ đời.

Cuộc sống cần có tình yêu đích thật để sống. Thiếu tình yêu đích thật, con người trở nên chai cứng, sỏi đá, không hiểu trần thế mình đang sống đáng sống biết bao; không hiểu anh chị em mình chung sống dễ mến dường nào? Ta không hiểu vì ta không yêu thương, hoặc ta không yêu thương vì ta không hiểu. Ta dành hết thời gian lo cơm, áo, gạo, tiền, cuộc đời của ta là nhà cao, cửa đẹp. Những thứ vô hồn đẩy đưa ta vào chốn cô đơn.

Những khu rừng biến thành gỗ, những tài nguyên thành những món tiền, những tình yêu chỉ thoả lòng dục, những con người trở thành món hàng… Thiếu tình yêu nên sống với nhau là hận thù, ghen ghét, chiếm đoạt, lừa dối, đe doạ, giết chết lẫn nhau.

Trong tất cả những hỗn loạn đó, cần có thời gian dừng lại, suy gẫm, dọn lòng đón nhận tình yêu giáng thế, chính vì thế mà ta cần có mùa Vọng, bình tâm suy xét.

Tình yêu giáng thế.

Tình yêu không là ngôn từ sáo rỗng, tình yêu giáng thế là một Thiên Chúa xuống thế làm người, bằng xương, bằng thịt. Một tình yêu mang danh Giê su ở giữa nhân loại. Một tình yêu vô biên đổ rót vào những tình yêu giới hạn và vẫn không ngừng đổ rót: “Tặng vật người ban vô biên vô tận, nhưng để đón xin, tôi chỉ có hai tay bé nhỏ vô cùng. Thời gian lớp lớp đi qua, người vẫn chửa ngừng đổ rót, song lòng tôi thì hãy còn vơi.” (Lời dâng, bài số 1. R. Tagore).

Tình yêu đích thực dạy ta cách sống, chỉ cho ta những tặng vật tình yêu Chúa ban ngay trong tâm hồn. Cho ta niềm vui vĩnh cửu, lòng yêu mến tràn đầy ra khỏi những nhỏ nhoi đời sống. Thường khi ta nhận gì của ai, khi thiếu vắng tình yêu đích thật, ta chỉ nghĩ đến những giá trị đổi chác, qua mau, như người ta vẫn nói: “Có qua, có lại”, “Của biếu là của nợ”. Ta trao nhau bằng tình yêu đích thật như tình yêu của Chúa dành cho ta, Thánh Phaolô nói: “Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, trừ ra tình thương mến! (Rm 13,8). Đó là cuộc sống Chúa dạy để sống chan hoà yêu thương.

Tình Yêu giáng thế cho ta niềm vui để sống, nhận ra tương quan mật thiết giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, giúp ta mến yêu cuộc sống này mà dấn thân cho những giá trị vĩnh cửu, mang tình yêu đến cho anh chị em, xoá vết lầm than đau khổ nơi người yếu thế, bị bỏ rơi, nghèo khó. Đem tình yêu vào chốn hận thù, xây dựng đời sống công bằng, bác ái yêu thương.

Tỉnh thức và cầu nguyện! Đêm an hoà, đêm an bình, đêm Tình yêu giáng thế, cho ta sống trọn vẹn niềm vui và bước vào một năm mới với tâm hồn mới, một chặng đường vươn tới trời cao với lòng hân hoan.

Về mục lục

.

TỈNH THỨC

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa của sự mong chờ và tỉnh thức. Giáo Hội với tấm lòng yêu thương của người mẹ hiền đã chuẩn bị cho con cái những món ăn tinh thần nuôi dưỡng rất thích hợp qua phụng vụ lời Chúa của các mùa lễ.

Trong cuộc lữ hành trần thế với những đổi thay của thời khí và mùa màng. Giáo Hội dẫn chúng ta bước vào Mùa Vọng với nhiều ý nghĩa khác biệt. Nhà thờ được chuẩn bị với Vòng Hoa Mùa Vọng và từng cây nến được thắp lên mỗi tuần. Ánh sáng của cây nến đã dần đẩy lui đêm tối để mở cửa cho ánh sáng tinh tuyền chiếu dọi.

Bài phúc âm hôm nay giới thiệu cho chúng ta hình ảnh của ngày cuối đời nơi mỗi người. Ngày giờ sẽ đến với mỗi người trong những hoàn cảnh khác nhau. Như có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng làm việc, một người được tiếp nhận và một người bị bỏ rơi.

Trong cuộc sống, chúng ta chứng kiến biết bao những người anh em cùng lứa tuổi, cùng xóm làng và cùng hoàn cảnh đã ra đi. Có người ra đi một cách rất đột ngột như bị tai nạn, chiến tranh, động đất, sóng thần và nhiều nguyên nhân khác. Có người được chuẩn bị đôi chút trên giường bệnh. Sự ra đi nào cũng là sự bất ngờ. Không mấy ai thỏa mãn hoàn toàn với cái chết của mình trừ khi họ sống trong tỉnh thức.
Phải tỉnh thức như người lính gác mong trời rạng đông. Tỉnh thức như người bị lạc trong rừng sâu với muông thú hiểm nguy. Tỉnh thức như người đang lái xe trên đường. Cuộc đời chúng ta là một hành trình đi về một cùng đích. Thật vậy, nhiều khi chúng ta sống, nhưng lại không ý thức mình đang sống. Đôi khi thức nhưng chúng ta không tỉnh táo để quan sát sự việc xảy ra chung quanh. Không gì nguy hiểm bằng khi chúng ta đi lang thang không mục đích. Do vậy, sống là chúng ta không ngừng tiến về phía trước và tỉnh thức sẽ giúp chúng ta luôn định hướng để khỏi bị lạc đường.

Hãy chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Chúa sẽ đến với chúng ta qua nhiều cách trong cuộc sống hiện tại. Chúng ta có thể gặp gỡ Chúa qua người thân yêu, người nghèo khó ốm đau, trẻ em nơi đầu đường xó chợ, nơi những người bần cùng nhất của xã hội và qua sự cầu nguyện liên kết với Chúa. Đôi khi Chúa hiện diện gần bên mà chúng ta không hay biết. Chúng ta hãy mở rộng cửa đón Chúa qua môi trường và tha nhân.

Chúa cũng sẽ đến bất chợt vào giờ phút cuối cùng của cuộc đời và vào lúc không ngờ, chúng ta hãy sẵn sàng. Đây thực sự là giây phút quan trọng mà chúng ta cần chuẩn bị và thức tỉnh để đón Chúa cả bây giờ và ngày sau.

Về mục lục

.

CHUẨN BỊ GÌ CHO NGÀY CHÚA ĐẾN

Sr. Anna Nguyễn Như Ý

Kẻ trộm đến không bao giờ báo cho chủ nhà biết trước, vì thế chủ nhà thường hay đề phòng, chuẩn bị mọi thứ thật cẩn thận để bản thân không bị hại, cũng như của cải sẽ được bảo toàn. Cũng vậy, sự đến bất ngờ của tên trộm giống như ngày Chúa đến là hình ảnh mà Đức Giêsu muốn kêu mời những ai đang sống miên man trong những đam mê của mình, hãy mau tỉnh thức trở về với Chúa, nếu không họ sẽ không còn nhiều thời gian để chuẩn bị cho cuộc hội ngộ bất ngờ này.

Lời Đức Giêsu hôm nay cũng là lời thức tỉnh mỗi người chúng ta, bởi Thiên Chúa không muốn bất cứ một ai phải diệt vong trong ngày Con Người đến nhưng muốn họ được sống đời đời. Lời Ngài nói không có ý đe dọa chúng ta, làm cho cuộc sống của chúng ta bị phân tâm, ăn không ngon, ngủ không yên. Ngài báo trước những sự việc sẽ xảy ra để nhắc nhở chúng ta rằng, cuộc sống nơi trần gian này không phải là vĩnh cửu. Ngài thức tỉnh chúng ta bởi Ngài yêu thương chúng ta, mà những ai được Thiên Chúa yêu thương, sẽ luôn luôn được Người khuyên răn chỉ dạy (x. Dt 12 , 4 – 15). Vì lẽ đó, chúng ta hãy sống và lo cho tương lai vĩnh hằng của chúng ta chứ không chỉ sống cho cuộc sống tạm bợ này, để khi Chúa đến chúng ta không bị bối rối, bỡ ngỡ nhưng hân hoan ra đi với Người như những cô trinh nữ khôn ngoan luôn sẵn sàng đèn dầu đi đón chàng rễ (x. Mt 25, 1 – 13).

Tỉnh thức và sẵn sàng không có nghĩa là chúng ta không bao giờ chợp mắt, chúng ta cũng phải sống và sống một cách có ý nghĩa nơi trần gian này chứ không phải ngồi chờ sung rụng. Cuộc sống này đáng để cho chúng ta phải sống, vì chính Chúa đã tạo dựng nên nó cho chúng ta sử dụng. Tuy nhiên, cuộc sống trần gian này cũng chỉ là phương tiện Chúa dùng để chúng ta biết cách sinh lời cho tương lai vĩnh cửu của ta. Ngài không muốn chúng ta vì một chút lợi ích của cải trần gian mà quên mất nghĩa vụ của mình là làm thế nào để chiếm cho được phần thưởng Nước trời. Bởi “nếu được cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi” (Lc 9, 25).

Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi để sống cho những giá trị Tin mừng. Chúng ta đang mang trong mình một trách nhiệm cao cả là làm cho Nước Chúa hiện diện giữa thế gian này. Chúng ta không sống cho những thú vui nơi trần gian của chúng ta nhưng làm cho cuộc sống chúng ta sinh hoa kết quả, nhờ vào những công đức chúng ta đóng góp vào việc xây dựng Nước Chúa. Giữ đạo và sống đạo không chỉ là việc chỉ đi nhà thờ, đọc kinh, xem lễ thường xuyên, nhưng còn bằng việc bác ái của chúng ta đối với anh chị em sống chung quanh chúng ta. Bởi Chúa nói “hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại” ( Mt 24, 40 – 41). Nếu là Kitô hữu mà chúng ta bị bỏ lại thì đó là chúng ta đang sống nhưng chưa thật sự tỉnh thức. Chúng ta sống với hình thức bên ngoài chỉ vì một chút danh vọng, địa vị chứ không vì tình yêu dành cho Thiên Chúa. Đừng nghĩ rằng, chúng ta là những người đã được rửa tội, mang danh Kitô thì sẽ được cứu thoát trong ngày Chúa đến, bởi việc cứu thoát còn tùy thuộc vào sự cộng tác trong cách sống của mỗi người chúng ta đối với Thiên Chúa. Hãy để cho Lời Chúa thức tỉnh chúng ta từng giây phút sống, giúp chúng ta biết cách chọn lựa thế nào cho phù hợp với ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa.

Lạy Chúa, Chúa luôn yêu thương mời gọi chúng con hãy tỉnh thức và sẵn sàng cho ngày Chúa đến, vì Chúa biết thân phận yếu đuối của mỗi người chúng con luôn có thiện chí nhưng chưa đủ khả năng để hoàn thành trách nhiệm của một người Kitô hữu. Xin Chúa ban ơn thêm sức giúp chúng con biết nhận ra đâu là những giá trị bền vững cho cuộc sống vĩnh cửu, để chúng con luôn sống cho Chúa và chờ Chúa đến cách hân hoan trong ngày quang lâm. Amen.

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC BẤT NGỜ

Bông hồng nhỏ

Cuộc sống luôn có những bất ngờ. Có bất ngờ mang đến niềm vui, hạnh phúc tràn đầy nhưng cũng có những bất ngờ dẫn đến nỗi sợ hãi và đau khổ. Hôm nay, Chúa Giêsu nói về ngày Con Người quang lâm. Ngày ấy cũng sẽ đến cách bất ngờ. Đó sẽ là ngày tràn ngập niềm vui hay là ngày mang lại những sợ hãi và đau khổ cho ta?

            “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8). Thánh Gioan Tông đồ đã xác tín như vậy và tất cả những ai được nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân lành đều cảm nhận được tình yêu thương vô điều kiện của Thiên Chúa dành cho mình. Chắc chắn những gì Thiên Chúa để xảy đến cho ta đều xuất phát từ tình yêu bao la mà Ngài dành cho ta. Điều quan trọng là chính ta phải đón nhận tất cả những gì xảy đến với tâm tình và thái độ nào. Khi đứng trước sự ra đi của một người thân, ta được đặt trước một bước ngoặt quan trọng của cuộc đời. Có một trật tự mới đã được xếp đặt lại trong cuộc đời ta. Có một người ta yêu mến đã đi về cùng Chúa. Và sẽ có một ngày, ta cũng sẽ trở về với Thiên Chúa, trở về nơi ta đã xuất phát. Ngày người thân yêu của ta ra đi đã xảy đến cách bất ngờ. Nói cách khác, ta đã quá bất ngờ trước một sự thiếu vắng đến hụt hẫng. Bởi ta đã chưa bao giờ nghĩ đến hay dám nghĩ đến một sự thật dường như đầy phũ phàng như thế. Ta chưa hề sẵn sàng cho biến cố ấy. Đó là một lời nhắc nhở đầy yêu thương mà Thiên Chúa đã dành cho ta, để ta được thức tỉnh khỏi tình trạng ngủ mê trong nhịp sống đầy vội vã. Dường như càng vội vã, người ta càng không thể tỉnh thức được, vì họ quên mất rằng mình là ai và mình sẽ đi về đâu và đâu mới thật là ngôi nhà vĩnh cửu của con người, đâu mới là cùng đích của họ. Trước những sự bất ngờ như thế, thay vì khóc lóc đau khổ mãi thì ta phải dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa đã thức tỉnh ta ngang qua cái chết của người ta yêu thương.

Nghĩ đến ngày Con người quang lâm phải chăng có lẽ quá xa vời? Chẳng ai biết trước được ngày đó sẽ đến lúc nào. Hãy nghĩ đến ngày Thiên Chúa gọi ta về, có thể là lát nữa đây hay ngay ngày mai và có thể là những ngày sau đó. Ta sẽ làm gì đây? Ngồi chờ đợi trong sợ hãi hay sống thật vội vã? Không phải. Giây phút hiện tại ta đang có chính là giây phút kết dệt nên đời ta. Hãy sống từng giây phút đong cho đầy tình yêu, yêu Chúa và yêu người bằng một cuộc sống dấn thân phục vụ. Khi sống trong sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa, chắc chắn ta sẽ được Ngài ban sức mạnh và lòng cậy trông vững vàng, một niềm mến yêu tha thiết và một đức tin kiên cường trong thử thách. Hãy luôn luôn để Chúa làm chủ đời ta và sẵn sàng đón Chúa đến ngay nơi cung lòng ta từng ngày, để khi ngày Chúa gọi ta về, ta đang sẵn sàng. Nếu có bất ngờ khi Chúa đến thì đó cũng là một sự bất ngờ mang đến hạnh phúc đầy tràn vì được gặp Đấng mà lòng ta yêu mến.

Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết rõ con đang cần gì nhất. Xin Chúa hãy thức tỉnh con bằng những biến cố hằng ngày và bằng chính sự hiện diện đầy yêu thương nơi Bí tích Thánh Thể và chính trong Lời hằng sống của Chúa. Để khi Chúa đến, con không rơi vào sợ hãi và sa ngã nhưng đã sẵn sàng, lòng phấn khởi hân hoan. Con không biết trước những gì sẽ xảy đến cho mình và không có quyền định đoạt tất cả, nhưng Chúa cho con được tương quan với Chúa, bằng sự tỉnh thức và sẵn sàng. Amen. 

Về mục lục

.

KHÔNG NGỜ

Anna Cỏ May

Chúng ta vẫn thường nhận được những tấm thiệp mời, trong đó viết về đôi tân hôn và ngày giờ tổ chức tiệc cưới. Đôi tân hôn và vị khách được mời sẽ có thời gian để sắp xếp và chuẩn bị cho phần việc của mình. Ngoài ra, có nhiều điều mà chúng ta biết trước nó sẽ diễn ra và kết thúc lúc nào khi chính chúng ta là chủ của việc đó. Thế nhưng, vẫn có những lúc chúng ta không biết trước về những biến cố bất ngờ xảy đến cho chính mình hay người khác.

“Không ngờ sáng nay cô ấy vẫn khỏe mà giờ lại phải nằm bất động”. Chúng ta vẫn thường thốt lên hai chữ “không ngờ” như thế. Chúng ta còn sẽ gặp nhiều điều không ngờ nếu không có một thái độ sẵn sàng để đón nhận những điều sẽ xảy ra cho mình và người thân. Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến” (Mt 24,42). Canh thức là sẵn sàng và sẵn sàng là canh thức. Canh thức không có nghĩa là thụ động nhưng là một sự chủ động. Nghĩa là canh thức không dừng lại ở việc ngồi một chỗ để chờ mà phải được diễn ra và trải dài trong cuộc sống, trong mọi hoạt động và mọi công việc. Thánh Phêrô đã nói: “Anh em có nói thì nói lời Thiên Chúa, có phục vụ thì phục vụ sức mạnh của Thiên Chúa”(1Pr 4,11). Một người sống trong sự canh thức là người làm mọi việc luôn quy hướng về Chúa. Còn người dù sống trong sự công bằng nhưng không hướng về Chúa thì không được gọi là canh thức. Người canh thức là người không chỉ chu toàn bổn phận của mình mà là chu toàn bổn phận như Chúa, với Chúa và trong Chúa. Bởi vì, Chúa đến gặp chúng ta trong chính cuộc sống của chúng ta, trong lúc chúng ta làm việc, lúc chúng ta cùng mọi người vui đùa.

Thật sự để sống trong tinh thần canh thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn ý thức Chúa sẽ đến. Mỗi ngày, chúng ta cần từ bỏ dần các tật xấu của mình để có thể sống triệt để và hoàn thành nhiệm vụ Chúa trao. Khi Chúa đến, chúng ta được gặp Thiên Chúa tình yêu hay Thiên Chúa phán xét là tùy chúng ta đang sống như thế nào. Nếu mỗi ngày chúng ta yêu như Ngài yêu và trung thành với Ngài là chúng ta đang canh thức chờ đợi như trẻ thơ chờ đợi mẹ. Để khi Chúa đến, chúng ta không rơi vào vòng lưới “không ngờ” mà sẵn sàng theo Chúa vào chung hưởng hạnh phúc.

Lạy Chúa! Xin giúp chúng con chu toàn bổn phận của mình như phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Xin đừng để chúng con sống trong một thái độ ù lì nhưng trong thái độ tích cực từ bỏ các tật xấu, các công việc của bóng tối, để mỗi ngày sống xứng đáng hơn, hầu sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Amen.

Về mục lục

.

SỐNG TỈNH THỨC

Lm. Giuse Nguyễn An Khang

Năm phụng vụ mới bắt đầu, khởi đầu là mùa Vọng. Mùa Vọng, mùa mong chờ Chúa đến. Chúa đã đến lần thứ nhất, trong ngày Ngài Giáng sinh. Ngài sẽ đến lần thứ hai, trong ngày Ngài Quang lâm. Để đón chờ ngày Quang lâm, Đức Giêsu dạy: “Hãy tỉnh thức”. Tin mừng Matthêu, có bốn dụ ngôn minh hoạ về sự tỉnh thức: Lụt hồng thuỷ, kẻ trộm, đầy tớ trung tín và mười trinh nữ. Hai dụ ngôn: Lụt hồng thuỷ và kẻ trộm, được chọn cho Chúa nhật thứ I mùa Vọng này.

  1. Dụ ngôn Lụt hồng thuỷ

Mở đầu dụ ngôn, Đức Giêsu nói: “Quả thế, thời ông Noe thế nào, ngày Quang lâm, Con Người cũng như vậy”.

Quang lâm là gì? Quang là ánh sáng, lâm là đến. Tiếng Hylạp là “Parousia”, nghĩa là sự hiện diện. Xưa, trong thế giới La-Hy, người ta dùng từ ấy để chỉ những cuộc đi thăm chính thức của hoàng đế: “Thánh thượng giáng lâm”.

Theo Cựu ước, Quang lâm là ngày của Chúa, ngày Đức Chúa can thiệp vào lịch sử thế giới, ngày vinh quang đầy ánh sáng huy hoàng, đến xua đuổi bóng đen tội lỗi bao phủ dân Ngài. Theo Tân ước, Quang lâm là ngày Đức Giêsu đến lần thứ hai, ngày Ngài trở lại trong vinh quang, phán xét người lành kẻ dữ, có các Thiên thần hầu cận.

Lụt hồng thuỷ thời Noe được trình bày như một hình phạt cái tội vô luân của con người. Rachi chú giải: “Sự sa đoạ nhục dục của con người thời Noe, đã đi tới hủy hoại về đạo lý và xã hội, đến nỗi loài người tự huỷ diệt chính mình mà không còn hy vọng sống sót…”. Đức Giêsu biết rõ điều đó, biết con người thời đó quá gian ác và vô luân, lòng họ chỉ toan tính những ý đồ xấu xa suốt ngày. Tuy nhiên, Đức Giêsu không nói về tội vô luân, không trách sự sa đọa của những người thời Noe. Ngài chỉ trách một điều: “Họ không biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ tới cuốn đi hết thảy”. Họ có vẻ tin là họ bất tử, ăn chơi trác táng. Mắt họ bị bịt kín không thấy thân phận dòng mỏng con người. Họ phải chịu cái chết “nuốt trôi”, để rồi phút chốc khám phá thấy mình không phải là “thần linh”. Nếu muốn sống, họ cần phải có Thiên Chúa.

Để diễn tả ngày Quang lâm, Đức Giêsu lấy lời Ngôn sứ Xôphônia: “Đang lúc người ta hăng say với công việc đời thường của mình. Giữa lúc người nông dân đang cầy ruộng, người nội trợ đang xay bột, Chúa đến. Chúa đến bất chợt như chiếc lưới thình lình chụp xuống, như chớp loé từ Đông sang Tây”. Và Ngài giải thích: “Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang kéo cối xay, một người được đem đi, một người bị bỏ lại…”. Tại sao thế? Hai người chẳng có gì khác nhau, cùng làm ruộng, cùng xay bột, Chúa biết sự khác nhau của họ: Người sẵn sàng, người không. Bởi thế, Chúa nói: “Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến”.

  1. Dụ ngôn kẻ trộm

Để nhấn mạnh phải tỉnh thức, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn kẻ trộm: “Anh em hãy biết điều này: Nếu chủ nhà biết vào canh nào, kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải tỉnh thức”. Đức Giêsu không có ý so sánh Ngài với kẻ trộm, chỉ có ý nói sự bất chợt của ngày Quang lâm. Gia chủ nọ, nếu ông biết canh kẻ trộm đến, hẳn ông phải thức, không để nó khoét vách nhà mình. Ngày Quang lâm chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng không biết vào ngày nào, vấn đề là phải tỉnh thức.

Tỉnh thức, Đức Giêsu nói đây, chẳng phải là một thái độ tiêu cực, cứ ngồi đấy nôn nóng chờ đợi. Tỉnh thức là trung thành với nhiệm vụ được trao phó, như người quản gia trung tín. Tỉnh thức là chuẩn bị đón Chúa Kitô trở lại, như những trinh nữ khôn ngoan, là yêu sách chu toàn trách nhiệm của mình như những đầy tớ được trao những nén bạc, là bổn phận giúp đỡ các anh em hèn mọn nhất của Chúa Kitô.

Tỉnh thức, Đức Giêsu mời gọi, không phải là sợ hãi, chỉ có những kẻ ngủ mê mới phải sợ hãi, bởi họ không được Chúa đem đi. Lời mời gọi tỉnh thức của Đức Giêsu không chỉ nhắm vào thời sau cùng, còn nhắm tới việc Người đến với mỗi người trong giờ chết. Không ai hay được ngày giờ mình chết, chẳng ai biết cách tính toán, dự phòng. Giờ chết có thể đến thình lình, bất ngờ, đang lúc làm việc, ngủ nghỉ, giải trí. Việc chuẩn bị ngày chết, cũng là việc chuẩn bị ngày Quang lâm. Nếu thực sự quan tâm đến tính cách bất ngờ và bí ẩn của ngày giờ đó, nếu sẵn sàng luôn luôn, chính giờ phút không ngờ, cho dù Chúa có đến, ta vẫn hân hoan vui mừng, bởi giờ cứu rỗi đã điểm, ta sẽ cùng với Chúa tiến vào tiệc cưới nước Trời.

Về mục lục

.

TỈNH THỨC CHỜ ĐỢI CHÚA ĐẾN

Lm. Phêrô Lê văn Chính

          Mùa Vọng là chờ đợi trong hy vọng, sự chờ đợi vì hy vọng được đổi mới, cũng là thời gian hy vọng hòa bình vì Chúa sắp đến mang lại hòa bình thực sự cho các tâm hồn. Hằng năm Giáo hội lại khởi đầu năm phụng vụ bằng Mùa Vọng để chuẩn bị các tín hữu mừng mầu nhiệm Giáng sinh, sự nhập thể của Con Thiên Chúa làm người. Sự nhập thể này vừa có chiều kích hiện tại vừa có chiều kích cánh chung. Người đã đến và người vẫn đến trong cuộc đời chúng ta, và người sẽ còn đến trong vinh quang chói lòa của Thiên Chúa để dẫn đưa chúng ta vào đời sống thần linh vĩnh cửu. Vì thế Vọng là thời gian đặc biệt, sự chờ đợi đặc trưng của Kitô giáo: Chúa đến với mỗi người và Chúa sẽ đến trong vinh quang. Các bài đọc của Chúa nhật này làm vang vọng lên lời mời gọi tỉnh thức bởi vì Con người sẽ đến rất bất ngờ. Để chờ đợi con người đến, thái độ đúng đắn phù hợp nhất là phải tỉnh thức trong đức tin.

          Từ thời Cựu ước đã vang vọng lên lời tiên báo của tiên tri Isaia về Giêrusalem. Đó là thời kỳ các dân nước sẽ đổ về núi Thiên Chúa để được lắng nghe lời Thiên Chúa dạy dỗ, để bước đi theo đường lối Thiên Chúa. Vì được lắng nghe lời dạy và lời khiển trách của Thiên Chúa, người ta sẽ biết sám hối, họ sẽ biết thay đổi đời sống và có những hành động cụ thể để thay đổi thế giới họ đang sống, từ bỏ những khí giới chiến tranh hủy diệt và tạo ra một thế giới bình an, hòa bình cho mọi người. Chính lời Chúa sẽ giáo huấn và thay đổi lòng trí của họ. Để hiểu về hoàn cảnh chính trị xã hội thời kỳ của tiên tri Isaia, cần nhớ đó là vào khoảng những năm sau năm 740 khi nhà vua Ozias băng hà, lúc đó Isaia nhận được ơn gọi loan báo sự sụp đổ của nhà Israel và nhà Giuđa vì những sự bất tín của họ. Đây là thời kỳ mà cả hai vương quốc do thái này bị đe doạ bởi đế quốc Assyria. Nhà vua trẻ Achaz của Giuđa tìm cách liên minh với nhà vua Assyria và Isaia đã tìm cách can ngăn vua Achaz nhưng không thành công, trong khi đó vương quốc phương bắc là Israel sụp đổ. Điều quan trọng trong sứ điệp của tiên tri Isaia, đó là luôn kêu gọi mọi người phải đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, đừng vội tìm kiếm những liên minh chính trị, bởi vì chỉ có Thiên Chúa là Đấng sẽ bảo đảm cho họ ơn cứu độ và từ trong số sót của dân tộc sẽ phát xuất Đấng cứu thế từ dòng dõi Đavít, người sẽ cai trị trên toàn cõi địa cầu trong bình an và sự hiểu biết Thiên Chúa.

          Bài phúc âm của tuần I mùa Vọng theo thánh Matthêu làm vang vọng sứ điệp cánh chung. Lời loan báo thời đại Con người sẽ đến với những đảo lộn vũ trụ ghê sợ. Chúa Giêsu nhắc đến hai thiên tai hủy diệt nhân loại trong thời Cựu ước đó là cơn lụt đại hồng thủy và lửa từ trời xuống thiêu đốt thành Sôđôma thời ông Lót. Trong khi mọi người vẫn bình an tiếp tục những lo lắng bận rộn thông thường của mình với những công việc cưới vợ lấy chồng, thì thiên tai đã ập xuống tiêu diệt mọi người. Đây là thời điểm quyết định đối với vận mệnh mỗi người, sẽ được cứu sống hay phải chết hư mất đời đời. Đứng trước những lời loan báo của Chúa Giêsu, người ta dễ nghĩ đến những biến đổi vũ trụ khủng khiếp như trời đất ra tối tăm, mặt trời mặt trăng không còn chiếu sáng v.v… mà mọi người có thể quan sát được như là dấu chỉ của sự kết thúc của thời gian và vũ trụ. Các Kitô hữu thời kỳ đầu cũng đã nghĩ như thế, họ nghĩ đến sự kết thúc thời gian với những thay đổi khủng khiếp của những hiện tượng thiên nhiên. Điều Chúa Giêsu muốn gợi ý là những dấu chỉ này đã bắt đầu, không phải là những hiện tượng thiên nhiên dễ sợ mà là những biến đổi âm thầm đã bắt đầu như hạt cải bé nhỏ âm thầm mọc lên, như chút men trộn trong đấu bột. Sự biến đổi này không nhất thiết phải là một sự cắt đứt hay đổ vỡ của thế giới mà chúng ta đang sống, nhưng tiến trình thay đổi của nó đang diễn ra. Chúng ta có thể hình dung những tiến bộ kỹ thuật đang diễn ra hằng ngày, tiến trình toàn cầu hóa với những hệ lụy kinh tế văn hóa, rồi là những biến đổi khí hậu đang làm thay đổi và đe doạ môi trường sống của con người. Những thay đổi mới mẻ không ngừng diễn ra hằng ngày, và thách đố đối với chúng ta là những thay đổi đó có gợi lên trong chúng ta việc chờ đợi ngày của con người đến không? Việc chờ đợi ngày con người đến có nghĩa là gì? Sự chờ đợi của Kitô giáo không đơn giản chỉ là hình dung những gì sẽ xảy ra mà là một thái độ và hành động tỉnh thức trong đời sống bình thường của đời kitô hữu. Điều quan trọng là cách thế sống sự chờ đợi này, không phải để tìm cách xoay xở thế này hay thế khác, chẳng hạn mua nến đèn hay mua mì gói phòng hờ. Sự chờ đợi này không đơn giản chỉ là như thế mà là một sự tỉnh thức biết thay đổi đời sống một cách triệt để, đồng thời cũng là một cố gắng thay đổi để sống đời sống mới vì Nước Trời đang đến. Đây là công trình của Thiên Chúa đang thực hiện cho chúng ta, một trời mới đất mới đầy lòng thương xót của Thiên Chúa, là quà tặng tình yêu đầy tràn sự sống của Thiên Chúa cho con người và đòi hỏi mỗi người tự do một cách triệt để đáp lại. Sự chờ đợi của người kitô hữu vừa là lòng tin tưởng yêu mến vào hồng ân tuyệt đối của Thiên Chúa vừa là nhận thức một cách nghiêm chỉnh trách nhiệm của mình đứng trước những lời hứa của Thiên Chúa. Đây  cũng là điều mà thánh Phaolô nhắc, đây là lúc chúng ta hãy thức dậy và không còn mê ngủ. Đây là lúc từ bỏ những hành vi ám muội như chè chén say sưa hay chơi bời dâm đãng mà ngược lại biết mặc lấy khí giới của sự sáng, mặc lấy Chúa Kitô.

Lời Chúa đánh thức nơi chúng ta một sự hy vọng năng động, biết từ bỏ những gì không thiết yếu để đón nhận chính Chúa Kitô và sức mạnh của Người. Chờ đợi, đó cũng là tin vào cái chưa tới, nhưng chắc chắn sẽ tới, là hướng về điều mới mẻ chưa từng có, bởi vì Thiên Chúa sẽ đến để thực hiện mọi điều nên mới. Hẳn nhiên, con người chúng ta vốn có cách chuẩn bị theo kiểu của chúng ta, cho sự an toàn của con người với những lo lắng vật chất và những đam mê của cải xác thịt. Nhưng biến cố ngày của Chúa đến vượt quá những hình dung giới hạn của chúng ta, vượt quá những chuẩn bị vật chất của con người bởi vì tự nó vốn không thể hình dung nổi, không thể nghĩ tưởng nổi. Thế nên tỉnh thức sẽ là thái độ đúng đắn khi chúng ta sống giây phút hiện tại cách trọn vẹn với một trái tim khai mở theo hướng dẫn của Lời Chúa. Sự tỉnh thức này làm cho chúng ta biết tin tưởng hy vọng ngay cả trong những đau khổ, trong những thất bại và mất mát. Và đó chính là hoa quả của sự tỉnh thức đặt tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng đổi mới mọi sự, vượt quá những dự định chật hẹp của con người, sự tỉnh thức biết đặt tình yêu và hy vọng nơi Thiên Chúa như dấu chỉ của sự chọn lựa và dấn thân của chúng ta. Sự tỉnh thức làm chúng ta dám chấp nhận như bước đi trong bóng tối giữa những thử thách, những thất bại, mất mát từ bỏ đau đớn. Như thế, chúng ta đang chờ đợi ngày của Chúa đến mà mầu nhiệm giáng sinh nhập thể của con Thiên Chúa làm cho chúng ta cảm nếm sự khó nghèo là nơi mà con Thiên Chúa muốn đến để làm người, thân phận mong manh nhỏ bé của kiếp người bị bỏ rơi, bị xua đuổi và bị đe doạ đến tận cùng.

Về mục lục

.

TỈNH THỨC ĐỢI CHỜ

Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Hôm nay, toàn thể Giáo hội bước vào năm Phụng vụ mới, năm A, bắt đầu là Mùa Vọng. Mùa Vọng vừa là thời gian chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Giáng sinh, kỷ niệm Ngôi Hai Thiên Chúa đến lần thứ nhất khi Ngài giáng sinh ở Belem; vừa là thời gian mời gọi các tín hữu sống tâm tình trông đợi Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai trong ngày cánh chung, ngày tận cùng của thế giới. Chính vì thế mà mỗi năm Mùa Vọng về, là mỗi lần Mẹ Giáo hội mời gọi các tín hữu chuẩn bị tâm hồn với những thái độ sống căn bản sau đây:

– Với Chúa: sống tỉnh thức và cầu nguyện

–  Với chính mình: Sửa lại con đường tâm hồn

–  Với tha nhân: sống tình bác ái chia sẻ

Hôm nay Chúa nhật I Mùa Vọng, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì không biết ngày nào giờ nào Chúa các con sẽ đến.

 Đọc lại những trang Tin mừng, Đức Giêsu dùng rất nhiều dụ ngôn nói về thái độ sống tỉnh thức và cầu nguyện, để sẵn sàng cho ngày giờ Chúa đến gọi ta về.

Chẳng hạn như: Tỉnh thức như người đầy tớ tốt đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa thì mở ngay cho chủ (Lc 12, 35); tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan, ngọn đèn đức tin luôn tỏa sáng và bình dầu luôn đầy tình Chúa, đầy ắp tình người, vì không biết ngày nào chàng rể Giêsu đến mời gọi chúng ta (Mt 25,1-13).

Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói về những người sống thời ông Nô-e. Lúc bấy giờ người ta ăn chơi hưởng thụ tối đa. Trong khi đó chỉ một mình ông Nô-e nghe lời Chúa đi đóng tàu.

Bạn bè và làng xóm cho ông là một người khác thường không giống ai. Còn họ thì cứ sống thoải mái, ăn chơi nhảy nhót, dựng vợ gả chồng, chìu chuộng thân xác tối đa, như thể không có ngày mai.

Thế nhưng, giữa lúc dân chúng ăn chơi hưởng thụ như thế, thì lụt đại hồng thủy thình lình ập đến, cuốn đi tất cả nhân loại xấu xa đó chỉ trừ một mình gia đình ông Nô-e. Đức Giêsu nhắc lại biến cố này để nhắc nhở chúng ta giờ Chúa đến hết sức bất ngờ như thế đó.

Thật vậy, không ai trong chúng ta biết khi nào mình chết, và chết ở đâu, và sau khi chết linh hồn mình sẽ ra sao. Tất cả đều nằm trong thánh ý nhiệm mầu của Chúa.

Bởi lẽ, thân phận con người là một cuộc lữ khách. Sinh ký tử quy, sống gửi thác về. Và bản chất con người như một bông hoa sớm nở, tối tàn, nghĩa là đời người thật ngắn ngủi mong manh biết bao.

Mỗi ngày trên thế giới có rất nhiều mạng người biến khỏi mặt đất này, đó là một lời nhắc nhở chúng ta, rồi đây sẽ đến một lúc nào đó, chúng ta cũng phải giã từ cuộc đời tạm bợ này. Và không ai biết trước giờ mình chết và chết ở hoàn cảnh nào. Chết ở trên giường hay chết ở ngoài đường. Nếu tối nay hay ngày mai Chúa gọi, thì liệu chúng ta có sẵn sàng hành trang về với Chúa chưa?.

Chính vì thế mà Đức Giêsu luôn nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức không để lòng mình buông theo những cám dỗ thế gian, những ước muốn tầm thường. Tỉnh thức là sống với lương tâm ngay thẳng không theo đường lối gian tà, không dín bén với của cải.

Tỉnh thức là đi vào con đường hẹp, con đường của Phúc âm, đừng tìm dễ dãi bản thân, nuông chiều theo xác thịt. Nếu chúng ta không tỉnh thức sẽ dễ rơi vào cơn cám dỗ của ba thù. Đó là: ma quỉ – xác thịt – thế gian. Kẻ thù đáng sợ nhất là ma quỉ.

Ma quỷ là cha của sự dối trá, nó đánh lừa rất tinh vi, làm chúng ta ươn lười, biếng nhác trong việc siêng năng đọc kinh dự lễ. Vì nghĩ rằng: mình còn trẻ, còn khỏe chưa chết đâu, cứ ăn chơi hưởng thụ tối đa, vì thời gian còn dài lo gì sửa mình, nhưng Chúa đến gọi vào lúc chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết thì đã muộn rồi.

Tỉnh thức để khỏi rơi vào cơn cám dỗ thứ 2, đó là xác thịt. Xác thịt nó gắn liền chúng ta như người bạn đồng hành. Người ta nói nhu cầu xác thịt còn lớn hơn nhu cầu ăn uống. Chỉ vì con người đắm chìm trong xác thịt, nên bất chấp luân thường đạo lý, mà hậu quả là những thai nhi bị sát hại không hề thương tiếc.

Tỉnh thức đừng để rơi vào cơn cám dỗ thứ 3, đó là thế gian. Thế gian chứ không phải thế ngay. Chúng ta sống trong một thế giới đầy dẫy những quyến rũ, tình – tiền – tài – rất ư là hấp dẫn lôi kéo chúng ta lung lạc đức tin rồi từ từ bỏ Chúa tìm những đam mê bất chính khác.

Cuối cùng, thưa anh chị em, tỉnh thức luôn phải đi đôi với cầu nguyện. Thật vậy, chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta sống gắn bó mật thiết với Chúa.

Chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta giảm bớt những bận tâm lo lắng đời này, để lo cho phần rỗi đời sau.

Chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta biết từ bỏ những tính hư tật xấu làm buồn lòng Chúa. Và chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta xa lánh những cám dỗ, những thách đố trong cuộc sống đầy biến động này.

Xin Chúa giúp chúng ta tích cực sống tinh thần sám hối của Mùa Vọng dọn lòng đón mừng đại lễ Chúa Giáng sinh. Đồng thời, sống tỉnh thức và cầu nguyện chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón đợi Chúa đến với bất cứ hoàn cảnh nào. Amen.

Về mục lục

.

DỌN LÒNG ĐÓN CHÚA

Lm Minh Vận

Mùa Vọng là mùa khơi dậy cho con cái Chúa một niềm vui đầy hy vọng và trông đợi Chúa đến. Sự trông đợi Chúa đây, không phải như các tổ phụ, các tiên tri và dân Do Thái xưa mong đợi Chúa Cứu Thế đến trần gian, vì Chúa Cứu Thế đã đến, Người sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria tại Belem đã 2000 năm rồi.

Nhưng trong Mùa Vọng, Giáo Hội muốn nhắc nhớ và khuyên nhủ con cái, dọn tâm hồn trong sạch để xứng đáng đón rước Chúa đến với mỗi tâm hồn chúng ta, bằng ơn thánh, bằng tình yêu thương và an bình của Chúa. Đó là món quà đặc biệt nhất Chúa muốn ban tặng cho các con cái ngoan thảo của Chúa trong dịp mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh sắp tới.

Vậy chúng ta cần phải chuẩn bị thế nào để tâm hồn chúng ta được xứng đáng đón tiếp Chúa đến với chúng ta?

HÃY TỈNH THỨC VÀ CHỜ ĐỢI

Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi đề cập đến lụt đại hồng thủy thời ông Noe, đang lúc người ta chỉ mải mê ăn chơi xa xỉ, thì bất ngờ đại hồng thủy đến, cuốn đi tất cả; Chúa đã khéo lợi dụng câu truyện này để khuyên nhủ chúng ta: “Vậy các con hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Chúa các con sẽ đến”(Mt 24:44).

Cô Thanh là một cô gái rất ngoan đạo, được sinh ra và lớn lên trong một gia đình gia giáo, được truyền thụ một nền giáo dục đạo hạnh. Lúc nào cô cũng khát khao được gặp Chúa và siêng năng lợi dụng thánh hóa các công việc hằng ngày, nhất là công việc cô đang đảm trách là đứng bán hàng trong một cửa tiệm tạp hóa do cha mẹ cô trao phó. Một đêm kia, đang nằm ngủ, cô được mộng báo là hôm sau cô được Chúa Kitô tới thăm nơi cửa tiệm. Giấc chiêm bao sống động và vui sướng đến nỗi, cô Thanh tưởng rằng câu truyện đó là một thực tại sẽ xảy ra. Thế là ngay sáng hôm sau, khi vừa tới cửa tiệm, cô lo quét dọn, sắp đặt và trang hoàng lịch sự để đón tiếp Chúa tới thăm. Cô Thanh cuống lên giục người phụ tá phất trần, lau bụi, chưng hoa và cho biết hôm nay sẽ đón tiếp một vị Thượng Khách. Cô phụ tá tên là Huyền Vi rất vui vẻ và hăng say trong việc chuẩn bị, để đón tiếp vị Thượng Khách. Huyền Vi chỉ xin một ơn huệ là nhờ cô Thanh lái xe đưa về nhà lo thuốc thang cho bố, rồi sẽ trở lại cửa tiệm ngay chỉ trong vòng 30 phút thôi.

Cô Thanh chia buồn vì bố Huyền Vi bệnh, rất muốn giúp nhưng không thể làm được hôm nay, vì công chuyện quá khẩn cấp trong việc chuẩn bị. Lại nữa, lỡ ra lúc vắng mặt 30 phút vị Thượng Khách tới thì sao. Thế là cả hai đều chăm chú vào việc dọn dẹp chuẩn bị.

Mỗi lần cánh cửa tiệm mở, nghe thấy chuông báo hiệu có người vào là cô Thanh phóng ngay cặp mắt về hướng đó… Nhưng vô hiệu, vì không thấy bóng vị Thượng Khách, ngoại trừ những khách hàng quen thuộc thường lệ, đến trao đổi lời chào thăm và mua bán.

Vào quãng giữa trưa, một người hành khất từ ngoài đường bước vào, thân mình gầy còm hốc hác nấp dưới tấm áo rách tả tơi bẩn thỉu, đầu tóc rối bù tanh hôi. Người xấu số ngửa tay van lơn: “Nhờ ông đi qua, nhờ bà đi lại cho tôi chút cháo đổ vào bụng, đã mấy ngày không cơm…” Cô Thanh cầm mấy đồng cắc dí vào tay ông rồi vội vàng dẫn ra cửa, dường như không muốn kẻ hôi tanh nán lại, lỡ ra vị Thượng Khách bất ngờ tới thăm.

Chiều hôm đó cũng qua đi như mọi ngày. Cửa tiệm vẫn thế, kẻ ra người vào, kẻ đến người đi… trong số đó có một bà quả phụ tìm đến cửa hàng mong được sự giúp đỡ, vì con bà phạm pháp bị bắt giam. Bà ta bối rối lo sợ, chẳng biết kêu với ai. Nghe truyện thương tâm, cô Thanh rất cảm động hết lòng muốn giúp đỡ, nhưng chẳng dám rời cửa tiệm phút nào, vì sợ Chúa đến mà không được gặp.

Đã đến giờ đóng cửa, cô phụ tá ra về, khách hàng hết vãng lai. Đường phố đã chìm ngập trong cảnh hoàng hôn hiu quạnh, nhưng Chúa Giêsu vẫn chưa thấy đến thăm. Ngã lòng vì chờ đợi mỏi mệt, cô Thanh thất vọng ra về nghĩ bụng: “Thật điên rồ chạy theo giấc chiêm bao!”

CHÚA ẨN THÂN NƠI KẺ RỐT HẾT

Về tới nhà, sau khi nghỉ ngơi, ăn uống, thu dọn nhà cửa; tới giờ đọc kinh tối như thường lệ và suy niệm Lời Chúa. Tình cờ, cô Thanh mở sách Tin Mừng theo Thánh Matheu đoạn 25, cô đọc thấy những dòng sau đây: “Bấy giờ Vua phán với những kẻ đứng bên phải: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh cơ nghiệp Nước Trời, đã dọn sẵn cho các ngươi từ khi tạo thành vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn, Ta khát các ngươi đã cho Ta uống, Ta đau yếu các ngươi đã an ủi, Ta ở tù các ngươi đã thăm viếng”. Bấy giờ các kẻ lành thưa lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà nuôi dưỡng, khát mà cho uống, mình trần mà đã cho mặc? Có bao giờ thấy Chúa đau yếu hay ở tù mà chúng con đã đến thăm viếng Chúa đâu?” Vua đáp lại: “Những gì các ngươi đã làm cho anh chị em hèn mọn nhất của Ta là làm cho chính Ta”(Mt 25:34-40). Cô Thanh hồi tưởng lại những gì xảy ra trong ngày và nghĩ rằng giấc chiêm bao đã thành sự thật… Chúa Giêsu đã đến thăm cửa tiệm hôm ấy mà cô đã không ngờ. Chúa đã đến và Chúa lại đến hằng ngày, qua mỗi người anh chị em chúng ta. Nếu chúng ta biết nhận ra Chúa, nồng hậu tiếp đón Chúa, Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta qua mỗi người anh chị em, cho dù là những người hèn mọn nhất trên trần gian.

Kết Luận

Là con cái Chúa, chúng ta hãy lợi dụng Mùa Vọng như một thời cơ thuận tiện, để chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón tiếp Chúa ngự đến với mỗi người chúng ta; bằng cách thực thi Đức Bác Ái, biết nhận ra Chúa, đón tiếp Chúa nơi tha nhân, chia sẻ cơm bánh với những người đói khát, biết cảm thương an ủi những người sầu khổ, nâng đỡ những người yếu đuối, khích lệ những người thất vọng ngã lòng. Hơn nữa, Chúa còn muốn chúng ta hướng tâm hồn lên cao hơn, biết yêu thương cả những kẻ thù nghịch, làm ơn lành cho những kẻ ghen ghét mình, lại cầu nguyện cho những kẻ vu oan cáo vạ, bắt bớ, bách hại chúng ta nữa.

Chu toàn được những điều Chúa muốn trên đây, là chúng ta đã biết chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón tiếp Chúa đến với chúng ta, bất cứ giờ phút nào. Chúa sẽ sung sướng ngự vào tâm hồn chúng ta như Chúa của sự bình an và nguồn hạnh phúc; ban cho chúng ta được tràn ngập niềm vui sướng Thiên Đàng ngay khi còn ở trần gian này.

Về mục lục

.

NGƯỜI ĐẾN ĐỂ CON TIM ĐƯỢC VUI TRỞ LẠI

Lm. Giuse Trương Đình Hiền

  1. Bỏ quá khứ lại sau lưng để tiến về phía trước:

Ý nghĩa đầu tiên của Mùa Vọng gần như được diễn tả ngay trong tên gọi của tiếng la tinh: Adventus, Mùa “Đến, mùa Quang lâm”. Vâng, Mùa Vọng chính là thời điểm thích hợp để chúng ta sống tâm tình và thái độ đức tin đón chào cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, hay sống với nỗ lực dấn thân thực hiện cuộc canh tân và hoán cải tâm hồn theo những lời mời gọi của Phúc Âm.

Vâng, Lời Chúa chúng ta vừa nghe công bố gần như hết lòng hổ trợ ý tưởng nầy và lôi kéo chúng ta tập chú suy tư và cầu nguyện theo ý hướng đó:

Bài đọc 1 đã trình bày: giữa một hoàn cảnh éo le và đầy tăm tối thất vọng của kiếp sống nô lệ, mất nước, lưu đày, Sứ Ngôn I-sa-i-a loan báo cho dân Ít-ra-en một viễn tượng huy hoàng ở cuối chân trời lịch sử: “Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi…Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái”.

Tin Vui đó, viễn tượng một thế giới hòa bình an lạc đó chắc chắn không phải là một thứ “tuyên truyền ngẫu hứng” của một tay “thần kinh bất ổn” mà là của chính Thiên Chúa mặc khải qua miệng của vị sứ ngôn được Ngài ra tay tuyển chọn. Và 600 năm sau lời tiên tri đó, Đấng là Em-ma-nu-en, là Hoàng tử Bình An, là Đấng Cứu thế, là Thiên Chúa Làm Người đã xuất hiện, Ngài đến để giải phóng toàn diện lịch sử con người, là qui tụ toàn nhân loại trong một Vương Quốc bao la vĩnh cửu.

Hôm nay, bước vào Mùa Vọng, khai mạc một Năm Phụng vụ mới, Lời Chúa cũng muốn nhắn gởi chúng ta qua chính lời tiên tri ấy. Cũng như dân Ít-ra-en đang sống trong nổi ê chề thất vọng của kiếp phận lưu đầy được nhà sứ ngôn loan tin giải thoát với niềm hy vọng một ngày mai tươi sáng đang đến gần, cộng đoàn chúng ta hôm nay đang được Lời Chúa mời gọi hãy vứt bỏ đi những nổi chán chường, thất vọng của một lối diễn tả đức tin mang đầy dấu vết của nô lệ, của lưu đầy, của sự lựa chọn biếng lười, ích kỷ và vô trách nhiệm. Hãy vứt bỏ đi lối sống buông trôi, lờ lững, không biết tới ngày mai, không dám đối diện với tương lai. Hãy vứt bỏ đi cuộc sống chỉ có biết bon chen, cặm cụi với cái lãi cái lời vật chất, cặm cụi đầu tư bất kể cho những thứ chóng qua mà chẳng tính gì đến chuyện vĩnh hằng tối hậu. Và cũng vứt bỏ đi cái lối sống đạo và hành xử đức tin vụ hình thức, giả tạo, biệt phái và kiêu căng.

Một cuộc vứt bỏ như thế để làm lại cuộc đời trong thánh thiện yêu thương phải chăng là tiêu đích của Hành trình Mùa Vọng, của đức tin Kitô, mà theo theo cách nói của Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Rôma trong bài đọc 2 đó là một cuộc “bừng mắt dậy sau đêm dài của giấc ngủ tội lỗi đen tối”: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những hành vi đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu…”

  1. Một cuộc hạnh ngộđể đổi đời.

Nếu “Thiên Chúa của chúng ta không bao giờ cũ”, thì cuộc gặp gỡ Ngài, chọn lựa Ngài, đến với Ngài phải luôn là một cuộc “hạnh ngộ” đầy hoan vui và hy vọng, một cuộc hạnh ngộ để làm lại cuộc đời.

Trong trích đoạn Tin mừng hôm nay, Thánh Mát-thêu đã thuật lại một bài giáo lý của Đức Kitô mà nội dung cốt lỏi cũng chính là thể hiện niềm tin bằng lối sống luôn là “sắp sẳn, tỉnh táo như người đang đón đợi khách quí, như kẻ đang nai nịt hành trang lên đường hay như ngôi nhà đang thắp sáng với đầy đủ những con người đang tỉnh thức canh phòng đến độ không còn chỗ hở nào để kẻ trộm thâm nhập”. Đây không phải là chuyện dễ ợt, mà là một cuộc phấn đấu nhọc mệt, là cả một cuộc hành trình cam go và mạo hiểm, một cuộc sống khôn ngoan biết tiên liệu và tỉnh táo đối diện với những “bất trắc đột xuất”, như hình tượng Noe trong biến cố “Nạn Đại Hồng Thủy”, hay hình ảnh canh chừng kẻ trộm trong đêm khuya mà Đức Kitô đã diễn tả.

Câu chuyện vui sau đây là một minh họa cho ý nghĩa trên của Mùa Vọng:

Một người dân thuộc một bộ lạc miền núi được đưa đi thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên ông đã giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Người ta cho anh biết đó là tiếng trống báo động về một cuộc hoả hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Chẳng bao lâu cuộc hoả hoạn được dập tắt. Trở về làng, ông đã báo cáo với các chức sắc trong làng như sau: người thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu: khi có hỏa hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ loại trống phát cho dân làng. Không bao lâu sau đó, hỏa hoạn xảy đến trong làng, mọi người đều đem trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa vô tình cứ thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng thất vọng của mọi người.

Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được nghe kể lại, một người dân thành thị giải thích: Các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt ngọn lửa ư? Không phải thế. Người ta đánh trống để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy chứ không phải ngồi đó mà chờ ngọn lửa tắt đâu.

Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến sự tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó khoanh tay mà chờ đợi. (“Mỗi ngày một tin vui”)

Mùa Vọng khơi gợi lên một cuộc chiến đấu của đức tin, một hành trình sống đạo năng động, ra sức đẩy lùi mọi biểu hiện tiêu cực, tầm thường, máy móc, vụ lợi, vụ hình thức. Chính trong chiều kích tích cực đó mà chúng ý thức rằng:

– Mỗi một lời kinh tôi đọc hôm nay phải là một đối thoại tuyệt vời, thực sự với Thiên Chúa.

– Mỗi một Thánh lễ tôi dâng phải là một cử hành sống động lễ Vượt Qua của chính Chúa Kitô mà tôi được diễm phúc cọng tác và kết hợp với Ngài.

– Mỗi một khi bước tới tòa Giải tội là một lần hoán cải thực sự, một cuộc đổi đời.

– Mỗi một việc bác ái tôi làm, một công tác mục vụ tôi đảm trách, phải là một biểu lộ thực sự của tình yêu, một tình yêu vô vị lợi và quảng đại.

– Mỗi một việc làm cho nhau trong đời thường giữa vợ chồng, con cái, anh em, bạn hữu…không còn là chuyện đải bôi môi mép, lạm dụng và ích kỷ, nhưng tất cả phải là những nghĩa cử của tinh thần trách nhiệm, phục vụ và yêu thương.

Nếu mọi Kitô hữu đều xác tín và hành động như thế, thì Mùa Vọng trở về thật ý nghĩa và cần thiết biết bao! Khi ấy, Giáo Hội không còn là một tổ chức kềm kẹp sự tự do của tôi, Ngày Chúa Nhật không còn là một bận rộn ngán ngẩm, Tòa Giải tội không còn là một tòa án tàn nhẫn và đáng sợ, và ngay cả bệnh tật chết chóc cũng sẽ trở thành cơ hội để tôi tìm thấy giá trị và niềm vui, như lời chứng sống động của Elena Frings:

Elena Frings là một thiếu nữ mới 20 tuổi nhưng đau tim nặng. Các bác sĩ cho biết cô chỉ còn sống được 6 tháng. Cô bỏ việc làm ở sở để đi làm việc xã hội trong một tổ chức thiện nguyện ở Nam Mỹ. Cô làm việc rất đắc lực và có hiệu quả đến nỗi cô được mời đến New York để thuyết trình. Tại New York cô may mắn gặp một bác sĩ giỏi. Ông này giải phẫu cho cô và chữa cô khỏi bệnh tim. Sau khi khỏi bệnh, cô không quay lại sở làm nhưng quay lại Nam Mỹ với những công việc hàng ngày phục vụ những người khốn khổ, bởi vì điều đã ban cho đời cô có ý nghĩa và đã định hướng cho đời cô không phải là cuộc giải phẫu mà là cảm nghiệm về cái chết gần kề (Christopher Notes).

Vâng, sống Mùa Vọng là sống như thế đó. Bởi chưng Mùa Vọng của Phụng vụ cũng chính là Mùa Vọng của cuộc đời. Đức tin không cho phép chúng ta đầu hàng hay tìm một lối mòn dễ dãi; cũng không có quyền nhắm mắt đưa chân mặc tới đâu thì tới, hay tìm lãng quên trong hưởng thụ, trong bon chen trong trác táng thả buông…Nhưng đức tin gọi mời chúng ta ngẫng cao đầu tiến về phía trước trong một con tim mới, cõi lòng mới như bài hát của nhạc sĩ Đức Huy: “và con tim đã vui trở lại”:

Và con tim đã vui trở lại, Tình yêu đến cho tôi ngày mai. Tình yêu chiếu ánh sáng vào đời. Tôi hy vọng được ơn cứu rỗi. Và con tim đã vui trở lại. Và niềm tin đã dâng về người. Trọn tâm hồn, Nguyện yêu mãi riêng người mà thôi…

Giờ đây, một cuộc gặp gỡ kỳ diệu đang và sắp xảy ra: Đức Kitô một lần nữa đang đến với chúng ta trong bàn tiệc Tạ ơn nầy: Đức Kitô hôm, qua hôm nay và tận cùng vẫn là Đức Kitô của một Mùa Xuân bất diệt, Đức Kitô mới mãi, trẻ mãi, sinh động và đầy ắp yêu thương. Ngài là Mục Tử nhân lành hôm nay trở về để đưa ta vào đồng xanh suối mát. Chúng ta vui mừng cử hành ngày “Tân Niên Phụng Vụ” trong tâm tình hân hoan, tin tưởng, trong thái độ khiêm tốn tạ ơn. Chúng ta hãy cùng nhau nắm tay mà bước đi trên hành trình Mùa Vọng để tiến vể Đại Lễ Giáng Sinh với tất cả niềm hăng say phấn khởi và nỗ lực đổi mới cuộc đời cho đẹp hơn, thánh hơn, hiệp nhất hơn, yêu thương hơn. Nói cách khác, đây là giờ phút không phải chúng ta hát mà là thực sự sống chính cái ý nghĩa của lời ca Nhập Lễ vừa vang lên lúc khởi đầu: “Con vươn linh hồn lên tới Chúa”. Amen.

Về mục lục

.

NGÀY VÀ ĐÊM

Lm Bùi Quang Tuấn

“Các con phải sẵn sàng” (Mt 24,44) vì “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13,12). “Hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa” (Is 2,5).

Đó là lời mời gọi cấp thiết khởi đầu cho một năm phụng vụ. Thế là một mùa Vọng lại về. Bao tâm hồn lại nao nức chuẩn bị cho ngày lễ Giáng sinh sắp đến.

“Đêm sắp tàn, ngày gần tới” rồi sao? Nhưng khi nào là đêm và lúc nào là ngày? Làm sao biết được ranh giới giữa ngày và đêm?

Một vị sư phụ đã nêu câu hỏi với các học trò của mình: “Chúng con có biết khi nào đêm chấm dứt và lúc nào ngày bắt đầu?” Một anh nhanh nhảu: “Thưa thầy, ấy là lúc ta thấy một con vật từ đàng xa và phân biệt được nó là con bê hay con lừa.” Một anh khác, sau lúc suy tư cũng xin góp ý: “Thưa thầy, khi nào ta nhìn thấy người bộ hành và phân biệt được là thù hay bạn.” Nhiều câu trả lời khác cũng được đưa ra nhưng dường như vị sư phụ không thoáng một chút hài lòng. Cuối cùng cả đám nhao nhao xin thầy giải thích. Sau phút trầm ngâm như muốn thấm sâu giòng tư tưởng, vị sư phụ lên tiếng: “Khi nào các con nhìn vào tha nhân và nhận ra đó chính là anh chị em mình thì đêm đã tàn và ngày đã tới.”

Thế ra không phải việc “phân biệt” con vật này hay con vật kia hoặc người này hay người nọ, song là “nhận ra” tha nhân là anh chị em mình, mới làm cho bóng tối tan đi và ánh sáng toả rạng.

Đêm đen sẽ mãi thống trị tâm hồn nếu đời tôi cứ đắm chìm trong hiềm khích, hận thù, bất công, chia rẽ, vô luân, lừa dối. Còn khi để cho yêu thương dẫn lối cuộc sống, ngày mới cuộc đời đã bắt đầu lên ngôi, nhờ ánh quang soi tỏ mọi lối đường.

Nỗi khát mong đợi chờ cho ánh sáng tình yêu thống trị địa cầu đã bắt đầu thành sự khi Đức Giêsu là “Mặt Trời Công Chính” bừng lên và cũng là “Hoàng tử Bình An” ngự đến.

Ấy thế mà dường như nỗi khát mong đợi chờ ấy vẫn không ngừng lập đi lập lại. Phải chăng vì tâm hồn nhân thế cứ bị bóng đêm của thế gian đe dọa chiếm đoạt, nên ước nguyện ánh sáng chân lý chiếu soi vẫn mãi là đặc tính của mùa Vọng hằng năm?

Ngày xưa, theo truyền thuyết của dân Rôma, tối 24 tháng 12 là ngày sinh của thần mặt trời, để rồi sáng hôm sau vị thần đó vươn mình đứng lên mang lại ánh sáng và sự sống cho nhân gian. Thế nên, khắp cùng đế quốc, người ta mừng lễ Natalis Solis Invicti vào ngày đông chí, tức là ngày 25 tháng 12, khởi đầu thời kỳ thần ánh sáng thắng vượt tối tăm, bước qua giai đoạn ngày dài hơn đêm.

Vào năm 336, Đức Giáo Hoàng Jules I đã ấn định ngày đông chí như ngày kỷ niệm Đức Giêsu – “Mặt Trời Công Chính” – đã giáng sinh cho nhân loại. Thế là ngày lễ ngoại giáo đã được Kitô hoá. Nét truyền thuyết và thần thoại được thay bằng tính chất xác thực của biết cố Nhập thể.

Từ đó trở đi, cứ mỗi lần sắp đến 25 tháng 12, giáo dân khắp nơi nô nức chuẩn bị tâm hồn cho ngày đại lễ Giáng Sinh. Họ không ngừng ăn chay hãm mình, quảng đại thứ tha, đổi mới đời sống, chờ mừng ngày Chúa ngự đến. Dần dần những việc làm đó trở thành đặc tính căn bản của mùa Vọng, mùa trông mong ngày sinh nhật Đấng Cứu thế.

Đã bao mùa Giáng sinh trôi qua, nhưng có lẽ “tính chất căn bản” của mùa Vọng đó đã phai mờ trong lòng nhiều người. Khi xưa, Giáo hội Kitô hóa ngày lễ ngoại giáo thành lễ Giáng sinh để hướng con người đến với nguồn sáng và nguồn sống đích thực. Còn hôm nay, không chừng tôi lại đang tục hóa ngày lễ thiêng liêng kia để rồi lòng mình cứ mãi lắng lo trong bao sự đời.

Ngày xưa mùa Vọng đã trở nên lời nhắc nhở canh tân lối sống, sửa sang tâm hồn, dọn lòng mừng Chúa đến. Còn hôm nay, không chừng tôi chỉ nghĩ đến trang hoàng nhà cửa, giăng thêm đèn màu, mua sắm quà cáp chuẩn bị cho những cuộc liên hoan say sưa, cuồng loạn, có khi… tội lỗi.

Một lần nữa, lời nhắn nhủ trong thơ của Thánh Phaolô lại thức tỉnh hồn tôi: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Kitô, và chớ lo lắng thoả mãn các dục vọng xác thịt”. (Rm 13,12-14)

Thực hành lời khuyên nhủ trên là khởi sự Kitô hoá cuộc đời, là sống trọn vẹn hơn ý nghĩa của mùa Vọng năm nay, và chắc chắn, là bắt đầu cảm nếm niềm vui nhiệm mầu sâu lắng trong lễ Giáng sinh sắp đến.

Về mục lục

.

CÓ THỂ ĐÂY LÀ NĂM CUỐI ĐỜI TÔI

Lm Hà Ngọc Đoài

“Hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến.” (Mt 24,42)

Trong một bữa tiệc tất niên với bạn hữu, bà B nói nhỏ với ông A khuyên chồng bà đi xưng tội, để chuẩn bị lễ Giáng Sinh cách đặc biệt. Năm nay các con cháu xa gần sẽ quy tụ tại nhà ông bà để mừng lễ Giáng Sinh. Vì con cái nghĩ rằng cha mẹ họ đã già, đến với nhau được năm nào hay năm đó. Biết đâu đây là dịp cuối cùng con cái được quây quần bên cha mẹ để mừng lễ. Ông B trước đây là một người ngoan đạo, sốt mến trong các việc giúp đỡ giáo xứ, nhưng vì một hiểu lầm nào đó ông bỏ lễ luôn! Bạn bè thông cảm và khuyên rằng, nếu bất bình với cha xứ hoặc với ai trong giáo xứ mà bỏ lễ thì không đúng. Chúng tôi không bênh vực ai hết, nhưng mời ông nhìn vào thực tế của đời mình và Thiên Chúa. Đạo là do Chúa ban cho mỗi người qua Giáo Hội. Cùng với Giáo Hội đức tin của chúng ta lớn mạnh và cùng với Giáo Hội chúng ta có bổn phận phát triển nước Chúa. Tại sao vì giận người trần mà bỏ Thiên Chúa và bỏ môi trường Chúa ban cho ta để sống và nương nhờ nhau. Trong cuộc sống chung, va chạm và hiểu lầm là chuyện thường tình. Chỉ có một điều là đừng quá khích và tự tôn mà xa nhau. Cần có sự quảng đại và thông cảm cho mỗi người trong công việc của họ thì mới xây dựng cộng đoàn dân Chúa được. Xã hội gồm nhiều người có nhiều đặc tính khác nhau, hễ bất mãn là phá, hễ không vừa ý mình là chống thì làm sao mà hòa hợp được. Ông B nghe lời khuyên có lý, nhưng vì tự ái còn âm ỷ trong mình nên trả lời rằng ‘khi gần chết thì tôi sẽ làm hoà lại.” Mọi người an lòng khi nghe như vậy, nhưng ai cũng im lặng và suy nghĩ trong lòng rằng ai biết được giờ chết của mình? Ơn hòa giải đến từ Thiên Chúa hay chính mình ban ra? Quyền quyết định về phần rỗi là nơi Thiên Chúa hay chính con người? Thánh Augustinô khi đang còn sống trong tình trạng tội lỗi cũng lý luận, biện minh, và trì hoãn như thế. Ngài nói là xin cho con ơn trở lại, nhưng hãy đợi lúc sắp chết! Trong tác phẩm Confessions của Ngài kể rằng, một hôm tiếng lương tâm thúc dục: chần chờ bao lâu nữa? Ngài dày vò đầu óc tự hứa là ngày mai sẽ trở lại. Lương tâm tiếp tục cảnh cáo rằng tại sao không bây giờ, ngày mai thì không chắc chắn! Liền ngay đó có tiếng nói hai lần: Hãy cầm lấy và đọc. Ngài đi hỏi người bạn tiếng nói ấy có ý nghĩa gì, thì người bạn đưa cho cuốn Thánh Kinh, Ngài mở đúng ngay đọan Rom 13:11-14: hãy biết rằng giờ này là lúc con hãy thức dậy.

Thực Hành: “Đêm sắp tàn, ngày sắp đến… phần rỗi chúng ta gần đến.” (Rom 13:11-12) Trái đất quay chung quanh mặt trời để muôn vật có ánh sáng và sự sống. Chúa ban cho chúng ta có mùa phụng vụ để thay đổi đời mình tốt đẹp hơn và sống gần Chúa hơn. Xin cho con ơn nhạy cảm để đời con không mất đì cơ hội sống đời đời.

Về mục lục

.

LÊN TÀU HY VỌNG

Lm Phạm Quốc Hưng

Hôm nay, chúng ta bước vào Mùa Vọng, vào một năm phụng vụ mới của Giáo Hội. Giáo hội mời gọi chúng ta phải nỗ lực canh tân đời sống đức tin và lòng nhiệt thành truyền giáo để đón Chúa Giêsu xuống thế làm người.

Thật vậy, trong mùa Vọng, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ lại việc Chúa Giêsu đã sinh ra làm người để cứu chuộc nhân loại nơi hang Bêlem, và việc chúng ta phải chuẩn bị để chào đón Người trở lại trong vinh quang để phán xét thế gian. Đồng thời, chúng ta cũng được mời gọi phải luôn tỉnh thức để nhận biết và tiếp đón Chúa trong cuộc sống hàng ngày nơi mọi người, mọi vật, mọi biết cố nhỏ to, nhất là nơi Thánh kinh, Thánh Thể và các bí tích của Hột Thánh, để chuẩn bị sẵn sàng gặp gỡ Chúa trong giờ chết, khi Chúa đến đưa chúng ta về bên Người trong cõi vĩnh hằng.

Chúng ta có cảm nghĩ và phản ứng gì khi nhớ đến việc Chúa đã xuống thế làm người hơn 2000 năm trước đây? Chúng ta phải làm gì để chào đón Người trở lại lần thứ hai? Chúng ta đã luôn tỉnh thức để nhận biết và tiếp đón Chúa trong cuộc sống hàng ngày chưa? Chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng để hân hoan đón nhận cái chết ngay giây phút này đây, như một cuộc gặp gỡ mà chúng ta hằng chờ mong để được chiếm hữu Chúa trong cõi vĩnh hằng chưa?

Nếu giờ đây lòng chúng ta không rộn ràng sung sướng vì tin vui Chúa đã giáng trần, nếu hiện nay chúng ta không thao thức mong chờ Chúa đến trong vinh quang, nếu lúc này chúng ta chưa cảm nhận hiện diện đầy quyền năng và tình thương của Chúa trong cuộc sống hàng ngày, nếu bây giờ chúng ta còn sợ chết, thì đó là dấu hiệu chắc chắn cho thấy chúng ta chưa sẵn sàng đón tiếp Chúa. Đó là dấu chúng ta chưa thực sự tin Chúa, chưa thực sự biết Chúa, chưa thực sự yêu Chúa, chưa thực sự thuộc về Chúa. Đó là dấu chúng ta còn đang ngủ, đang mê, đang sống trong bóng đêm tội lỗi.

Trong Tin Mừng của phụng vụ hôm nay, một lần nữa Chúa đang nói với chúng ta một cách khẩn thiết và thân thương như Chúa đã nói với các môn đệ khi xưa: “Hãy tỉnh thức… hãy sẵn sàng…”

Chúa đã nhắc đến việc Nôê đóng tàu để cứu sống ông và gia đình khi đại hồng thủy đến trong khi dân chúng cùng thời với ông tiếp tục sống buông thả theo dục vọng và tội lỗi của họ. Người dạy các môn đệ đừng bắt chước những người đồng thời với Nôê. Những người thời Nôê đã dại dột không biết lắng nghe ông và cố ở lì trong nếp sống sa đọa tội lỗi nên đã bị tru diệt. Chúa muốn các môn đệ của Người noi gương Nôê, biết tỉnh thức làm theo lời Chúa, đóng tàu và lên tàu với hy vọng được cứu sống.

Trong xã hội hôm nay, nhiều ngưởi trong chúng ta còn dại dột hơn những người đồng thời với Nôê bội phần. Vì chúng ta đã thấy đại lụt bắt đầu rồi mà vẫn lì lợm không chịu bước vào con tàu hy vọng Chúa đã sắm sẵn cho chúng ta. Vì chúng ta đã được chính Chúa Giêwu – Con Thiên Chúa làm người, chứ không phải một người phàm như Nôê – cảnh cáo và kêu gọi phải tỉnh thức và sẵn sàng, nhưng chúng ta vẫn giả điếc làm ngơ.

Hiện nay, trên thế giới có hơn 50 triệu thai nhi bị giết hàng năm một cách hợp pháp tại hầu hết các quốc gia. Đa số các cặp vợ chồng đi ngược lại luật Chúa khi xử dụng các phương thế ngừa thai nhân tạo hay tuyệt sản để tránh bổn phận phục vụ sự sống. Bao gia đình tan rã vì ly dị. Việc ăn chung ở chạ được nhiều người coi là chuyện bình thường. Phim ảnh và sách báo đua nhau khai thác bản năng tính dục của quần chúng. Không ít linh mục và giám mục Công giáo hổ thẹn vì giáo huấn chân thực của Hội thánh về luân lý liên quan đến hôn nhân và tính dục. Nhiều tín hữu dù đã đủ ăn đủ mặc vẫn gian lận trợ cấp xã hội dành cho người cùng khổ. Có những chủ nhân Công giáo bóc lột nhân công cách tàn nhẫn. Có không ít những đố kị ghen ghét bôi lọ nhau diễn ra ngay trong sinh hoạt của các giáo xứ và cộng đoàn Kitô hữu. Đó là chưa kể đến những gương xấu của những người lãnh đạo tên tuổi và những cuộc chém giết bạo động được ghi nhận trên báo chí hàng ngày.

Những sự kiện kinh hoàng trên đây không đủ để làm thành một thứ “văn hóa tử vong” hay một cuộc đại hồng thủy của tội lỗi còn ghê tởm hơn cuộc đại lụt thời Nôê đó ư? Lời kêu gọi thống thiết của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và các vị chủ chăn chính trực của Hội Thánh nhằm ngăn chặn các tội ác chống lại sự sống và phẩm giá con người không phải là sự lập lại lời kêu gọi của ông Nôê hay của chính Chúa Giêsu khi xưa sao?

Nôê và gia đình của ông năm xưa đã được cứu thoát khỏi đại hồng thủy vì đã đóng tàu và vào tàu như lời Chúa truyền dạy. Con tàu Nôê đã là biểu tượng của hy vọng và của ơn cứu độ.

Cũng vậy, ngày nay chúng ta sẽ được cứu thoát khỏi cơn đại lụt của tội lỗi đang dâng tràn trên thế giới, nếu chúng ta biết nổ lực xây dựng và gắn bó với con tàu hy vọng là Hội Thánh Công Giáo – Nhiệm thể Chúa Kitô và sự Hiện diện nối dài của chính Chúa Kitô – và lắng nghe mệnh lệnh của viên thuyền trưởng là chính Chúa Kitô mà Đức thánh Cha là vị đại diện hữu hình của Người.

Trong con tàu hy vọng ấy, chúng ta không những được bảo đảm thoát khỏi hiểm họa của đại lụt của tội lỗi, mà còn được diễm phúc gặp gỡ và kết hợp mật thiết với Chúa Kitô qua Lời Chúa và các bí tích của Hội thánh cũng như các hoạt động bác ái và truyền giáo của Hội thánh.

Những cây đinh, những tấm ván, và những cây cột mà chúng ta dùng để dựng xây con tàu Hội thánh chính là những lời cầu nguyện, những hy sinh hãm mình, những hành động yêu thương và những hoạt động tông đồ mà chúng ta thực hiện trong sự yêu mến, vâng phục và hiệp nhất với Hội thánh.

Chúng ta có tỉnh thức và sẵn sàng để cùng các môn đệ yêu quý của Chúa Kitô qua mọi thời đại bước vào con tàu hy vọng của Hội thánh và nỗ lực góp phần xây dựng Hội thánh chưa?

Một lần nữa, chúng ta hãy nghe thánh Phaolô – một trong những người có công đầu trong việc dựng xây và lèo lái con tàu Hội thánh theo ý Chúa Kitô – mời gọi chúng ta chuẩn bị để bước lên tàu hy vọng với những lời tha thiết như sau:

“Phải như thế, vì anh em biết thời buổi (nào ta đang sống). Đã đến giờ anh em phải tỉnh ngủ thức dậy, vì nay ơn cứu thoát đã gần ta hơn là khi ta mới tin. Đêm hầu tàn, ngày sắp đến. Vậy ta hãy vất bỏ những vật tối tăm và hãy mặc lấy khí giới sự sáng. Như giữa ban ngày, ta hãy sống đoan trang, chứ không phải trong chè chén và say sưa, trong dâm dật và phóng đãng, trong kình địch và ghen tuông. Nhưng anh em hãy mặc lấy Đức Kitô và đừng lo toan về xác thịt, cho thỏa các đam mê.” (Rm 13,11-14)

Lạy Mẹ Maria là nguồn hy vọng và cậy trông của chúng con, xin Mẹ chuyển cầu cùng Chúa Giêsu cho hết thảy chúng con trong năm phụng vụ mới nầy và suốt cả đời chúng con, ơn luôn nhận biết Hội thánh chính là con tàu hy vọng Chúa đã ban cho nhân loại để chúng con được ơn cứu rổi. Xin Mẹ cầu cùng Chúa cho chúng con luôn trung thành, yêu mến và vâng phục Hội thánh và Đức thánh cha để luôn được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ. Amen.

Về mục lục

.

NGÀY QUANG LÂM

Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Mùa vọng là thời điểm dọn mình mừng Chúa Giáng Sinh. Nhưng tại sao Tin mừng nói đến ngày quang lâm?

Quang lâm là gì? Quang là ánh sáng, lâm là đến, ngụ ý: người trên đưa vinh quang đến cho người dưới. Theo văn hóa Hy lạp, quang lâm (parousia) chỉ sự hiện diện sinh động của vua chúa trong các nghi lễ lớn như phong vương có kèn trống, ca hát, chúc tụng, tiến dâng phẩm vật. Quang lâm còn chỉ sự thần hiện giáng phúc như xưa ta nói: Thánh thượng giáng lâm.

Theo Cựu ước, quang lâm là ngày của Thiên Chúa, ngày vinh quang đầy ánh sáng huy hoàng đến xua đuổi đêm tối rợn rùng bao phủ dân Ngài. Isaia luôn luôn mô tả hai cảnh tương phản đó: “Trời hỡi, đất hỡi hãy lắng nghe Giavê phán: khốn thay nước tội lỗi, dân chất nặng vạ hình nòi giống ác nhân … Xứ sở các ngươi một cảnh điêu tàn, thành thị bị lửa thiêu, đất đai bị nước ngoài ngốn hết, cảnh điêu tàn như thời Sôđôma” (Isaia 1, 4… 7). Trước cảnh đen tối khốn cùng đó, Thiên Chúa vẫn đến cứu giúp đem lại vinh phúc cho con người: “Từ Sion thánh chỉ ban ra… Người sẽ phân xử cho muôn dân. Họ đúc gươm đao thành cày cuốc, rèn giáo mác nên liềm hái; dân này nước nọ không còn vung kiếm chém nhau và thiên hạ thôi học bài chinh chiến. Hỡi nhà Giacóp ta hãy bước đi trong ánh sáng nước trời” (Isaia 2, 3b-5).

Tân ước diễn tả ngày quang lâm đột xuất xẩy đến giữa thời điểm đen tối của con người: “Đêm sắp tàn, trời gần sáng” (Rm. 13, 12). Trong sa mạc Gioan Tẩy giả đã rao giảng: “Hãy hối cải vì nước trời đã gần đến …”. Sa mạc là cảnh khô cằn nóng như lửa đốt, Đấng Cứu thế đến sẽ biến sa mạc thành nước Trời. Nước Trời ví như ngày mùa lúa đầy sân, đầy kho lẫm, hình ảnh này biểu lộ sự vinh quang, hằng sống của nước Trời.

Về cuối đời ở trần thế, Chúa Giêsu mô tả thời cánh chung có hai cảnh tương phản nhau: một cảnh tận diệt khủng khiếp, lừa gạt, giặc giã, chiến tranh, tội ác đầy ứ, bắt bớ chém giết, mặt trời mặt trăng tối sầm, tinh tú sa xuống. Một cảnh quang lâm như một lễ hội rực rỡ đầy quyền năng, vinh quang của Con người tỏ hiện trên mây trời, ngự trên ngai uy nghi có hết thảy thiên thần hầu cận, thổi loa vang dậy, tập họp muôn dân thiên hạ trước mặt Ngài (Mt. 24, 4-31; 25, 31-46).

Như vậy ngày quang lâm là ngày chấm dứt thời gian đen tối, mở ra thời đại huy hoàng. Cựu ước mong chờ một ông Vua thái bình, một người Cha muôn thuở. Tân ước loan báo ngày Thánh thượng giáng lâm chúc phúc cho muôn dân đến muôn đời.

Mùa Vọng hội tụ cả hai ý nghĩa Cựu ước và Tân ước. Sống tâm tình Cựu ước, ta đầy tin tưởng vui mừng vì bỉ cực thái lai, đêm qua ngày tới, sau giông tố trời lại sáng, có sa ngã thì có cứu độ, có lưu đầy thì có đất hứa, có Pharaon thì có Maisen, có Adam thì có Đấng Cứu thế. Sống tâm tình Tân ước, ta càng bùng cháy niềm tin yêu dạt dào, tràn đầy niềm vui vì Đấng Cứu thế đã đến rồi, đêm đông đã chan hòa ánh sáng, đồng hoang đã vang dội tiếng muôn thiên thần mừng hát Đấng đã ban ánh sáng chiếu soi cho muôn dân ngồi trong bóng tối tử thần.

Về mục lục

.

CHÚA SẼ ĐẾN CHO CON NGƯỜI HẠNH PHÚC

Lm Jos Phạm Thanh Liêm

Mùa vọng là thời gian chờ mong Chúa đến. Kitô hữu không còn chờ Chúa sinh lại trong máng cỏ hang lừa, nhưng chờ mong Chúa đến trong vinh quang để giải phóng trọn vẹn con người, cho con người được sống vĩnh cửu với Thiên Chúa.

1) Không có hạnh phúc trọn vẹn nơi cuộc đời chóng qua này

Thế gian này không phải là nơi ngập tràn hạnh phúc. Nghèo đói, bệnh tật, làm cho con người đau khổ. Không phải những người nghèo, vì bản thân bị đói nên họ cảm thấy khổ. Cái nghèo của bản thân, còn kéo theo những hậu quả xảy đến cho những người thân như con cái, cha mẹ, anh em. Cái nghèo khổ thể xác, đôi khi kéo theo cái nghèo khổ về tinh thần.

Những thất bại trên đường đời, thất bại trên đường tình (yêu mà không được đáp trả), thất bại về công danh sự nghiệp, cũng làm con người chán nản và đôi khi không muốn sống. Đời người tuy có những lúc hạnh phúc nhưng cũng nhiều vất vả, gian nan và đau khổ.

Cái chết, làm người ta phải xa lìa những người thân yêu, và nó cũng là một điều làm con người đau khổ. Có ai muốn xa người mình thương yêu, có ai an lòng khi phải xa những người thân yêu của mình, mà mình biết nếu thiếu vắng mình người đó sẽ bị đe doạ hay nguy hiểm. Cái chết làm người ta phải xa lìa những người thân yêu mà không ai cản được.

Những áp bức bất công thường xảy đến với con người. Những bất công xã hội và chiến tranh chết chóc vẫn đang tiếp diễn. Tất cả những điều này làm con người đau khổ. Ai giúp con người thoát cảnh súng đạn chết chóc và sống trong an bình? Ai giúp mang lại công bằng cho những người này? Ai có thể mang lại hạnh phúc bền vững cho con người?

2) Ơn cứu độ nơi Thiên Chúa

Cái chết làm con người khổ, vì thế con người mong có thuốc trường sinh bất tử. Con người ngày nay như muốn tìm trường sinh bất tử nơi “cloning”, nhưng “cloning” lại làm nảy sinh bao nhiêu điều đáng lo sợ. Trong cuộc sống có nhiều người “tàng tàng” đã sát hại bao người khác. Con người mới chỉ “cloning” được thân xác, nhưng đâu “cloning” được tinh thần. Con người được “cloning” này với bao yếu tố tâm lý ảnh hưởng, có chắc gì những người đó là những người bình thường, biết đâu những người đó có thể là mối đe dọa cho xã hội con người. Liều thuốc trường sinh còn xa vời với con người hôm nay. Hơn nữa, ngay cả người được sống hoài, có thể sau một thời gian sống lâu, cũng cảm thấy chán và muốn chết. Câu chuyện tưởng tượng một người được thuốc trường sinh bất tử nên sống hoài khi những người thân cùng thế hệ chết, rồi con cháu của người đó cũng chết; rồi cứ thế mãi cho đến một ngày người đó cảm thấy cô độc, và rồi cảm thấy sống hoài lại là nỗi khổ. Sau cùng, người đó lại ao ước được chết như tất cả mọi người. Phải chăng con người chỉ muốn sống, khi cuộc sống hạnh phúc? Phải chăng hạnh phúc không chỉ hoàn toàn nằm trong tầm tay con người? Ai có thể cứu độ con người? Ai có thể đong đầy ao ước hạnh phúc của con người?

Con người chỉ tìm thấy nơi Thiên Chúa niềm hy vọng giải phóng trọn vẹn con người, làm con người hạnh phúc vĩnh cửu. Bài đọc I cho thấy ao ước của người xưa về thời cánh chung, thời đó người ta không còn chém giết đánh nhau nữa. Sở dĩ vậy vì người ta tin vào Thiên Chúa, người ta sống theo ánh sáng của Thiên Chúa. Cũng với tinh thần này các tín hữu mong chờ ngày Chúa trở lại trong vinh quang, để giải phóng trọn vẹn con người.

Ngày Chúa tới trong vinh quang, là ngày Ngài tới để cứu độ con người, ngày Ngài giải phóng con người trọn vẹn, cả về tinh thần lẫn thân xác. Ngày đó con người sẽ sống lại, và người lành được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngày đó, sách Khải Huyền diễn tả, có trời mới đất mới. Sẽ không còn chết chóc, không còn khóc lóc nữa. Con người sẽ được hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu.

3) Sống trọn vẹn đời này

Bài đọc II thánh Phaolô khuyên bảo tín hữu vì không biết khi nào mình chết, nên hãy từ bỏ những công việc đen tối, đừng chiều theo những đòi hỏi của xác thịt. Tuy dù đời này chỉ là “đời tạm” nhưng con người được mời gọi để sống trọn vẹn thời gian của cuộc đời này một cách tuyệt vời.

Trở về với Thiên Chúa là Cha và cùng đích của mình. Tâm niệm và xác tín Thiên Chúa yêu thương mình. Phó thác đời mình cho Thiên Chúa. Cố gắng hoàn thiện và sống hạnh phúc trong từng giây phút của đời mình. Chấp nhận những gì xảy ra sau khi đã cố gắng hết sức để làm theo điều mình thấy tốt nhất. Tha thứ những gì người khác xúc phạm đến mình ngay cả khi họ không nhận lỗi. Cố gắng làm cho đời này tươi đẹp hơn, làm cho người khác vui hơn và hạnh phúc hơn, bằng cách yêu thương và tươi cười với họ, giúp đỡ họ khi họ cần.

Thánh Thần của Đức Yêsu đang ở với con người. Chính Thánh Thần sẽ giúp con người sống trọn vẹn từng ngày khi mong chờ ngày Đức Yêsu trở lại trong vinh quang.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Thật lòng mà nói, bạn có mong ước Chúa đến không? Tại sao?
  2. Ngày Chúa đến trong vinh quang, con người được gì?
  3. Bạn cần làm gì trong thời gian chờ mong Ngài đến? Điều bạn nói, có thể thực hiện được không?

Về mục lục

.

NIỀM TIN YÊU PHÓ THÁC

Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

CON THUYỀN KHÔNG BẾN

Trong một lớp giáo lý Rước Lễ Trọng Thể, khi được hỏi: “Con tàu No-ê đã trôi về đâu”, một em học viên tuổi vào đời đã trả lời nhanh: “Dạ, nó trôi lênh đênh như con thuyền không bến”.

Hay! Giữa trời biển bao la, còn đâu là bến bờ, câu trả lời thật thơ mộng và chính xác!

Nhưng đó chỉ là hình ảnh được hiểu theo kiểu “người trần mắt thịt”, thấy sau biết vậy. Con thuyền No-ê không trôi vô định, phó mặc dòng đời tùy hên xui may rủi, kiểu “con thuyền không bến” của người đời: “cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu”. Con thuyền No-ê đã được tạo thành có mục đích, nó trôi nổi giữa dòng đời theo mục đích, và sẽ dừng lại đúng mục đích.

Đó là một cuộc hành trình có khởi điểm, có lộ trình, và có điểm đến. Đó là một cuộc hành trình do Thiên Chúa hoạch định. Đó là ơn gọi vì yêu thương.

Bến cũ không còn an toàn, Thiên Chúa muốn ông No-ê rời bỏ nơi ấy, để đến bến bờ mới của sự sống, nơi sẽ là Trời Mới, Đất mới – một Thế Giới Mới. No-ê đã vâng lời. Ông tin những gì Thiên Chúa nói. Ông vâng phục những gì Thiên Chúa dạy. Ông phó thác mọi sự trong chương trình của Thiên Chúa.

Nên, giữa trời biển bao la, vẫn có một bến bờ mà nếu không có đôi mắt đức tin không thể nào thấy được, đó là bến bờ vô hình đang chờ đợi “con thuyền không bến” của No-ê cập bến: – bến bờ sự sống mới.

Như vậy, cuộc hành trình của con tàu No-ê là một cuộc hành trình hy vọng. Hy vọng những điểu tốt lành Thiên Chúa sẽ trao ban như lời Ngài đã hứa.

CHỜ ĐỢI VÀ HY VỌNG

Chờ đợi luôn chứa đựng hy vọng. Hy vọng đòi hỏi đợi chờ. Có những người tự tử vì họ không còn hy vọng. Họ không còn gì để đợi chờ. Có những người đầy nghị lực vượt gian khổ, vì họ luôn hy vọng điều tốt lành đang ở phía trước. Họ kiên nhẫn đợi chờ. Họ đợi chờ trong hy vọng.

Tháng ngày lênh đênh trên sóng nước bao la của con tàu No-ê là cuộc hành trình chờ đợi trong hy vọng. Mong đợi thấy được ánh mặt trời của ngày mới rực sáng trên mặt đất hồi sinh.

Đó là Mùa Vọng của con tàu Nô-ê. Mùa Vọng của những người luôn được Chúa yêu mến và luôn biết yêu mến Chúa. Những người luôn tỉnh thức để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa.

Muốn có được niềm hy vọng, người ta luôn phải phấn đấu. Không ai đạt được mục đích mà chỉ “nằm há miệng chờ sung”. Để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa đòi hỏi con người luôn nổ lực để tự hoàn thiện bản thân. Phải có hy sinh, đau đớn, khổ luyện, con người mới vươn lên được. “Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài. Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi”.

Cuộc sống chỉ để thỏa mãn những thú vui thấp hèn. Theo đuổi những giá trị nhất thời. Hưởng thụ những thứ phàm tục thoáng qua. Buông thả theo bản năng. Mất phương hướng đời người. Không còn cảm nhận được những giá trị cao cả lâu bền. Cuộc sống ấy sẽ thật sự chấm hết trong thế giới tan biến phù hoa ảo ảnh. Vì cuộc sống ấy không nối kết được với nguồn sống vĩnh cửu là Thiên Chúa. “Thời ông Nô-ê thế nào, thì con người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày con người quan lâm cũng sẽ như vậy”. (Mt.24,37-39).

VÀO GIỜ PHÚT KHÔNG NGỜ…

Ở quê tôi, không nhớ rõ năm nào, chỉ biết là trước năm 1975, người ta báo tin một chiến sĩ tên Sang tử trận. Phải mất gần ba ngày sau, gia đình người thân mới đi lãnh xác về được trong chiếc quan tài được hàn chì bên trong cẩn thận.

Thật khó mà tả được hình ảnh người mẹ đau khổ. Bà ôm chiếc quan tài và tha thiết xin được nhìn mặt con lần cuối, nhưng không ai đáp lại nguyện vọng của bà. Vì ai cũng hiểu: chẳng còn hình thù gì nữa để nhìn. Người ta giữ lại chiếc quan tài một đêm để cầu lễ và dự định ngày hôm sau thánh lễ an táng sẽ cử hành lúc 2 giờ chiều.

Buổi sáng ngày dự định chôn cất, lúc ấy khoảng 8g, khi người mẹ còn đang thỉnh thoảng bước lại nhìn di ảnh đứa con trai cưng của mình, thắp vài nén hương trong nước mắt, thì một người ở ngoài đường hối hả chạy vào nhà báo tin: “Mẹ ơi, người ta điện về xã cho biết tên Sang đó không phải là người ở xã của mình, ở nơi khác. Mẹ ơi, anh Sang còn sống! Mẹ ơi, anh Sang còn sống!”.

Người mẹ đứng chết trân, ngỡ ngàng, không biết mơ hay thực, nước mắt tiếc thương chưa kịp khô, những giọt nước mắt vui mừng trào trào ra tuôn dòng trên đôi má nhăn nheo.

Ngay ngày hôm sau, người ta cho anh Sang về phép. Có lẽ ai đó có trách nhiệm trong việc lầm lẫn tai hại này muốn chuộc lại lỗi lầm chăng. Hay muốn bảo đảm chắc chắc rằng người nằm trong quan tài kia không phải là Sang ở gia đình này. Sau đó, người ta đem chôn tạm chiếc quan tài kia ở phía sau ruộng. Gần một tháng sau mới có thân nhân đến tìm mộ.

Mấy ngày sau, tôi đến thăm người mẹ đó. Bà nói câu nào cũng khóc. Khóc rồi cười. Cười rồi lại khóc. Đó là thứ ngôn ngữ diễn tả niềm vui quá sức lớn lao đến mức người ta có thể điên lên được vì hạnh phúc đến quá bất ngờ. Thật không ngờ! Tôi cứng rắn lắm, vậy mà cũng khóc. Tôi khóc vì cảm động trước lòng mẹ…

Ôi, sự sống quý trọng biết bao và là khát vọng muôn thuở của con người!

Tôi chợt nhớ đến hình ảnh của Chúa Giêsu đã xúc động trước đám tang của con trai bà góa thành Na-im (Lc.7,11-17). “Trông thấy bà Chúa chạnh lòng thương và nói: ‘Bà đừng khóc nữa’”. Niềm hạnh phúc của bà mẹ này chắc chắc rất lớn lao và thật không ngờ. “Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ”.

Niềm vui ấy không chỉ riêng của bà mẹ thành Na-im và bản thân người chết, mà còn là niềm vui của mọi người. Đó là nỗi khắc khoải chờ mong của mọi người, của kiếp nhân sinh. “Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: ‘Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người ’”. (Lc.7,16).

Đó là niềm vui lớn nhất mà chúng ta chờ đợi. Đó là hy vọng mà chúng ta ấp ủ trọn cả kiếp người.

Cuộc đời của chúng ta có rất nhiều điều không ngờ. Chúng ta là thân cát bụi mà Chúa đã yêu thương chúng ta đến mức không ngờ. Ngài tha thứ chúng ta đến mức không ngờ. Ngài là Thiên Chúa mà chọn cái chết vì chúng ta thật không ngờ. Ngài sẽ đến vào ngày không ngờ. Ngài sẽ đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc không ngờ.

Chỉ có điều, ta đáp lại tình Ngài như thế nào qua cách sống của chúng ta. Nếu ta bước đi vững vàng trong niềm tin yêu Thiên Chúa. Nếu ta biết lắng nghe Lời Chúa. Nếu ta biết chọn lựa những gì thuộc về Chúa. Nào ta còn sợ gì lạc lối. Mặc cho cuộc đời có đổi thay. Sóng gió tư bề bao phủ. Chuyện kinh thiên động địa tràn lan, ta chẳng hề sợ đến “hồn xiêu phách lạc”, vì ta tin vững Thiên Chúa không hề bỏ rơi những ai trung thành và hằng kêu cầu đến Thánh danh Ngài. “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và hãy ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu độ” (Lc.21.28).

Có một chút màu trắng trinh nguyên,

Có một chút màu đen bóng tối,

Có một chút màu xanh hy vọng,

Có một chút màu đỏ tình yêu.

Đan quyện lấy nhau.

Pha trộn vào nhau.

Để cho ra màu tím.

Màu Tím Mùa Vọng.

Màu của đợi chờ.

Lạy Chúa,

Cho con cúi xuống, chẳng dám nhìn lên,

Dòng lệ ăn năn khóc đời lầm lỡ.

Cho con ngước lên, dòng lệ òa vỡ,

Trông chờ Chúa thương cứu chuộc đời con. Amen.

Về mục lục

.

ÂM VANG MÙA VỌNG

Lm. Giuse Lê Quan Trung

Thiên tai, địch họa, bão lũ, cuồng phong trong thời gian gần đây đã gieo bao tai ương! Đã gây bao đổ vỡ! Đã cướp bao sinh mạng! Đã vùi bao mái ấm! Tại trời? Tại đất? Tại đời?

Cuộc sống ngày càng mang tới nhiều nơm nớp lo âu: bạo hành từ gia đình! Bạo lực nơi học đường! Bạo ngược trong cuộc sống! Bạo thiên nghịch địa mất hết nghĩa nhân! Tại Trời? Tại đất? Tại đời?

Đạo đức ngày càng thêm tuột dốc! Nhân cách ngày càng lúc nhạt phai! Lọc lừa ngày một thêm táo tợn! Tình đời ngày tráo trở liên hồi! Nào phải tại trời! Đâu phải tại đất! Cũng chẳng tại đời! Mà tại lòng người không thích lắng nghe lời hay, không muốn đi vào đường thiện, không cùng hòa nhịp yêu thương!

Tất cả những điều bất hạnh ấy đã được vị Mục Tử nhân lành Giêsu cảnh báo từ ngàn xưa: “Hãy tỉnh thức!”(Lc 21,36); “ Sẽ có những điềm lạ trên trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẻ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét”(Lc 21,25).

“Hãy tỉnh thức”: – để sống cho ra sống, sống có mục đích, có lý tưởng, cố gắng hoàn thiện đời mình!

“Hãy tỉnh thức”: – để tỉnh táo phân biệt chính- tà; tội- phước; cố gắng thoát kiếp “con”để sống đẹp kiếp “người”!

“Hãy tỉnh thức”: – để làm vui lòng cha, để làm mát dạ mẹ, để gia đình luôn là bến đậu vững chắc trước bão đời đang vùi dập tình thân huyết thống; đang phá tan đạo Hiếu gia phong; đang hủy hoại nếp đời nếp đạo.

Lũ lụt miền trung

Bởi từ lòng tham không đáy, mà chính mình đã gây họa cho nhau: rừng không còn bóng râm ươm mát, giữ nước chặn nguồn, nên lũ trôi nước cuốn là lẽ đương nhiên! Những dãy núi xanh thẫm bị khai thác vô tội vạ, còn biết lấy đâu ra bức bình phong ngăn cơn thịnh nộ của cuồng phong, nên đồi sạt đá lở nào phải tại trời? Nếu đủ tỉnh thức, bao dòng sông đã không ô nhiễm! Bao khí trời đâu mất tinh khôi! Bao kiếp người đâu vương nhiều mầm bệnh!

Do từ lòng tham không đáy, mà chính mình đã giết chết đời nhau: bao cô gái chàng trai, bỗng trở thành món hàng bị bán buôn, trao đổi, bị xóa đi nhân phẩm một thời! Danh- Lợi- Thú đã giết chết đường tương lai rạng rỡ. Đam mê, dục vọng, bạc tiền, quyền lực đã dìm chết bao lứa tuổi mộng mơ!

Rồi cũng từ lòng tham không đáy, nơi được gọi là rèn đúc nền tảng đạo đức làm người, đã đâm thủng cái tâm của bao nhà giáo chân chính: loạn học đường cũng do thiếu Tỉnh Thức từ đầu. Nỗi đau này ai gánh, ai mang?

Mùa Đông se lạnh đang về. Mùa Vọng chờ mong một cuộc hoán chuyển lòng người đã tới. Có mấy ai muốn nghe lời nhắn nhủ đầy yêu thương của Đấng muốn ban mầm sống vĩnh cửu cho mình: “Hãy tỉnh thức đi con! Hãy quay về đi con! Hãy can đảm đi đến tận cùng của sự lột xác, để đời không còn bị trói buộc trong ganh tỵ, trong thù hận, trong ghen tương, trong tính toán tom góp vật chất mà quên rằng: cuộc sống này rồi cũng qua đi nhưng điểm dừng đâu chỉ là cái chết! Nếu nghĩ vậy, con chỉ mới đi hết phần “con” chứ đâu đã hưởng trọn vẹn phần “người”!

Nếu sống phút giây hiện tại như giây phút cuối đời mình: Chắc không mấy ai mãi mê chạy theo danh vọng!

Nếu sáng thức dậy mà biết hoàng hôn chưa xuống thì cuộc đời mình sẽ không thấy ngày mai: chắc chẳng mấy ai đắm chìm trong biển vàng rừng bạc!

Nếu sống mà tỉnh thức như thế, tận thế hay không cũng chẳng còn là nỗi âu lo! Cuộc sống mỗi ngày sẽ trở nên niềm vui hạnh phúc! Nỗi lo lắng cơm- áo- gạo- tiền không còn là gánh trĩu nặng trên vai!

Chúa không cảnh báo, răn đe, mà Chúa đang khuyên nhủ, đang mời gọi, đang mở đường để ta không phải lệch đường, sai lối trên con đường lữ hành hoàn thiện kiếp người! Âm vang đầy yêu thương ấy; lời mời gọi đầy ân tình ấy; có phút nào ta mở rộng tim mình để cảm nhận, để đáp trả, để Chúa có thể vào trú ngụ không đây?

Về mục lục

.

ĐỢI CHỜ, NHƯNG PHẢI HÀNH ĐỘNG

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Mỗi khi Mùa Vọng về, người ta thường nhắc nhau đi tham dự các buổi tĩnh tâm, xưng tội, làm các việc bác ái và hy sinh để chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Tại sao lại thế? Thưa, vì Mùa Vọng chính là mùa sống lại tinh thần đợi trông Con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu độ nhân loại của dân Dothái xưa, và ngày nay, chúng ta đang đợi chờ Chúa đến với chúng ta lần thứ hai trong ngày quang lâm. Tuy nhiên, đợi trông không có nghĩa là cứ ngồi rồi mong ngóng như con trẻ mong mẹ đi chợ về. Cũng không phải như những người ngủ mê, sống ù lì và há miệng chờ sung rụng. Nhưng đợi trông ở đây gắn liền với hành động, một thứ hành động trong tỉnh thức. Tỉnh thức để biết được đâu là điểm chính yếu, đâu là phụ thuộc, đâu là cái vĩnh hằng, đâu là cái nhất thời. Tỉnh thức cũng là tinh thần của người khôn ngoan biết chọn lựa cái tốt và loại trừ cái xấu. Chờ đợi theo tinh thần của những người tin là hướng về phía “Ánh Sáng” mà tiến bước trong hân hoan.

  1. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng

Bài Tin Mừng hôm nay, được nối tiếp một loạt giáo huấn của Đức Giêsu về ngày cánh chung; những đau đớn sẽ xảy ra trong ngày đó; ngày đó chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng xảy ra ngày nào thì không ai biết (x. Mt 24, 1-36).

Trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh trực tiếp đến tính bất ngờ của ngày ấy và làm sáng tỏ sự bất định của cái chết khi trích dẫn câu chuyện thời ông Noe: “Những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Noe vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả” và “khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy” (x. Mt 24, 37-39). Ngày đó sẽ là ngày tách chiên ra khỏi dê, lọc lúa ra khỏi cỏ lùng, là ngày thưởng phạt theo lẽ công bằng. Ai đã chuẩn bị xứng đáng thì sẽ hân hoan, còn ai không sẵn sàng thì bị loại ra, số phận của mỗi người hoàn toàn khác nhau tùy vào thái độ của họ. Chính cái làm nên điều khác biệt đó là biết tỉnh thức hay không!

Như vậy, tỉnh thức chính là điều kiện cần cho ơn cứu độ. Để chứng minh điều này, Đức Giêsu đã đưa ra hình ảnh hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại (x. Mt 24, 40). “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24, 42). Bởi vì ngày ấy đến như kẻ trộm lúc đêm khuya (x. Mt 24, 43). Như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em (x. Lc 21,34).

Quả thật, ngay từ giây phút này, chúng ta phải chuẩn bị cho tốt, để nếu điều đó xảy ra cho chúng ta cách này hay cách khác, ban ngày hay đêm khuya, ta đâu có sợ hãi chi.

Hãy tỉnh thức, tức là không mê ngủ, nhưng luôn “thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn” để đón Chúa đến bất cứ lúc nào (x. Lc 12,35-48). Tỉnh thức còn là sự trung tín với Chúa bằng việc cầu nguyện không ngừng (x. Lc 18,1), không nhàm chán hay nản chí (x. Lc 18,1).

Tỉnh thức như: người đầy tớ hoàn thành nhiệm vụ được trao phó (x. Mt 24, 45-51).

Như năm cô trinh nữ khôn ngoan biết phòng xa mang dầu theo (x. Mt 25, 1-13)

Như người được trao vốn và đem kinh doanh sinh lời lãi cho ông chủ (x. Mt 25, 14-30)

Cuối cùng, tỉnh thức bằng cách sống yêu thương và phục vụ theo tinh thần của Chúa (x.Ga 13,6); (Ga 15,13).

Như vậy, tinh thần của Mùa Vọng không phải là đợi chờ trong mòn mỏi, day dứt khôn nguôi nhưng là đợi chờ trong hy vọng. Cũng không phải đợi chờ mà không làm gì cả, nhưng làm việc trong đợi chờ với thái độ tỉnh thức Và, không phải đợi chờ một ai đó, nhưng là đợi chờ chính Con Thiên Chúa.

Thánh Phaolô cũng khuyên các tín hữu của mình hãy chuẩn bị sẵn sàng để đón đợi ngày Chúa đến. Ngài đã không khuyên cách chung chung, mà là cụ thể: “Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị”. Bởi vì “Giờ phần rỗi của chúng ta gần đến… Đêm sắp tàn, ngày gần đến” (x. Rm 13, 11-14).

  1. Sống Lời Chúa

Hãy tỉnh thức là điều mà Đức Giêsu muốn mời gọi mỗi chúng ta. Sứ điệp lời Chúa hôm nay nhắc nhớ chúng ta rằng: đừng dại dột mà chỉ lo cho cuộc sống hiện tại này, đừng bám vào những thứ phù vân, bởi vì phù vân chỉ là phù vân. Phù vân nối tiếp phù vân. Đừng sống như những vật vô tri, không biết lo cho ngày mai. Cũng đừng sống như những người nghĩ mình không bao giờ phải chết. Nhưng hãy chuẩn bị cho tương lai của mình một cuộc sống hạnh phúc thật bằng việc siêng năng cầu nguyện, xưng tội, rước lễ, làm việc bác ái, hy sinh hãm mình, loại trừ cái xấu và thay vào đó là những điều tốt.

Nếu không tỉnh thức nội tâm thực sự, thì những hành vi bề ngoài như làm hang đá, đèn sao sầm uất, trang trí lộng lẫy chỉ là những trò giả tạo, giả hình. Chỉ như cái thùng kêu to là cái thùng rỗng, nhưng thực chất bên trong chẳng có gì. Thật vậy, những hình thức bên ngoài đó chỉ có giá trị khi nó được nội tâm hóa từ bên trong, tức là bên trong đã có và đây chỉ là diễn tả ra bên ngoài mà thôi.

Lạy Chúa, xin cho chúng con mỗi khi Mùa Vọng về, là mỗi dịp chúng con cần thức tỉnh lương tâm; đồng thời biết hành động đúng theo tinh thần của Chúa để được ơn cứu độ trong ngày Chúa đến đón đợi chúng con. Amen.

Về mục lục

.

NIỀM VUI BẤT NGỜ

Thiên Phúc

Tại chùa Tô châu, có một nhà sư tên là Viên Phủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp đậy mở được.

Khách đến chơi trông thấy cười nói rằng:

– Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?

Vị sư trả lời:

– Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Ta thực lấy làm lạ: người đời ai ai cũng chỉ biết có phú quý, công danh, tài sắc thị hiếu lo buồn vất vả suốt đời, chẳng biết cái chết là gì.

Như ta đây, mỗi khi có việc không được như ý, ta cầm lấy cái này mà ngắm xem, là tức khắc trong lòng được yên ổn, mà muôn nghìn sự tư lự đều biến tan đi.

***

Mới đây nhất ngày 8 tháng 11 năm 2013 người Phi Luật Tân đã bị siêu bão Haiyen quét đi biết bao nhà cửa, nhân mạng chết hay bị thương. Hầu như tất cả mọi người không thể ngờ hay biết trước siêu bão sẽ đến như thế nào! Hay tại tiểu bang Lousiana Hoa Kỳ năm 2005 với cơn bão Katrina tràn ngập nước bùn biết bao nhà cửa hư hỏng mặc dù con số tử vong không có bao nhiêu người, nhưng tổn thất rất là nặng nề.

***

Nhà sư Viên Phủy Trung quả là một con người biết tỉnh thức:

Tỉnh thức là biết nhìn xa trông rộng; nhìn tới cùng đích của kiếp người là cái chết, trông đến mục tiêu của nhân sinh là Nước Trời.

Tỉnh thức là biết lo trước nghĩ xa, vì không lo xa ắt có buồn gần. Bỏ cái lợi nhỏ trước mắt để được cái lợi lớn ở tương lai.

Tỉnh thức là biết phải hành động tốt đẹp cho hôm nay, để chờ đón bao phúc lộc, vạn hạnh cho ngày mai.

“Anh em hãy tỉnh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến” (Mt 24,42).

Tỉnh thức để chờ đón Chúa đến thì còn gì vui sướng hơn. Tỉnh thức để chuẩn bị cho cuộc hạnh ngộ thì còn gì hạnh phúc bằng. Tuy nhiên, con người lại hay mê ngủ: tinh thần thì mau mắn nhưng xác thịt lại nặng nề.

Sợ rằng khi Chúa đến họ lại chẳng đủ sức để tỉnh thức ra đón Người. Thấu hiểu thân phận yếu của con người nên Chúa đã khuyên dạy: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).

“Lúc Con Người đến” chính là ngày tận thế, ngày Chúa quang lâm, và cũng chính là giờ chết của mỗi người. Ngày ấy chắc chắn phải đến, nhưng thật trớ trêu là nó lại đến một cách bất ngờ: bất ngờ như biến cố đại hồng thủy thời ông Noe, bất ngờ như kẻ trộm đêm khuya đột kích vào nhà. Chẳng bao giờ kẻ trộm gọi điện thoại báo trước giờ nó đến, vì vũ khí của hắn là sự bất ngờ. Chỉ có một cách duy nhất để tai họa khỏi chộp xuống đầu chúng ta như “tiếng sấm đánh không kịp bịt tai”, là chúng ta luôn tỉnh thức và sẵn sàng trong ơn nghĩa Chúa.

Con người có một nhược điểm hết sức phổ biến, là luôn cho rằng vẫn còn ngày mai để chuẩn bị, còn ngày mai để sám hối ăn năn, còn ngày mai để thay đổi nếp sống. Nhưng có một kinh nghiệm hết sức chua xót đã từng đổ ập xuống bao người là ngày mai ấy không bao giờ trở lại. Chần chừ, khất lần chính là cơn cám dỗ hiểm độc nhất của ma quỉ. Xin đừng để quá muộn! Muốn vậy hãy tỉnh thức và đợi chờ.

Mùa vọng là mùa của đợi chờ:

Không phải đợi chờ trong mỏi mòn, day dứt khôn nguôi nhưng là đợi chờ trong niềm hy vọng.

Không phải đợi chờ mà không làm gì cả, nhưng là làm việc trong đợi chờ.

Không phải đợi chờ một ai đó, nhưng là đợi chờ chính Con Thiên Chúa.

Chờ đợi như thế chính là tỉnh thức, là sẵn sàng, là mở đường về tới Nước Trời.

Chờ đợi như thế chính là chung tay xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương, an vui và hạnh phúc.

Chờ đợi như thế thì ngày Chúa đến không còn là bất ngờ đáng sợ, nhưng lại là niềm vui bất ngờ.

Vui vì Chúa chúng ta đã toàn thắng vinh quang.

Vui vì bao con người được ơn cứu rỗi.

Vui vì vũ trụ này đã được giải thoát.

Vui vì “trời mới đất mới” sẽ mở ra, dẫn đưa chúng ta vào nơi vinh phúc.

***

Lạy Chúa Giêsu, trong khi chúng con chuẩn bị mừng ky niệm Chúa đến lần thứ nhất, và mong chờ Chúa sẽ đến lần thứ hai , xin cho chúng con luôn tỉnh thức để nhận ra biết bao lần Chúa đến với chúng con nơi dung mạo những anh chị em nghèo khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi, để ngày Chúa đến sẽ là một ngày hội vui cho tất cả mọi người. Amen.

Về mục lục

.

TỈNH ĐỂ CHỜ

Anmai

Chắc ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần chờ xe, chờ đò, chờ máy bay…

Kỷ niệm lại về khi nhớ về ngày xưa ở vùng ven biển. Muốn đến nơi cần đến phải qua 2 chuyến phà. Chuyến phà thứ nhất ngày xưa như thế này, vì sợ hao xăng hao dầu nên chạy cầm chừng và rồi những chuyến đò ngang được cập bến phà để chở thêm người ngoài, vừa nhanh vừa tiện. Thế nhưng từ khi báo động đến mức nguy hiểm khi dùng đò ngang đi qua đoạn sông hơn một cây số thì tất cả đò ngang đều bị cấm, Thế là chỉ còn phương tiện duy nhất là phà. Nếu tạm gọi là may mắn vừa chuyến phà thì kịp lên, bằng không thì đành phải đợi. Hôm nào rơi vào ngày Tết ngày Lễ thì lượng người đi tăng gấp đôi ba lần. Như vậy thì chỉ đành chờ và chờ. Tâm trạng người chờ thì lúc nào cũng sốt ruột không biết khi nào đò sang để qua bờ bên kia.

Chờ đò là như thế, chờ xe cũng chẳng khác gì. Vài lần, anh em đi chung với nhau nhưng chẳng hiểu sao có vài anh ngủ quên cả dậy nên xe đã lăn bánh. Thế là lọ mọ dậy và chỉ còn cách duy nhất là ra bến để tìm phương tiện đến nơi cần đến.

Chỉ cần mất tỉnh thức một chút thì lỡ chuyến xe và lỡ chuyến đó. Chuyện này hết sức thực tiễn trong cuộc đời con người.

Mới đây thôi, từ Phát Diệm về Hà Nội để về lại Sài Gòn làm tôi phải sôi ruột. Cơm trễ, 1 giờ trưa khởi hành về Hà Nội, trong khi đó chuyến bay về lại Sài Gòn cất cánh lúc 5 giờ. Quán ăn từ Phát Diệm về Hà Nội khoảng hơn tám mươi cây số nhưng sợ cảnh kẹt xe. 3 giờ kém xe về đến quận Đống Đa. Chờ 10 phút, xe đưa tôi vào sân bay. Vừa ra đường Nguyễn Lương Bằng thì chuyện không mong nó vẫn đến là kẹt xe. Xe này nối xe kia một hàng dài. Thoát khỏi cảnh kẹt xe, tài xế biết gần đến giờ bay nên tăng tốc. Đến sân bay thì hỡi ôi một hàng dài đang chờ để Hải Quan kiểm tra. Đến lượt mình cũng là người cuối cùng bước chân vào máy bay. Một tí nữa coi như phải ở lại Hà Nội để chờ đến ngày mai mới được vào Sài Gòn. Một hành trình đầy kinh hãi!

Ngày hôm nay, bước vào Chúa nhật đầu tiên của mùa Vọng. Sống tâm tình mùa Vọng là chờ mong, đợi chờ Thiên Chúa đến trong cuộc đời chúng ta.

Chúa Giêsu ngày hôm nay mời gọi các môn đệ cũng chính là mời chúng ta sống tâm tình tỉnh thức để đợi Chúa đến.

Trong tâm tình nhắc nhở này, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh của gia đình ông Nôê ở Cựu Ước. Được báo là sẽ có một trận lụt hồng thủy đến trên mặt đất này để rồi ông Nôê và gia đình ông chuẩn bị đóng một con tàu thật lớn để lên đó tránh lụt. Như lời tiên báo căn dặn, ông đã làm tất cả những gì cần thiết và sẵn sàng để “đối phó” với cơn đại hồng thủy sắp đến. Trong khi đó, những người khác cùng sống cùng thời với ông vẫn cứ vui vẻ để sống chứ không hề bận tâm chuyện gì cả.

Chuyện gì đến sẽ đến. Như trong lời báo, nước ngày mỗi ngày một dâng cao. Và, dĩ nhiên là những ai lên tàu, thậm chí súc vật mới được sống sót sau trận lụt hồng thủy kinh hoàng.

Chuyện hồng thủy trong đời ông Nôê cũng chỉ là cảnh lụt lội. Sau cơn mưa trời lại sáng, sau bão lũ thì mọi sự cũng sẽ trở lại bình thường và con người số gắng lao nhọc để kiếm sống từ hai bàn tay trắng. Dù phải làm lại từ đầu, dù phải xuất phát điểm từ hai bàn tây trắng nhưng con người còn có cơ hội sống để làm lại từ đầu. Những người thời ông Nôê bị cơn lụt cuốn trôi thì muốn làm lại từ đầu như gia đình ông Nôê cũng không làm được vì tất cả đã chết.

Sao bão tố, sau thiên tai con người còn có thể sống. Như những nạn nhân trong cơn bão dữ để đời ở Philippines là một bằng chứng hết sức cụ thể. Còn lại 5 người gia đình người Việt sống trong vùng tâm bão sống sót. Những người này rơi vào cảnh hai bàn tay trắng và phải làm lại từ đầu. Giờ này, họ cũng chẳng mong gì khác ngoài thực phẩm để cứu sống họ sau những ngày tan thương này chứ cũng chưa nghĩ rằng phải vực lại nền kinh tế như xưa. 5 người này may mắn hơn cả ngàn người khác vì họ đã qua đi ngay khi bão đến.

Cuộc đời mỗi người chúng ta cũng thế, chúng ta không chỉ là được báo trước như ông Nôê hay dự báo bão dữ như những cơn bão năm này qua năm khác ập đến. Không phải báo trước mà là thân phận con người đến một ngày nào cũng phải kết thúc.

Chúa Giêsu nói thẳng chứ không mấp mé, không hoa mỹ, không gợi hình gợi ý gì cả. Chúa Giêsu nói thẳng luôn là trong khi hai người đang xay bột thì có một người bị đem đi và một người ở lại, có người đang trồng lúa thì cũng sẽ một người được ở lại.

Chân lý này không ai có thể phủ nhận được vì lẽ ngày mỗi ngày đều diễn ra cái sự thật này, cái chân lý này.

Nếu đến Từ Dũ, chúng ta sẽ thấy nhiều và thật nhiều bà mẹ đang quằn quại trong cơn đau để sinh hạ đứa con yêu của mình. Và, nếu chúng ta đến Đa Phước hay Bình Hưng Hòa, chúng ta sẽ bắt gặp đoàn xe tang nối đuôi nhau đưa người quá cố lên đài hỏa táng. Nhìn như thế, gặp như thế và rồi một ngày nào đó ta cũng như thế chứ không sai.

Chúa Giêsu, trong tâm tình giờ người làm ruộng và người xay bột bị mang đi đó, mời gọi con người, mỗi người, nhất là những người có niềm tin phải tỉnh tức.

Chuyện quan trọng nhất của đời người đó là tỉnh thức. Lý do để chúng ta luôn canh thức là “vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”. Sự kiện Chúa sẽ đến trong cuộc quang lâm là một thực tại chắc chắn, nhưng đồng thời đó cũng là một thực tại sẽ xảy đến hoàn toàn bất ngờ, vượt ra bên ngoài những dự đoán hay hiểu biết chính xác của con người.

Ngày mỗi ngày, chúng ta vẫn “xay bột”, vẫn “làm ruộng”, tức là vẫn sống trong các thực tại bình thường hằng ngày của cuộc sống con người, nhưng bên trong phải là một sự canh thức đích thực, tức là một sự tham dự thật sự vào số phận và mầu nhiệm của Đức Giêsu. Đó mới là điều quan trọng.

Để minh họa cho tính chất bất ngờ đó của cuộc quang lâm, Chúa Giêsu kể dụ ngôn kẻ trộm đêm khuya: “Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã canh thức, không để nó khoét vách nhà mình” (24, 43). Tân Ước vẫn thường dùng hình ảnh kẻ trộm để nói về tính chất bất ngờ của ngày Chúa đến (1 Tx 5,2; 2Pr 3,10; Kh 3,3; 16,15). Vì tính chất bất ngờ này, các đồ đệ của Chúa được yêu cầu phải luôn luôn hiện diện trong tư thế sẵn sàng đối diện với biến cố đó (c.44), tức là luôn hiện diện một cách tròn đầy trong từng phút giây hiện tại trong sự liên kết mật thiết với cuộc vượt qua của chính Đức Kitô Giêsu. Cuộc quang lâm của Chúa là biến có cứu độ, vì Ngài ngự đến để tập hợp những người được tuyển chọn ( 24, 31), và khi ấy, “kẻ nào bền chí đến cùng kẻ ấy sẽ được cứu độ” (24, 13).

Chúa Giêsu kết luận: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã canh thức, không để nó khoét vách nhà mình.44 Cho nên anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì vào chính giờ phút anh em không ngờ, Con Người sẽ đến” (Mt 24.42-44).

Căn cốt của trang Tin Mừng hôm nay là động từ “canh thức” trong câu 42. “Canh thức” có nghĩa là không ngủ, là tỉnh thức. Động từ này xuất hiện trong trình thuật về Chúa Giêsu trong vườn Dầu (26, 38.40.41). Nó diễn tả sự liên đới và đồng nhất hóa với cái chết mà Chúa Giêsu trải qua trong chiều sâu kinh hoàng thật sự của cái chết cứu độ đó. Vậy đây không chỉ là sự không mê ngủ, mà còn là sự nên một với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm vượt qua của Ngài. Đây chính là tâm tình lời mời gọi của Chúa Giêsu mời các môn sinh của Ngài cũng như mời gọi mỗi người chúng ta: “Anh em hãy canh thức”.

“Canh thức” như Chúa Giêsu mời gọi có nghĩa là ngồi đó thức và chờ đợi chứ không làm gì cả. Thái độ, tâm tình như thế là tâm tình tiêu cực, tâm tình bi quan và chẳng có ý nghĩa gì với ta cả.

Tâm tình “canh thức” được Thánh Phaolô mời gọi rất rõ qua đoạn thư của Ngài: “… vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.

Xin cho chúng ta sống tâm tình “canh thức” như Thánh Phaolô mời gọi để bất cứ khi nào Chúa đến với đời ta, ta sẵn sàng đón chờ Chúa và Chúa đưa ta vào hưởng hạnh phúc Quê Trời với Ngài.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG_A

Lm. Ignatiô Hồ Thông

Phụng Vụ Chúa Nhật I Mùa Vọng năm C này là Phụng Vụ của niềm hy vọng.

Gr 33: 14-16

Bài Đọc I là sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã được một bàn tay vô danh sửa lại, hay nói đúng hơn, hiện tại hóa vào trong thời đại của mình, sau khi vương triều Đa-vít biến mất. Bản văn này chuyển niềm hy vọng Mê-si-a sang Giê-ru-sa-lem, thành đô của Thiên Chúa.

1Tx 3: 12-4: 2

Thánh Phaolô khuyên các Kitô hữu Thê-xa-lô-ni-ca sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón ngày Đức Giêsu trở lại trong vinh quang bằng cách thực hành đức ái huynh đệ và thăng tiến trên con đường thánh thiện.

Lc 21: 25-28, 34-36

Tin Mừng được trích từ bài diễn từ của Đức Giêsu về ngày tận thế theo Tin Mừng Lu-ca. Đức Giêsu loan báo cuộc trở lại trong vinh quang của Ngài để khai mạc một thế giới mới; các tín hữu phải chờ đợi ngày này trong niềm tin tưởng chứa chan niềm hy vọng.

BÀI ĐỌC I (Gr 33: 14-16)

Bản văn Gr 33: 14-16 nầy lập lại sấm ngôn của Giê-rê-mi-a ở 23: 5-6, tuy nhiên đoạn cuối đã được một nhà biên soạn vô danh sửa lại sau này: thay vì “Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn” (23: 6), thì lại “Trong những ngày ấy, Giu-đa sẽ được cứu thoát, Giê-ru-sa-lem sẽ được an cư lập nghiệp” (33: 16). Việc sửa lại này dâng hiến một lợi ích lớn lao về phương diện lịch sử cũng như tâm lý.

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a công bố sứ điệp hy vọng này vào lúc triều đại Đa-vít biến mất trong một cơn phong ba bảo táp dữ dội và xem ra cuốn theo với triều đại này mọi lời hứa về Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít.

  1. Bối cảnh lịch sử:

Bối cảnh lịch sử được định vị vào năm 597 trước Công Nguyên, khi vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, xâm chiếm Giê-ru-sa-lem và bắt vua Giơ-hô-gia-khin, hậu duệ của vua Đa-vít, và các thân hào nhân sĩ đi lưu đày; đoạn, mười năm sau đó cướp sạch thành thánh và triệt hạ Đền Thờ.

Trước khi tai họa xảy đến cho đất nước, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã lãnh nhận một sứ mạng khó khăn là báo trước cho các vị lãnh đạo và các thân hào nhân sĩ những biến cố bi thảm này, nếu họ không chịu thay đổi cách ăn nếp ở, thực hành công chính và trung tín với Đức Chúa. Nhưng khi những nỗi gian truân bất ngờ xảy đến, ngôn sứ Giê-rê-mi-a, từ ngôn sứ loan báo những tai họa trở thành sứ giả loan báo niềm hy vọng, khẳng định rằng không có gì mất cả; những lời hứa của Thiên Chúa liên quan đến dòng dõi vua Đa-vít không bị hủy bỏ.

“Này, sẽ đến những ngày” (biểu thức này ngôn sứ Giê-rê-mi-a rất tâm đắc, chắc chắn được mượn ở ngôn sứ A-mốt) Thiên Chúa sẽ cho mọc lên từ dòng dõi Đa-vít một “mầm non” (thuật ngữ này đã là một danh hiệu của Đấng Mê-si-a), Đấng này sẽ trị nước theo lẽ công minh chính trực. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a kết thúc sấm ngôn của mình khi trao tặng cho hậu duệ Đa-vít tương lai danh hiệu “Đức Chúa là sự-công-chính-của-chúng-ta”, một trong những danh xưng biểu tượng mà các ngôn sứ thường sử dụng (từ “công chính” được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh là sự thánh thiện của Thiên Chúa).

  1. Ý nghĩa của việc sửa lại.

Nhiều thế kỷ trôi qua, nền độc lập không còn được khôi phục và vương triều không còn được tái lập. Dân Thiên Chúa được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của họ và Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được tái thiết. Vào lúc đó, sấm ngôn Giê-rê-mi-a được sửa lại. Vì thế ai xứng đáng đón nhận danh hiệu Mê-si-a “Đức Chúa là sự-công-chính-của-chúng-ta” này, nếu không là Giê-ru-sa-lem, một cách nào đó được nhân cách hóa? Không phải từ nay Thành Thánh là nơi độc nhất mà các lời hứa cứu độ được ký thác sao?

Các nhà chuyên môn có thể ghi niên biểu của việc sửa đổi này vào hậu bán thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, vì bản dịch Hy lạp, bản Bảy Mươi, không biết đoạn văn này. Ấy vậy, bản dịch nầy được thực hiện ở A-lê-xan-ri-a vào những năm 285-246 trước Công Nguyên.

Việc sửa đổi này rất có ý nghĩa. Vào thời đó, dòng dõi Đa-vít bị mất hút vào trong tập thể. Vị thượng tế lãnh nhận lễ xức dầu tấn phong thế vị vua. Trào lưu Mê-si-a vương đế và trào lưu Mê-si-a tư tế được nhập thành một. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem là trung tâm độc nhất, dấu chỉ niềm hy vọng vĩnh hằng.

BÀI ĐỌC II (1Tx 3: 12-4: 2)

Thánh Phaolô viết Thư thứ nhất gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vào đầu năm 51, tức khoảng hai mươi năm sau cái chết của Đức Giêsu. Đây là một văn kiện Tân Ước lâu đời nhất.

Thánh Phaolô viết hai bức thư gởi cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca; trong cả hai bức thư, viễn cảnh quang lâm của Đức Giêsu là một trong những chủ đề chính, viễn cảnh nầy đem lại cho những lời khuyến dụ của thánh nhân một cung giọng khẩn thiết. Như vậy, đoạn trích thư này hòa hợp với hai bài đọc còn lại của Chúa Nhật I Mùa Vọng năm C này.

  1. Bối cảnh:

Thánh Phaolô đã sáng lập Giáo Đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vào năm 50. Thê-xa-lô-ni-ca là thành phố thương mại miền duyên hãi, thủ phủ của miền Ma-kê-đô-ni-a. Đây là thành phố thứ hai thuộc Châu Âu đón nhận sứ điệp Tin Mừng, sau thành phố thứ nhất là Phi-líp-phê (1Tx 2: 2). Việc thánh Phaolô rao giảng thành công đã khiến một nhóm người Do thái ghen tức, họ xúi dục một nhóm người chống đối thánh nhân dữ dội đến mức thánh nhân cùng với hai người bạn đồng hành là Xin-va-nô và Ti-mô-thê đang đêm phải vội vã trốn khỏi thành phố (Cv 17: 5-10). Thánh Phaolô ra đi mang theo nỗi bận lòng của ngài vì phải rời bỏ một giáo đoàn mà ngài vừa mới thành lập mà đức tin của họ vẫn còn non yếu. Vì thế, khi thời thế thuận tiện, thánh nhân đã phái ông Ti-mô-thê viếng thăm giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca mà chính thánh nhân đã không thể. Khi trở về, ông Ti-mô-thê đem đến những thông tin đầy khích lệ: các tín hữu non trẻ vẫn “đứng vững trong Chúa” (Tx 3: 8), bất chấp những gian truân mà họ phải chịu. Lúc đó, thánh Phaolô ở Cô-rin-tô, với niềm vui và tâm tình cảm tạ tri ân, viết một bức thư chan chứa ân tình, thư thứ nhất gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.

Thư này gồm hai phần. Đoạn trích hôm nay là một bản lề: chúng ta đọc đoạn kết của phần thứ nhất (3: 12-13) và đoạn mở của phần thứ hai (4: 1-2).

  1. Lời nguyện xin của thánh Phaolô:

Phần thứ nhất kết thúc với lời nguyện xin của thánh Phaolô (phần thứ hai cũng vậy). Qua những ngôn từ của lời nguyện xin này, thánh nhân nhắc nhở cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nguyên tắc Kitô giáo tuyệt vời: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”. Giáo đoàn đa số là các Kitô hữu gốc lương dân, như mạch văn để cho thấy điều đó, nhưng chắc chắn cũng bao gồm những Kitô hữu gốc Do thái.

Trong Giáo Hội tiên khởi việc sống chung không là vấn đề, nhưng thánh nhân còn đi xa hơn: khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca không chỉ yêu thương nhau mà còn yêu thương hết mọi người, “ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”, lời khuyên này vào hoàn cảnh đó thật quan trọng, tức là các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca phải yêu mến những người bách hại mình, dù phải chịu nhiều nỗi gian truân. Để nâng đỡ và khích lệ họ, thánh nhân nhắc họ nhớ lại tấm lòng mà ngài có đối với họ: “cũng như tình thương của chúng tôi đối anh em vậy”.

Luật yêu thương là con đường thánh thiện, “không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người”.

  1. Ngày của Chúa:

Chúng ta ghi nhận rằng ngay từ bản văn Tân Ước đầu tiên này, Đức Giêsu được gọi là Chúa (Đức Chúa), danh xưng mà Cựu Ước dành riêng cho Thiên Chúa. Như vậy, các Kitô hữu tiên khởi đã khẳng định Thần Tính của Đức Giêsu. “Ngày của Chúa” mà các ngôn sứ đã loan báo nay được dùng để chỉ “ngày Quang Lâm”, nghĩa là ngày Đức Giêsu trở lại trong vinh quang cùng với “các thánh của Người”.

Các thánh này là ai? Theo truyền thống Do thái, nhất là truyền thống khải huyền, vào ngày chung thẩm, Đức Chúa được các thiên sứ đứng chầu chung quanh, thường được gọi “các thánh” (x. Dcr 14: 5). Các sách Tin Mừng vang dội lại truyền thống này: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Ngài, có tất cả các thiên sứ theo hầu” (Mt 25: 31). Tuy nhiên, thánh Phaolô vừa mới gợi lên sự thánh thiện của các tín hữu, vì thế, không thể không nghĩ rằng thánh nhân liên kết sự hiện diện của những người được tuyển chọn với sự hiện diện của các thiên sứ.

  1. Trong ngày của Đức Giêsu:

Đoạn văn này chỉ trích dẫn lời mào đầu của phần thứ hai thư gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca (4: 1-2). Trong lời mào đầu này, thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu hãy kiên vững và thăng tiến trên con đường thánh thiện. Thánh nhân nhắc nhớ giáo huấn của ngài, khi xác định ngài đã truyền đạt cho họ những chỉ thị mà ngài “đã lấy quyền Chúa Giêsu”. Thánh nhân sẽ luôn luôn tự giới thiệu mình chỉ là người trung gian, sứ giả phàm nhân của lời Thiên Chúa.

Mặt khác, thật đáng chú ý là, ngay từ bản văn đầu tiên của thánh Phaolô, xuất hiện biểu thức thường được lập đi lập lại dưới ngòi bút của thánh nhân, biểu thức then chốt phản ảnh hồn tông đồ cũng như cuộc sống nội tâm của thánh nhân: “Nhân danh Chúa Giêsu”: “Nhân danh Chúa Giêsu, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em”. Xa hơn một chút, thánh nhân lập lại đến hai lần “Nhân danh Chúa Giêsu” (5: 12, 18). Phải sống, hành động, suy nghĩ, cầu nguyện “nhân danh Chúa Kitô”. Đây là cách thức duy nhất “làm vui lòng Thiên Chúa”.

TIN MỪNG (Lc 21: 25-28, 34-36)

Năm Phụng Vụ khởi đầu và kết thúc trên viễn cảnh Đức Giêsu trở lại vào ngày tận thế để thiết lập Triều Đại của Ngài một cách vĩnh viễn và tôn vinh các thánh. Như vậy, vào Chúa Nhật trước, Lễ Chúa Giêsu Vua kết thúc năm Phụng Vụ, năm B, chúng ta đã cử hành vương quyền hoàn vũ của Đức Giêsu. Vào Chúa Nhật I Mùa Vọng này, chúng ta lấy lại sự gợi ý tương tự, nhưng trong viễn cảnh Giáng Sinh. Đức Giêsu đã trở thành phàm nhân và đã hội nhập vào trong cuộc sống nhân loại để hướng dẫn nhân loại đến vận mệnh siêu nhiên của Ngài; Ngài sẽ hoàn thành công trình của mình vào ngày Quang lâm. Tương ứng với sự yếu đuối và khiêm hạ của biến cố Bê-lem lại là quyền năng và sự cao cả của việc “Con Người ngự đến”.

  1. Bối cảnh:

Cũng như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca đặt bài diễn từ về ngày Quang Lâm của Đức Giêsu vào lời giáo huấn sau cùng của Ngài ở Giê-ru-sa-lem, không bao lâu trước cuộc Thương Khó của Ngài. Chúng ta đọc phần cuối của bài diễn từ này.

Trong cả ba Tin Mừng nhất lãm, Chúa Giêsu công bố bài diễn từ này vào dịp Ngài rao giảng về sự sụp đổ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem “không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21: 6). Viễn cảnh này làm xao xuyến các môn đệ đến độ các ông liên kết nó với viễn cảnh ngày tận thế. Về phần mình, thánh Lu-ca cẩn trọng ghi nhận giữa hai biến cố này có một thời kỳ trung gian, “thời kỳ dân ngoại” ở 22: 24 ngay trước đoạn trích này: “Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại”.

Ở nơi thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, Đức Giêsu công bố diễn từ này trên núi Ô-liu, khi ngỏ lời với các môn đệ, hay chỉ một nhóm nhỏ, theo Mác-cô. Thánh Lu-ca định vị nó vào ở trung tâm Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi mà việc sụp đổ sắp xảy ra (thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ luôn luôn là trọng tâm của những viễn cảnh sách Tin Mừng Lu-ca). Bên kia các môn đệ, Đức Giêsu ngỏ lời với đám đông; như vậy thành thánh Giê-ru-sa-lem nghe công bố ngày Quang Lâm của Đấng mà nó sẵn sàng giết chết.

  1. Truyền Thống Kinh Thánh:

Trong Kinh Thánh, những điềm báo về việc Thiên Chúa can thiệp dứt khoát trong lịch sử, đề tài này xuất hiện rất sớm. Ví dụ như Đức Chúa gieo rắc sự kinh hoàng tại đất Ai-cập trước khi giải phóng dân Ngài (Xh 7: 14-11: 8). Đức Giêsu loan báo ngày tận thế theo cùng tiến trình: “Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc”, trong khi những người công chính “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”.

Những điềm trời thường được các ngôn sứ sử dụng để loan báo những án phạt của Thiên Chúa trên các dân ngoại áp bức dân Ít-ra-en, cũng như trên chính dân Chúa chọn khi dân bất trung hay bất chính như Is 13: 10: “Quả vậy, tinh tú bầu trời và các chòm sao sẽ không chiếu sáng nữa, mặt trời vừa mọc lên đã tối sầm, mặt trăng sẽ không còn tỏa sáng”.

Khởi đi từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, các sách khải huyền phóng đại những mô tả này bằng những cảnh tượng huyền hoặc được gợi hứng từ Phương Đông (điều này đã để lại dấu vết trên sách Khải Huyền của thánh Gioan). Thể loại văn chương này đưa vào trong Do thái giáo một trào lưu suy luận rộng lớn về “thế giới tương lai” và “kỷ nguyên cánh chung”. Vào thời Đức Giêsu, người ta rất quan tâm đến vấn đề này; chúng ta cũng có thể nói rằng vào lúc đó nhiều thế hệ đã sống trong niềm mong đợi ngày tận thế. Nhiều người Kitô hữu gốc Do thái sống trong niềm mong đợi ngày Quang Lâm của Đức Kitô.

  1. Con Người ngự đến:

Thánh Lu-ca gợi lên những hình ảnh truyền thống và quy ước về những xáo động trên đất và biển như khúc dạo đầu “Ngày của Chúa”, vì những hình ảnh nầy diễn tả những vùng vẫy sau cùng của những quyền lực sự ác trước khi chúng bị tiêu diệt; nhưng thánh ký không chú tâm đến những hình ảnh này; ông ngỏ lời với quần chúng ít quen thuộc với thể loại văn chương khải huyền Do thái. Tất cả từ vựng này được sử dụng cốt nhấn mạnh quyền tối thượng của Đấng “ngự trong đám mây mà đến”.

Đức Giêsu đã loan báo nhiều lần rồi cho các môn đệ Ngài cuộc trở lại đầy quyền năng và vinh quang của Ngài dưới danh xưng Con Người; ở đây Ngài đặt cách diễn tả vào trong bối cảnh gốc của nó hầu như theo sát nguyên văn, thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13). Do đó, danh hiệu mà Đức Giêsu tự nhận cho mình được khám phá với tất cả trương độ ý nghĩa của nó. Như Con Người trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en là thủ lãnh “dân thánh của Đấng Tối Cao”, Đức Giêsu mang lấy vận mệnh nhân loại. Vinh quang của Ngài cũng sẽ là tôn vinh tất cả những ai đã tin vào Ngài.

  1. Bức tranh bộ đôi:

Thánh Lu-ca đặc biệt nhạy bén trước chiều kích con người về tấn thảm kịch sau cùng; thánh ký đặt hai bức tranh đối lập với nhau: bức tranh về quân vô đạo (chư dân) “sợ đến hồn xiêu phách lạc” và bức tranh về các tín hữu phát hiện giờ mình được cứu độ, giờ mình được giải thoát. Nói cách chính xác, nếu thánh ký không mô tả cuộc quy tụ những người được tuyển chọn, thì những từ ngữ ông sử dụng có một âm vang rất ý nghĩa: “đứng thẳng”, “ngẩng đầu lên”, diễn tả tư thế của những người được sống lại.

  1. Biến cố bất ngờ:

Đức Giêsu không bác bỏ những hình ảnh của văn chương khải huyền; nhưng Ngài đề nghị miêu tả Triều Đại của Ngài theo một cách thức khác, khi dựa trên một truyền thống tuy ít được chứng thực nhưng phổ biến: Ngày Quang Lâm của Ngài xảy đến bất ngờ không có dấu hiệu nào báo trước; nó thình lình giáng xuống địa cầu. Đức Giêsu đã gợi lên rồi viễn cảnh này ở nơi các dụ ngôn kêu gọi sự tỉnh thức của Ngài: “Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng , vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12: 40) và ở nơi việc Ngài so sánh Triều Đại của Ngài với trận đại hồng thủy xảy đến bất ngờ: “Vì ánh chớp lòa chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng là như vậy trong ngày của Người” (Lc 17: 20). Ở đây, Đức Giêsu sử dụng hình ảnh “chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu” mà ngôn sứ I-sai-a đã dùng: “Nào kinh hoàng, nào hố sâu, nào dò lưới đang chờ đợi ngươi, hỡi cư dân trái đất” (I s 24: 17). Khi căn dặn các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phaolô cũng theo truyền thống như vậy: “Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1Tx 5: 2), điều nầy không loại trừ thời kỳ gian nan khốn khó sau cùng: “Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu hủy” (2Pr 3: 10).

  1. Tỉnh thức và cầu nguyện:

Đức Giêsu đặt hai truyền thống này bên cạnh nhau: một truyền thống đặt dấu nhấn trên chiều kích hoàn vũ của biến cố, còn truyền thống kia – không loại trừ chiều kích hoàn vũ này – nhấn mạnh sự gặp gỡ thân tình của mỗi cá nhân với Chúa. Từ đó, Đức Giêsu mời gọi hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Thánh Lu-ca không bao giờ quên tầm quan trọng của việc cầu nguyện; thánh nhân là thánh ký thường hằng ghi nhận tầm quan trọng quan trọng của lời cầu nguyện trong cuộc đời của Đức Giêsu.

“Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”, đây là lời căn dặn sau cùng của Đức Giêsu cho các môn đệ của Ngài; Ngài sẽ lập lại vài giờ sau này ở vườn Ô-liu…

Về mục lục

.

BỒI HỒI MONG ĐỢI

Trầm Thiên Thu

Trời Gieo Sương Thánh Đổ Mưa Chính Trực

Đất Nẩy Cội Thiêng Vươn Nhánh Công Bình

Đó là điều ước mong trong Is 45:8. Và điều đó chắc chắn xảy ra. Chúng ta tin như vậy là tin vào lời hứa Thiên Chúa dành cho nhân loại – cách riêng đối với những người tin kính một Thiên Chúa duy nhất.

Sibyllina có cách nhận xét thú vị: “Mong đợi giống như đồ đựng. Đồ đựng càng lớn thì chứa được càng nhiều, đồ đựng càng nhỏ thì chứa được càng ít. Mong đợi lớn thì được ân điển nhiều, mong đợi nhỏ thì được ân điển ít.”

Sự mong đợi luôn là khoảng thời gian lạ lùng, lặng lẽ mà bồi hồi, như biển nhìn tĩnh lặng mà rất động. Có nhiều dạng mong đợi, mong ai đó hoặc đợi điều gì đó – đặc biệt là đối với người mà mình yêu quý hoặc điều tốt lành. Trong khoảng mong đợi đó có thể vui hoặc buồn, nhưng luôn có sự bồi hồi và thắc thỏm. Hy vọng càng nhiều thì nỗi khắc khoải càng khó tả, đặc biệt là khoảng mong đợi tâm linh – mong đợi Con Thiên Chúa.

Mùa Vọng mang sắc tím chờ đợi, nhưng màu tím này không buồn thảm mà tràn trề niềm hy vọng. Sự mong đợi là niềm hy vọng, và luôn là khoảng thời gian dài nhất, mặc dù thực tế thời gian không hề thay đổi. Khoảng mong đợi có yếu tố tâm lý, niềm hy vọng càng nhiều và càng cao thì càng thấy lâu. Có những khoảng mong đợi nối tiếp nhau như “điệp khúc” trong cuộc sống trần gian.

Là tín nhân, chúng ta phải chuẩn bị đón Chúa cả đời chứ chẳng riêng mùa nào. Thế nhưng có những mùa và những dịp đặc biệt nhắc nhở chúng ta lưu ý nhiều hơn về niềm mong đợi triền miên của mình: Mùa Vọng, Mùa Chay, Mùa Cầu Hồn,… những “khoảng” đó như các biển báo trên đường đời, và là những “cột mốc” nhắc nhở chúng ta trên đường lữ hành trần gian này. Mong đợi thì phải sẵn sàng và chuẩn bị, càng cẩn trọng càng tốt.

  1. KHÁT VỌNG

Chắc chắn ai cũng mong đợi hòa bình, khát khao hạnh phúc, vì đó là điều rất tuyệt vời. Nghĩa là chẳng ai muốn chiến tranh – dù là bất cứ dạng nào.

Kinh Thánh cho biết điều mà ông Isaia được thấy về Giuđa và Giêrusalem: Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi. (Is 2:1-3a)

Với niềm vui nỗi mừng khôn tả, người ta không thể lặng im nên nhắn nhủ với nhau: “Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp, để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ. Vì từ Sion, thánh luật ban xuống, từ Giêrusalem, lời Đức Chúa phán truyền. Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến. Hãy đến đây, nhà Gia-cóp hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng Đức Chúa soi đường!” (Is 2:3b-5)

Tương tự, Mk 4:3 cũng nói: “Người sẽ đứng làm trọng tài giữa muôn nước và phân xử cho các dân hùng mạnh mãi tận xa. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.” Đó là thời hòa bình, người ta thực sự hưởng hạnh phúc trọn vẹn.

Muốn có hòa bình thì cần có tự do, muốn tự do thì phải hành động, trước khi hành động thì phải chuẩn bị. Ai cũng háo hức, bồn chồn, bồi hồi mong đợi,… Nhân loại đau khổ vì đã phạm tội đối nghịch với Thiên Chúa, bị “vòng kim cô” của ma quỷ kiềm chế và bị tội lỗi điều khiển. Vì thế, nhân loại rất cần được Thiên Chúa giải thoát, càng sớm càng tốt. Khoảng mong đợi này da diết lắm, niềm hy vọng này mạnh mẽ và dâng trào như triều cường.

Tâm trạng rất háo hức trong khoảng thời gian mong đợi, Thánh Vịnh gia phấn khởi bày tỏ tấm lòng chân thành: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!” (Tv 122:1) Thật vậy, còn gì vui hơn khi đang trông mong mà lại nhận được tin vui như thế. Niềm hạnh phúc đã hiện thực: “Giờ đây, Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân. Giêrusalem khác nào đô thị được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây, để danh Chúa, họ cùng xưng tụng, như lệnh đã truyền cho Ít-ra-en. Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử, ngai vàng của vương triều Đa-vít.” (Tv 122:2-5) Rõ ràng, nhãn tiền, không mơ hồ.

Chắc hẳn ai cũng vậy, một khi đã cảm thấy vui mừng khi tận hưởng hạnh phúc thì cũng muốn chia sẻ với người khác, không thể trì hoãn cái sự sung sướng đó: “Chúc thân hữu của thành luôn thịnh đạt, tường trong luỹ ngoài hằng yên ổn, lâu đài dinh thự mãi an ninh. Nghĩ tới anh em cùng là bạn hữu, tôi nói rằng: ‘Chúc thành đô an lạc’. Nghĩ tới đền thánh Chúa, Thiên Chúa chúng ta thờ, tôi ước mong thành được hạnh phúc, hỡi thành đô!” (Tv 122:6-9)

Chia sẻ niềm hạnh phúc không phải để khoe khoang mà thật lòng muốn người khác cũng vui lây, cũng được cảm nghiệm niềm hạnh phúc, đặc biệt niềm hạnh phúc đó chính là hồng ân Thiên Chúa, chắc chắn không thể không chia sẻ sự vui mừng lớn lao như vậy.

  1. ĐỈNH ĐIỂM

Thánh LM TS Thomas Aquinô nói: “Chúng ta không có quyền đòi hỏi, nhưng phải nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bền đỗ, nhận ra những ai là người mà chúng ta phải tránh là một phương thế quan trọng để cứu lấy linh hồn mình.” Đó là cách sống trong khi mong đợi Chúa đến. Còn Thánh Phaolô nói: “Anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo.” (Rm 13:11)

Thời gian không ngừng, cứ trôi dần, tưởng là chậm mà nhanh, và cũng đồng nghĩa với ơn cứu độ đến gần hơn – gần tới mức chúng ta cảm thấy rất bất ngờ: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu.” (Rm 13:12) Nhanh hay chậm thì rồi cái gì đến cũng đến. Giờ G đã điểm, và chẳng ai có thể ngồi im hoặc thụ động, nghĩa là phải chủ động và tích cực hành động.

Thế nhưng phải hành động bằng cách nào? Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.” (Rm 13:14) Nói “mặc lấy Đức Kitô” thì rất dễ, nhưng hành động thì không hề đơn giản, bởi vì “tính xác thịt” dữ dội lắm. Ai cũng có tự ái – tức là “cái tôi”, nếu không quyết tâm nỗ lực “đè” nó xuống thì khó có thể chứng tỏ mình đang mong đợi Con Thiên Chúa. Phải thực sự cố gắng “mặc lấy Đức Kitô” trong khi chờ đợi thì mới có thể sẵn sàng chiến đấu, mọi nơi và mọi lúc, và với bất kỳ kẻ thù nào.

Khi mong đợi quá lâu, người ta có thể mất kiên nhẫn, chán nản, rồi khinh suất, thậm chí còn có thể hư đốn, mất nết, lăn vào vết xe cũ. Đời thường là như thế, bởi vì con người vốn yếu đuối, dễ ngả theo cái xấu – giống như xe xuống dốc, và khó có thể “lái” theo hướng đúng đắn – giống như xe lên dốc. Dĩ nhiên NÓI bao giờ cũng dễ hơn LÀM. Cổ ngữ có câu: “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy.” – Một lời nói ra, bốn con ngựa đuổi theo không kịp. Thật đáng sợ! Ai cũng nói hay, nói giỏi, nói khéo, thế nhưng có làm được hay không mới là điều quan trọng. Coi chừng chỉ “nổ” hoặc “chảnh” chứ chẳng làm được gì. Thế thì nguy to, nguy cho chính mình chứ chẳng nguy tới ai. Nó như loại vũ khí boomerang của thổ dân Úc vậy, giống như người Việt nói là “gậy ông đập lưng ông” vậy. Rõ khổ!

Trong khoảng mong đợi có đỉnh cao là thời điểm Chúa Giêsu quang lâm (tái lâm, giáng lâm). Động từ được diễn tả ở thì tương lai gần: Sắp đến. Nhưng “sắp đến” mà đã hơn hai ngàn năm rồi thì sao? Đã nhiều lần người ta xôn xao, thậm chí là rúng động, khi nghe các “tiên tri dỏm” dự đoán ngày này hoặc ngày nọ sẽ tận thế – ví dụ: Ngày 12-12-2012 và 12-12-2014. Nhưng rồi tất cả cũng đã qua đi, dòng đời vẫn trôi bình thường. Có khi nào lại có “tin vịt” là ngày 20-02-2020 chăng? Chẳng qua là người ta cứ chọn những con số mà họ cho là “số đẹp” rồi bịa ra đủ thứ để lừa bịp hoặc hù dọa nhau mà thôi. Và cứ như thế, có thể người ta đang cố ý quên hoặc không muốn tin rằng sẽ có ngày tận thế. Tuy nhiên, người ta lại giả nai về điều này: Không phải Chúa Giêsu nói đùa cho vui, mà vì Thiên Chúa còn thương xót nhân loại, muốn trì hoãn, muốn kéo dài thời gian để người ta kịp ăn năn sám hối. Thật vậy, thời gian là sự chịu đựng của Thiên Chúa, là lúc Ngài “ăn xin” sự ăn năn của chúng ta. Đừng ảo tưởng mà tự mãn!

Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo từ hai ngàn năm trước: “Thời ông Nô-ê thế nào thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy.” (Mt 24:37-39) Ngày nay, rõ ràng người ta cũng vẫn đang hành động chẳng khác chi thời ông Nô-ê. Con tàu định mệnh ngày ấy được “ghi dấu” trong lịch sử nhân loại, người ta cũng đã tìm thấy con tàu đó, chứng tỏ sự kiện Đại Hồng Thủy có thật, không phải là huyền thoại hoặc câu chuyện bịa đặt. Sự kiện đó cũng vẫn còn trong ký ức của mọi người, thế nhưng có lẽ người ta chỉ coi đó là một “kỷ niệm buồn” mà thôi – Nghe để mà nghe, biết để mà biết. Thế thì đúng là buồn thật!

Chuyện xưa, tích cũ còn đó. Sự kiện xảy ra thật chứ không phải cổ tích: Thật lạ, trời vẫn nắng chang chang, đất khô cằn nứt nẻ, không khác chi hạn hán, xung quanh chẳng có dòng suối hoặc con sông nào, chứ nói chi tới biển, thế mà ông Nô-ê lại đi đóng tàu, mà lâu nay dòng họ ông có ai là ngư dân đâu. Vô cùng kỳ cục, lão già này điên rồi chăng? Kẻ chê, người trách, không ít người cho rằng ông già Nô-ê “dở hơi” thật. Nhưng việc ông phải làm thì ông cứ làm, bởi vì đó là lệnh truyền của Đức Chúa. Thiên hạ ngứa miệng thì cứ chê trách và nguyền rủa. Và rồi đùng một cái, mưa như trút, nước dâng cao hơn cả lũ lụt. Càng ngày nước càng dâng cao, mà mưa cứ đổ xuống liên tục cả tuần lễ. Thiên hạ giật mình, chợt nhận ra mình mới thực sự là kẻ ngu xuẩn, dại dột, còn ông Nô-ê thế mà khôn ngoan thật. Nhưng tất cả đã muộn, thế thì chết mất thôi!

Y như rằng, chẳng sai chút nào. Nước đến chân mới nhảy thì làm sao mà kịp chứ? Càng lo càng sợ, càng sợ càng hoảng, càng hoảng càng rối. Chết chắc! Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã từng nói rạch ròi đến từng chi tiết: “Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em KHÔNG BIẾT NGÀY NÀO Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy SẴN SÀNG, vì chính giờ phút anh em KHÔNG NGỜ thì Con Người sẽ đến.” (Mt 24:40-44)

Ngài so sánh bằng hình ảnh rất cụ thể, đơn giản, thực tế và dễ hiểu. Ngài đã xác định như vậy thì đừng dại dột mà “mềm lòng” nghe bất kỳ ai nói ngày nào đó tận thế hoặc Chúa Giêsu tái lâm. Ngài bảo “phải canh thức” tức là chẳng ai có thể biết lúc nào Ngài đến. Mọi kẻ nói ngày đó hoặc tháng nọ thì chỉ là đại bịp bợm. Đã, đang và sẽ có những kẻ như vậy. Cảnh giác cao độ là điều cần thiết, chớ nhẹ dạ cả tin!

Trong lúc mong đợi Chúa Giêsu, hãy tự nhủ và cố gắng sống theo “quy ước thánh đức” của Dòng Đa-minh: “Cum Deo Aut De Deo – Nói Với Chúa và Nói Về Chúa.” Chắc chắn đó là cách “tỉnh thức” và “sẵn sàng” theo đúng Ý Chúa, là sống tinh thần Mùa Vọng. Tất nhiên Chúa Giêsu rất vui lòng, và chắc chắn Ngài sẽ chúc lành cho những ai luôn tỉnh thức như vậy. Và đây, Is 40:4 vừa là lời nhắn nhủ, vừa là mệnh lệnh:

Bao Núi Đồi Phải Bạt Cho Thấp Xuống

Mọi Thung Lũng Mau San Lấp Cho Bằng

Cần phải sớm bạt xuống những núi đồi tự mãn, kiêu ngạo, hợm mình; cần phải mau san bằng những hố ngăn cách ghen ghét, đố kỵ; cần phải kịp làm phẳng phiu mọi chỗ lồi lõm và gồ ghề để đón Con Thiên Chúa giáng trần, ngự vào tâm hồn mỗi chúng ta. Đó là sự bình an tuyệt vời dành cho những người thiện tâm và thiện chí: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2:14)

Lạy Thiên Chúa nhân lành và giàu lòng thương xót, xin giúp chúng con biết luôn sẵn sàng, tỉnh thức và kiên trì mong đợi Con Một Ngài ngự đến bất cứ lúc nào – dù sớm hay khuya, dù trưa hay chiều. Để nhờ đó chúng con xứng đáng được Đấng Thiên Sai cứu độ và thương cho theo Ngài vào Nơi Vĩnh Hằng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

MỤC ĐÍCH CHÚA GIÊSU GIÁNG SINH

LÀ ĐỂ CỨU ĐỘ CHÚNG TA

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 2:1-5;  Rm 13:11-14a;  Mt 24:37-44)

          Chúng ta bước vào mùa Vọng, thời gian chuẩn bị tâm hồn đón Chúa giáng trần.  Hiểu rõ mục đích Chúa đến trần gian, chúng ta mới có thể mừng lễ theo đúng ý nghĩa và đón nhận được những ân sủng Chúa ban qua việc cử hành của chúng ta.  Vậy trong bài đọc 1, ngôn sứ I-sai-a trình bày viễn ảnh về Nước Thiên Chúa là triều đại của bình an vĩnh cửu được mô tả bằng những hình ảnh cụ thể chấm dứt chiến tranh và chung sống hòa bình.  Tiếp đến, Phụng vụ Lời Chúa trích bài giảng của Chúa Giê-su về thời cánh chung, để nhắc nhở chúng ta hãy canh thức và luôn sẵn sàng chờ ngày Chúa đến đem chúng ta vào thiên đàng.  Dựa theo lời Chúa Giê-su, thánh Phao-lô đã đưa ra những phương thức cụ thể giúp chúng ta có được thái độ sẵn sàng ấy.

          Vậy trước hết, chúng ta hãy nhìn lại viễn ảnh ngôn sứ I-sai nói về việc Thiên Chúa quy tụ muôn dân cho họ được hưởng hòa bình vĩnh cửu trong Nước của Người như thế nào.  Hình ảnh biểu tượng cho Nước Thiên Chúa là Núi Xi-on và thành thánh Giê-ru-sa-lem.  Thiên Chúa sẽ quy tụ muôn dân lại ở nơi đây, vì đây là Núi và Nhà Đức Chúa.  Đáp lời mời gọi của Thiên Chúa, “dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi”.  Tất cả tụ về đây là để lắng nghe Chúa dạy họ lối của Người và để biết theo đường Người chỉ vẽ.  Lời tiên tri này đã ứng nghiệm, như các sách Tin Mừng thuật lại sứ vụ rao giảng của Chúa Giê-su:  “Từ miền Ga-li-lê, vùng Thập Tỉnh, thành Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan, dân chúng lũ lượt kéo đến đi theo Người” (Mt 4:25; Mc 3:8; Lc 6:17-19).  Cũng như “từ Xi-on, thánh luật ban xuống”, thì nay từ trên núi, Chúa Giê-su ban truyền bài giảng về Các Mối phúc là căn bản cho luật Tin Mừng.  Giáo lý của Chúa Giê-su trở thành dụng cụ biến đổi bộ mặt trần gian như I-sai-a tiên báo.  Đúng vậy, Tin Mừng sẽ giúp nhân loại “đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái”.  Nếu thực sự sống Tin Mừng, chúng ta sẽ biến đổi “gươm đao” và “giáo mác” trong tâm hồn mình thành cuốc, cày, liềm, hái để xây dựng hòa bình ngay tại trần gian này.  Nếu ta thực hành lời Chúa Giê-su dạy yêu thương nhau, chắc chắn chúng ta “sẽ không còn vung kiếm đánh nhau” và không cần phải “học nghề chinh chiến” nữa.  Như cuốc, cày, liềm, hái… là những dụng cụ giúp nhà nông đem lại cho ta đời sống no ấm, thì các mối phúc cũng là những kim chỉ nam giúp ta xây dựng một đời sống thiêng liêng và đạo đức.

          Sau khi đã thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian, Chúa Giê-su về trời và Người sẽ trở lại trong Ngày quang lâm để xét xử trần gian, hoàn tất công trình cứu độ nhân loại.  Trả lời những thắc mắc người ta hỏi Chúa khi nào là Ngày quang lâm, Chúa đã dùng câu chuyện ông Nô-ê chuẩn bị đối phó với nạn hồng thủy, để dạy bài học về thái độ sẵn sàng.  Bên cạnh một xã hội sinh hoạt nhộn nhíp và bận rộn như ăn uống, cưới vợ lấy chồng, có một người là ông Nô-ê đã dành thời giờ để chuẩn bị cho một biến cố sẽ bất ngờ xảy đến.  Phải, ông Nô-ê đã không để cho mình bị chi phối do những sinh hoạt ấy mà quên đi việc chính là đóng tàu để được cứu thoát khi cơn hồng thủy ập tới.  Ông không quan tâm đến thời giờ chính xác biến cố sẽ xảy ra, ông chỉ cần tâm niệm rằng biến cố hồng thủy chắc chắn sẽ đến.  Nếu đã là biến cố phải đến thì sẽ đến, tốt nhất là ta hãy sẵn sàng trước khi nó đến.  Ở đây, Chúa Giê-su không chỉ nói về việc Người sẽ đến để phán xét trong ngày sau hết của thế giới, mà Người còn ám chỉ luôn ngày Người đến trong giờ chết của cá nhân chúng ta để phán xét chúng ta nữa!  Thật đáng sợ nếu chúng ta không sẵn sàng.  Ngoài ra, Chúa Giê-su còn cho chúng ta biết một chuyện đáng sợ khác, đó là không phải hết mọi người đều được cứu độ.  Chắc chắn một số người sẽ không được cứu độ, vì họ từ chối hoặc không sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ.  Những kẻ thời ông Nô-ê bị hồng thủy giết hại là những người “không hay biết gì”.  Không hay biết gì là cụm từ diễn tả thái độ thờ ơ, bất cần đời, chọn lựa những giá trị tạm bợ  thay vì những gì là vĩnh cửu.  Những kẻ “không hay biết gì” chẳng phải là số ít, nhưng nhiều lắm, ít ra là một nửa số:  “Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại…”  Lạy Chúa, xin cho con đừng ở trong số những kẻ bị bỏ lại!

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Chúa Giê-su đã cho chúng ta một lời khuyên rất thực tế để giúp chúng ta chuẩn bị sẵn sàng:  “Nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu”.  Chúa nhấn mạnh đến điều ông chủ nhà phải làm:  đó là hành vi canh thức.  Tại sao phải canh thức?  Là vì ông biết chắc chắn kẻ trộm sẽ đến.  Chúa bảo chúng ta hãy làm giống như ông chủ nhà đã làm, vậy thôi!  Nhưng canh thức như thế nào?  Đây là cách thánh Phao-lô mách bảo:  “Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu”.  Ngài kể ra một số việc làm đen tối, như chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng và cãi cọ ghen tương.  Trái lại, ngài khuyên ta hãy cầm lấy vũ khí của sự sáng, có nghĩa là “mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô” để sống theo gương mẫu của Người, chứ không “chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”.  Mong đây cũng là cách chúng ta chuẩn bị tâm hồn trong mùa Vọng này!

Về mục lục

.

HÃY CHỖI DẬY

Lm Trần Bình Trọng

Thánh kinh Cựu ước là môt câu chuyện đợi chờ. Mùa Vọng là mùa chờ đợi, nhắc nhở cho người tín hữu về thời gian dân Chúa trong Cựu ước mong đợi Ðấng Cứu thế. Hôm nay Giáo hội muốn ghi vào ấn tượng người tín hữu hình ảnh Chúa Kitô là trung tâm điểm của vũ trụ, là Alpha và Ômêga, là khởi đầu và là cùng đích cuả mọi loài mọi vật. Dân chúng trong Cựu ước mong đợi Ðấng Cứu thế đến lần thứ nhất trong lịch sử loài người. Còn người tín hữu mong đợi việc Chúa đến lần hai, để kết thúc lịch sử loài người. Tuy nhiên ta không biết ngày giờ nào Chúa đến. Ngày Chúa đến lần hai có thể hiểu theo nghĩa là ngày chấm dứt lịch sử nhân loại, cũng có thể hiểu là ngày tận cùng của mỗi người, ngày chấm dứt cuộc sống của mỗi người tại thế. Việc đó có thể xẩy ra bất thình lình, bất cứ khi nào hay ở đâu.

Trong những ngày đầu và cuối  năm phụng vụ, Giáo Hội dùng những đoạn Thánh Kinh  có tính cách biểu tượng đề cập đến cảnh tàn phá, chết chóc khiến ta liên tưởng đến ngày tận thế. Trong thời ông Noe, trận lụt đại hồng thuỷ đã xẩy ra bất thình lình, khiến người ta kinh hoàng, hú vía. Cái lỗi lầm của dân chúng thời ông Noe như Phúc âm thuật lại là họ quá bận rộn với công việc hàng ngày (Mt 24:38). Ðang lúc dân chúng mải mê ăn uống, và bận rộn với việc thế sự, thì ông Noe sửa soạn đóng tầu để đối phó với lụt đại hồng thủy. Chỉ có mình ông biết lắng nghe lời Chúa cảnh tỉnh. Chỉ có mình ông tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi. Cho đến ngày ông và gia đình ông cùng với súc vật vào tầu, mà họ cũng không ngờ. Và khi nước lụt đại hồng thủy dâng lên bất chợt, đã cuốn họ vào lòng biển cả.

Vào thời ngay trước khi Chúa Cứu thế xuống thế làm người, thì dân chúng cũng vậy. Họ quá bận rộn, không lưu âm đến việc Chúa đến. Họ quan niệm sai lầm về Ðấng Cứu thế nên những lời tiên báo về việc Người đến, họ để ngoài tai. Hôm nay Chúa Giêsu cũng dùng dụ ngôn với loại ngôn ngữ khải huyền để cảnh giác họ. Hai người đàn ông đang làm việc ngoài đồng, và hai người đàn bà đang xay bột (Mt 24:40-41). Dưới cặp mắt thông thường thì hai người đàn ông làm cùng công việc như nhau. Hai người đàn bà cũng làm việc giống nhau. Nhưng dưới con mắt Thiên Chúa, họ khác nhau trong ý hướng làm việc và cách thế làm việc. Một trong hai người đàn ông và một trong hai người đàn bà, biết lắng nghe lời cảnh giác của Chúa, và họ được tiếp nhận vào nước Trời, còn hai người kia bị bỏ rơi.

Dụ ngôn thứ hai Chúa dùng để cảnh giác họ là cũng như người chủ nhà phải tỉnh thức đề phòng kẻ trộm, Chúa bảo ta cũng phải tỉnh thức. Ðể được vào tàu Noe, để được đem đi như người đàn ông đang làm ruộng và người đàn bà đang xay bột, Chúa bảo ta phải tỉnh thức (Mt 24:42) và sẵn sàng (Mt 24:44).

Tuy nhiên trong thực tế, ta có sống trong tư thế sẵn sàng hay không? Ta có thể cố gắng thanh toán nợ nần với chủ nợ, với nhà băng về nhà ở và xe hơi, mà quên không lo thanh toán món nợ tâm hồn với Chúa. Ta có thể bận tâm lo việc kinh doanh về của cải vật chất, mà không kinh doanh cho đời sống thiêng liêng. Ta có thể coi đời này như là cùng đích, là cứu cánh của cuộc sống. Vì thế mà người ta mải miết lo việc thế sự, mà quên lưu tâm đến đời sống thiêng liêng, không còn thời giờ lo việc Chúa: không còn thời giờ đọc kinh, cầu nguyện, dự lễ, không còn thời giờ để suy tư về thân phận làm người, để kiểm điểm mối liên hệ của mình với Chúa, không còn thời giờ cho cha mẹ, vợ chồng, con cái. Và theo ngày tháng trôi qua, những bận tâm và lo lắng về việc trần thế sẽ lôi kéo ta xuống, cho tới khi đức tin của ta trở thành nguội lạnh, không còn nghị lực thiêng liêng để vươn lên.

Hôm nay thánh Phaolô bảo ta: Phải thức dạy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia (Rm 13:11). Ta hãy chỗi dạy như ngôn sứ Isaia bảo: Ðể cùng lên núi Chúa.., để Người dạy ta biết lối của Người và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ  (Is 2:3) và như lời Thánh vịnh dạy, để cùng: trẩy lên đền thánh Chúa (Tv 121:1).

Lời cầu nguyện xin cho được nghị lực thiêng liêng để chỗi dạy:

Lậy Thiên Chúa toàn năng!

Ðể cảnh giác loài người khỏi ngủ mê,

Chúa nhắc đến những tai hoạ để cảnh tỉnh chúng con.

Xin ban cho con nghị lực

để con chỗi dậy khỏi tính ươn hèn và mê ngủ,

hầu có thể tỉnh thức để đón chờ ngày Chúa đến. Amen.

Về mục lục

.

VUI SỐNG

Lm. Jos. DĐH.

Cuộc sống tự nhiên cho chúng ta kinh nghiệm, ai cũng phải đối diện với hai cái sợ: sợ đau khổ, sợ thất bại, dù chúng ta có tự do, có hoàn cảnh và điều kiện khác nhau. Trong các tương quan, mỗi người đều có cơ hội để học bài học của người đi trước, từ những bài học: cơm ngon khó kiếm, phở ngon đầy đường, xác suất thành công sẽ nhiều hơn cả: đừng vì một chút tầm thường của phở mà quên mất tầm cỡ của cơm. Được thành công ngoài xã hội, người ta sẽ tự tin: vui và sống có ý nghĩa, có trách nhiệm hơn với gia đình, người thân. Đâu phải tự nhiên mà cha ông chúng ta lại chia sẻ: khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn nào còn thấy ai ! Cũng không phải vô tình, may hơn khôn, ông No-e biết chuẩn bị “con thuyền” cho cả gia đình có nơi trú ẩn an toàn, vượt qua “nạn hồng thuỷ”.

Cứ sự thường, gặp đau khổ người ta phải tìm cách né tránh, nơi đâu thấp thoáng có niềm vui, thiên hạ dễ dàng tìm khám phá thụ hưởng, gia đình ông No-e là dấu hiệu cho mọi người mọi thời: vui sống tỉnh thức là thiết thực cho sự khôn ngoan, thành đạt. Nhờ tinh thần vui sống, các thành viên gia đình ông No-e vượt qua được sự khinh chê nhạo cười của xã hội, gia đình ông hoàn thành việc đục đẽo con thuyền cho sự tồn tại ở hiện tại và tương lai. Nhờ lạc quan vui sống, ông No-e nhắc nhớ được người thân, con cháu: tỉnh thức, cầu nguyện, gia đình ông đã trở nên gương sáng đức tin cho muôn thế hệ. Khi đưa ra sự kiện gia đình No-e được cứu thoát, Chúa Giêsu mở ra hình ảnh giải thoát mới, vẫn xây dựng trên sự tự do, tỉnh thức, một tình yêu, một con thuyền duy nhất, do Đấng Kitô là Thuyền trưởng.

Tiền nhân chúng ta thật hài hước khi nói: có ghen mới là đàn bà, có còn sợ vợ mới là đàn ông ; có vui cuộc đời mới nhẹ vơi được bao vất vả nhọc nhằn, có nuôi con mới hiểu rõ lòng mẹ cha, có sống niềm tin, người ta mới nghiệm ra thế nào là sức mạnh của tình yêu. Lụt đại hồng thuỷ đã huỷ diệt tất cả những ai thiếu chuẩn bị, không sống cầu nguyện, tỉnh thức, không sống bổn phận, đợi chờ. Sống vui với trọng trách là gắn liền với tình hiệp thông, Thiên Chúa sẽ soi sáng dẫn dắt con người qua các dấu lạ của thời đại, cho dù tín hiệu có lúc mờ lúc tỏ. Đọc được những nét cao đẹp của tình yêu mà ta lãnh nhận, cũng là phát hiện được giá trị của ơn cứu độ đã đến, đang đến và sẽ đến với muôn dân thiên hạ, khi ý chí và quyết tâm của chúng ta không hệ tại sự khôn ngoan thế gian này.

Nhân loại thời nào cũng chủ trương vui để sống, lao động làm việc vừa là cải thiện trí lực, vừa là góp phần xây dựng tình hiệp thông lớn mạnh và vững chắc hơn. Vui sống và hy vọng, tỉnh thức và cầu nguyện, đó là ơn gọi của những người đang sống liên đới với tình yêu thương ; thực tế thì chúng ta đã từng suy nghĩ làm gì để giảm bớt khổ đau, sống vui, sống khoẻ, sống có ý nghĩa, sống thánh ý Chúa ! Hãy vui để sống, hãy đặt niềm tin nơi Chúa Giêsu, chúng ta sẽ cảm nhận rõ hơn về ơn bình an yêu thương, Đấng là Thầy là Chúa đang hiện diện, đang canh tân lòng trí mỗi người. Sự khôn ngoan ở đời đã từng lên tiếng: có chí thì nên ; trong khi Chúa Giêsu lại nhắc nhớ: “anh chị em hãy tỉnh thức để đứng vững trước mặt Con Người”. Có phải đủ ơn Chúa, đủ tình yêu Chúa, là đứng vững, là thắng vượt khó khăn cám dỗ ? Vui sống theo thế gian, người ta tìm tiền của vật chất, danh vọng ; người học trò Đức Giêsu, người kitô hữu, theo Chúa, tìm tình yêu Chúa, tìm thánh ý Chúa, nhất định mỗi người sẽ đủ năng lượng cần thiết để gặt hái niềm vui hạnh phúc cả bây giờ và mai sau.

Hành trình đời người là ơn gọi cao quý yêu thương: vì con sống, mẹ cha suốt đời lam lũ, vì con vui cha mẹ gánh hết ưu phiền. Chúa Giêsu cho chúng ta biết: Thiên Chúa là tình yêu, chân lý bất di dịch: phải vượt qua thập giá mới đến vinh quang. Chỉ những ai ý thức mình vừa là học trò, vừa là môn đệ Đức Giêsu, người ấy mới hiểu tại sao ta phải tập luyện, phải ở trong tư thế sẵn sàng tỉnh thức ? Sẽ có sự chọn lựa cho những phần thưởng to lớn, cho những người biết sử dụng tự do, thời giờ, và sống các tương quan cách chuẩn mực nhất. Bốn tuần mùa vọng sẽ trôi qua, dù chúng ta có tỉnh, có thức, có cầu nguyện, có vui sống hay bê bối sầu buồn, phụng vụ giáo hội vẫn mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa giáng trần. Một đời người chúng ta có là mùa vọng, có chuẩn bị, có yêu thương vui sống tới mức độ nào, Thiên Chúa vẫn mời gọi chúng ta về trình diện khi đến giờ đến buổi. Xin tình yêu Chúa chúc lành cho những nỗ lực cố gắng sống vui, sống đúng, sống đẹp, trước ơn gọi yêu thương của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

CUỘC ĐỜI LÀ PHÙ VÂN

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Thời buổi văn minh hôm nay dường như ai cũng có những chuyện riêng tư trên internet, ai lại chẳng nóng lòng muốn đọc một vài cái email, hay nôn nao chờ mạng để vào thăm trang facebookcủa mình. Nhưng có bao giờ bạn nghĩ những cái riêng tư ấy sẽ đóng lại vĩnh viễn khi ta chợt thình lình ra đi? Cuộc đời rất khó nói trước.  Có thể một ngày nào đó ta ra khỏi nhà và không hẹn được ngày trở lại như thi sĩ Phạm Thiên Thư từng nói:

“Cuộc đời chớp lóe mưa bay
Càng đi, càng thấy dặm dài nỗi không…”

Cái email đó có thể không kịp có người đọc, trang facebook đó có thể sẽ vĩnh viễn đóng cửa, nhưng cái tâm tình hay cái tấm lòng của người viết nên chúng vẫn còn trăn trở, day dứt về cuộc sống còn quá nhiều điều chưa giải quyết xong. Nếu mọi việc còn dang dở thì sự ra đi bắt đắc kỳ tử sẽ đầy nuối tiếc buồn đau.

Thực ra, cái hạnh phúc lớn nhất của một kiếp người, theo tôi, là giả dụ có một ngày nằm xuống trên đường, chưa kịp về đến nơi chốn đã định, mình vẫn có thể yên tâm với những gì mình đã hoàn tất hay còn đang dở dang. Nếu mọi việc dù lớn dù nhỏ chúng ta làm bằng tất cả tâm tình nhiệt huyết thì lúc nào cũng là trọn vẹn và không còn ân hận điều chi. Vì cuộc ra đi không phải là kết thúc, nó chỉ là chuyển đổi cách sống từ mau qua đến cỏi vĩnh hằng bất tử như Nguyên Sa từng nói: “Cuộc đời dẫu có phù vân, ở trong mây nổi có phần thiên thu!”.

Cuộc sống vô thường. Con người chẳng biết ngày mai sẽ ra sao.  Sống hay chết đều không do mình quyết định. Cái chết đến thật bất ngờ. Bất ngờ như tên trộm đào ngạch vào nhà lấy đi đồ đạc lúc nào chẳng hay biết. Cái chết cũng chẳng định lứa tuổi hay giai cấp, vì có thể cùng một lứa tuổi, cùng một công việc nhưng kẻ thì được mang đi, người thì vẫn còn ở lại.

Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức bằng cả một đời sống theo thánh ý Chúa. Tỉnh thức không để lòng mình buông theo những cám dỗ thế gian, những ước muốn tầm thường. Tỉnh thức để sống ngay thẳng không theo đường lối gian tà.

Chúa Giê-su hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đừng để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời mà hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Hãy sống công chính trước mặt Chúa. Sống trong ơn nghĩa của Ngài. Sống trung thành với giáo huấn của Ngài. Sống tự chủ bản thân mình đừng chiều theo tính xác thịt mà làm trái với luân thường đạo lý.

Đây cũng là thái độ của người khôn ngoan luôn tỉnh thức trước giờ Chúa đến. Tỉnh thức bằng việc cầm đèn cháy sáng như năm cô khôn ngoan có đủ dầu đèn. Dầu đèn ở đây chính là những việc lành bác ái, những ước vọng sống thánh thiện khước từ tội lỗi.

Mùa vọng là thời gian đợi chờ. Cuộc đợi chờ tân lang đến nhưng không hẹn rõ ngày giờ. Một cuộc đợi chờ luôn đòi hỏi chúng ta phải tỉnh thức. Tỉnh thức để xứng đáng dự tiệc vui muôn đời bên Chúa. Ước gì chúng ta hãy tận dụng mùa vọng để chuẩn bị cho mình hành trang cần thiết cho cuộc hội ngộ với Đức Lang Quân. Xin đừng vì những mải mê thế gian mà đánh mất cơ hội dự tiệc vui muôn đời. Amen

Về mục lục

.

THỨC TỈNH

Lm Vũ Đình Tường

Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng bắt đầu mùa phụng vụ. Giáo Hội hàng năm nhắc nhở con cái mình hãy tỉnh thức tâm linh, tâm hồn luôn sẵn sàng để bất cứ khi nào Đức Kitô đến lần thứ hai thì người đó đã sẵn sàng. Đức kitô hứa Ngài sẽ đến, điều này chắc chắn sẽ xảy đến, nhưng ngày và giờ thì không ai biết, ngoại trừ Chúa Cha. Hình ảnh dùng trong dụ ngôn cho biết điều chắc chắn là Đức Kitô sẽ đến trong vinh quang, thời gian Ngài đến thì hoàn toàn giữ kín, không ai biết khi nào. Vì thế Giáo Hội mời gọi con cái mình đặt trọng tâm vào điều ‘chắc chắn sẽ xảy ra’ mà ít quan tấm đến ‘thời gian khi nào sẽ xảy ra’. Bởi điều chắc chắn sẽ xảy ra nên cần chuẩn bị kĩ để đón nhận điều sẽ xảy ra. Câu hỏi chuẩn bị bao nhiều thì đủ không phải là điều dễ trả lời. Sức riêng ta không thể cứu ta mà cần đến lòng Chúa xót thương. Lòng Chúa xót thương thì vô bờ nên ta không thể nào chuẩn bị đủ để đón nhận lòng Chúa xót thương. Chuẩn bị là dấu chỉ vui mừng, sẵn sàng đón nhận ơn Chúa ban. Chuẩn bị chờ thời gian dài thường làm cho ta nản lòng, chán nản và cuối cùng thờ ơ, thất vọng. Thái độ khôn ngoan nhất, là chuẩn bị ngắn hạn, hay nói rõ hơn, chuẩn bị mỗi ngày. Ngày nào chuẩn bị cho ngày đó. Chuẩn bị ngắn hạn, hàng ngày, mất ít công sức cho việc chuẩn bị và thời gian chờ đợi cũng vắn, gọn. Cuối ngày tâm hồn đó nhìn lại, xem xét ngày đó gắn bó với Thiên Chúa ra sao để ngày kế tiếp còn chỉnh đốn, sửa sang. Chuẩn bị hàng ngày giúp cho việc chuẩn bị luôn đổi mới, cập nhật mỗi ngày và việc chuẩn bị không nhàm chán. Mỗi buổi sáng thức dậy, người thì dâng ngày cho Chúa, kẻ thì cho công việc trong ngày quan trọng hơn. Thánh Phaolô kêu gọi Kitô hữu hãy mặc lấy áo choàng công chính, sống tinh thần Phúc Âm, làm nhân chứng đức tin nơi gia đình và nơi công sở. Sống tinh thần đức tin chính là mang lại hy vọng cho mình và cho tha nhân. Chúng ta đang sống trong một thế giới có nhiều cạnh tranh, tranh chấp, bất hoà, không vì thế mà mất hy vọng, cậy trông; trái lại chúng ta mang hy vọng lại cho tha nhân. Đức Kitô dùng hình ảnh thời Noen vào tầu để nói về thế giới làm ngơ trước lời cảnh báo của Thiên Chúa. Họ coi thường lời cảnh báo, coi như là không có việc gì xảy ra cho đến ngày nước đổ ập xuống, họ vẫn sống như bình thường. Ngài cảnh báo con người bất lực trước hiểm hoạ thiên nhiên xảy đến. Thứ hai, thảm hoạ thiên nhiên mang đau khổ, sợ hãi cho mọi người. Tất cả cùng chung hoàn cảnh nhưng Kitô hữu có ơn đặc biệt. Thiên Chúa ban cho họ ơn can đảm, niềm hy vọng, cậy trông. Kitô hữu sống trong hy vọng, không nản lòng, mất cậy trông bởi trong cơn đau khổ, hoạn nạn chính là lúc sức mạnh của đức tin vùng lên trong tâm hồn, biến Kitô hữu thành người sống trong hy vọng. Chắc chắn tin tưởng, Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi họ. Câu chuyện Noen, Thiên Chúa ban cho ông sức mạnh, nguồn cậy trông và ông không bao giờ tự kiêu, tự nhận vào sức mạnh riêng mình, tự nhận vào tài trí riêng mình nhưng luôn sống tin tưởng, phó thác. Con người với kiến thức của mình có khả năng chuẩn bị tránh tai nạn thiên nhiên ở cấp nhỏ, giới hạn. Từ đó họ tự tin con người có thể làm chủ tất cả, ngay cả làm chủ thiên nhiên. Đừng lầm, con người hoàn toàn bất lực trước thiên tai. Dụ ngôn trong Kinh Thánh cho biết sẽ có ngày phân chia, kẻ ở người đi mà không ai có khả năng ngăn chặn. Con người cũng không biết điều gì xảy ra cho người ở lại, và điều gì đến với người ra đi. Hoàn toàn không biết. Khi điều đó xảy đến Kitô hữu không thất vọng, nhưng luôn sống trong hy vọng vào Thiên Chúa Phục Sinh.

Về mục lục

.

HÃY TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG.

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Từ hàng chục năm qua, điện ảnh Hollywood luôn thành công bởi các bộ phim về ngày tận thế. Tất cả những bộ phim này đều diễn tả theo sự tưởng tượng của con người về ngày cuối cùng của vũ trụ và trái đất, khi tất cả con người và sự sống trên trái đất này đều bị huỷ diệt. Những hình ảnh thực cùng với kỹ thuật điện ảnh và nội dung các câu chuyện kinh hoàng sợ hãi được giới thiệu với khán giả, thu hút được rất nhiều người, ai cũng muốn biết ngày đó vũ trụ và trái đất sẽ như thế nào. Các bộ phim trình bày ngày tận thế qua những thảm hoạ của thiên nhiên như: núi lửa, động đất, bão lũ; cũng có khi là hậu quả của sự văn minh tiến bộ của nhân loại gây ra như thảm hoạ hạt nhân, khủng hoảng của điện toán và robot. Tất cả các bộ phim đều nhấn mạnh đến sự sợ hãi hoảng loạn của con người trước các biến cố đó.
Bước vào Mùa Vọng Lời Chúa luôn khẳng định cho chúng ta rằng: Vũ trụ và trái đất này sẽ có ngày cùng tận của nó, tất cả con người và sự sống trên trái đất sẽ đến ngày phải chấm dứt. Tuy nhiên, hoàn toàn khác với cách trình bày của điện ảnh nhằm gây sự tò mò thu hút khán giả, Kinh Thánh luôn khẳng định cho chúng ta rằng: Ngày tận thế sẽ là ngày Thiên Chúa trở lại trong vinh quang của Ngài, đó sẽ là ngày hân hoan vui mừng cho những ai đã chuẩn bị sẵn sàng để đón tiếp Chúa. Trái lại, nó sẽ là sự kinh hoàng cho những người để mình rơi vào tình trạng bất ngờ, không chuẩn bị mà thôi.
Bài đọc một, tiên tri Isaia cho thấy, ngày tận thế là ngày Thiên Chúa trở lại để quy tụ muôn dân muôn nước và mở ra một thời đại mới, thời đại vĩnh cửu, hoà bình yêu thương và hạnh phúc. Với những lời lẽ đầy hy vọng và vui mừng, vị tiên tri đã phác hoạ ngày Thiên Chúa đến giống như một ngày hội, ngày mà mọi người lũ lượt quy tụ về nhà Chúa: “Ngày ấy, núi Nhà Đức Chúa sẽ đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi.” Như thế, ngày Thiên Chúa đến hoàn toàn không có sự phá huỷ hay tiêu diệt như được trình bày trong các bộ phim, trái lại đó là ngày Thiên Chúa sẽ mở ra một thời đại mới, thời đại của yêu thương tha thứ và hoà bình. Sống trong thế giới mới của Thiên Chúa, tất cả mọi dân nước đều tuân theo một lề luật duy nhất đó là lề luật của Thiên Chúa. Ngày đó Thiên Chúa sẽ thể hiện vương quyền của Ngài cách công minh, Ngài quy tụ muôn dân và là trọng tài phân xử giữa các nước: “Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Các dân sẽ không còn vung kiếm đánh nhau nữa và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.” Như vậy, ngày tận thế theo tiên tri Isaia quả là một ngày vui mừng hân hoan cho mọi dân mọi nước, ngày cả nhân loại được bước vào một đời sống mới, đời sống vĩnh cửu hạnh phúc bên Thiên Chúa.
Bài đọc hai thư Roma, thánh Phaolô giải thích thêm cho chúng ta về ngày Thiên Chúa trở lại: Đó sẽ là ngày của ơn cứu độ, là một ngày bình an nhẹ nhàng giống như một đêm trôi qua để nhường chỗ cho ngày mới và bình minh xuất hiện: Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày của Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia. Thánh Phaolô còn căn dặn chúng ta đừng để mình bị mê ngủ, nhưng phải luôn trong tư thế sẵn sàng tỉnh thức đón chờ giây phút quan trọng đó. Chúng ta phải canh thức như thế nào?
Bài Tin Mừng Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết phải canh thức bằng cách nhận ra ý Chúa qua các biến cố xảy ra thường ngày cho mình và cho những người chung quanh: Chúa Giêsu đưa ra những hình ảnh để nói về ngày Thiên Chúa đến, đó là hình ảnh của ông Noe. Nhắc đến ông Noe không ai có thể không biết về cơn Đại Hồng Thuỷ đã được đề cập đến trong Kinh Thánh. Lúc đó con người ngày càng gia tăng đông đúc. Thay vì thần phục Thiên Chúa, con người trở nên cao ngạo, sống buông thả và chạy theo các tà thần. Họ làm những điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa nên Thiên Chúa muốn thực hiện một cuộc thanh luyện và thanh tẩy cả nhân loại. Ông Noe và gia đình là những người sống công chính, trung thành với Chúa đã được Chúa cứu thoát bằng cách nói trước để ông chuẩn bị một con tàu cho gia đình và súc vật. Trong lúc ông và con cháu chuẩn bị đóng tàu thì mọi người chung quanh vẫn tỏ ra dửng dưng, không quan tâm. Họ vẫn ăn uống vui chơi, dựng vợ gả chồng và thậm chí còn cười chê gia đình ông Noe khi thấy ông đóng tàu. Thình lình đại hồng thủy đã ập xuống nhấn chìm tất cả mọi vật mọi loài không ai kịp trở tay, chỉ có gia đình ông Noe là được cứu sống. Qua câu chuyện này Chúa Giêsu nhắc ta chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại bằng việc nhận ra những sự kiện, những dấu chỉ đang xảy ra chung quanh. Tất cả những sự kiện diễn ra hàng ngày đều là lời mời gọi và nhắc nhở của Chúa để mỗi người biết chuẩn bị cho chính mình, không để mình bị bất ngờ trong ngày Chúa đến.
Chúng ta sẽ không chuẩn bị cách thụ động ngồi chờ nhưng bằng cách làm tốt công việc thường ngày của mình với tâm hồn hướng về Thiên Chúa, khao khát Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa sẽ đến bất ngờ vào ngày ta không ngờ, vào giờ ta không biết. Chúng ta vẫn phải chu toàn công việc thường ngày của mình như: “hai người đang làm ruộng ngoài đồng, thì một người được đem đi, người kia bị bỏ lại; hai người đàn bà xay chung cối bột, một người được đem đi còn người kia bị để lại… Vậy anh em hãy canh thức, vì chính giờ phút anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến.”
Vẫn biết rằng ngày tận thế, ngày Thiên Chúa trở lại sẽ đến. Tuy nhiên, con người chúng ta dễ bị tình trạng thức lâu, chầu mỏi, dễ quên, dễ chán, dẫn tới tình trạng sa đà say sưa vì ngủ mê không tỉnh thức. Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta những cách thế thể hiện sự tỉnh thức: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy anh em hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu.” Như vậy, việc trước hết là phải can đảm loại bỏ khỏi mình những việc làm đen tối, mờ ám. Đó là những việc gian tham dối trá, lỗi công bằng và lối sống mập mờ không ngay thẳng, cách làm ăn quanh co kiếm lợi, lừa đảo, dối gạt, gây thiệt hại tiền của sức khoẻ người khác. Ví dụ như làm hàng giả, hàng dỏm, sản xuất chế biến thực phẩm bẩn, thực phẩm nhiễm bệnh, nhiễm hoá chất…, những lối sống tăm tối mờ ám đó cần phải loại bỏ.
Tích cực hơn nữa là “phải cầm vũ khí của sự sáng để chiến đấu như người đang sống giữa ban ngày.” Như thế có nghĩa là ta không chỉ tránh xa những việc làm và lối sống của bóng tối mờ ám, mà còn phải chủ động để đương đầu và loại trừ sự gian dối và bóng tối trong xã hội này. Chúng ta phải mạnh dạn bênh vực sự thật, bảo vệ sự công bằng và trong sáng cho người khác, góp phần đẩy lui bóng tối gian dối, bất công ra khỏi gia đình và xã hội. “Sống như giữa ban ngày” là sống làm gương sáng cho mọi người chung quanh để không ai có thể chê trách hay bắt bẻ về đời sống của người Kitô hữu. Thánh Phaolô nhắn nhủ cụ thể hơn nữa là: “Anh em đừng chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.” Những thứ này sẽ làm cho cuộc đời ta ra mờ tối u mê không còn tỉnh thức đón đợi Chúa.
Thưa quý OBACE, bầu khí Mùa Vọng chuẩn bị tâm hồn chúng ta mừng Chúa Giáng Sinh, nhưng quan trong hơn còn là dịp nhắc ta nhớ đến ngày Thiên Chúa sẽ trở lại, ngày tận cùng của thế giới. Thế giới này có ngày khởi đầu thì sẽ có ngày kết thúc, đó là ngày Thiên Chúa trở lại để canh tân đổi mới tất cả địa cầu. Trước khi ngày tận thế xảy đến sẽ là ngày tận cùng cuộc đời của mỗi chúng ta, ngày Chúa trở lại với từng người. Do đó chúng ta được nhắc nhở để luôn canh thức và sẵn sàng, không để bị bất ngờ hay ngủ mê trong ngày Chúa đến với mỗi người.
Mỗi người cần phải chuẩn bị bản thân, gạt bỏ những gì còn ẩn khuất, những chỗ tăm tối trong tâm hồn do tội gây ra. Không chỉ lo xưng tội, tránh tội và những việc xấu xa mờ ám, Chúa còn muốn chúng ta “phải cầm vũ khí sự sáng và chiến đấu giữa ban ngày”, tức là phải chủ động làm cho mình và gia đình tràn ngập ánh sáng của sự thật, của Tin Mừng. Can đảm nói không với sự gian dối, lấy Tin Mừng làm tiêu chuẩn và là vũ khí chống lại tội lỗi và bất công; lấy đời sống đạo đức chuyên chăm thay thế cho sự lười biếng, lấy tình thương, sự quan tâm tha thứ thay thế cho bất hoà bất đồng trong gia đình.
Bắt đầu Mùa Vọng cũng là bắt đầu một chu kỳ mới, chúng ta được mời gọi quyết tâm làm mới lại các tương quan của ta với Chúa, với anh em và gia đình. Hãy tìm lại sự thanh thản của lương tâm và sự bình an trong tâm hồn qua Bí Tích Giải tội, vì Bí Tích này có sức làm mới lại tâm hồn và giúp cho cuộc sống nên nhẹ nhàng. Chúng ta cần nạp năng lượng cho đời sống thiêng liêng mỗi ngày qua việc siêng năng cầu nguyện riêng cũng như qua các giờ kinh tối gia đình, nhất là qua việc tham dự thánh lễ và rước lễ. Vì đây là những giờ phút giúp cho đời sống ta cân bằng khỏi những chao đảo, soi sáng giải gỡ những khó khăn và là nguồn trợ lực cần thiết cho cuộc sống.
Xin Chúa giúp chúng ta biết tận dụng thời gian còn sống Chúa ban để chuẩn bị sẵn sàng cho giờ phút quan trọng nhất của cuộc đời, giờ Chúa đến với mỗi người. Amen

Về mục lục

.

ĐẤT HY VỌNG

     Jorathe Nắng Tím

Ngay khi dựng nên Ađam và Evà, Thiên Chúa đã ban cho hai ông bà Đất : “Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Êđen, ở phiá đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra. Đức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác. Một con sông từ Eđen chảy ra tưới khu vườn…Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Eđen, để cày cấy và canh giữ đất đai”. Đức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng : “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn ; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2,8-17). Và Ađam, Evà sống hạnh phúc trên đất Thiên Chúa ban. “Ađam gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt… Cả hai trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau” (St 24-25).

Sách Sáng Thế cho chúng ta hình ảnh địa đàng, đất hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho con người, ở đó, con người có mọi sự, nhất là có tình yêu Thiên Chúa và tình yêu đồng loại. Họ được an vui, sung sướng và không chút vướng víu phiền muộn bởi mặc cảm, hay tội lỗi, bởi họ trong trắng, hồn nhiên trên Đất của Thiên Chúa.

Nhưng rồi Đất hạnh phúc “bị nguyền rủa vì ngươi, ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất” (St 3,17-19).

Vâng, tai hoạ đã ập đến trên đất người, sau khi Ađam, Evà bất tuân lệnh Thiên Chúa ăn trái cây biết điều thiện điều ác mà Thiên Chúa cấm (x. St 3,6) : địa đàng bị lấy lại, đất lành biến thành đất dữ và cả hai thấy mình trần truồng phải kết lá làm khố che thân (x. St 3,7), họ không dám giáp mặt Thiên Chúa, nhưng lẩn trốn Ngài (x. St 3,8-9), và bị trục xuất ra khỏi vườn hạnh phúc (x. St 3,24).

Qủa thực, chỉ một hình ảnh thấy mình trần truồng và xấu hổ kết lá làm khố che thân cũng đã đủ nói lên những mất mát kinh khủng và tận cùng của ông bà nguyên tổ sau khi phạm tội. Ông bà đã mất hết, và một trong những cái mất quan trọng chính là mất Đất sống, mất Đất lành, mất Đất tình yêu, mất Đất hoan lạc, mất Đất hạnh phúc, mất Đất bình an, mất Đất mà Thiên Chúa chúc phúc và đặt con người vào ở. Mất Đất của Thiên Chúa, con người trở thành vô gia cư, vì không đất ở khi sống, không nơi an nghỉ khi theo đất trở về .

Nhưng Thiên Chúa là Thiên Chúa “giầu lòng thương xót” sẽ làm “từ gốc tổ Giesê đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này… Sẽ không còn tai ác và tàn phá trên khắp núi thánh, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11,1-2.9). Với lòng bao dung, tha thứ, Thiên Chúa sẽ cho “dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước lũ lượt kéo nhau đi mà rằng : Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Giacóp, để Người dạy ta biết đường lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ” (Is 2,2-3). Và mọi người nhận ra : “Ơn phù trợ đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời” (Tv 121,2).

Trước ánh sáng của niềm hy vọng được thương xót, thánh Phaolô đã đặt cho tín hữu Rôma câu hỏi : “Anh em biết chúng ta đang ở thời nào không ?”, và ngài khẳng định : “Đã đến lúc  anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia” (Rm 13,11).

Ngày ấy đã gần khi Thiên Chúa trả lại Đất hứa cho con người, và ban cho nhân loại Đấng Cứu Thế, bởi trong lòng thương xót vô bờ bến, “sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” (Rm 5,15). Ngài sẽ ban cho nhân loại trở nên công chính, nghiã là được sống và sống đời đời (x. Rm 5,18-20) trên Đất, và trong Nhà của Thiên Chúa, như ngôn sứ Giêrêmia đã tiên báo : “Thành sẽ được dựng nên trên nơi phế tích, dinh thự sẽ tọa lạc trên chính chỗ xưa. Từ các nơi ấy sẽ vọng ra lời cảm tạ và tiếng reo mừng… Con cái nó sẽ lại được như xưa, và cộng đoàn của nó sẽ đứng vững trước nhan Ta” (Gr 30,18-20).

Và cũng như thời Nôe, vào ngày cứu độ, Thiên Chúa tẩy sạch tội lỗi và thực hiện một sáng tạo mới, như thánh Gioan đã viết trong sách Khải Huyền : “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giêrusalem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to : “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại. Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người là Thiên Chúa – ở – cùng – họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết ; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,1-4).

Họ đây chính là “những người có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5,3), nghèo khó để làm giầu hạnh phúc của đồng loại, nghèo khó để không ai chung quanh họ phải khổ vì nghèo, phải nhục nhằn, tủi phận vì túng thiếu ; họ đây là “những ai hiền lành” (Mt 5,4), hiền lành như Chiên Thiên Chúa, để cùng Thiên Chúa gánh tội trần gian, cùng Thiên Chúa mang lấy hết bệnh hoạn, tật nguyền của nhân loại, hiền lành để không ai sống gần họ bị từ bỏ, bị ruồng rẫy, hay bị lên án, khai trừ như Thiên Chúa  bao dung, rộng lượng luôn yêu thương, đón nhận mọi người ; họ là “những người bị bách hại vì sống công chính” (Mt 5,10) để trở thành tiếng nói của người không tiếng nói, nơi ẩn náu an toàn của người cô qủa, vô gia cư, bị truy lùng, và chính họ sẽ nhận đuợc “Đất hứa làm gia nghiệp” (Mt 5,4), “Nước Trời là sở hữu” (Mt 5,3), và vương quốc Thiên Chúa là nơi cư ngụ.

Vâng, Mùa Vọng đến với niềm hy vọng tìm lại Đất hứa đã mất, gặp lại địa đàng đã từ đó bị đuổi ra, và niềm hy vọng ấy chỉ trở thành sự thật khi Thiên Chúa từ trời cao đến cư ngụ trên đất đã bị chúc dữ, nguyền rủa, và ở lại trên đất ấy với con người.

Vì thế, mầu nhiệm Nhập Thể cũng chính là mầu nhiệm Nhập Thế, khi “Thiên Chúa làm người” xuống trên đất này, ở giữa thế giới này, cư ngụ ngay trong nhà của những con người tội lỗi này để yêu thương, chữa lành, cứu chuộc. Với “Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng tôi”, đất đã bị nguyền rủa, chúc dữ xưa, nay được tẩy rửa để nên đất mới, đất lành, đất sinh mầm ơn cứu rỗi. Với Thiên Chúa đến và cắm lều cư ngụ trên đất của con người, từ nay con người không còn sợ bị Thiên Chúa xua đuổi, trục xuất (x.St 3,24), cũng không như Cain bị Thiên Chúa qưở trách : “Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta. Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra” (St 4,10-11), và Cain cay đắng thở than : “Hình phạt dành cho con qúa nặng, không thể mang nổi. Đây, hôm nay, Ngài xua đuổi con khỏi mặt đất. Con sẽ phải trốn tránh để khỏi giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt trên mặt đất, và bất cứ ai gặp con sẽ giết con” (St 4,13-15).

Mùa vọng về với niềm hy vọng “đất người” được đón Thiên Chúa đến “làm người và cư ngụ giữa loài người”, để đất người cằn khô được ơn Cứu Độ tưới mát, đất chết chóc được trở nên “đất hứa”, “một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất chảy sữa và mật ong” (Xh 3,8), đất sinh gai góc tội lỗi được trở thành vườn nho tuyệt vời (x. Mt 20,1-16), và đất hoang, không sự sống trở thành đồng cỏ xanh tươi có dòng nước trong lành (x. Tv 23), nhà của con người có Thiên Chúa, nhà của Thiên Chúa ở giữa con người (x. Ga 1,11.14).

Về mục lục

.

MÙA VỌNG MONG CHÚA ĐẾN

Lm Nguyễn Xuân Trường

Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng khởi đầu một năm phụng vụ mới. Nếu ngày đầu năm được gọi là ngày Tết: Tết Ta, Tết Tây, thì ngày Chúa Nhật đầu năm phụng vụ phải là ngày Tết Đạo – ngày tết kết nối tình Chúa, tình người để sống vui tin yêu, vui hy vọng mong Chúa đến.

Mùa Vọng bắt đầu. Vậy Vọng là gì? Vọng có nghĩa là mắt nhìn, trí hướng, lòng mong về nơi, về người mà mình yêu mến nhớ nhung như người Việt thường nói: “Vọng về quê hương,” “Vọng phu chờ chồng.” Thế nên Mùa Vọng mời gọi chúng ta hướng về chính Chúa trong cả 3 chiều kích thời gian: Hướng về quá khứ mừng Chúa giáng sinh, hướng tới tương lai mong chờ Chúa quang lâm, và nhất là hướng vào hiện tại để mời Chúa ngự vào lòng mình, gia đình mình, giáo xứ mình.

Để Chúa ngự vào lòng mình, vào nhà mình thì chúng ta cần chuẩn bị sẵn sàng. Trong cuộc sống thường ngày, để đón một vị khách tới nhà, chúng ta luôn dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, chuẩn bị mọi sự đầy đủ đón khách. Càng mến khách chúng ta càng chuẩn bị chu đáo. Thế thì, để đón Chúa đến, chúng ta cũng cần dọn dẹp những đam mê nết xấu, và chuẩn bị đời sống vui vẻ hiền hòa, đứng đắn đàng hoàng như các bài đọc Lời Chúa hôm nay nói đến.

Mùa Vọng cũng là mùa hy vọng những điều tốt đẹp. Chúa Trời đến để yêu thương, để cứu độ con người là điều tốt đẹp nhất chon nhân loại. Một mặt, chúng ta đặt niềm hy vọng vào Chúa; mặt khác, Chúa cũng muốn mỗi người chúng ta, đặc biệt là giới trẻ, trưởng thành toàn diện để trở thành niềm hy vọng cho cha mẹ, gia đình, Giáo hội và xã hội như lời mời gọi của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm nay. Muốn được như vậy thì hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô để Chúa có thể nói với mỗi người: “Con là niềm hy vọng của Ta”. Amen.

Về mục lục

.

CHỜ CHÚA ĐẾN

  Lm. John Nguyễn

 Mùa vọng là mùa của chờ đợi và hy vọng. Đây là thời gian chuẩn bị đón mừng lễ Giáng sinh, mừng Con Thiên Chúa đến trong thế gian để mang lại sự hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại. Trong mỗi chúng ta luôn khát khao được sống trong yêu thương, an lành và hạnh phúc, nhưng trong thực tế thì không phải ai cũng đạt được những điều mình mong ước trong cuộc sống. Thế thì, đâu là ý nghĩa của việc chờ đợi và hy vọng của Mùa Vọng?.
Vào Mùa Vọng năm 2008, tôi có dịp đi vào những vùng sâu, và viếng thăm những người nghèo. Tôi đến thăm một bé trai 9 tuổi bị bệnh ung thư máu, em đã nằm trên giường bệnh nhiều năm, thân hình tàn tạ chỉ còn da bọc xương, em đang chờ đợi cái chết sẽ xẩy đến trong một thời gian ngắn. Lúc ấy, tôi thầm nghĩ trong lòng, tôi sẽ đưa em đi bệnh viện để em có thể sống được lâu hơn, vì gia đình em quá nghèo. Họ không còn tiền để mua thuốc hay một hộp sữa cho em uống. Tôi hỏi người mẹ có cho em ăn gì chưa? Chị ta trả lời: ” Hôm nay, nhà em không còn tiền và cũng không gì để ăn” Nghe lời chị ta nói, lòng tôi như bị thắt lại. Ngôi nhà thì rách nát, tả tơi, ngay cả chỗ em nằm cũng không được bảo đảm. Khi nhìn thấy hoàn cảnh đứa bé, tôi bị xúc động trước nỗi bất hạnh của em. Tôi đến cầm lấy tay và đỡ em ngồi dậy.Tôi nhìn đôi mắt của em, thì hai dòng nước mắt chảy xuống gò má gầy gò, và lúc đó tôi cũng không thể cầm được nước mắt của mình. Mặt dù, tôi không thể nói được điều gì với em, nhưng tôi tin chắc rằng, em sẽ hiểu được tình cảm của tôi dành cho em. Trước khi từ giã em ra về, tôi hứa với em rằng, tôi sẽ trở lại để đưa em đi bệnh viện. Đó là điều mong ước nhỏ nhoi của tôi. Thế nhưng, tôi chưa kịp quay trở lại, thì em đã vĩnh viễn ra đi.
Cậu bé đã từng có những hy vọng và chờ đợi. Hy vọng một tương lai tốt đẹp. Chờ đợi một phép lạ xẩy ra để em được sống, nhưng tất cả đều vô vọng, và em đã kết thúc cuộc đời. Và tôi luôn mang trong mình một nỗi khắc khoải về những gì mình chưa làm được với một lời hứa. Từ kinh nghiệm này giúp tôi liên tưởng đến ý nghĩa của sự chờ đợi và hy vọng.
Chờ đợi không chỉ là mong đợi những điều tốt có thể sẽ xảy ra trong tương lai, mà là biết nhận ra những ân ban của Thiên Chúa cho ta trong cuộc sống hiện tại này. Giá trị của cuộc sống hiện tại của con người là kết quả cho cuộc sống tương lai tốt đẹp. Chờ đợi không chỉ đón nhận những điều tốt mà thôi, nhưng là còn phải chấp nhận những gì ngoài ý muốn của mình. Hơn nữa, chờ đợi không phải là ngồi đó để than van, trách móc, tủi hờn cho số phận, nhưng phải biết tìm kiếm và im lặng để lắng nghe được tiếng Chúa nói trong ta, và thực hiện bằng việc làm cụ thể.
Mùa vọng là cơ hội tốt để cho chúng ta nhìn lại thời gian qua, sống với giá trị hiện tại, và hướng tới tương lai vĩnh cửu. Lời Chúa nhắc bảo chúng ta là hãy sẵn sàng và tỉnh thức trong mỗi hoàn cảnh và thời khắc, vì chúng ta chẳng biết giờ Chúa đến với mỗi người chúng ta. “Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!” Và ngày đó, Thiên Chúa phán xét chúng ta về lòng bác ái và yêu thương. Chân lý cuối cùng của cuộc đời là tình yêu: Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người.Vì yêu thương con người, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm Người, sống kiếp con người với chúng ta, và Ngài chết cho con người để mang lại hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại, thì giờ đây Chúa đang ở cùng với chúng ta, và nơi những người anh em. Những người bất hạnh đang bị bỏ rơi, những người già bệnh tật, cô đơn, những trẻ em mồ côi đang cần có tình thương…
Có những mãnh đời đã đi qua đời tôi, nhưng tôi vẫn vô tình, thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, vì cái tôi chật hẹp và ích kỷ. Hình ảnh cậu bé ngày xưa vẫn còn đọng lại trong tôi như là một lời nhắc nhớ rằng: chờ Chúa đến không phải chỉ là ước mong những điều tốt đẹp cho mình, nhưng là phải biết chia sẻ, cảm thông, yêu thương. Chờ Chúa đến không phải là lúc ta ngồi đó để than vãn, oán trách cho số phận mà là hãy sẵn sàng, tỉnh thức, cầu nguyện và bác ái trong Mùa Vọng.

Về mục lục

.

BẢO VỆ VÀ TÔN TRỌNG SỰ SỐNG

 Lm. Bosco Dương Trung Tín

    “Đến đây ta cùng lên núi Đức Chúa; lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp, để Người cho ta biết lối của Người và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ” (Is 2,3).

   “Núi Đức Chúa” là một nơi CAO. Bởi đó chúng ta thấy, thường những nơi cầu nguyện, những đền thờ được xây cất thường ở trên một chỗ cao; có khi là một ngọn núi. Nơi CAO, đó là một hình ảnh vượt lên trên những gì là đời thường, những gì là cuộc sống nhân sinh của con người chúng ta. Nơi CAO đó, có Chúa Trời ngự trị.

  “Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp” là một ngôi NHÀ được dựng lên, để con người chúng ta đến và cầu nguyện. Ngày nay, đó là những Đền Thờ, Nhà Thờ, nơi yên tĩnh để chúng ta gặp Chúa và cầu nguyện. Đó cũng có thể là căn nhà Nội Tâm, là tâm hồn của ta hay căn phòng riêng của ta đang ở. Tất cả những nơi đó đều có thể giúp ta gặp Chúa và cầu nguyện.

   Về Đền Thờ và Nhà Thờ thì có khi hơi xa chỗ ta ở, đôi khi ta có thể đến đó được; như ngày Chúa nhật chẳng hạn, chúng ta cùng với mọi người tham dự Thánh Lễ, mỗi tuần một lần. Thế nhưng trong căn nhà Nội Tâm hay căn phòng riêng của ta, nơi này lúc nào chúng ta cũng có thể gặp Chúa và cầu nguyện được.

   Chúng ta có thể tự hỏi rằng : Ngày nay, chúng ta có thể làm gì trong một xã hội đầy những biến động và xô bồ này ? Tôi nghĩ, đây là câu trả lời. Sau một ngày làm việc ở công sở, ta hãy về lại với căn nhà nội tâm của ta; về với căn phòng của ta, để ta gặp Chúa và nói chuyện với Ngài. Đừng có lúc nào cũng dán mắt vào Iphone, hãy thinh lặng và cầu nguyện.

  Đức Giê-su đã nói: “Đã có lời chép rằng: Nhà Ta là Nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Lc 19,46). Đúng vậy, nếu chúng ta làm cho căn nhà nội tâm hay căn phòng riêng của ta thành NHÀ cầu nguyện thì tốt biết mấy. Nhưng có mấy ai làm được. Chúng ta chỉ biến căn phòng của ta thành sào huyệt của bọn cướp thôi, nghĩa là chúng ta tự “cướp đi’ nơi để ta gặp Chúa, nơi để ta cầu nguyện, thay vào đó là Iphone hay những việc làm khác.

   Iphone có thể giúp ích cho ta trong cuộc sống hằng ngày hay công việc, nhưng sẽ không giúp ích gì nhiều cho ta trong đời sống thiêng liêng cả. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã nói với giới trẻ Nhật Bản rằng: “Chúng ta không “Selfie” linh hồn ta được”.  Điều đó có nghĩa là máy móc dù cho có thông minh và hiện đại bao nhiêu cũng không thể nào giúp ta gặp Chúa và cầu nguyện được. Chỉ có thinh lặng mới giúp ta có đời sống nội tâm sâu sắc, khả dĩ cân bằng con người của ta giữa linh hồn và thân xác.

   Nếu không có sự cân bằng này, thì sớm muộn gì cũng làm cho con người chúng ta có một lỗ hổng lớn, dù chúng ta có nhiều tiền nhiều của, danh vọng hay chức quyền và một ngày nào đó chúng ta sẽ chán sống thôi. Điều này được tỏ rõ qua những cái chết của những người trẻ, được coi là đang trên đà danh vọng mà lại “tự tử”.

   Thế nhưng bạn sẽ hỏi, về căn nhà nội tâm, về căn phòng riêng của mình, tôi sẽ làm gì ? Thinh lặng và ở một mình thì chán lắm !!!!!!! Đúng vậy, chỉ thinh lặng và ở một mình thì thật là chán, chẳng khác nào hỏa ngục. Chúng ta thinh lặng là để gặp Chúa và nói chuyện với Chúa. Để Chúa “dạy ta biết lối của Người và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ”.

   Thường thì người ta đến cầu nguyện, thì chỉ xin cái này, xin cái kia thôi. Nếu Chúa cho thì đến cầu tiếp, không thì bái bai. Đó không phải là cầu nguyện, mà là đi XIN, giống như đi “ăn xin” ấy mà. Cầu nguyện được định nghĩa là “Nâng tâm hồn lên tới Chúa” mà chứ đâu phải chỉ có XIN.

   Theo Lời Chúa trích sách tiên tri I-sai-a hôm nay, cầu nguyện là để Chúa dạy ta biết lối của Người và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ”. Chúa dạy gì cho ta?

    Chúa dạy rằng : “Chúa sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc”, trong đó có mỗi người chúng ta nữa. Do đó, nếu chúng ta có bị cư xử bất công, chúng ta đừng lo lắng hay buồn sầu chi, Chúa sẽ phân xử cho ta thôi. Chúa sẽ trả lại cho ta sự công bằng, không ở đời này thì ở đời sau. Có nghĩa là có khi Chúa trả lại sự công bằng cho ta ngay ở đời này, ngay thời hiện tại. Nếu không có, ta cứ vững tâm, Chúa sẽ trả lại cho ta ở đời sau thôi, không mất đi hay thiệt thòi chi đâu mà sợ.

   Quan trọng là ta có lòng tin vào Chúa hay không. Nếu ta tin, tâm hồn ta sẽ có sự an bình và ta tiếp tục sống vui và làm việc hăng say. Chúa đã nói : “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi con Người đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất này nữa chăng?” (x. Lc 18, 7-8).

   Chúa sẽ dạy tiếp :  “Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày; rèn giáo mác nên liềm, nên hái”, để “dân này nước nọ không còn vung kiếm đánh nhau và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến”. Nghĩa là Chúa kêu gọi các dân nước và mỗi người chúng ta hãy cùng nhau xây dựng một thế giới hòa bình. Mọi người phải tôn trọng sự sống. Tôn trọng sự sống của con người, của thiên nhiên, của vạn vật.

   Đó cũng là chủ đề cho cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đến Nhật Bản trong thánh 11 vừa qua: “Protect all life” (すべての命を守るため)

   Nói chi cho xa, hãy nghĩ đến chính bản thân mình trước. Chính bản thân mình đừng có ghen ghét hay ganh tị ai đó nữa; đừng có tranh dành hơn thua với ai đó nữa; đừng có nói hành, nói xấu ai đó nữa; đừng có trù dập hay chê bai ai đó nữa; ta hãy thôi những chuyện chửi bới hay đấm đá ai đó nữa.

  Ta hãy đúc những “ghen ghét” thành “yêu thương”; “ganh tị” thành “cố gắng”; Rèn “hơn thua” thành “tôn trọng”; rèn “nói hành” thành “nói đúng”; rèn “nói xấu” thành “nói tốt”, kiếm cái gì tốt mà nói; rèn “trù dập” thành “trân trọng”; biến “chê bai” thành lời “khuyến khích, an ủi”.

  Đây là thái độ và việc làm căn bản mà mỗi người chúng ta cần làm.  Có như thế, tâm hồn ta sẽ tràn đầy bình an và thế giới này sẽ có hòa bình.

   Đó là đường lối của Chúa; đó là điều Chúa muốn chỉ dạy cho mỗi người chúng ta đó. Ta hãy thinh lặng, vào căn nhà nội tâm mà suy nghĩ; về với căn phòng riêng của ta mà suy gẫm: Ta sống ở đời này để làm gì và sẽ đi về đâu?

   “Giàu có mà bước đi như thây ma nào có ích chi”(Đức Phan-xi-cô).

   “Được lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì” (Đức Giê-su).

  “Thông minh mà không trí tuệ thì không bảo vệ và không tôn trọng ai cả” (Lm. Bosco). Như Iphone được gọi là “điện thoại thông minh”, nhưng nó vô tri vô giác, không có trí tuệ, được cài làm sao nó vận hành như vậy.

   Sống mà không có mục đích, không có hy vọng, thì cũng giống như Iphone, thì sống làm chi phải không bạn !!!!!!!!!!!!!!!

   Vậy chúng ta hãy bảo vệ sự sống; hãy tôn trọng phẩm giá của mỗi người. Hãy bảo vệ thế giới này, vì chúng ta là một. Chúng ta bảo vệ, chúng ta tôn trọng sự sống với sức mạnh của tình yêu thương, để ta nên người trí tuệ. Đó là đường lối của Thiên Chúa. Đó là mục đích chúng ta theo đuổi và chúng ta hy vọng sẽ đạt được.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG. NĂM A

Lm. Antôn

Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta bước vào Mùa Vọng. Tại sao gọi là Mùa Vọng?  Mùa Vọng, dịch từ tiếng La tinh “Adventus”, có nghĩa là “đến.”  Vọng là mong đợi, mong chờ điều sắp đến.  Mùa Vọng có 4 nghĩa sau đây. Thứ nhất, Mùa Vọng nhớ lại thời gian dân Do thái mong đợi Đấng Messia (là Chúa Giê-su Kitô)  đến để “giải phóng” dân Israel khỏi ách nô lệ lầm than, đau khổ.  Chúa đã khiêm nhường đến lần thứ nhất cách đây hơn 2 ngàn 19 năm, để giải thoát con người khỏi sự đau khổ, hình phạt do tội lỗi gây nên, bằng giáo lý tình yêu, tha thứ, bằng lòng thương xót và cái chết của Ngài. Thứ hai, Mùa Vọng còn có ý nghĩa chuẩn bị đón Chúa Giê-su Kitô sẽ đến lần thứ hai vào ngày tận thế. Không ai biết được ngày giờ nào.  Nghĩa thứ ba, ngày nay, Mùa Vọng là mùa để dọn tâm hồn mừng kỷ niệm lễ Chúa Giáng sinh vào ngày 25 tháng 12.  Và nghĩa thứ tư cuối cùng là mỗi người cần “tỉnh thức, sẵn sàng” đón Chúa đến vào ngày tận thế đời mình, tức là giờ chết, để ra trước tòa phán xét của Chúa thưởng hay phạt.

Thời gian Mùa Vọng được Giáo hội ấn định dài 4 tuần trước lễ Giáng Sinh để nhớ thời gian dân Do thái, sau khi được đưa ra khỏi đất nô lệ Ai cập ,đã đi lang thang trong sa mạc 40 năm trước khi được vào đất hứa.  Chúng ta thấy có vòng hoa 4 cây nến trước bàn thờ đây tượng trưng cho 4 tuần trước lễ Chúa Giáng sinh, mỗi tuần đốt thêm một cây. Ba cây màu tím tượng trưng cho sám hối, và một cây màu hồng sẽ đốt lên vào Chúa nhật thứ 3, nói lên niềm vui như Thánh Phaolô kêu gọi: “Hãy vui lên… vì Chúa đang đến!” Nến cháy tượng trưng cho ánh sáng Chúa Kitô, và ám chỉ đức tin phải được cháy sáng lên.  Vòng hoa tròn với cành lá xanh tượng trưng cho sự sống muôn đời. Trái hồ đào dùng để trang trí trên vòng hoa tượng trưng cho sự sống lại, tiêu biểu cho sinh lực, cho đời sống đức tin Kitô hữu.

Như chúng ta biết bài đọc trong Thánh lễ theo chu kì luân chuyển 3 năm A, B, C.  Năm nay là năm A, vì thế chúng ta sẽ đọc Tin mừng thánh Mát-thêu.  Qua năm tới, năm B, thì sẽ đọc Tin mừng thánh Mác-cô, và năm sau đó là năm C, sẽ đọc Tin mừng thánh Lu-ca, và tiếp tục luân chuyển thứ tự.  Trong Mùa Vọng, chúng ta được kêu gọi thực hành những lời dạy bảo của thánh Gioan Tiền hô: “Hãy dọn đường đón Chúa. Quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy, nơi cao phải bạt xuống.  Đường là cuộc sống, tâm hồn.  Quanh co là lừa dối, gian dối, thù ghét. Gồ ghề là tham lam, nghiện ngập.  Hố sâu là ích kỷ, lười biếng và cá nhân thu hẹp.  Đồi cao là sự tự cao, kiêu căng và tự ái.  Đối với cá nhân, gia đình và cộng đoàn, trong Mùa Vọng này được kêu gọi nên xây một “hang đá tâm hồn” cho Chúa Hài Đồng, theo tinh thần 3 của lễ của 3 nhà đạo sĩ mang tới dâng Chúa là vàng, mộc dược và nhũ hương.  Của lễ thứ nhất là vàng, có nghĩa là sống giới luật Yêu Thương, mến Chúa, yêu người; của lễ thứ hai là mộc dược, là những việc hi sinh hãm mình. Hy sinh thời giờ tình nguyện phục vụ, giúp đỡ, có lòng bác ái và quảng đại chia sẻ ơn lành của Chúa với những người nghèo khổ. Của lễ thứ ba là nhũ hương, có nghĩa siêng năng cầu nguyện hơn, tham dự Thánh lễ sốt sắng, đồng thời tham gia tuần tĩnh tâm và xưng tội do giáo xứ tổ chức. Nhất là chú tâm lắng nghe và can đảm sống Lời Chúa dạy để đổi mới tâm hồn.

Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, và tỉnh thức chờ đợi. Bài đọc 1 cho chúng ta biết vào thế kỷ 7 trước Công nguyên, vương quốc miền Bắc Giu-đê-a Do thái thịnh vượng về mặt vật chất, nhưng lại rất suy đồi về mặt tinh thần, đạo đức và luân lý. Trước tình trạng ấy, ngôn sứ Isaia đã thẳng thắn vạch tội dân và kêu gọi họ ăn năn sám hối.  Ngài báo cho họ biết nếu biết ăn năn trở lại thì sẽ sống trong an bình, hạnh phúc, và Thiên Chúa sẽ ban cho họ một tương lai tốt đẹp, sẽ bước đi trong ánh sáng của Chúa.

Trong bài đọc 2, thánh Phaolô tuyên báo rằng ngày tươi sáng đó rất gần rồi.  Ngài nói: “Giờ đây phần rỗi của chúng ta gần đến.  Ðêm sắp tàn, ngày gần đến.”   Ngài giải thích cho chúng ta biết thế nào là tỉnh thức sẵn sàng. Trước hết, tỉnh thức sẵn sàng là: “từ bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu.” Có nghĩa là phải hãm mình và tích cực chiến đấu để loại trừ sự dữ, tội lỗi và thói hư tật xấu ra khỏi bản thân, phải cố gắng và hi sinh để có đời sống đạo đức, thánh thiện và yêu thương.  Ngài còn cho chúng ta biết tỉnh thức sẵn sàng là: “thay đổi cách sống.” Từ bỏ nếp sống cũ theo xác thịt, thể hiện trong việc ăn uống say sưa, nghiện ngập, phóng đãng, tranh chấp, ganh ghét, ích kỷ, lo lắng thỏa mãn phần xác, thay vào đó bằng một cuộc sống mới theo gương Chúa Giêsu Kitô, là hy sinh, phục vụ, yêu thương và quảng đại.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta biết “Ngày Của Chúa” sắp đến, nhưng Chúa đặc biệt lưu ý ba điều quan trọng.  Thứ nhất, ngày ấy sẽ đến một cách không ai ngờ cũng như chuyện Hồng thuỷ thời Nôe, thiên hạ cứ mải mê với những chuyện thế tục: “Người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Nôe vào tàu mà người ta cũng không ngờ.”  Có nghĩa là họ chỉ chú trọng tới cuộc sống vật chất, thú vui, thờ ơ với đời sống tinh thần và Lời Chúa. / Thứ hai, trong Ngày ấy, số phận loài người sẽ phân thành hai hạng khác nhau: có người sẽ được nhận vào hưởng tương lai hạnh phúc với Chúa, nhưng có người sẽ bị bỏ lại, có nghĩa là không những không được hưởng hạnh phúc Nước Trời, mà còn bị hình phạt.  Ðược tiếp nhận hay bị bỏ lại là do mọi người chúng ta có chuẩn bị sẵn sàng hay không. Chúa không muốn xét xử chúng ta bất ngờ hay bất công, vì thế, Chúa dùng mọi phương cách và nhiều người để khuyên dạy chúng ta, và chính Chúa cũng khuyên dạy chúng ta: “Vậy các con phải sẵn sàng.”

Trong cuộc sống đã có biết bao lần Chúa khuyên dạy và mang ơn sủng đến cho chúng ta, nhưng một số người cứng lòng, khinh thường trước Lời Chúa dạy, hay chúng ta không nhận được bởi vì tâm hồn chúng ta xa Chúa, thờ ơ, hình thức bề ngoài, hay không chuẩn bị sẵn sàng để tiếp nhận.   Vì thế, Chúa kêu gọi chúng ta: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn.

Trong mùa Vọng này, chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta biết canh tân đời sống tinh thần và đức tin, bằng cách chú ý và thành tâm lắng nghe Lời Chúa dạy bảo và can đảm thực hành trong đời sống hàng ngày, để đức tin của chúng ta vững mạnh và sống động hơn, sống mật thiết với Chúa hơn, và để chúng ta luôn sống trong ơn sủng và bình an của Chúa.

Về mục lục

.

CON NGƯỜI SẼ ĐẾN

Bông hồng nhỏ

Khởi đầu mùa Vọng, Giáo hội mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy chuẩn bị tâm hồn mình đón chờ Chúa đến. Chúa đang đến trong tâm hồn mỗi người. Ta có thật sự tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến trong tâm hồn mình không? Cuộc sống vẫn tiếp diễn, nhịp sống vẫn hối hả đẩy con người về phía trước, lắm lúc làm họ mất phương hướng, quên đi mục tiêu, vùi lấp khát vọng thật sự của lòng mình: kiếm tìm hạnh phúc. Người ta có thể thành công trong sự nghiệp nhưng lại đánh mất hạnh phúc đích thực, hoặc họ không hay biết về một hạnh phúc đang mong chờ họ đón lấy. Hạnh phúc ấy chính là được Chúa đến viếng thăm.

Thầy Giêsu đã cho các môn đệ biết về thái độ mà họ phải có để đón chờ ngày Con Người quang lâm. Vào thời ông Nôê, người ta chẳng hay biết gì về nạn hồng thủy. Thấy ông Nôê đóng tàu, chuẩn bị theo lời Thiên Chúa chỉ dạy, mọi người đều chê cười, cho rằng ông không bình thường. Họ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng. Đến ngày ông Nôê vào tàu, họ vẫn không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy, chỉ còn gia đình ông Nôê sống sót. Sẽ đến ngày Con Người quang lâm, ngày ấy cũng đến cách bất ngờ, vì không ai biết ngày ấy là ngày nào. Chỉ những ai biết canh thức và sẵn sàng, họ mới xứng đáng được cứu.

“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24,42). Chúa đến mang bình an và hạnh phúc cho con người. Việc canh thức để đón Chúa đến không phải là một điều dễ dàng, vì lắm lúc ta dễ ngủ mê trong tội lỗi, bị lạc đường. Khi gặp sóng gió trong cuộc đời, ta cũng có thể đánh mất niềm tin và hy vọng. Khi nỗi chán nản và âu lo bủa vây giăng mắc, ta mất dần khả năng chiến đầu. Canh thức không chỉ là công việc đòi hỏi ta phải có một ý chí mạnh mẽ nhưng còn đòi hỏi một tinh thần biết cầu nguyện. Chỉ khi cầu nguyện, ta mới có đủ sức mạnh để vượt qua những thử thách trong cuộc đời, chỉ khi cầu nguyện, có Chúa đồng hành, ta dần cảm nến được niềm hạnh phúc khi được thuộc về Chúa. Càng cảm nếm hạnh phúc được Chúa viếng thăm, ta càng khát khao được thuộc về Chúa mãi mãi. Như thế, tỉnh thức và biết dựa vào Chúa, biết để Chúa là chủ đời mình, biết đặt Chúa làm trung tâm cuộc sống mình.

Tỉnh thức không phải là dựa vào sức riêng nhưng là biết đặt cuộc đời mình trong quyền năng và tình yêu của Chúa, nỗ lực hết mình như Chúa muốn và trao lại cho Chúa khi Người mời gọi. Tỉnh thức còn là biết sống yêu thương, chia sẻ, biết lưu tâm đến hạnh phúc của người khác, biết trở thành sứ giả loan báo Tin Mừng bình an cho họ. Chắc chắn, trên quãng thời gian đằng đẵng chờ đợi, sẽ có những lúc ta rơi vào buồn chán, nhưng đừng bao giờ đánh mất niềm hy vọng vào Chúa, đừng đánh mất bản thân. Hãy cậy trông vào Chúa, vì chính Người là niềm hạnh phúc ta đang kiếm tìm. Khi đã cảm niếm được niềm hạnh phúc được Chúa viếng thăm, ta hãy can đảm nói cho người khác biết về hạnh phúc ấy và giúp họ được nhận biết Chúa. Đó là việc ta cần làm trong lúc chờ đợi ngày Chúa quang lâm.

Về mục lục

.

CHỜ ĐỢI TRONG HY VỌNG

Gm Giuse Vũ Văn Thiên
.
Ai trong trong chúng cũng đã có lần chờ đợi: chờ đợi một biến cố quan trọng trong đời; chờ đợi người đi xa trở về; chờ đợi một tin vui của người thân. Cuộc chờ đợi nào cũng làm chúng ta hồi hộp lo lắng xen lẫn với khấp khởi mừng vui. Trong khi chờ đợi, thời gian dường như trôi đi rất chậm, rất dài.
 
Mùa phụng vụ đầu tiên trong năm mới có tên là Mùa Vọng hay Mùa Đợi. Chúng ta chờ đợi Chúa đến. Đức Giê-su đã đến hai ngàn năm nay trong lịch sử, nhưng đối với mỗi cá nhân sống trên cõi đời này, thì Người vẫn đang đến. Và thế là, mỗi ngày sống của chúng ta trên trần gian là một ngày chờ đợi để gặp Chúa. Cuộc gặp gỡ này mang màu sắc lạc quan hay bi quan tùy thuộc vào thái độ sống của mỗi người. Đối với ai thành tâm kiếm tìm Chúa thì cuộc gặp gỡ ấy là niềm vui và hạnh phúc. Đối với ai chỉ coi giá trị vật chất đời này là đích điểm, thì cuộc gặp gỡ ấy lại là sự kết án đau thương.
 
Để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ yêu thương giữa Thiên Chúa với con người, Phụng vụ Mùa Vọng mở đầu bằng lời kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Chúa Giêsu trích dẫn sự kiện trong lịch sử Thánh Kinh mà người Do Thái nào cũng biết, đó là biến cố Đại Hồng thủy. Khi ông Nôê đóng tàu thì có nhiều người chê cười ông. Nhưng khi nước dâng lên thì họ bị nước cuốn trôi. Chúa kêu gọi mọi người hãy học bài học lịch sử đó như một kinh nghiệm sống, để luôn chuẩn bị sẵn sàng, vì không biết giờ nào và ngày nào sẽ là lúc tận cùng của cuộc sống cá nhân chúng ta. Lúc tận cùng ấy huyền nhiệm và khó hiểu, được diễn tả như việc có hai người đang làm ruộng, hay hai người đang xay bột, một người được để lại và người kia được đem đi. Hay cũng bất ngờ như người chủ đi xa trở về bất chợt, vào lúc những người giúp việc không ngờ.
 
Tỉnh thức để đón Chúa, người tín hữu cũng được kêu mời tỉnh thức đối với anh chị em mình. Ngày nay người ta nói nhiều đến chứng bệnh vô cảm. Con người trở nên dửng dưng lạnh lùng trước những nhu cầu và nỗi đau của người thân hoặc những người xung quanh. Con đường dẫn ta đến gặp Chúa là con đường được nối kết bằng những việc bác ái ta làm đối với anh chị em mình. Bởi lẽ chúng ta không chỉ đi một mình đơn lẻ để gặp gỡ Chúa, mà ta đi với anh chị em, trong tình mến thân thiện của những người có cùng một Cha trên trời là Thiên Chúa tối cao. Không thể sống tinh thần Mùa Vọng mà lại dửng dưng hay thù ghét anh chị em của mình. Khi Chúa đến gặp ta, Người sẽ xét xử về cách sống của ta đối với những người xung quanh, nhất là những người nghèo khổ và bất hạnh. Như vậy, “tỉnh thức” có nghĩa là quan tâm đến người khác và ân cần giúp đỡ họ.
 
Lời Chúa trong ngày mở đầu Năm Phụng vụ mang sắc thái của một lời hiệu triệu, kêu gọi mọi tín hữu hãy lên đường tiến về Giêrusalem để đón Chúa. Những hình ảnh được diễn tả trong Bài đọc I cho thấy Giêrusalem là trung tâm điểm của thế giới. Mọi nơi đều hướng về trong niềm vui mừng hân hoan. Đây là sự khai mở một triều đại mới của lịch sử. Chúa đến để chúc phúc cho dân người. Nếu chúng ta lắng nghe lời hiệu triệu này mà đón Chúa, thì cuộc sống của chúng ta sẽ an bình tốt đẹp và nở hoa. Có Chúa hiện diện, sẽ không còn chiến tranh. Con người sẽ “đúc gươm đao thành cuộc thành cày; rèn giáo mác nên liềm nên hái”. Một xã hội thanh bình sẽ được thiết lập nếu ta biết mở rộng tâm hồn để đón Chúa và thực thi giáo huấn của Người.
 
Hãy thức dậy những ai ngủ mê! Hãy ra khỏi bóng tối của ích kỷ hận thù, để bước vào ánh sáng huyền nhiệm của bác ái thứ tha. Sống theo ánh sáng, đó là một điều kiện không thể thiếu đối với những ai muốn đi theo và làm môn đệ của Đức Giêsu. Những ai thiện chí sống theo ánh sáng, phải can đảm bước ra khỏi đêm đen, vì ánh sáng và đêm đen lại hai thực tại bất dung hòa. Thánh Phaolô khuyên chúng ta, hãy loại bỏ những việc làm đen tối… hãy ăn ở đứng đắn như người sống giữa ban ngày… không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng (Bài đọc II).
 
Cuộc đời này là sự chờ đợi liên lỉ. Chờ đợi Chúa không giống như tìm kiếm sự may rủi hay chờ một cơ hội có ngẫu nhiên, có thể đến mà cũng có thể không. Chúng ta chờ đợi Chúa trong niềm hy vọng và sự xác tín vào quyền năng của Ngài, và chắc chắn Người sẽ đến. Cuộc đời này được sánh ví như một con đường. Mỗi người chúng ta đang đi trên con đường đó. Ở cuối của con đường này, Chúa đang chờ đợi chúng ta, vì thế mà sự đợi của chúng ta là chờ đợi trong hy vọng. Chúng ta cũng tin chắc Chúa là Đấng yêu thương, luôn dành những điều bất ngờ cho những ai giữ một lòng trung tín và cậy trông nơi Người.

Về mục lục

.

SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA

Tgm. Ngô Quang Kiệt

Hôm nay cung thánh đượm vẻ u buồn. Bàn thờ đạm bạc không hương hoa. Lễ phục mang màu tím. Màu tím của lặng lẽ hy sinh. Màu tím của âm thầm cầu nguyện. Màu tím của tha thiết đợi chờ. Màu tím ấy nhắc cho ta biết: hôm nay ta đã bước vào mùa Vọng.

Mùa Vọng là mùa đợi chờ. Đợi chờ Chúa đến cứu độ ta. Cuộc đời ta quá nhiều đau khổ, quá nhiều tội lỗi, quá nhiều bế tắc. Chỉ có Chúa mới có thể thay đổi đời ta, giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, đưa ta vào tình trạng thánh thiện của con cái Chúa.

Như thế mùa Vọng cũng là mùa hy vọng. Đợi chờ chính là hy vọng. Như thế trong màu tím buồn chờ đợi đã thấy thấp thoáng màu xanh hy vọng vui tươi. Nhưng làm sao để màu tím biến thành màu xanh? Làm sao nắm bắt được niềm hy vọng? Làm sao gặp được Chúa khi Người ngự đến? Lời Chúa sẽ hướng dẫn ta sống tinh thần mùa Vọng này.

Trong tuần thứ nhất mùa Vọng, Chúa Giêsu khuyên ta noi gương tổ phụ No-e. Tổ phụ No-e đã được cứu thoát khỏi nạn hồng thủy nhờ thái độ sống tích cực trước lời hứa của Chúa. Thái độ tích cực đó gồm hai điểm hỗ tương.

1) Chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào cuộc đời tối tăm hiện tại

Người ta sống nhờ hy vọng. Không có hy vọng, không ai sống nổi ở đời. Cuộc đời phù du mau qua. Cuộc đời tràn ngập đau khổ. Cuộc đời quá nhiều thử thách. Nhờ hy vọng con người mới có thể tiếp tục sống, làm việc, thăng tiến.

Chính vì hy vọng một mùa gặt bội thu mà người nông dân không ngại dầm sương dãi nắng, thức khuya dậy sớm, cần cù cày bừa, gieo vãi và vun tưới.

Chính vì hy vọng đậu đạt mà học sinh, sinh viên không ngại vất vả, ăn uống đơn sơ, giảm bớt vui chơi, đêm đêm chong đèn đọc sách.

Chính niềm hy vọng được cứu thoát đã giúp tổ phụ No-e có đủ can đảm và kiên nhẫn, đầu tư thời giờ và công sức để đóng một con tàu lớn như thế. Niềm hy vọng được nuôi dưỡng bằng lời hứa của Chúa. Tin tưởng vững vàng vào Lời Chúa, tổ phụ No-e sống tràn đầy niềm hy vọng vào tương lai. Niềm hy vọng đó giúp Ngài vượt qua những khó khăn hiện tại.

2) Sống tích cực giây phút hiện tại để chuẩn bị cho tương lai.

Niềm hy vọng vào tương lai giúp ta thêm can đảm. Nhưng nó không cho phép ta thoát khỏi cuộc sống hiện tại. Niềm hy vọng tách rời khỏi thực tế sẽ trở thành ảo vọng. Vì thế muốn đạt tới niềm hy vọng tương lai, ta phải tích cực sống phút giây hiện tại. Phải tích cực làm việc cho tương lai.

Người học trò muốn có tương lai tươi sáng không thể chỉ ngồi đó chờ đợi, nhưng phải ngày đêm chăm lo học hành.

Người nông phu muốn có mùa gặt bội thu không thể khoán trắng công việc đồng áng cho trời đất. Nhưng phải cần cù chăm chỉ dầm mưa dãi nắng.

Tổ phụ No-e không ngồi khoanh tay chờ Chúa đến cứu, nhưng đã bắt tay vào việc. Ngài làm việc cật lực, bất chấp những lời dèm pha, dị nghị của những người chung quanh.

Tục ngữ Pháp có câu: Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp. Tổ phụ No-e đã thực hiện đúng như thế. Ngài đã dồn hết công sức vào việc chuẩn bị tương lai. Và Chúa đã cứu Ngài như lời đã hứa.

Đời sống ta là một mùa Vọng kéo dài. Mùa Vọng trần gian muốn phủ ta trong màu tím buồn của những gian nan thử thách, những thất bại, những chán nản, lo âu, nghi ngờ, mệt mỏi. Ta hãy noi gương tổ phụ No-e, tin tưởng vững chắc vào lời Chúa hứa. Lời Chúa sẽ chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào những tăm tối u buồn hiện tại. Như tổ phụ No-e, ta không ngồi khoanh tay chờ đợi, nhưng tích cực làm việc bổn phận trong hiện tại. Làm mọi việc thường ngày với lòng tin tưởng vững chắc. Làm những việc nhỏ mọn với tình mến Chúa yêu người tha thiết. Đó chính là cách ta sẵn sàng chờ đón Chúa đến. Đó chính là ta tỉnh thức không bị lỡ cơ hội khi Chúa đến.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Amen.

GỢI Ý SUY NIỆM

1) Có nhiều người chỉ quan tâm tới đời sau mà không chịu làm việc hiện tại. Có nhiều người lại chỉ lo làm ăn sinh sống mà không nghĩ đến đời sau. Bạn nghĩ sao về hai thái độ đó?

2) Ta phải sống thế nào để chu toàn nhiệm vụ hiện tại với bản thân, với gia đình mà không quên Chúa, không quên phần linh hồn của mình?

3) Tuần này, bạn sẽ làm gì để chuẩn bị đón Chúa đến?

Về mục lục

.

SỐNG TỈNH THỨC

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Những ngày của tháng 09 và 10 mưa lớn như trút nước, lũ dữ từ thượng nguồn ào ạt đổ về. Nhiều tỉnh duyên hải miền Trung ngập chìm trong biển nước. Nhà cửa, của cải, hoa màu bỗng tiêu tan . ..

Miền Trung năm nay thật là “họa vô đơn chí”, vì hết họa này đến họa khác. Khởi đầu là Formosa tàn phá thiên nhiên khiến ngư dân thất ngiệp, cái đói lặn vào từng gia đình. Rồi liên tiếp lũ lụt lại tàn phá tan hoang đất đai, nhà cửa, hoa màu của cải cuốn trôi theo dòng nước.

Những tai họa của miền Trung đáng buồn là do nhân tai nhiều hơn là thiên tai. Con người đã phá thiên nhiên ở dưới biển khi thải chất độc. Con người lại tiếp tục phá rừng vì thiếu ý thức và vì những công trình thủy điện lãng phí . . .

Nhìn thấy cảnh tượng dân Miền Trung dồn dập tai ương khiến cho chúng ta cũng chạnh lòng với nỗi đau của anh em mình. Không đau sao được khi chỉ trong phút chốc, người dân dải đất miền Trung vốn được xem là khúc ruột của cả nước phải lâm cảnh trắng tay vì tài sản đã bị cuốn chìm trong dòng nước lũ! Không đau sao được khi công sức bao năm chắt chiu, dành dụm chỉ một đêm lũ về thì nửa hạt gạo cũng chẳng còn!

Có một người dân đã nói rằng trong nước mắt: “Chúng tôi đã thức trắng trên nóc nhà với nước trên đầu, nước dưới chân. Chưa bao giờ thấy nước dâng cao như vậy, nhà cửa tan tành hết rồi…” – những lời than như khóc của bao người dân quê nghèo các tỉnh Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh… giữa mênh mông biển nước tựa vết dao cứa lòng người.

Chạnh lòng với nỗi đau của anh em Miền Trung cũng mời gọi chúng ta chia cơm sẻ áo cho anh em. Một gói mì tôm, một chén gạo, một đồng tiền lẻ thật nhỏ bé nhưng được cả cộng đồng ý thức sẽ cứu cả hơn 20 triệu người dân Miền Trung. Đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta cuộc sống này chẳng có gì đảm bảo, tất cả sẽ có thể tan hoang, vuột khỏi tay ta cho dù ta có lắm kho lẫm kiên cố hay tiền dư bạc để rồi cũng chỉ là “phù vân trên mọi phù vân” . . .

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức đừng để ngày khốn đốn xảy đến mà chẳng hay biết gì, như “thời ông Noe, người ta vẫn ăn uống, vẫn cưới vợ, lấy chồng”. Người ta tưởng rằng thế giới mãi mãi là thế, chẳng có gì thay đổi, chẳng có gì phải lo, phải sợ. Chỉ có một mình Noe, ông đã vượt ra khỏi thói quen của mọi người. Một mình ông đóng tàu. Một mình chuẩn bị đối phó với tai hoạ sẽ xảy đến cho ông và cho toàn thế giới. Và vì vậy, cũng chỉ một mình ông và gia đình được cứu thoát còn những người khác đã bị dòng nước cuốn đi khi họ vẫn ăn uống, vẫn đàn hát  . . .

Mùa vọng là mùa đợi chờ, mùa trông mong. Người ta trông mong quà cáp, thư từ, tiền lương, sum họp gia đình nhân dịp lễ Noel. Người tìn hữu còn được mời gọi trông mong ngày Chúa quang lâm. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình. Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức để luôn sẵn sàng đón chờ ngày đó sẽ đến.

Vâng, trong thế giới ngày nay, tình trạng sa đoạ và trụy lạc ngày càng nhiều và lan rộng, đến độ người ta cho rằng phải sống đồi trụy mới là tiến bộ. Chẳng hạn như: quan hệ trước hôn nhân, đồng tính luyến ái, ngoại tình, phá thai và các sách báo, phim ảnh đồi trụy mỗi ngày đều gia tăng. Cuộc sống sa đoạ đến mức mất ý thức về tội, người ta không còn nghĩ đến tội phúc, và cũng chẳng cần nghĩ đến danh dự của phẩm giá con người, người ta chỉ cần thoả mãn nhu cầu dục vọng đam mê của mình . . .

Là người tin Chúa sống trong xã hội băng hoại, ta cần sống chuẩn bị cho đời sau đừng để những thói đời trụy lạc lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa. Hãy tích lũy cho mình kho lẫm ở trên trời là đời sống trong sạch, tiết độ, công bình và bác ái. Đừng mải mê tìm kiếm bổng lộc trần gian mà xa lìa Chúa, vì những của cái ấy chỉ là của đồng lần nay người mai ta. Có khi chỉ một cơn gió thoảng chúng cũng biến tan đi. 

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG

Lm. Giacobe Tạ Chúc 

Mùa Vọng nữa lại về với mỗi chúng ta, sắc màu phụng vụ được chuyển sang màu tím. Như những cánh hoa sim bên chiều mong mỏi đợi chờ, và mong sao tình yêu là chung thủy. Ngày nào chinh phụ ngóng bóng chinh phu, dù đã qua thời khói lửa chiến tranh, nhưng con người vẫn thấy mong manh vô tận. Tỉnh thức vẫn là lối mở cho người Ki-tô hữu bước vào Mùa Vọng. Chúa sẽ đến bất ngờ và không biết ngày giờ nào. Chỉ những ai thức tỉnh, mới có thể gặp được Chúa. 

Những cái chết bất ngờ 

 Thảm họa xảy ra dịp EURO 2012. CĐV người Trung Quốc Jiang Xiaoshan đêm nào cũng thức trắng để xem EURO cùng bạn bè nhưng ngày vẫn đi làm bình thường. Sau 11 đêm liền không ngủ vì EURO, xem xong trận đấu giữa Italia và CH Ireland, Jiang Xiaoshan về nhà vào lúc 5 giờ sáng. Tắm gội xong, anh ngủ thiếp đi và… không bao giờ tỉnh dậy nữa. 

Ngày 5/11/2011, trọng tài 42 tuổi Timoleon Castillo đang điều khiển một trận futsal tại thị trấn Cordero (Tachira, Venezuela). Chẳng hiểu trước đó Castillo đã đưa ra quyết định gây tranh cãi nào mà lúc các cầu thủ mải ăn mừng bàn thắng thì có một kẻ lao xuống sân, dí súng vào đầu ông rồi bóp cò 3 phát. Cảnh sát còn chưa kịp tóm tên sát nhân thì trọng tài Castillo đã mất mạng.

 Tại Việt Nam, theo thống kê của Cục Cảnh sát giao thông năm 2015 cả nước xảy ra 22.827 vụ, làm chết 8.727 người, bị thương 21.069 người.  Và còn nữa nhiều lắm, những cái chết bất ngờ xảy ra trong cuộc đời này, không ai có thể biết trước và đoán trước sinh mạng của mình, ngoài trừ một mình Thiên Chúa. 

Anh em hãy tỉnh thức 

Ngày quang lâm của Chúa xảy ra bất ngờ, khi con người mải mê lo tìm kiếm: danh vọng, của cải, lạc thú trần gian thì Chúa đến. Bất thình lình như một chiếc lưới chụp xuống, như kẻ trộm đến nhà vào ngày giờ chủ không ngờ đến. Tỉnh thức như các cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể, chẳng những mang theo đèn mà còn đổ đầy dầu vào các bình, để thắp sáng mỗi khi chàng rể đến. Vì họ không biết giờ, ngày nào chàng rể sẽ đến. Thái độ thụ động và chủ quan sẽ làm cho chúng ta không kịp trở tay, khi Chúa đến, như con tàu Nô-ê, trong lúc mọi ngươi đang vui hưởng  lợi lộc, bỗng lộc trên trần gian thì nạn hồng thủy ập đến, cuốn trôi tất cả. Tỉnh thức để biện phân và nhận ra những dấu chỉ của Chúa, trong cuộc sống hằng ngày, để thoát khỏi vòng kềm kẹp của: danh, lợi, thú. Tỉnh thức cũng có nghĩa là cậy dựa vào tình thương, và ơn trợ giúp của Chúa, sám hối và quay về với Ngài, trong phút giây thường ngày: “ Hãy cố gắng, dù yếu đuối sa ngã, con hãy xin Chúa tha thứ và tiếp tục tiến. Trên võ đài, trong vận động trường quốc tế, các lực sỹ cũng lắm lần ngã quỵ, bị nhiều cú đấm, bị thương tích, nhưng cứ vùng dậy, cứ hy vọng, họ đã đạt giải vô địch quốc gia” ( Đường hy vọng số 971).

Sẵn sàng cho một cuộc hoán cải

Hành trình theo Chúa là con đường hẹp, con đường dẫn đến ơn cứu độ. Chúa đến trong trần gian là để Mạc khải mầu nhiệm Nước trời. Ngài chỉ cho con người con đường dẫn đến sự thật tuyệt hảo. Mong chờ Chúa đến không dừng lại ở thái độ bên ngoài, mà còn phải canh tân tận bên trong. Tỉnh thức thôi chưa đủ, cần phải hoán cải và thực hiện một cuộc thay đổi tận căn. Con người tự sức mình không thể chiến đấu nổi với ba thù: ma quỷ, xác thịt và thế gian. Nhưng một khi mặc lấy áo giáp là Chúa Ki-tô, với những ân sủng: Lời Chúa, Thánh Thể, các bí tích, thì có thể đứng vững, và ngẩng cao đầu để đón chờ ngày Chúa quang lâm. 

Mùa Vọng kêu mời tất cả những ai tin vào Đấng Cứu Thế, hãy sẵn sàng, tỉnh thức và làm những việc lành phúc đức. Ngày giờ nào Chúa đến, không ai biết được. Mỗi người luôn ý thức về vai trò và trách nhiệm của những con cái Chúa, là chu tất mọi bổn phận, và bậc sống mình, sao cho xứng với tước hiệu là con cái Chúa Giê-su Ki-tô.

Về mục lục

.

TỈNH THỨC VÀ CẦU NGUYỆN

Lm. GB. Trần Văn Hào

Mọi người chúng ta đều đã từng kinh qua kinh nghiệm về sự chờ đợi. Một người vợ thức đêm trằn trọc đợi chồng đi xa trở về. Đôi tình nhân đợi chờ giây phút hẹn hò bên nhau với bao rạo rực xao xuyến. Những bạn công nhân tha phương vẫn ngong ngóng đợi chờ ngày tháng qua mau để mong tết đến được về quê xum họp. Có những cuộc chờ đợi với bao xốn xang rộn rã, ngược lại cũng có những phút giây đợi chờ trong tuyệt vọng và chán chường. Dầu sao, bất cứ sự đợi chờ nào cũng làm cho thời gian như chùng lại, từng giờ từng khắc qua đi tựa như cả một thế kỷ dài đằng đẵng. Tất cả đều lệ thuộc vào tâm trạng và thái độ của những kẻ đợi chờ.

Mùa vọng là mùa chờ đợi, điều này ai cũng biết. Nhưng chờ đợi ai, chờ đợi những gì và mong đợi như thế nào, không phải ai cũng biết và thực hành. Các bài đọc Lời Chúa khởi đầu mùa vọng hôm nay sẽ gợi mở để giúp chúng ta thấu triệt những điều ấy.

Chờ đợi Đấng sẽ đến

Hạn từ Adventus (mùa vọng) mang chở ý nghĩa này. Người tín hữu chúng ta đang mong chờ, nhưng không phải chờ đón một biến cố hay một sự kiện sẽ xảy ra. Chúng ta chờ đợi một ‘Con người’. Con người đó là chính Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người và cũng là Đấng Cứu thế. Ngài đã đến trần gian cách đây 2000 năm. Ngài cũng đang đến trong từng biến cố của cuộc sống đời thường chúng ta. Đồng thời Ngài sẽ đến, sẽ trở lại trong ngày chung thẩm để phán xử vũ trụ, khóa sổ trời cũ đất cũ và khai mở một trời mới và đất mới. Trong Tông huấn ‘Tiến về Thiên niên kỷ thứ ba’ (Tertio Milennio Adveniente), Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã diễn tả cuộc lữ hành đức tin của chúng ta như một mùa vọng lớn. Mỗi khi cử hành Thánh lễ, Giáo hội khơi dậy cảm thức đức tin và thắp lên niềm hy vọng khi mời gọi chúng ta tuyên tín: “ Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Đức Kitô là đối tượng của đức tin, cũng là điểm quy chiếu của đức cậy giúp chúng ta canh tân mỗi ngày niềm hy vọng của những lữ khách trên con đường tiến về quê hương. Chúng ta vẫn hằng ngày cầu xin Chúa ban bình an, gìn giữ chúng ta khỏi vương tội lỗi, được an toàn giữa những biến loạn, đang khi mong đợi niềm hy vọng hồng phúc, và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu độ chúng ta. Như vậy Giáo hội lữ hành hôm nay đóng vai một tân nương chờ đón đức lang quân của mình. Trong suốt mùa vọng, Giáo hội mượn lời kết trong sách khải huyền để dạy chúng ta thưa lên với Chúa tâm tình cầu nguyện: “ Maranatha, lạy Chúa Giêsu xin hãy đến”. 

Chờ đợi trong hi vọng

Trên thế giới ngày nay hiện có hai khối người đang sống cùng một niềm hy vọng chờ đợi, đó là tín hữu Do thái và các Kitô hữu. Người Do thái vẫn mong chờ Đấng Messia như lời các ngôn sứ đã loan báo, đặc biệt dựa vào lời tiên báo trong sách ngôn sứ Isaia, nhưng họ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu thế. Còn đối với Kitô hữu chúng ta, Đức Giêsu Kitô chính là Đấng đã đến trần gian để quy tập dân Irael tản mác từ khắp bốn phương và khai lập một vương quốc mới, vương quốc của thời thiên sai. Ngài đã đến để thực hiện kế hoạch cứu độ, và ơn cứu độ này sẽ đạt đến viên mãn trong ngày Người trở lại lần thứ hai để khóa sổ vũ trụ. Mùa vọng là thời gian giúp chúng ta tái hiện tâm thức hy vọng trong chờ đợi. Niềm hy vọng chính là chìa khóa then chốt để chúng ta sống tinh thần của mùa phụng vụ này.

Một triết gia đã nói: “Một tôn giáo không đem lại cho ta niềm hy vọng, không phải là một tôn giáo đáng để chúng ta tin theo”. Đúng như thế, không có hy vọng, chúng ta sẽ bị nhấn chìm trong bóng tối của sự chết và hủy diệt. Một con người có thể sống mà chưa có tình yêu, nhưng không ai có thể tồn tại nếu không hy vọng mình sẽ biết yêu và sẽ được yêu. Trong những năm tháng tù ngục, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã viết cuốn sách tựa đề ‘Con đường hy vọng’ để diễn tả cuộc hành trình đức tin trong những thời điểm đen tối nhất của cuộc đời Ngài. ‘Vui mừng và hy vọng’ cũng chính là khẩu hiệu Ngài chọn khi được tấn phong Giám mục. Niềm hy vọng Ngài nói đến không phải là một mơ ước hão huyền hay mông lung, nhưng đó là một trong ba nhân đức đối thần : Tin – Cậy-  Mến, quy chiếu vào chính Đức Giêsu, Đấng đã đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Mỗi khi có dịp cử hành Thánh lễ một cách lén lút trong căn phòng chật chội và tối tăm của nhà tù, Ngài vẫn khơi lại nơi mình niềm hy vọng, đặc biệt khi cầm Mình Thánh Chúa trên đôi tay chai sạn với chiếc áo tù sờn cũ. Ánh sáng hy vọng đó là sức mạnh sâu xa, giúp Ngài vượt qua những ngày tháng đen tối nhất.

Cha Teilhard Chardin, một linh mục dòng Tên cũng đã viết: “ Ngóng đợi là nhiệm vụ hàng đầu của Kitô hữu, và là nét nổi bật nhất để hiển thị đức tin. Người Kitô hữu luôn phải sống trong sự đợi chờ với niềm tin và hy vọng”. Thái độ chờ đợi của người tín hữu không phải là sự mỏi mòn trong tuyệt vọng giống như một tên tử tội khiếp sợ đợi chờ giây phút bị đem đi hành quyết. Trái lại, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của một cô dâu chờ đón chú rể đến giữa đêm khuya để tiến vào phòng cưới, tham dự ‘Tiệc Cưới Chiên Con’ cùng với Đấng đã chiến thắng tử thần và khải hoàn trong vinh thắng.

Chờ đợi trong tỉnh thức và sẵn sàng

Đây là sứ điệp mà cả ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay nhắn gửi đến chúng ta. Trong phần kết luận của bài Tin mừng, sau khi tiên báo về ngày chung thẩm, Chúa Giêsu nhắc nhở : “ Vậy anh em hãy canh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”. Đồng thời Chúa cũng khuyến mời chúng ta đừng ngủ mê trên chè chén say sưa hay những lo toan trần thế, giống như dân chúng thời Noe năm xưa. Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô cũng nhắc nhớ dân thành Rôma phải ‘thức dậy’, đừng ngủ mê trên những việc làm đen tối, vì ngày cứu độ đang gần tới. Chúa đến để đem ơn cứu độ cho trần gian. Ơn cứu chuộc được dàn trải trên tất cả mọi người và Đức Giêsu đã tiến nhận cái chết để khai mở nguồn mạch cứu độ bất tận ấy. Nhưng hồng ân cứu độ chỉ thực sự hoàn tất khi Chúa đến lần thứ hai, khai mở trời mới đất mới và thiết lập vương quốc vinh hiển của Ngài. Vì vậy không chỉ trong mùa vọng kéo dài bốn tuần lễ, nhưng trong suốt cả mùa vọng lớn là trọn cuộc hành trình lữ thứ trần thế, chúng ta luôn phải sống với thái độ thức tỉnh và sẵn sàng.

Cách đây gần 30 năm, có một trận động đất dữ dội xảy ra tại California, Hoa kỳ. Một cô gái trẻ bị vùi lấp trong đống đổ nát, và người ta lập tức chuyển ngay cô vào bệnh viện. Trước đây cô ta sống trong một gia đình khá đạo đức, nhưng từ khi lấy chồng, sự giầu có đã làm cô gái lạc mất định hướng cuộc đời mình. Cô ta sống phóng túng như một kẻ vô thần. Nằm trên giường cấp cứu, cô gái cố gắng thu gom hết tàn lực cuối cùng để hỏi bác sĩ :“ Liệu tôi có qua khỏi hay tôi còn sống được bao lâu nữa?” Bác sĩ thành thật nói với cô ta rằng ông cố gắng lắm chỉ giúp cô sống thêm được vài tiếng đồng hồ nữa thôi. Nghe nói thế, cô gái ôm mặt khóc nức nở và đau đớn thốt lên: “ Ôi muộn quá rồi”. Có lẽ rất nhiều người trong chúng ta cũng sẽ phải thốt lên câu này khi đối diện trước cái chết. Thánh Gioan Bosco vẫn tổ chức tĩnh tâm hàng tháng cho các học sinh và Ngài gọi đó là ‘Ngày dọn mình chết lành’. Đây không phải là một động thái mang tính tâm lý, nhưng là một việc thực hành trong đức tin. Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta hôm nay : “Anh em hãy sẵn sàng vì chính lúc anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” ( Mt 24, 44 )

Chúng ta nhớ lại giai thoại về tướng quân Archais của Hy Lạp năm xưa. Ông là một vị tướng giỏi, đánh trận nào thắng trận đó. Sau một trận thắng lớn, ông khao quân lính một bữa tiệc thịnh soạn. Giữa cuộc vui, một sứ giả đem đến cho ông bức thư khẩn và báo tin là ông đang bị mưu sát để biết cách đề phòng. Thay vì mở thư ra đọc và cảnh giác, ông nhét thư vào túi, vẫn tiếp tục nhậu nhẹt và tự nhủ : “ Thôi để mai hãy tính”. Ngay đêm đó, ông bị giết chết. Câu chuyện gợi nhắc sứ điệp mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay mang chở. Những gì cần phải làm hôm nay, đừng để đến ngày mai.

Kết luận

Thánh Phanxico Salêsiô đã viết “ Thời để sống là lúc chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa. Thời để chết là lúc chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Thời vĩnh cửu là lúc chúng ta sẽ chiếm hữu Ngài cách trọn vẹn”. Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa vọng, một mùa vọng nhỏ trong một mùa vọng khác lớn hơn. Mùa vọng là thời gian chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa và mong đợi Ngài đến. Chúa sẽ đến để đem ta đi vào vĩnh cửu trong sự hiệp thông và gắn kết trọn vẹn với Ngài. Nhưng, ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay. Trời mới và đất mới của ngày mai đang bắt đầu với cuộc sống hiện sinh của chúng ta tại đây và ngay bây giờ. Chúng ta sống làm sao thì sẽ chết như thế. Chúng ta hãy sống theo lời dạy của thánh Phaolô trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay: “ Anh em hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày” (Rm 13,13). Sống giữa ban ngày là thời điểm có ánh sáng mặt trời soi chiếu. Xin ánh sáng của Đức Giêsu là mặt trời công chính luôn tỏa sáng trên tâm hồn mỗi người chúng ta.

Về mục lục

.

NỀN HÒA BÌNH TUYỆT ĐẸP

Lm Giuse Nguyễn Hữu An 

Năm Phụng Vụ khởi đầu bằng Mùa Vọng. Bài thánh ca quen thuộc ngân vang trong những sinh hoạt đạo đức hàng ngày: Xin cho lòng chúng con luôn mở rộng chờ mong Chúa đến, xin cho lòng chúng con luôn thắm đượm một tình yêu mến, xin cho lòng chúng con luôn ước ao, luôn khát khao, một thế giới sướng vui dạt dào, một thế giới không còn khổ đau….để Chúa đến trong cuộc đời, để Chúa đến mang ơn trời, nguồn hạnh phúc cho con người, nguồn cứu rỗi cho mọi nơi

Bài đọc 1 trích sách Ngôn sứ Isaia: “Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến. Hãy đến đây, nhà Gicop hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng Đức Chúa soi đường” (Is 2,1-5).

Ngôn sứ Isaia ước mơ về một tương lai thế giới hoà bình, không còn đánh nhau, không còn chinh chiến nữa, gươm đao giáo mác trở nên liềm hái làm dụng cụ lao động. Bức tranh về một nền hoà bình tuyệt đẹp: sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ, sư tử cũng ăn rơm như bò (Is 65,25), trẻ con thọc tay vào hang rắn lục

Isaia hướng nhân loại về niềm hy vọng: Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan (Is 65,17-18).

Khát vọng của Ngôn sứ Isaia cũng như của nhân loại ngàn đời là một nền hoà bình vĩnh cữu. Chính trong niềm khát vọng ấy mà Tu sĩ Hermann Schaluck, Ofm đã ước mơ đến:Trình Thuật Mới Về Công Việc Sáng Tạo :

– Và Thiên Chúa nhìn thấy cách thức loài người khắp cõi trần, từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, không phân biệt nòi giống, nam nữ, đang khởi công liên hệ cùng nhau cách chân tình. Các dân tộc tự chọn giữa họ những người nam nữ tốt lành nhất và gởi họ tới lâu đài trứ danh bằng kính trên hòn đảo Manhattan (Trụ sở Liên Hiệp Quốc), nơi mở cửa đón tiếp tất cả các quốc gia hoàn cầu. Tại đây, họ lắng nghe đối thoại thân mật, thông cảm lẫn nhau và khai triển những dự án cộng đồng.

Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Và đây là ngày đầu tiên của kỷ nguyên mới.

– Và Thiên Chúa nhìn thấy cách các chiến sĩ hoà bình tách biệt các đạo quân đang lâm chiến với nhau, các tranh chấp được dàn xếp bằng lẽ phải và điều đình, chứ không phải bằng khí giới. Các nhà lãnh đạo quốc gia biết lắng nghe tiếng nói của các dân tộc, biết cùng nhau khởi sự coi trọng lợi ích toàn cầu và hoà bình thế giới kết hợp với lợi ích riêng biệt.

Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Và đó là ngày thứ hai của hành tinh mới.

– Và Thiên Chúa nhìn thấy cách loài người bắt đầu yêu chuộng và bảo vệ thay vì khai thác tạo vật: bầu khí quyển với lớp ozon, nước sông, nước biển, trái đất và nguyên liệu cũng như tất cả những gì sinh sống và phát triển tại đó. Và Thiên Chúa cũng thấy rằng bắt đầu loài người không còn thống trị và khai thác lẫn nhau, nhưng tự coi là con một Cha duy nhất và đối xử đồng đều với nhau.

Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Và đó là ngày thứ ba của kỷ nguyên tư tưởng mới.

– Và Thiên Chúa thấy cách loài người khắp hoàn cầu khởi công khám phá và loại trừ các nguyên nhân gây nên đói khát, bệnh tật, dốt nát và nghèo đói bất công. Họ khởi sự san sẻ cùng nhau những gì thuộc về tất cả và vì lợi ích chung và sự sống còn của toàn cầu, họ khởi sự xem xét các khía cạnh tích cực và quan điểm chung của các dân tộc và tôn giáo.

Và Thiên Chúa phán: “Sự việc phải như vậy”. Và đó là ngày thứ tư của cuộc sáng tạo mới.

– Và Thiên Chúa thấy cách loài người, với một ý thức hoàn hảo, có trách nhiệm chứ không vì ham muốn quyền lực, khởi sự sử dụng tài nguyên thiên nhiên được giao phó cho mình, đặc biệt là chất đốt rút ra từ lòng đất và năng lượng nguyên tử. Thiên Chúa thấy cách lương tâm họ luôn thức tỉnh thúc đẩy họ tự vấn xem lại các dự án mới mà họ định nghiên cứu có thích hợp với việc phục vụ Thiên Chúa và nhân loại không. Họ từ bỏ ương ngạnh để chủ trương tế nhị, từ bỏ tham lam để chủ trương không vụ lợi, ích kỷ cá nhân và quốc gia để chủ trương tinh thần liên đới.

Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Đó là ngày thứ năm của một thế giới nhân đạo hơn.

– Và Thiên Chúa thấy cách loài người năm châu khởi sự tháo gỡ và phá bỏ các dàn phóng hoả tiễn, các kho bom đạn, vũ khí hoá học, vi trùng cũng như các vệ tinh do thám và hệ thống truy tầm, giải phóng quân đội và vì thế phổ biến trong học đường và chương trình giáo dục những mô hình sư phạm về hoà bình minh bạch và hữu hiệu đến nỗi các cuộc tranh chấp có thể được giải quyết bằng đường lối hoà bình.

Và Thiên Chúa phán: “Tất cả như thế là tốt”. Đó là ngày thứ sáu của một bầu trời mới.

– Và Thiên Chúa nhận thấy cách loài người bắt đầu tái nhận biết Ngài nơi mọi sự, Ngài, Thiên Chúa hằng yêu quý sự sống. Họ coi cuộc tranh đấu cho sự sống, cho phẩm giá và cho việc nhìn nhận quyền lợi mỗi cá nhân là một việc phụng vụ Thiên Chúa. Và mỗi lần một trong những ý thức hệ họ sụp đổ, lúc thảo lại một hiến pháp mới, họ ghi vào đó rằng: Ta đừng bao giờ quên lãng Thiên Chúa là nguồn gốc và tận cùng một thế giới công bình và nhân đạo. Và họ nhìn nhận con người được sống và được giải phóng là dấu chỉ của Thiên Chúa trong lịch sử.

Và Thiên Chúa phán: “Bây giờ, tất cả đều trở nên tốt lành”. Đó là ngày thứ bảy của việc sáng tạo hoàn cầu. Từ đây hoàn cầu đồng thuộc về nhân loại mới và Thiên Chúa.

Một nền hoà bình đích thực dẫn đưa con người đến “trời mới, đất mới” (Kh 21,1) hiệp thông với Đấng là sự Thật và là Sự Sống. Loại bỏ những việc làm đen tối (Rm 13,13), mặc lấy Chúa Giêsu Kitô (Rm 13,14), nhân loại sẽ xây dựng được nền hoà bình vĩnh cửu. Niềm hy vọng một nền hòa bình vĩnh cửu gắn liền với lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại bởi lẽ: Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa. Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn. Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử. Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.Thiên Chúa hy vọng vào con người là để cho con người được hy vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên Chúa luôn hy vọng vào con người qua những đường đến bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua niềm tỉnh thức không mỏi mệt của mình.

Thiên Chúa là Sự Sống, là Tình Yêu. Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm Người. Đức Giêsu Kitô chính là Tin Mừng Sự Sống và Tình Yêu.Tin Mừng cứu độ mà Đức Giêsu loan báo cho loài người là Tin Mừng Sự Sống, Tin Mừng Tình Yêu. Ngài luôn mời gọi mọi người thiện tâm chung sức kiến tạo nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương.

         Tin Mừng Chúa nhật I Mùa Vọng dặn dò mỗi người Kitô hữu là “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”. Tỉnh thức để đón chờ ngày tái ngộ với Chúa Kitô. Tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Cuộc tái ngộ có thể xảy đến bất ngờ đối với mỗi người và đối với cả nhân loại nên phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện.

Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, là đừng quá đam mê những hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, là không quá mê say danh, lợi, thú.

Luôn tỉnh thức như khi đang lái xe, luôn nhìn trước ngó sau, tay ga vững vàng, chân thắng sẵn sàng, đi đường an toàn.

Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng.

Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.

Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.

Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh.

Cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.

Có tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời. Cầu nguyện trong tỉnh thức để luôn sẵn sàng vì không biết ngày giờ Chúa viếng thăm.

Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người”.

Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa.

Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện, chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.

Mùa vọng được khai mở với lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.

Bước đầu là bước quyết định cho cả một cuộc đời, một chương trình kế tiếp như như sách Nho có câu : Nhất nhật chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân ( Kế hoạch một ngày hệ tại giờ ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân).

Tỉnh thức và cầu nguyện là thái độ sống của người tín hữu suốt năm phụng vụ.

Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu trong nhà thờ, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.

Về mục lục

.

BẤT NGỜ

Trầm Thiên Thu

Cuộc sống luôn có những điều bất ngờ. Điều bất trắc có thể xảy ra bất cứ lúc nào, ngày nay có vẻ còn dễ xảy ra bất trắc hơn, thế nên tỉnh thức và đề phòng càng phải ở mức cao độ.

Đơn giản và minh nhiên như việc lắp đặt các camera ở các hẻm – cụ thể là tại nhiều con hẻm tại Saigon. Trước đây không cần, tại sao ngày nay lại cần? Câu hỏi đó chứng tỏ mức an toàn kém hơn ngày xưa, do đó mà cần phải cảnh giác cao độ. Mới đây, một phụ nữ tưởng ở trước nhà mình thì không sao, nhưng bất ngờ tên trộm giật túi xách của chị và rú ga chạy mất.

Đời thường đã vậy, đời tâm linh càng phải cảnh giác hơn nữa. Ma quỷ ngày nay cũng tinh quái và ranh mãnh hơn ngày xưa, nó ẩn hiện ngay trên internet – nhất là các mạng xã hội như Facebook hoặc Twitter, chẳng biết đâu là thật hay giả!

Thời gian thấm thoắt, chớp mắt vài cái là hết năm – cả năm thường và năm phụng vụ. Có cuối năm thì cũng có đầu năm. Và năm phụng vụ lại bắt đầu năm mới khi Mùa Vọng đến, nhắc nhở chúng ta kỷ niệm việc mong chờ Con Thiên Chúa nhập thể làm người để cứu độ chúng ta, nhưng Mùa Vọng muốn nhắc nhở quan trọng hơn: mong chờ Chúa Giêsu tái lâm.

Trình thuật Is 2:1-5 nói về nền hoà bình vĩnh cửu. Loại hòa bình này chỉ có thể đến từ Thiên Chúa. Ngày nay hòa bình trần gian luôn bị đe dọa vì người ta có loại chiến tranh tinh vi: chiến tranh khủng bố. Do đó, mức cảnh giác luôn ở dạng “báo động đỏ”.

Kinh Thánh cho biết: “Đây là điu mà ông Isaia, con ông A-mc, đã được thy v Giu-đa và Giêrusalem. Trong tương lai, núi Nhà Đc Chúa đng kiên cường vượt đnh các non cao, vươn mình trên hết mi ngn đi. Dân dân lũ lượt đưa nhau ti, nước nước dp dìu kéo nhau đi. Đi đâu? Vì sao? Di tản vì tai họa hay chiến tranh?

Dân Việt nghe đến di tản là khiếp lắm rồi, vì chỉ trong vòng vài chục năm thôi mà dân ta bao lần phải di tản, phải bỏ quê hương, phải rời nơi chôn nhau cắt rốn. Buồn lắm, đau lắm, nhưng cũng đành lòng thôi. Nhưng ở đây, muôn dân nước rủ nhau đi không vì đau khổ mà vì niềm vui, đi đến Miền Hạnh Phúc. Kinh Thánh cho biết: “Đến đây, ta cùng lên núi Đc Chúa, lên Nhà Thiên Chúa ca Gia-cóp, đ Người dy ta biết li ca Người, và đ ta bước theo đường Người ch v. Vì t Sion, thánh lut ban xung, t Giêrusalem, li Đc Chúa phán truyn.

Thật là diễm phúc cho các dân nước được di tản như vậy, có bất ngờ nhưng là điều bất ngờ sung sướng, không thể trì hoãn được. Miền Hạnh Phúc là Miền Bình An, Vùng Tự Do, Khu Thanh Thản, nghĩa là không cần đến bất cứ loại vũ khí, chỉ cần một loại vũ khí duy nhất: Vũ Khí Yêu Thương: “Người s đng làm trng tài gia các quc gia và phân x cho muôn dân tc. H s đúc gươm đao thành cuc thành cày, rèn giáo mác nên lim nên hái. Dân này nước n s không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên h thôi hc ngh chinh chiến. Hãy đến đây, nhà Gia-cóp hi, ta cùng đi, nh ánh sáng Đc Chúa soi đường!.

Và để minh chứng được hưởng sự tự do đích thức, mọi người không thể im lặng mà phải bày tỏ niềm hân hoan: “Ming tôi nói li hay l phi, lòng gm suy câu khéo điu khôn, tai lng nghe nhp câu ngn ng, mượn phím đàn gii nghĩa nhim mu (Tv 49:4-5). Nói chưa thỏa nên phải mượn âm nhạc để thể hiện. Ôi, vui sướng biết bao!

Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh cũng phải thốt lên: “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi: Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa!” (Tv 122:1). Và niềm vui mừng đó có thật, rất cụ thể, tuy không thể sờ được nhưng vẫn khả dĩ cảm nhận: “Gi đây, Giêrusalem, ca ni thành, ta đã dng chân (Tv 122:2).

Niềm vui sướng tột cùng đó được tác giả Thánh Vịnh mô tả và cụ thể hóa theo từng chi tiết của Đền Thờ Giêrusalem, tòa nhà hữu hình là hiện thân của Tòa Nhà Thiên Quốc: “Giêrusalem khác nào đô th được xây nên mt khi vn toàn. Tng chi tc, chi tc ca Chúa, try hi lên đn nơi đây, đ danh Chúa, h cùng xưng tng, như lnh đã truyn cho Ít-ra-en. Cũng nơi đó, đt ngai xét x, ngai vàng ca vương triu Đa-vít (Tv 122:3-5).

Niềm vui giấu kín trong lòng là niềm vui chưa trọn vẹn, niềm vui được chia sẻ sẽ là niềm vui được nhân đôi: “Hãy nguyn chúc Giêrusalem được thái bình, rng: Chúc thân hu ca thành luôn thnh đt, tường trong lu ngoài hng yên n, lâu đài dinh th mãi an ninh. Nghĩ ti anh em cùng là bn hu, tôi nói rng: Chúc thành đô an lc. “Nghĩ ti đn thánh Chúa, Thiên Chúa chúng ta th, tôi ước mong thành được hnh phúc, hi thành đô! (Tv 122:6-9). Điều này gợi nhớ đến lúc chúc bình an trong Thánh Lễ. Tuy nhiên, có một số người thụ động, không biết vì lý do gì, họ đứng “như tượng gỗ”, không cúi đầu chúc bình an cho ai hết. Ích kỷ hay bất cần?

Các Kitô hữu, đặc biệt là các tín hữu Công giáo, được mệnh danh là “con cái của ánh sáng” – tức là con cái của Thiên Chúa, Đấng là Nguồn Ánh Sáng. Chắc chắn cách sống phải khác với những người vô thần hoặc những người chưa chân nhận Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa. Vậy phải sống như thế nào? Phải yêu thương nhau, và chỉ mắc nợ nhau “trái khoản yêu thương” mà thôi (x. Rm 13:8).

Thánh Phaolô xác định: “Phi như thế, vì anh em biết chúng ta đang sng trong thi nào. Đã đến lúc anh em phi thc dy, vì hin nay ngày Thiên Chúa cu đ chúng ta đã gn hơn trước kia, khi chúng ta mi tin đo. Đêm sp tàn, ngày gn đến. Vy chúng ta hãy loi b nhng vic làm đen ti, và cm ly vũ khí ca s sáng đ chiến đu (Rm 13:11-12). Đó là hai công việc cần phải làm, bởi vì mỗi chúng ta đều là chiến binh của Thiên Chúa, nghĩa là luôn phải chiến đấu với ba thù để bảo vệ Tổ Quốc Thiêng Liêng của chúng ta: Thiên Đàng.

Thánh Phaolô cho biết binh pháp để chúng ta chiến đấu: “Chúng ta hãy ăn cho đng đn như người đang sng gia ban ngày: KHÔNG chè chén say sưa, KHÔNG chơi bi dâm đãng, cũng KHÔNG cãi c ghen tương. Nhưng anh em hãy mc ly Chúa Giêsu Kitô, và đng chiu theo tính xác tht mà tho mãn các dc vng (Rm 13:13-14). Theo đó, chúng ta có thể gọi là Luật-Ba-Không, và luật này cần phải được áp dụng trong cuộc sống – đặc biệt là trong Mùa Vọng này. Và hãy luôn lâm râm khấn nguyện: “Ly Chúa, xin t lòng t bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cu ri cho chúng con (Tv 84:8).

Chiến đấu thì phải tỉnh thức, phải cảnh giác cao độ, vì địch quân có thể bất ngờ tấn công mọi nơi và mọi lúc, bất kể ngày hay đêm. Chúng bắn tỉa hoặc pháo kích thì chúng ta cũng khó biết từ đâu.

Qua trình thuật Mt 24:37-44 (tương đương Mc 13:32-37; Lc 17:26-30, 35-36), Kinh Thánh cho biết lời căn dặn của Chúa Giêsu dành cho chúng ta: PHẢI CANH THỨC và SẴN SÀNG. Hai động thái vô cùng quan trọng!

Chúa Giêsu nói: “Thi ông Nô-ê thế nào thì ngày Con Người quang lâm cũng s như vy. Vì trong nhng ngày trước nn hng thu, thiên h vn ăn ung, cưới v ly chng, mãi cho đến ngày ông Nôê vào tàu. H không hay biết gì, cho đến khi nn hng thy p ti cun đi hết thy. Ngày Con Người quang lâm cũng s như vy. By gi, hai người đàn ông đang làm rung, thì mt người được đem đi, mt người b b li; hai người đàn bà đang kéo ci xay, thì mt người được đem đi, mt người b b li. Rất thẳng thắn và rõ ràng, không hề úp mở, và cũng không khó hiểu chi cả!

Mỗi khi có “sự cố” gì đó xảy ra, đôi khi chỉ là tin đồn, người ta cuống cuồng như gà mắc tóc. Cụ thể là Cơ quan NASA (National Aeronautics and Space Administration, thường gọi là Cơ quan Không gian Hoa Kỳ) đã dự báo về tình trng đen ti bao trùm Tri Đt trong ba ngày t 23 đến 25-12-2012. Và ri chng thy biến chuyn gì, người ta là vô tư. Sau đó, NASA li xác nhận rằng “Trái Đt s u ti SÁU ngày trong tháng 12-2014. Và rồi trời đất cũng vẫn bình an vô sự. Ôi dào, mệt quá!

Thi thoảng người ta vẫn có những kiểu đưa tin “giật gân” như vậy, có lẽ người ta muốn “đánh” vào bản tính hiếu kỳ của con người. Không chỉ những chuyện về thiên nhiên, về vật lạ, thú lạ, cây lạ,… mà còn có cả những chuyện người ta cho là “phép lạ”. Chúa cũng rất mệt đối với loài thụ tạo của Ngài thật đấy! Những điều đáng phải tin thì không chịu tin, chỉ thích những chuyện “lạ mắt, lạ tai”.

Kiểu sống như vậy là hâm hẩm, nửa vời. Nếu vậy thì sao? Thiên Chúa nói thẳng thắn: “Vì ngươi hâm hm, chng nóng chng lnh, nên Ta sp ma ngươi ra khi ming Ta (Kh 3:16).

Chúa Giêsu cũng đã từng bảo chúng ta đừng nhẹ dạ cả tin những tin đồn nhảm nhí, và hôm nay Ngài tiếp tục cảnh báo: “Anh em hãy canh thc, vì anh em không biết ngày nào Chúa ca anh em đến. Anh em hãy biết điu này: nếu ch nhà biết vào canh nào k trm s đến, hn ông đã thc, không đ nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vy, anh em hãy sn sàng, vì chính gi phút anh em không ng thì Con Người s đến.

Đầy tớ nào sẵn sàng thì không sợ chủ về bất ngờ, dù lúc nào; còn đầy tớ nào ỷ lại thì sẽ không kịp xoay sở đối với tình huống bất ngờ, và mọi sự sẽ được phơi bày. Cuộc sống đời thường đã vậy, cuộc sống tâm linh cũng tương tự.

Ly Thiên Chúa, xin giúp con biết tnh thc và sn sàng ch đón Ngài, c khi con thc ban ngày và lúc con ng ban đêm. Xin giúp con sng viên mãn tng giây phút mà con được Ngài đi lượng trao ban. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cu đ nhân loi. Amen.

Về mục lục

.

CON NGƯỜI SẼ ĐẾN

P.Trần Đình Phan Tiến

Kính thưa quý vị, các bạn, Giáo Hội vừa mừng kính trọng thể Lễ Đức KItô , Vua Vũ Trụ, đồng thời Người thật là Vị Vua Hòa Bình , Vua Vinh Hiển. Bời vì Vương Quyền của Người không có vũ khí, không quân đội, không bất công, không đàn áp, không bóc lột thần dân, và mặc nhiên không chiến tranh, vì vậy, Người đích thực là Vị VUA HÒA BÌNH, một Vị Vua Vinh Hiển đích thật.

Hôm nay, lịch Phụng Vụ bước sang một năm Phụng Vụ mới, mở đầu bằng chu kỳ thời gian là Mùa Vọng. Vâng, cái tên ” Mùa Vọng ” cho chúng ta biết được Giáo Hội canh thức cho chúng ta “chờ mong” Lễ Giáng Sinh của Con Thiên Chúa, đồng thời Người là Thiên Chúa thật. Bên cạnh đó, ý nghĩa thứ hai của Mùa Vọng là” mong chờ “ Đấng Cứu Thế đến trong ngày chung thẩm. 

Vâng, thưa quý vị, như vậy, ý nghĩa của Mùa Vọng  trong Tân Ứơc cho chúng ta một sự chờ mong ngày Đấng Cứu Thế đến lần II. Còn trong Cược Ứơc cho chúng ta sống lại tâm trạng của dân tộc Dothai, không dân tộc nào có tâm trạng mong chờ Đấng Cứu Thế đến với họ , bằng dân tộc Dothai. Những bài đọc trong Cựu Ứơc diễn tả tâm tình, chờ mong Đấng Cứu thế đến với họ thật thơ mộng, nhưng lại thật thực tế như : “ Nai vàng tìm đến suối nước trong. Hồn con cũng trông mong chờ Đấng Cứu  Chuộc.” 

Như vậy, khi Đấng Cứu Thế đến, thì Người cũng tiên báo thời Quang Lâm của Người giống như thời ông Noe. Thiên hạ vẫn bình chân như vại, nhưng, Thiên Chúa chỉ mặc khải cho gia đình Noe, thì ngày cánh chung cũng vậy, không phải tất cả đều được cứu thoát. Mà chỉ thiểu số biết nghe Lời Thiên Chúa. 

Vâng, Giáo Hội là Mẹ chúng ta hình bóng như “chiếc thuyền Noe” vậy. Ai chịu nghe và giữ lời Chúa, thì như những người ở trong “ thuyền”, sẽ được cứu. 

Như vậy, Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta cách rõ ràng ngày Quang Lâm của Người lần thứ II. Như  vậy, câu cuối cùng  của ( Mt 24, 37 -44) hôm nay là ” Con Người sẽ đến “. 

Vậy theo Lời Chúa hôm nay chúng ta cần có ba thái độ : 

–          Một là  : sẵn sàng tình thức

–          Hai là :  phương thức để canh thức : lắng nghe Lời Chúa, nghĩa là canh thức bằng Lời Chúa. 

–          Ba là : sự bất ngờ, thình lình, không biết trước. 

Như vậy, ba thái độ trên cho chúng ta một sự gắn kết mật thiết vào Chúa Giêsu, vì Chúa nói trong Tin Mừng hôm nay : cứ hai thì chọn một. Vì, nếu người ta biết được ngày Chúa đến một cách rõ ràng, thì họ không cần chuẩn bị, lo trước.

Vậy, tâm trạng chuẩ bị cần có không phải là thụ động, bị động, mà là chủ động cách tích cực không để cho cuộc sống trần thế chi phối. Điều đó, có nghĩa là  mọi sự trong cuộc sống chúng ta sống theo Lời của Chúa Giêsu, có nghĩa là : Ai làm công việc gì cứ là, nhưng làm trong Lời Chúa, vì không có công việc nào xấu, chỉ có “LÒNG NHÂN “ mới xấu hay tốt thôi. 

.Ngày Chúa đến là ngày nhất định phải xảy ra, ngày Chúa đến trong cuộc đời là ngày chết của chúng ta, rồi đến ngày chung thẩm. Dù tin hay không, giờ Chúa đến là một chân lý. 

Hành trang của cuộc đời là Lời Chúa chứ không phải tiền bạc. Qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta thấy. Giờ Chúa đến không bao giờ được báo trước, dù người đó là ai, làm gì, ở đâu. Theo đó, thời giờ chung thẩm cũng không phải bị tiêu diệt hết, mà là “chọn lựa”, một trong hai. 

Khởi đi từ bài đọc I , (Is 2, 1- 5), chúng ta thấy cảnh thái bình nơi đền thánh mới, tức Giêrusalem trên trời, nơi đó Thiên Chúa ban bình an và hoan lạc cho những ai kính sợ Người. Chúng ta thấy, đường lên núi Chúa thật là binh an và hoan lạc, mà chúng ta gọi là thiên đàng.

Bài đọc II thánh Phaolo qua thư gởi tín hữu Roma (Rm13, 11 -14) khuyên rằng : “ Người tín hữu là con cái ánh sáng”. Hãy trở nên chuẩn mực và thánh thiện. Lời khuyên của thánh Phaolo là Lời rất phù hợp với Tin Mừng hôm nay. Thánh Phao lo cảnh báo cho chúng ta biết, người tín hữu là người tiết độ, nết na, không chè chén say sưa, chơi bời dâm đảng. Có nghĩa là đừng theo thói trụy lạc của thế gian. Vì tất cả bộ mặt thế gian sẽ qua đi. 

Chúng ta thấy, chính Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta đừng sống như những con người thời ông Noe, lụt Đại Hồng Thủy, một trận lụt nhận chìm tất cả, vì họ không màng gì đến Thiên Chúa. Họ chỉ biết đến thế gian, khi thời Chúa đến , nước lụt nhấn chìm tất cả, chúng ta thấy, rồi đến thời dân Dothai bị Pharaol vau Ai-cập cai trị đè nén , áp bức. Chính Thiên Chúa cho nước hai bên tả hữu rẽ ra để cho dân Dothai đi qua, đến lúc quân Ai đến thì bị nhấn chìm.. 

Qua đó, chúng ta tin rằng, tất cả những ai, dù chưa nhận biết Thiên Chúa, nhưng ăn ở ngay chính, tiết độ, thì chắc chắn sẽ được cứu, còn chính những kẻ kiêu ngao không nhận biết Thiên Chúa, mà lại coi thường luân lý, kỷ cương, chắc chắn một ngày nào đó tai họa mà họ gây ra sẽ trở nên “ gậy ông đập lưng ông” mà thôi. 

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là hình ảnh nhân lành của Thiên Chúa Cha, là sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, là Thầy Chí Thánh cho mọi người muốn bước theo chân lý.

Chúa đã mặc khải cách tỏ tường về ngày cứu độ, ngày Chúa sẽ đến trong vinh quang, hầu dẫn đưa chúng con đến cùng Chúa, để chúng con được hưởng Thánh Nhan Chúa cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, theo Lời giáo huấn cách tỏ tường về ngày Chúa quang lâm, mà giáo hội dạy chúng con mong chờ ./. Amen.

Về mục lục

.

BẤT NGỜ CHÚA ĐẾN

AM. Trần Bình An

Nước từ thượng nguồn bất ngờ đổ về trong chiều 1/11/2016 khiến hàng ngàn hộ dân trên địa bàn huyện Cam Lộ (Quảng Trị) chìm trong biển nước. Theo đó, mưa lớn trong đêm 31/10 và sáng 1/11 đã khiến mực nước sông Hiếu đoạn qua huyện Cam Lộ ở mức báo động 3.

Đến khoảng 7h thì nước ở thượng nguồn bất ngờ đổ về, do nước lên nhanh, nên người dân không kịp sơ tán đồ đạc di chuyển lên cao. Nhiều tài sản của người dân bị cuốn trôi hoặc chìm trong nước. Bà Trần Thị Linh (58 tuổi, trú tại khu phố Tây Hòa, thị trấn Cam Lộ) cho biết: “Sáng nay khoảng 5h thì tôi thấy nước bắt đầu lên nhẹ, đến khoảng 7h thì nước đổ về rất nhiều rồi ngập sâu. Các vật dụng trong gia đình tôi đều bị hư hỏng, cuốn trôi, hơn 10 tấn xi măng không kịp di chuyển cũng bị ngập hư hỏng nặng”.

Thống kê thiệt hại do mưa lũ cho thấy, hầu hết các hộ gia đình tại 4 xã, 14 thôn với khoảng 2.000 hộ bị ngập lụt. Nước lên rất nhanh nên ngập nhiều và tài sản của bà con cũng bị thiệt hại nhiều. Lúa ngoài đồng đã thu hoạch rồi, nhưng về nhà cũng không giữ được. (Nguyễn Phương, Quảng Trị Lũ bất ngờ hàng ngàn hộ dân bị chìm trong biển nước, Dân Việt)

Trong buổi sáng cuối năm, bất ngỡ lũ đến Cam Lộ, cuốn trôi tất cả, phần nào tựa cơn Đại Hồng Thuỷ thời ông Nôê, như Tin Mừng CN 1 Mùa Vọng hôm nay, Đức Giêsu cất tiếng cảnh báo thời mạt thế sẽ đến. 

Dấu chỉ  

“Trong thời ông Noe xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy.” Theo sách Sáng Thế Ký, từ chương 6 đến chương 9, thuật cơn Đại Hồng Thuỷ. Ông Noê cùng gia đình là những người công chính. Trong khi thế gian đã ra hư hỏng, đầy bạo lực. Mọi xác phàm đã theo nếp sống sa đoạ, gian tà. Vì thế, Thiên Chúa đã ưu ái cứu sống toàn gia đình ông Noê và những thú vật tuyển chọn. 

Dấu chỉ hôm nay cũng rất rõ ràng. Sự dữ đang lên ngôi trong nền văn minh chết chóc. Điển hình như truyền thông vốn được coi là tiếng nói lương tâm, vốn phục vụ cho chân thiện mỹ, thì nay trở thành công cụ kín đáo, sắc bén, thâm độc của phe đảng, tài phiệt, tập đoàn, lạm dụng, lũng đoạn, xuyên tạc, cụ thể như vụ truyền thông bẩn ở Việt Nam về thạch tín trong nước mắm truyền thống. 

Dấu chỉ hôm nay cũng có gương mặt rất sáng láng, tốt lành, thánh thiện, như Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII,  Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thánh Têrêsa Calcutta. Các Đấng rất tích cực làm chứng nhân cho Đức Giêsu Kitô. Tương tự như các ngài hiệp sức cùng Hội Thánh, đóng con tầu vĩ đại, rộng tay mời gọi mọi người đến ẩn náu an toàn, trước cơn hồng thuỷ cánh chung. 

Sẵn sàng 

“Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi.” Đức Giêsu không muốn nói đến xác suất, chỉ có 50% nhân loại được cứu rỗi, mà Người khẩn thiết kêu gọi mọi người hãy luôn tỉnh thức, luôn chuẩn bị và sẵn sàng cho ngày phán xét, khi nhắm mắt xuôi tay.  

Luôn làm tròn bổn phận, trách nhiệm trong từng phút giây là trung thành vâng theo Thánh Ý Chúa. Luôn chu đáo, sẵn sàng như năm cô trinh nữ đem dầu theo đèn, đón chờ chàng rể, luôn siêng năng tích luỹ nhân đức, luôn xả kỷ vị tha, luôn cho đi mọi sự, luôn dấn thân phục vụ mọi người. “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy.” (Mt 16, 24) 

Luôn khiêm nhường xét mình hàng ngày, để nhận biết lỗi lầm, ăn năn sám hối, giao hoà với Chúa và tha nhân.“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay.” (Lc 12, 35-36) 

Chúa lại đến 

“Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến.” Không ai biết ngày tháng nào mạt thế. Cũng chẳng ai biết được khi nào được Chúa gọi về, hay Chúa đến gõ cánh cửa linh hồn. Nên Đức Giêsu cực lực cảnh báo mọi người hãy luôn chuẩn bị chu đáo cho thời điểm bất ngờ đó. “Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến.” Thánh Phaolô cũng hết sức ráo riết nhắc nhủ tín hữu luôn quan tâm đến cái kết thúc cuộc đời. Nhất mực cần thiết giữ được ngọn lửa thương yêu với tha nhân.”Hãy tỉnh thức, hãy đứng vững trong Ðức tin, hãy sống cho đáng bậc nam nhi và ăn ở kiên cường. Hãy làm mọi sự vì đức ái.” (1 Cr 16, 13-14) 

“Con hãy sẵn sàng cầm đèn sáng đợi chờ giờ Chúa trở lại, như Chúa muốn, nơi Chúa muốn, lúc Chúa muốn.” (Đường Hy Vọng, số 670) 

Lạy Chúa Giêsu, xin luôn nhắc nhủ chúng con ý thức cuộc đời mong manh, mỏng dòn, phù vân chóng qua như gió thoảng, mây trôi, để chúng con dám can đảm từ bỏ chính mình, vác thập giá bổn phận hằng ngày, cùng sẵn sàng lắng nghe Chúa gọi về. 

Thứ Tư thì ngắm: Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời. Ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ. Amen.

Về mục lục

.

ĐÊM SẮP TÀN, NGÀY GẦN ĐẾN

JM. Lam Thy

Cũng giống như một năm của trời đất có 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông; một năm Phụng vụ cũng có nhiều mùa khác nhau tương ứng với những biến cố trong những giai đoạn khác nhau của cuộc đời Đức Giê-su Ki-tô. Nhân dịp mừng kính Chúa nhật I Mùa Vọng năm A, xin được dựa vào tài liệu của Ủy ban Phụng tự Hội đồng Giám mục Việt Nam tìm hiểu xem “Phụng vụ” là gì và Năm Phụng vụ có bao nhiêu mùa: 

Ủy ban Phụng tự Giáo hội Việt Nam đã dịch từ La-tinh “Liturgia” là “Phụng vụ”, “Sacra Liturgia” là “Phụng vụ Thánh”. Theo từ nguyên, “Phụng” là dâng lên (người bề trên), tôn thờ (thần linh); “Vụ” là công việc. Phụng vụ ( 奉  務 ) là công việc thờ phụng (Việt Nam quen đọc là “thờ phượng”). Công đồng Va-ti-ca-nô II đã chỉ rõ: “Phụng vụ” là việc thực thi chức vụ tư tế của chính Chúa Giê-su Ki-tô, trong đó công cuộc thánh hoá con người được thực hiện nhờ những dấu chỉ khả giác và được thể hiện hữu hiệu cách khác nhau theo từng dấu chỉ (“dấu chỉ khả giác” là những gì mà khả năng của con người có thể nhìn thấy, nhận ra trong cuộc sống). Như vậy, Phụng vụ Thánh (“Sacra Liturgia”) là toàn thể việc phụng thờ, ca tụng, tạ ơn và xin ơn Thiên Chúa mà Giáo hội, với tư cách là Hiền Thê của Chúa Ki-tô, hàng ngày cử hành qua kinh nguyện, nhất là cử hành Thánh lễ Tạ Ơn và các Bí tích nhân danh Chúa Ki-tô (in personna Christi) để xin ơn cứu chuộc của Chúa tiếp tục ban phát cho những ai thành tâm thiện chí muốn hưởng nhờ, để hy vọng được sống hạnh phúc đời đời với Chúa trên Nước Trời mai sau. Một năm Phụng vụ có 5 mùa:

I. Mùa Vọng: bắt đầu từ kinh chiều I của Chúa nhật I Mùa vọng và kết thúc trước kinh chiều I lễ Giáng Sinh. Mùa Vọng diễn tả hai đặc điểm khác nhau và được chia thành hai giai đoạn để diễn tả đặc tính như: * Giai đoạn thứ nhất: từ đầu Mùa Vọng đến hết ngày 16 tháng 12. Đây là thời gian chuẩn bị để người tín hữu hướng lòng đến ngày Chúa Ki-tô sẽ trở lại lần thứ hai trong vinh quang. * Giai đoạn thứ hai: từ ngày 17 tháng 12 kéo dài trong một tuần lễ. Đây là thời gian để người Ki-tô hữu chuẩn bị trực tiếp mừng Đại lễ Giáng Sinh, để kính nhớ việc Con Thiên Chúa đã đến trần gian lần thứ nhất, tại Bê-lem. 

II. Mùa Giáng Sinh: bắt đầu từ kinh chiều I lễ Gíáng Sinh đến hết lễ Chúa Hiển Linh hoặc Chúa nhật sau ngày 6 tháng Giêng. Trong truyền thống Phụng vụ, sau lễ Phục Sinh, Giáo hội không cử hành mầu nhiệm nào khác ngoài mầu nhiệm Nhập Thể và việc tỏ mình của Con Thiên Chúa, từ Bê-lem đến sông Gio-đan. Lễ Giáng Sinh cũng có tuần Bát nhật như lễ Phục Sinh, nhưng không được mừng kính với cùng mức độ như tuần bát nhật Phục Sinh, vì: + Mỗi ngày trong tuần Bát nhật Phục Sinh được mừng như lễ trọng. + Mỗi ngày trong tuần Bát nhật Giáng Sinh không đồng đều, tức là có ngày thì cử hành lễ trọng, ngày thì cử hành lễ kính, ngày thì cử hành như lễ thường.

III. Mùa Chay: là thời gian để người Ki-tô hữu chuẩn bị tâm hồn (hoán cải và sám hối, thanh luyện và củng cố đức tin) để chuẩn bị đón mừng biến cố Vượt Qua. Riêng đối với những người dự tòng, thì đây là thời kỳ để họ chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Khai tâm Ki-tô giáo vào chính đêm lễ Phục Sinh. Thời gian của Mùa Chay kéo dài 40 ngày. Con số 40 liên hệ với các biến cố: – 40 năm dân Do-thái đi trong hoang địa tiến về miền đất hứa. – 40 ngày ông Mô-sê ở núi Xi-nai diện kiến Đức Chúa. – 40 ngày vua Đa-vít phải đối đầu với Gô-li-át. – 40 ngày Ê-li-a đã trải qua để đến Hô-rét. – 40 ngày Ngôn sứ Giô-na rao giảng kêu gọi dân Ni-ni-vê hãy sám hối (Lc 11, 29-32; Mt 12, 38-42). Như vậy, thời gian 40 ngày Mùa Chay chính là thời gian để người tín hữu chuẩn bị tâm hồn đón nhận biến cố Vượt Qua cách ý nghĩa nhất. 

IV. Mùa Phục Sinh: mừng Chúa chiến thắng tội lỗi và sự chết, sống lại hiển vinh. Mùa Phục Sinh bao gồm 50 ngày, bắt đầu từ Chúa nhật Phục Sinh và kết thúc vào lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. – Tuần lễ đầu tiên sau Chúa nhật Phục Sinh gọi là tuần Bát Nhật, long trọng cử hành như các lễ trọng kính Chúa. – Ý nghĩa của Mùa Phục Sinh là việc cử hành trong niềm hân hoan như một ngày lễ duy nhất, vì vậy các Chúa nhật trong mùa Phục Sinh không còn được gọi là Chúa nhật sau Phục Sinh như trước nữa, mà được thay bằng tên gọi Chúa nhật Phục Sinh với số thứ tự từ I đến VII. 

V. Mùa Thường niên: chia thành hai phần: *Phần I là những tuần lễ nằm trong khoảng thời gian từ lễ Chúa Hiển Linh đến đầu Mùa Chay; *Phần II là những tuần lễ, sau lễ Hiện Xuống đến đầu Mùa Vọng. Mùa Thường niên là một tổng thể duy nhất, vì Giáo hội không cử hành một khía cạnh đặc biệt nào về mầu nhiệm Chúa Ki-tô, nhưng lại tôn kính mầu nhiệm Chúa Ki-tô trong toàn bộ, tức là cho ta thấy Đức Ki-tô đang sống, hiện diện và hoạt động nơi Giáo hội, bằng việc Người dạy dỗ, thánh hoá, nuôi dưỡng, ở và đến trong thới gian cánh chung. Mùa thường niên là thời gian Giáo hội mời gọi con người đi trên con đường mà chính Đức Ki-tô đã vạch ra, để đem ơn cứu độ cho loài người. 

Mùa đầu tiên của năm Phụng vụ tiếng La-tinh gọi là “Adventus” (có nghĩa là “Đến” với ngụ ý: “Mùa Chúa Ðến”). Ủy ban Phụng tự VN dịch là Mùa Vọng (Vọng 望 là từ Hán Việt có nhiều nghĩa: Nhìn ra xa hoặc nhìn lên cao; Ước mong, mong mỏi; Bái phỏng, kính thăm; Tiếp cận, gần đến; Chí nguyện, tâm nguyện; Danh dự, tiếng tăm; Hướng về, về phía). Với nghĩa đó, mùa Vọng bao hàm được đầy đủ ý nghĩa sâu xa đặc tính 2 giai đoạn như đã dẫn trên (xc. I. Mùa Vọng: – nt -) Như vậy, Mùa Vọng nhắc lại thời gian nhân loại trông đợi Chúa đến lần thứ nhất (4 tuần lễ tượng trưng cho 4.000 năm thời Cựu Ước trông đợi Chúa đến). Đồng thời với việc kỷ niệm thời gian trông đợi Chúa đến lần thứ nhất, ngày hôm nay Giáo hội còn muốn nhắc nhở mọi tín hữu hãy chuẩn bị sẵn sàng trong tỉnh thức để chờ đón ngày Chúa đến lần thứ hai. 

Thời Cựu Ước, Thiên Chúa không chỉ đến với con người bằng Giao ước trên núi Si-nai, mà còn luôn đến với Tổ phụ Ap-ra-ham, đến với các tiên tri, ngôn sứ…, để thông qua các vị này mà đến với con cái nơi trần thế. Bước sang Tân Ước, thì chính Đức Giê-su Thiên Chúa đã hiện dịên bằng xương bằng thịt trên trái đất và Người luôn luôn đến với mọi người, nhất là những người nghèo đói, cùng khổ, bệnh tật, lao tù… Đến khi Người hoàn tất công trình cứu độ nhân loại, được rước về trời, thì chính Người cũng truyền dạy: “Và này đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Đó là chưa kể, hàng ngày hàng giờ, thậm chí từng giây từng phút, thông qua các thánh lễ Misa trên thế giới, Đức Ki-tô luôn hiện diện và sẵn sàng đi vào cung lòng mỗi người, nếu họ biết đón nhận. Nói cách khác, Đức Giê-su Con Thiên Chúa  luôn đến với loài người và sẵn sàng ở trong cung lòng chật hẹp nhơ uế của mỗi người, ngoại trừ trường hợp con người xua đuổi, chối bỏ, xa lánh Người. Rõ ràng Đức Ki-tô Thiên Chúa đã đến, đang đến và sẽ đến với nhân loại. Tất cả mọi người ngay lành, công chính, luôn biết sống và hành động theo Lời Chúa dạy, thì luôn có Chúa ở cùng, và đó chính là điều rất đáng vui mừng, hạnh phúc. 

Như vậy thì phải hiểu như thế nào khi phải đón chờ ngày Chúa đến lần thứ hai và sẽ có những hiện tượng xảy ra báo trước ngày ấy: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.” (Lc 21, 25-27). Còn nữa, “Vậy, khi anh em thấy đặt trong nơi thánh Đồ Ghê Tởm Khốc Hại mà ngôn sứ Đa-ni-en đã nói đến (người đọc hãy lo mà hiểu!), thì bấy giờ ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi, ai ở trên sân thượng thì đừng xuống lấy đồ đạc trong nhà, ai ở ngoài đồng, đừng trở lại phía sau lấy áo choàng của mình. Khốn cho những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó! Anh em hãy cầu xin cho khỏi phải chạy trốn vào mùa đông hay ngày sa-bát. Vì khi ấy sẽ có cơn gian nan khốn khổ đến mức từ thuở khai thiên lập địa cho đến bây giờ chưa khi nào xảy ra, và sẽ không bao giờ xảy ra như vậy nữa. Nếu những ngày ấy không được rút ngắn lại, thì không ai được cứu thoát; nhưng, vì những người được tuyển chọn, các ngày ấy sẽ được rút ngắn.” (Mt 24, 15-22). 

Ôi chao! Chỉ mới đọc (nghe) đoạn văn Kinh Thánh này thôi, cũng đã đủ toát mồ hôi lạnh, bủn rủn chân tay, hồn xiêu phách lạc; và cứ theo bản năng yếu đuối mỏng giòn của con người, thì chắc chẳng ai còn muốn vui mừng trông đợi ngày ấy nữa. Tuy nhiên, bình tâm lại mà suy niệm chín chắn, sẽ thấy Lời dạy của Đức Giê-su Ki-tô không thừa, chẳng những thế mà còn rất cần thiết để cảnh tỉnh con người, bởi vì: “Anh hãy biết điều này: vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. Quả thế, người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa; hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ.” (2Tm 3, 1-4); “Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường.” (2Tm, 4, 3-4). 

Và đó mới chính là mấu chốt của vấn đề. Tại sao vậy? Vì những việc ấy (từ những thiên tai khủng khiếp đến những hậu quả khốc hại do tư tưởng và hành động của con người…) đã xảy ra trên trái đất này từ cuối thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI nó đã chuyển sang cao điểm. Chính vì thế, Đức Ki-tô mới dạy “hãy canh thức và sẵn sàng”. Canh thức không phải chỉ là thức suốt đêm này qua đêm khác như một người bị bệnh mất ngủ, mà là phải tỉnh táo, canh giữ, phòng vệ trong mọi trường hợp, mọi lúc, mọi nơi. Nói cách khác là phải cảnh giác trước những hiện tượng thiên nhiên và nhất là những trò lừa bịp, ma mị của ma quỷ thông qua con người, phải tìm đến với Lời Chúa, lắng nghe Lời Chúa và kiên quyết sống theo Lời Chúa dạy. 

Vâng, nhất quyết “Phải như thế, vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.” (Rm 13, 11-14).

Chưa hết đâu, đã đành là phải tỉnh thức, nhưng còn phải sẵn sàng chuẩn bị dầu đèn, sẵn sàng đem những nén bạc Chúa trao ra kinh doanh cho có hiệu quả để đầu tư vào kho báu Nước Trời, bằng cách làm theo lời dạy của thánh Gio-an Tẩy Giả, đó là “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? ” Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì? ” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” (Lc 3, 12-14). Vâng, quả thực là “Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối. Và đừng vội nghĩ bụng rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham; vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.” (Lc 3, 8-9).

Thực sự chỉ có như vậy mới gọi là tỉnh thức và sẵn sàng đòn chờ ngày Chúa đến, ngày Con Người quang lâm: “Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy, tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này đến chân trời kia.” (Mt 24, 30-31). 

Mùa Vọng là mùa trông đợi, mùa chờ đón Tin Mừng Đấng Cứu Thế quang lâm lần thứ hai. Đã đành là Chúa đã đến, đang đến và luôn sẵn sàng ở lại trong cung lòng mỗi người hàng ngày hàng giờ, nhưng chỉ những người ngay lành, công chính mới thực sự được Chúa ở cùng “mọi ngày cho đến tận thế”. Tuy nhiên, ngày Chúa quang lâm lần thứ hai thì chưa tới và có thể tới bất cứ lúc nào, tới vào lúc loài người bất ngờ nhất, và khi Người tới thì toàn thể nhân loại đều được diện kiến. Duy chỉ có điều – và là điều cần quan tâm nhất, cần lo lắng nhất – là vào ngày giờ ấy, ai sẽ được đứng ở bên phải và ai sẽ phải đứng ở bên trái Chúa. Chính vì thế, xin hãy biến 4 tuần lễ Mùa Vọng đón chờ ngày Chúa giáng trần trong năm Phụng vụ thành mùa vọng trong suốt cuộc đời trông đợi Chúa quang lâm vào ngày cánh chung vũ trụ. 

Ngay từ bây giờ, có thể anh vừa mới sinh ra, có thể chị đang ở tuổi thanh niên, trung niên, có thể ông bà đang ở vòng bóng xế, và cũng có thể các cụ đang thèm ăn đất hơn thèm ăn cơm, chân trên lỗ chân dưới lỗ, xin tất cả “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ.” (Lc 12, 35-37). Vâng, xin hãy thực sự sống cuộc đời trần thế cho Mùa Vọng Nước Trời mai hậu sẽ được đứng ở bên phải Chúa, ngẩng cao đầu diện kiến Thiên nhan Đấng Cứu Tinh. Ước được như vậy. Amen.

Về mục lục

.

ANH EM HÃY SẴN SÀNG

Fx Đỗ Công Minh 

      Cơn siêu bão Haiyan vừa qua đã tràn vào thành phố Tacloban của Philiphin gây thiệt hại không ngờ. Toàn thành phố đã trở thành bình địa với hàng ngàn người chết. Những người sống sót kể lại khi cơn bão đến, mưa to, gió lớn. Sấm sét gầm thét trên bầu trời. Những cơn sóng thần từ ngòai biển cao trên 4 mét ập vào làm nhà cửa, xe cộ bị cuốn đi. Người ta không thể làm được gì khi những hiện tượng kinh thiên động địa ập đến. Cũng như nạn sóng thần tại Nhật Bản trước đây, nhà cửa, xe cộ bị nước cuốn trôi ra biển như những hộp diêm trên đại dương. Đã có người nhận xét đó là cơn đại hồng Thủy thứ hai sau thời Ông Nô-ê mà Tin Mừng hôm nay đề cập đến.

      Lạy Chúa,

     Ngày quang lâm của Chúa, ngày Chúa đến với mỗi người chúng con không phải là một tai họa, qua bài tin mừng hôm nay, Chúa muốn cho chúng con hiểu rằng việc Chúa đến với con sẽ rất bất ngờ, không ai có thể biết trước được. Điều Chúa nhắc chúng con là, Người đến để cứu thóat chúng con khỏi mọi xiềng xích tội lỗi, đưa chúng con vào cõi sống muôn đời. Phần còn lại là của mỗi người chúng con, có sẵn sàng bước vào một cuộc sống mới, bước vào một thế giới mới, thế giới trong con tàu của Ông Nô-ê, để được hưởng một cuộc sống mới và sống dồi dào bên Chúa, hay vẫn mải mê với những việc làm đen tối, chè chén say sưa hay chơi bời dâm đãng, cãi cọ ghen tương? như Thánh Phaolô Tông đồ cảnh báo (Rm 13, 11-14a), trong Bài đọc II Chúa nhật thứ I Mùa Vọng.

     Mùa Vọng lại trở về với mỗi người chúng con, Mùa Vọng mùa của những tiếng vọng lên trời kêu cầu ơn giải thóat của dân Chúa ngày xưa. Mùa vọng hôm nay còn là mùa của niềm hy vọng, trông chờ Chúa giải thóat nhân lọai khỏi những tranh chấp, khỏi những cuộc chiến tàn khốc, khỏi những dịch bệnh, đói nghèo, bóc lột lẫn nhau, đàn áp lẫn nhau…  Chúa vẫn hiện diện nơi trái đất này, nhưng mỗi người chúng con có mở lòng mình để đón Chúa? Bài Thánh Ca mùa Vọng nhắc cho con lời khấn nguyện của dân Chúa ngày xưa, xin  Chúa đến, Người sẽ là vị cứu tinh cho nhân lọai, vẫn mãi vang lên:

       “Trời gieo sương xuống. Mây hãy mưa đấng cứu chuộc. Đất hãy mở ra, và làm mọc lên “Đấng Cứu tinh“.

         “Lạy Chúa, là mục tử nhà Israel, Chúa là đấng hướng đạo dân Người. Xin đến mà chuộc lấy, trong uy quyền cánh tay của Chúa. Chúa ơi! Người hãy đến, đến cứu độ chúng con“… (LM NS Hoàng Kim)

      Phần con, một người tự nhận tin vào Chúa, con có thực sự canh thức như người giúp việc đợi chủ trở về để mở cửa? Con có sẵn sàng tỉnh thức để biết phòng chống lại kẻ trộm linh hồn con đến, lôi kéo con vào thế giới của nền văn minh sự chết?

      Xin Chúa cho con nhân mùa Vọng này, biết đổi mới con người mình, canh tân đời sống, tỉnh thức và sẵn sàng. Quyết ”lọai bỏ những việc làm đen tối, cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu”  hầu đón nhận được ơn giải thóat và bình an Chúa hứa ban. Amen.

Về mục lục

.

TỈNH THỨC VÀ CHỜ ĐỢI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay, toàn thể Giáo hội bước vào Chúa nhật I Mùa Vọng, Năm Mới Phụng Vụ được bắt đầu, đặc biệt chúng ta chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh của Con Một Chúa và bắt đầu lại cuộc lữ hành thiêng liêng hướng về Ðấng Thiên Sai muôn dân mong đợi.

Thiên Chúa là “Ðấng đang ngự đến”; Ngài đã đến giữa chúng ta nơi con người Chúa Giêsu Kitô; Ngài sẽ đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Mùa Vọng mới bắt đầu, dân Chúa lại được Đức Giêsu Kitô hướng dẫn trong cuộc hành trình mới. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đặt vấn đề : “Hành trình về đâu? Có một đích chung nào không? Ðích ấy là gì? Thiên Chúa đã trả lời thông qua ngôn sứ Isaia: ” Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, Nước nước dập dìu kéo nhau đi. Rằng: “Ðến đây, ta cùng lên núi Ðức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp, để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ.” (Is 2,2-3)

Ðó là một cuộc hành hương của cả vũ trụ hướng về một cùng đích chung, chính là Giêrusalem của Cựu Ước, nơi có Ðền Thờ Ðức Chúa, vì từ đó, dung nhan của Thiên Chúa và giới luật của Người sẽ được ban truyền, và “đền thờ của Thiên Chúa” là chính Người, Ngôi Lời đã làm người: Người hướng dẫn và đặt đích đến cho cuộc hành hương của Dân Chúa; và là ánh sáng chiếu rọi dân Người để họ có thể tiến tới một Vương Quốc của công chính và bình an. Tiên Tri Isaia nói: “Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.” (Is 2,4)

Như vậy, hành trình mới nhân loại được Chúa Giêsu hướng dẫn qua dòng lịch sử hướng về sự kiện toàn trong Vương Quốc của Thiên Chúa. Mùa Vọng được ghi dấu đặc biệt bởi sự tỉnh thức và đợi chờ. Tỉnh thức để tích cực làm việc tốt, chờ đợi trong tình yêu thương và hy vọng. Vì thế, chúng ta có thể dùng thời gian này như một lời mời gọi đổi mới một vài khía cạnh cần thiết trong cuộc sống.

Thứ nhất, cần phải tỉnh thức, vì ý nghĩa cuộc sống trên trái đất này là để chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu, mà thời gian chuẩn bị là món quà và ân sủng của Thiên Chúa. Ngài không muốn áp đặt tình yêu của mình trên chúng ta, cũng không phải trên Trời: Ngài muốn chúng ta được tự do (vì đây là cách duy nhất của tình yêu). Chúng ta không biết khi nào việc chuẩn bị sẽ kết thúc: “Chúng ta loan báo Chúa Kitô đến và không chỉ có đến mà còn hoàn tất thế giới này” (Thánh Cyrillô thành Giêrusalem). Nỗ lực duy trì một thái độ mới với niềm hy vọng là điều chúng ta phải có.

Thứ hai, chúng ta cần phải tỉnh thức vì thói quen và thoải mái không thích hợp với tình yêu. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta rằng, cũng như “trong thời Noe” người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng (x.Mt 24,37-38) không có nghi ngờ gì khi mà lụt đại hông thủy đến. Tương tự như thời ông Noe, Đấng xét xử sẽ đến đem người này đi và bỏ người kia lại, thật bất ngờ.

Phải tỉnh thức, Đức Bênêđictô XVI nói : “chỉ có người tỉnh thức mới không cảm thấy bất ngờ”. Chúng ta phải chuẩn bị với một tình yêu rực cháy trong tim, như các trinh nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón chàng rể. “Kìa chàng rể đến” (Mt 25,6), Chúa Giêsu Kitô sẽ đến vào lúc người ta không ngờ.

Ngày giờ Chúa đến là niềm vui không cùng cho những ai cầm đền cháy sáng trong tay. Người đến như một người cha trong gia đình sống ở phương xa viết thư thăm nhà : Cả nhà cứ đợi, bố sẽ về. Từ từ hôm đó, niềm vui tràn ngập trong gia đình đến: Bố về!  Các thánh là những mẫu gương cho chúng ta, vì các ngài đã sống “trong sự chờ đợi Chúa”.

Mùa Vọng giúp chúng ta chờ đợi Chúa đến trong yêu thương và an bình. Thánh Augustinô cho chúng ta một bài học về sự đợi chờ : “Sống sao chết vậy”. Nếu chúng ta chờ đợi với tình yêu, Chúa đến, Người sẽ lấp đầy trái tim ta niềm vui chờ đợi Chúa.

Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến” (x.Mt 24,42). Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI giải thích: “Tỉnh thức có nghĩa là theo Chúa, lựa chọn những gì Chúa Kitô đã chọn, yêu thương những gì Chúa đã yêu, để có một cuộc sống phù hợp với mình. Khi Con Người đến …Chúa Cha sẽ chào đón chúng ta trong vòng tay yêu thương của Chúa, vì chúng ta giống Con của Ngài”.

Noi gương Mẹ Maria, mẫu gương đẹp nhất trong Mùa Vọng về sự chờ đợi và đón nhận Con Thiên Chúa làm Người. Nguyện xin Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria giúp chúng ta mở rộng tâm hồn cho Chúa Kitô ngự đến. Amen.

Về mục lục

.

TỈNH TÁO BẢO VỆ PHẨM CHẤT CAO ĐẸP CỦA MÌNH

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Con người có giá trị rất cao

Con người cao quý hơn hết mọi loài trên trái đất. Nếu bảo rằng con người, một khi đã được Chúa Ki-tô cứu chuộc, được trở nên cao trọng không kém thiên thần, thì cũng không ngoa.

Chúng ta có thể khẳng định như thế vì những lý do sau:

Vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người theo hình ảnh Thiên Chúa.

Vì con người được Ngôi Hai Thiên Chúa mặc lấy. Và khi Ngôi Hai Thiên Chúa mặc lấy con người thì cũng nâng bản tính nhân loại lên cao. Thánh Athanasiô và một số các giáo phụ khác đã mạnh mẽ khẳng định rằng: “Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa” (GLHTCG 460).

Đặc biệt, con người được trở nên đền thờ Thiên Chúa, được trở thành chi thể Chúa Giê-su khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, được nên cùng huyết nhục với Chúa Giê-su và được tiếp nhận sự sống của Ngài nhờ Bí tích Thánh thể.

Chỉ có tội lỗi mới có thể huỷ hoại giá trị con người

Dù có bị lũ lụt cuốn trôi hết sản nghiệp, dù có làm ăn thua lỗ, trở thành người trắng tay… thì phẩm chất con người vẫn còn nguyên vẹn.

Dù có bị mất mát tay chân vì tai nạn hay bệnh tật, thì danh giá người ta vẫn không vì thế mà bị sứt mẻ, hao mòn…

Chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể huỷ hoại danh giá, cướp mất phẩm chất cao đẹp của con người.

Xét về mặt tâm linh, khi phạm tội trọng, chúng ta bị cắt lìa khỏi Chúa Giê-su như cành nho lìa khỏi thân nho, như bàn tay bị cắt lìa cơ thể… Khi ấy chúng ta không còn là chi thể của Chúa Giê-su, không còn là đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa, mà chỉ còn là một chi thể chết, một cành héo khô.

Như thế, chúng ta đang mang trong mình những giá trị rất cao quý, nhưng cũng rất mỏng giòn, như lời thánh Phao-lô dạy: “Anh em chứa đựng những kho tàng đó trong những bình sành” (2 Cor 4, 7). Đúng thế, chúng ta đang mang những giá trị cao quý đó trong một thân xác rất mỏng giòn yếu đuối. Vì thế, hãy hết sức thận trọng bảo trì.

Hãy tỉnh thức, đừng đánh mất giá trị cao quý của mình

Bước vào mùa Vọng, Lời Chúa kêu mời chúng ta hãy tỉnh thức, hãy ý thức giá trị cao quý của mình, ý thức phẩm chất cao đẹp của mình, để bảo toàn nó bằng mọi giá.

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy chúng ta hãy làm như người chủ khôn ngoan, canh chừng cẩn mật, không để cho kẻ trộm đào ngạch khoét vách nhà mình, lấy đi kho báu của mình. Vâng lời Chúa dạy, chúng ta hãy luôn tỉnh táo, đừng mê muội, đừng để cho thói hư tật xấu cướp mất phẩm giá cao quý của chúng ta.

Trong bài trích thư gửi tín hữu Rô-ma được chọn đọc hôm nay, thánh Phao-lô cũng thức tỉnh chúng ta đừng mê ngủ, đừng để những đam mê thế tục cướp mất phẩm chất cao đẹp của mình: “Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. 12Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. 13Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. 14Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm 13,12-14).

“Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.”

Những người nông nổi, thiếu khôn ngoan thường chú trọng đến lớp sơn bao phủ bên ngoài mà không chú ý đến phẩm chất tốt đẹp của những đồ mộc cao cấp; họ quan tâm tô điểm bên ngoài thân xác mà xem thường phẩm chất bên trong. Hậu quả là bên ngoài có vẻ đẹp và dáng dấp của ma-nơ-canh (là những người nộm trong các cửa tiệm thời trang) còn bên trong thì trống rỗng hoặc đầy những điều xấu xa ô trọc.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin dạy chúng con quý trọng phẩm chất bên trong hơn là lớp sơn hào nhoáng bên ngoài, để quyết tâm bảo vệ gìn giữ những giá trị rất cao đẹp mà Chúa đã ban cho và luôn luôn tỉnh táo, luôn luôn canh phòng, không để cho bất cứ một thói hư tật xấu nào cướp mất phẩm giá cao quý của mình.

Về mục lục

.

BIẾT MONG CHỜ

Lm. Jos. DĐH.

Ngày nào, cho tôi biết, biết vui biết buồn, tôi biết tương tư, ngày nào biết mong chờ, biết rộn rã buồn vui đợi em dưới mưa… ! Tác giả Phạm Duy đã gợi lên tâm trạng tình yêu đôi lứa thật da diết, lãng mạn, khi biết yêu thầm nhớ trộm của tuổi bước và yêu. Biết mong chờ, biết yêu thương, là cảm giác chung, là hình ảnh rất đẹp trong đời sống tự nhiên nơi mỗi người. Sự tinh tế của mong chờ thường bí ẩn, sâu xa khó hiểu, nếu người ta không được tư vấn, không được uốn nắn con tim theo nhịp đập của tình yêu chân thật.

Mong như trẻ thơ mong mẹ về chợ, mong như các sinh viên mong ngày ra trường, mong như bậc cha mẹ mong con khôn lớn, thành đạt, và còn nhiều mong muốn rất phong phú khác nữa. Sâu thẳm trong tâm hồn, người ta mong chờ niềm vui, bình an, mong gặp được hạnh phúc, mong có một năng lực để không còn phải sợ khổ đau, mất mát. Ở trên đời, con người tự nhiên vốn bị coi như cái thùng không đáy, hoặc được voi đòi tiên, lấy gì để lấp được khoảng trống mơ ước dầy đặc của chúng ta đây ? Biết mong chờ là chủ trương, là cùng đích, hay cũng chỉ là khẩu hiệu của những ai đang hướng thiện, cầu toàn, đợi trông một hạnh phúc mong manh ?

Với óc cầu tiến, người ta sẽ không mong chờ trong thụ động, họ ý thức sẽ làm giầu kiến thức, thu thập nhiều kinh nghiệm, phát triển kinh tế.., bởi nghĩ rằng, tôi khao khát gặt hái thành quả là hợp lý. Khi nói tới chờ đợi, là người ta nghĩ tới thời gian, khi nói tới thành đạt, ta đã gián tiếp nói đến quá trình đầu tư, đành rằng kiên nhẫn, làm việc có khoa học, luôn là ưu tư số một, nhưng con người thường không bỏ qua yếu tố may mắn. Ở trường học, các sinh viên phải đối diện với nhiều công thức phức tạp, nhưng họ vẫn có lời giải phù hợp, bước vào trường đời, kể cả các chuyên gia cũng không ai học được “chữ ngờ”, “bất ngờ”, quả là không nên nhắc tới !

“Con tầu Noe” có phải là con tầu may mắn, hay vì ông khôn ngoan, biết sống đúng niềm mong đợi nên khi lũ lụt đến, ông và cả gia đình ông không thấy đó là bất ngờ. Con tầu hiện tại chúng ta đang hành trình, có phải là con tầu trừu tượng không, khi mà Đức Giêsu chính là dấu chỉ của hạnh phúc, là niềm vui, bình an đối với những ai có Ngài trong các tương quan. Thời Noe, biết mong chờ là nhìn ra được dấu chỉ của tình yêu và sự sống. Dấu hiệu của sự sống mà ông và con cháu ông phải tốn nhiều công sức đục đẽo, để từ cây đại thụ trở thành con tầu trú ngụ cho gia đình ông thoát khỏi sự chết.

Những tâm hồn biết mong chờ của thời đại hôm nay, sẽ không phải là dấu chỉ của bão lũ, là nhắc bảo phải đóng tầu, xây nhà kiên cố chống đỡ chiến tranh, thiên tai. Núi đá và đồn lũy bảo vệ an toàn hơn, chính là mong chờ ơn Chúa, vì nhờ ơn ban, người Kitô hữu mới đủ khôn ngoan để tỉnh thức, để sống thánh ý Chúa trong đời này. Con tầu có tình yêu thương, là con tầu có Chúa đồng hành, con tầu đưa dẫn mọi phần tử tới bến bờ hạnh phúc, phải là con tầu có liên đới tình đệ huynh. Hình ảnh ăn uống cưới vợ lấy chồng trước nạn hồng thủy, chưa phải là dấu hiệu của tội lỗi phản nghịch, đúng hơn là họ chưa phản ánh được tinh thần khao khát mong chờ và sống ơn cứu độ.

Người khôn ngoan luôn được coi là người biết lo xa, biết đề phòng những bất trắc xảy đến, kẻ khờ dại chỉ biết tìm no cái bụng, lo kiếm cái nhỏ nhặt cho riêng mình, vì vậy mà có câu : quân tử phòng thân, tiểu nhân phòng bị gậy. Chúa Giêsu không phân biệt giới trí thức hay bần nông, Ngài nhắc nhớ chung cho các đối tượng : “nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình”. Thực ra người biết mong chờ theo tinh thần của Chúa là người đang sống bổn phận của mình, người có đủ tư cách để phân biệt trắng đen, đủ khả năng nhận ra dấu chỉ tình yêu thương của Chúa nơi tâm hồn mình.

Có tỉnh thức, mới minh chứng được là ta đang mong chờ ơn ban, mong chờ tình yêu cứu độ, có đợi chờ khao khát ơn Chúa, người ta mới không bị “lẩn quẩn” trong bão lũ cuộc đời, nhưng luôn thể hiện rõ được tính kỷ luật với gia đình, bản thân. Chúa Giêsu không có ý hù dọa, cấm đoán con người thụ hưởng hạnh phúc ở đời này, hay sử dụng thời gian cách tùy tiện, đúng hơn Ngài khuyên ta hoàn thiện ơn gọi của mình. Cứ bình thường, không ai muốn xa người mình yêu thương, không ai muốn đối tương mình yêu thương phải gặp đau khổ bất trắc, nguy hiểm. Con tầu Noe không đủ tính thuyết phục cứu người Do-thái, sự việc Con Thiên Chúa đến trong ngày tận thế là có thật, nhưng gián tiếp Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy ở trong con tầu của Ngài để được cứu, được hạnh phúc đời đời. Amen.

Về mục lục

.

HÃY TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG

Jos. Hoàng Mạnh Hùng

Trong xã hội hiện nay, người ta thường khuyên mỗi người phải cảnh giác: cảnh giác với những kẻ bất lương, lừa đảo, với thực phẩm bẩn, với môi  trường sống … Những phút giây mất cảnh giác thường khiến con người phải trả giá: lúc thì của cải không cánh mà bay, lúc thì sức khỏe bị tổn hại và nhất là có thể mất mạng sống như chơi.

Không chỉ là những chuyện ban ngày ban mặt ngoài đường phố nhưng nhiều khi tai ương lại sập đến ngay tại nơi trú ẩn an toàn nhất là ngôi nhà của chính mình. Cũng giống như “thời ông Nô-ê, người ta không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy”; trận lũ lụt ở miền Trung vừa qua tràn về trong đêm tối khiến con người bàng hoàng trở tay không kịp, nhà cửa ruộng vườn tan hoang, của cải vật dụng gia súc trôi theo dòng nước.

Tin Mừng Chúa Nhật khởi đầu mùa Vọng theo thánh Mát-thêu đề cập đến sứ điệp cánh chung. Lời loan báo thời đại Con Người sẽ đến với những đảo lộn vũ trụ đáng sợ. Chúa Giê-su nhắc đến thiên tai hủy diệt nhân loại trong thời Cựu Ước là cơn lụt hồng thủy và những ai không sống tỉnh thức thì sẽ bị tận diệt, còn ai tỉnh thức và sống công chính thì sẽ được thoát nạn.

Con Người quang lâm mang tính cách “bất ngờ”, ai có ý thức và sống tỉnh thức chờ đợi sẽ được nhận mặt “tích cực” của biến cố này. Ngược lại, sẽ thật buồn cho những ai mù tối ăn chơi và hưởng thụ cuộc sống trong lạc thú và tội lỗi, mà không chú ý tỉnh thức, sám hối và ăn năn.

Ngoài ra, Thánh Mát-thêu cũng đề cập thêm về hai nhóm người trong ngày quang lâm của Con Người. Nhóm thứ nhất là hai người đàn ông đang làm ruộng và nhóm thứ hai là hai người đàn bà đang kéo cối xay. Nghĩa là cả hai nhóm người đang làm những công việc thường nhật.

Một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Như thế, khi Chúa đến thì có người được chọn và có người không được chọn. Giống như biến cố đại hồng thủy, ông Nô-ê được chọn cùng với con cháu, trong khi những người khác thì không được chọn.

Qua dụ ngôn đơn sơ này, Chúa Giê-su nhấn mạnh một giáo huấn quan trọng: “Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu.”

Như vậy, dù kẻ trộm có đến bất ngờ hoặc chủ nhà đã tiên đoán được thời gian kẻ trộm đến thì người chủ vẫn không được phép lơ đãng, mà luôn phải giữ tinh thần tỉnh thức sẵn sàng đối phó khi kẻ trộm khoét vách nhà mình. Qua yếu tố Chúa đến cách bất ngờ, Chúa Giê-su muốn nhắc nhở chúng ta cần phải tỉnh thức luôn.

Tỉnh thức và sẵn sàng là thái độ nền tảng mà người Ki-tô hữu cần có trong cuộc sống. Khi sống tỉnh thức và sẵn sàng chính là lúc chúng ta thắng mình, không để mình rơi vào tình trạng “ngủ mê”, không sẵn sàng đón tiếp Chúa đến. Vì không biết khi nào Chúa đến nên chúng ta phải khiêm tốn và luôn mở rộng tấm lòng cho Chúa, luôn giữ cho được mối dây tương quan tình yêu với Ngài.

Đó là sự khôn ngoan trong cuộc sống của người Ki-tô hữu, nhất là trong bầu khí của mùa Vọng, là thời gian chúng ta chờ trông Chúa đến. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng để khi Chúa đến, Ngài sẽ thấy chúng ta vẫn đang mở rộng cánh cửa tâm hồn sẵn sàng mời đón Ngài vào.

Về mục lục

.

KẺ TRỘM ĐẾN

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Một năm phụng vụ mới lại vừa khai mở, một chu kỳ mới của sứ điệp Tin Mừng đầy an ủi và hy vọng lại được triển khai, ấy thế mà tiếng kêu gọi của Hội Thánh trong những ngày đầu năm này, qua phần Lời Chúa, lại hình như muốn gióng lên tiếng báo động để cảnh tỉnh: ‘phải canh thức, phải sẵn sàng!’ “Cho nên anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.

Thú thật từ lâu tôi đã thực sự tò mò tìm cách giải mã cái sứ điệp rất ‘chéo cẳng ngỗng’ này: nếu coi đó là lời cảnh báo đe loi của một ngày thế tận ‘dies irae dies illa’ (ngày đó là ngày thịnh nộ) đầy khủng khiếp kinh hoàng thì thật dễ hiểu và hiển nhiên…, nhưng nếu như vậy thì làm sao có thể gọi được là lời kêu mời chuẩn bị đón nhận Tin Mừng của cậy trông và hy vọng? Đặt lời cảnh báo này trong bối cảnh của việc khai mở một Tin Vui thì rõ ràng là một nghịch lý, một lạc đề. Ngay cả các chi tiết của hình ảnh được chính Đức Giê-su đưa ra: “Anh em hãy biết điều này; nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu” cũng cần phải được giải mã nữa. Vì lý do gì mà Đức Giê-su lại chọn một hình ảnh quá tiêu cực đến như thế để kêu mời mọi người sẵn sàng đón nhận sự kiện cứu độ quá trọng đại và tích cực như vậy? Vì lý do gì mà Người đã so sánh mình với kẻ trộm, so sánh sự việc cứu độ vinh quang với hành vi lén lút đào ngạch khoét vách để ăn trộm?

Tôi thiết tưởng ‘mất để được’ chính là điều Đức Giê-su muốn nhấn, khi sử dụng hình ảnh rất quen thuộc trong Cựu Ước: trận Đại Hồng Thủy. Trong biến cố này người Do Thái có một hình ảnh rất rõ nét về một xã hội phồn vinh thịnh đạt “thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ, lấy chồng…” mà ai cũng muốn duy trì cho lâu cho dài… “mãi cho đến ngày ông Nô-e vào tầu”. Rồi nạn hồng thủy ập tới như một mất mát ‘cuốn phăng đi hết thảy’… Mất trong trường hợp này là một hình phạt hay mất để được?Con người cần phải rũ bỏ để được nhẹ nhõm trở về với Đức Chúa của mình! Người duy nhất tỉnh chức để chuẩn bị cho cuộc mất mát vĩ đại, đã cứu được sinh mạng mình là ông Nô-e vào tầu… Những ai đượcđược đem đi’ đều chấp nhận mối bất hạnh mất tất cả, còn ai bịbị bỏ lại’ đều là những người ‘may mắn’ chẳng mất mát gì hết; “Bấy giờ hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, người kia bị bỏ lại…” Tôi đã từng nghe có những cuộc tranh luận xem ai là người ‘bị’ và ai là người ‘được’ khi dịch đoạn Tin Mừng này ra tiếng Việt. Thế thì sẵn sàng và tỉnh thức đây không phải là để khư khư giữ lại tất cả, mà là để sẵn sàng mất đi tất cả. “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến”.

Tự nhiên thì ai cũng muốn giữ của, vì ai cũng có khuynh hướng coi mình là chủ nhà! Điều thật sự không may là, nếu cứ sống trong thái độ chủ nhân ông đó, thì dầu Đấng Cứu Độ có đến, người cũng sẽ bị liệt vào hạng kẻ trộm đến khoét vách nhà mình thôi. Điển hình những người thuộc nhóm Biệt Phái, Sa-đốc và vua Hê-rốt, với đầy đủ quyền hành và của cải, đang là chủ nhân của xã hội thời đó, họ đâu có muốn mất đi những thứ họ đang có; họ muốn giữ lại tất cả, muốn duy trì tất cả…; và vì thế họ muốn tiêu diệt tên Giê-su như tiêu diệt một tên gian phi trộm cướp. Chỉ có một số người liều mình mất tất cả, những người nghèo khó của A-dô-nai (anawim) mới sẵn sàng: “Thưa thầy, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo thầy” (Mt 19:27), Phê-rô, đại diện các môn đệ đã tuyên bố như thế. Và Đức Giê-su kết luận: “Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.

‘Hãy sẵn sàng’ là sứ điệp gởi tới mọi tín hữu, để khi Đức Giê-su đến làm mất tất cả, mất trắng tay, Ki-tô hữu sẽ không như dân ngoại coi đó là một đại họa; ngược lại, họ sẽ coi đó mới chính là hồng ân giải thoát. Ai cũng biết rằng: hình ảnh ngày tận thế xa lắc xa lơ kia chẳng qua chỉ là biểu tượng chung cho một điều rất cụ thể mà mỗi người, không trừ một ai, đều phải trải qua. Đó là giờ chết, lúc mà mọi người đều phải ra đi trắng tay. Tỉnh thức và sẵn sàng là để cái giờ phút phải bỏ lại tất cả đó không tới bất chợt, có nghĩa là vào chính lúc người ta vẫn cứ khư khư như mấy ông chủ, chỉ lo canh giữ cho bằng được của cải mình đang sở hữu. Đức Giê-su khich lệ các mộn đệ Người hãy như Nô-e, hay như người đầy tớ trung tín (Mt 24:45-51): mau mắn mở cửa đón lấy Con Người duy nhất có thể mang lại cho mình ơn cứu rỗi. Mỗi mất mát hàng ngày của người tín hữu (không lãnh vực này thì cũng lãnh vực khác, không là điều này thì cũng là điều kia) luôn là dịp mời gọi họ tỉnh thức và sẵn sàng. Họ biết chấp nhận để rộng mở đón lấy hồng ân cứu độ. Chỉ như thế trọn cuộc sống Ki-tô hữu mới là một mùa vọng liên tục, một cuộc tỉnh thức trường kỳ! Điều này không chỉ hàm chứa một nội dung luân lý tu đức đầy cảnh giác, mà chính là cốt lõi sâu xa nhất của Tin Mừng: biết chấp nhận mọi đổ vỡ, mất mát, kể cả các sa ngã phạm tội, để không ngừng đón lấy lòng thương xót cứu độ được Thiên Chúa tặng ban cho, trong Đức Ki-tô Giê-su.

Trong tư cách Ki-tô hữu, ngay cả trong tư cách một linh mục như tôi, tôi sẽ chuẩn bị thế nào cho giờ đón nhận ơn cứu độ: trong sợ hãi vì còn muốn khư khư thu giữ nhất là trong các ‘của cải’ tôi cho là tốt lành nhất, kể cả trong lãnh vực tinh thần, thiêng liêng…, hay là trong hy vọng vì sẵn sàng mất mát từ bỏ tất cả? Hãy nhớ rằng: cả tôi nữa cũng sẽ phải giáp mặt ‘Kẻ Trộm’ sẽ đến lấy đi tất cả đấy, vậy thì niềm hy vọng đích thực của tôi phải được đặt ở đâu, ở các giá trị tôi sở đắc hay nơi lòng thương xót từ nhân của Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su?

Lạy Thiên Chúa chí công, con không xin Chúa cứu con khỏi phải chết bất ngờ, nhưng hãy giúp con luôn biết luôn tỉnh thức đón nhận lòng thương xót cứu độ của Chúa trong mọi tình huống cuộc đời, nhất là khi sự mất mát vĩ đại nhất trong đời xảy đến, nghĩa là trong giờ phút lâm chung. Xin cho con, chính lúc đó, biết mau mắn đón lấy Thiên Chúa từ nhân như gia nghiệp duy nhất dành cho mình. Xin cho con biết giáp mặt giờ chết trong thái độ sẵn sàng mất đi tất cả, cả điều tốt lẫn điều xấu, để chỉ chiếm hữu một mình Chúa từ nhân làm phần phúc đời đời cho con. A-men.

Về mục lục

.

TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA ĐẾN

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 24,37-44

(37) Quả thế, thời ông Nô-e thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. (38) Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-e vào tàu. (39) Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. (40) Bấy giờ hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại. (41) Hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại. (42) Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. (43) Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. (44) Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.

  1. Ý CHÍNH:

Ngày tận thế sẽ đến vào lúc bất ngờ, nên đòi người ta phải luôn tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa. Như trong nạn lụt hồng thủy thời No-e: chỉ có gia đình No-e vì đã tỉnh thức và đóng tàu mới được cứu thoát. Tỉnh thức như chủ nhà thức canh đề phòng kẻ trộm khoét vách nhà mình trong đêm tối. Tóm lại, các môn đệ cần luôn sẵn sàng đón Chúa đến bất ngờ.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 37-39: + Thời ông Nô-e thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy: “Con Người” ám chỉ Đấng Thiên Sai. Đức Giê-su đối chiếu nạn hồng thủy thời Nô-e với cuộc trở lại trong vinh quang vào ngày tận thế của Người để phán xét chung nhân loại hay phán xét riêng mỗi người vào giờ chết. + Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy…: Cuộc quang lâm của Con Người vào ngày tận thế giống như nạn hồng thủy thứ hai. Thiên hạ thời Nô-e cứ sinh hoạt bình thường mà không để ý đến những dấu hiệu của cơn đại họa sắp đến, nên đã phải chết thê thảm. Cuộc quang lâm của Vua Thẩm Phán Giê-su trong ngày tận thế cũng sẽ xảy đến bất ngờ như vậy.           

– C 40-41: + Hai người đàn ông… Hai người đàn bà…: để diễn tả số phận con người khác nhau tùy theo thái độ tỉnh thức và tùy lối sống của họ, Đức Giê-su đã dùng hai hình ảnh cụ thể minh họa: hai người đàn ông đang làm việc ngoài đồng, hai người đàn bà đang xay chung một cối bột. + Thì một được đem đi, một bị bỏ lại: Người ta có thể cùng làm chung một ngành nghề, nhưng tùy theo cách sống mà số phận đời đời sẽ khác nhau: người này được tiếp nhận, kẻ kia bị bỏ rơi.

– C 42-44: + Hãy canh thức, vì không biết giờ nào…: Để khỏi bị bất ngờ như những người thời Nô-e, các môn đệ phải luôn tỉnh thức sẵn sàng. Tỉnh thức không phải là thụ động chong đèn ngồi chờ, nhưng là tích cực làm việc như người quản gia chu toàn nhiệm vụ cấp phát lương thực cho gia nhân (x. Mt 24,45), như năm cô trinh nữ khôn ngoan mang dầu theo đèn (x. Mt 25,4), như người biết làm lợi gấp đôi số nén bạc được trao (x. Mt 25,20), luôn sống theo tám mối phúc thật (x. Mt 5,3-12), biết quan tâm chia sẻ và phục vụ tha nhân nhất là người nghèo đói (x.Mt 25,34-40). + Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng…: Các môn đệ phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa đến cách bất ngờ như kẻ trộm.

  1. CÂU HỎI:

1) Tại sao phải tỉnh thức để đón chờ Chúa đến ? 2) Đức Giê-su đã dạy môn đệ bài học gì về sự tỉnh thức qua câu chuyện lụt đại hồng thủy thời No-e ? 3) Đức Giê-su đã dùng hai hình ảnh nào để minh họa cho lối sống tỉnh thức của người môn đệ hầu chuẩn bị cho ngày tận thế sẽ đến ? 4) Người môn đệ Chúa phải sống tỉnh thức như thế nào ?

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24,42).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) KẾ SÁCH CÁM DỖ HOÀN HẢO NHẤT CỦA MA QUỶ:

Một câu chuyện ngụ ngôn về sự cám dỗ của ma quỷ như sau: Có ba tên quỷ con đang thời kỳ huấn luyện đi cám dỗ loài người. Một hôm tên quỷ già thầy giáo yêu cầu lũ quỷ học trò đề ra kế sách hòan hảo để cám dỗ loài người. Tên quỷ thứ nhất thưa rằng: “Tôi sẽ nói với loài người rằng: trên đời này làm gì có Thiên Chúa, nên các ngươi cứ việc ăn chơi thỏa thích theo lòng đam mê của mình”. Nhưng tên quỷ già bảo: “Kế sách đó khó thành công lắm, vì dù không thấy Thiên Chúa vô hình, nhưng hầu như mọi người đều cảm thấy sự hiệu hữu của ông ta”. Tên quỷ con thứ hai trình bày: “Phần tôi sẽ rỉ tai cho loài người biết: chết đi là hết. Thiên đàng hay hỏa ngục chỉ là sự tưởng tượng để hù dọa họ phải ăn ngay ở lành mà thôi chứ không có thực! Do đó, các ngươi cứ việc vui chơi thỏa thích, kẻo giờ chết đến thì khi ấy có muốn cũng không thể vui chơi được nữa!”. Tên quỷ già gật gù nói: “Kế đó cũng hay đấy. Nhưng có lẽ loài người vẫn biết có quả báo, có thiên đàng để thưởng kẻ lành và hỏa ngục để phạt kẻ dữ”. Tên quỷ con thứ ba thì nêu ý kiến này: “Phần tôi, tôi sẽ làm cho con cái loài người tin rằng còn lâu chúng mới chết. Do đó chúng cứ việc thỏa mãn những đam mê lạc thú ở đời. Khi nào phải nằm liệt giường sắp chết, sẽ ăn năn sám hối cũng chưa muộn!”. Nghe xong, tên quỷ già khoái chí cười hô hố. Nó vừa xoa đầu tên quỷ học trò vừa khen lấy khen để: “Trò giỏi lắm. Quả đó là kế sách rất hạp ý ta. Với phương kế này, chắc chắn nước hỏa ngục của chúng ta sẽ ngày càng bành trướng vì sẽ có thêm rất nhiều kẻ gia nhập đó!”.

2) CẦN TỈNH THỨC TRƯỚC KHI QUÁ MUỘN:

Sách “Cổ Học Tinh Hoa” có kể lại một câu chuyện như sau:

Bấy giờ vua nước Ngô định đem quân đánh nước Tề, nhiều người lên tiếng can ngăn, nhưng vua chẳng chịu nghe, lại còn ra lệnh nếu ai nói tới việc đình chiến thì sẽ bị chém đầu. Một vị quan trẻ tuổi nhưng nổi tiếng khôn ngoan, luôn ba ngày liền cứ sáng sớm mang cung đến khu vườn trong hoàng cung. Không đếm xỉa gì tới sương rơi và nắng gội. Ngày thứ ba, vua gặp và hỏi:

– Khanh làm gì đó?

– Thưa trên ngọn cây cổ thụ này có con ve sầu hút gió, uống sương và kêu ve ve suốt ngày. Con ve nghĩ mình yên thân, nhưng đằng sau phía xa lại có một con bọ ngựa đang rình chờ nhảy tới vồ nó. Trong lúc bọ ngựa định tóm cổ con ve sầu, thì ở gần đó lại có một con chim sẻ đang dòm ngó, tìm cách bắt con bọ ngựa. Nhưng chính con chim sẻ này lại không dè dưới gốc cây có người lại đang nhắm bắn nó. Chính hạ thần đây là người đang rình bắn con chim sẻ. Nhưng hạ thần lại quên rằng sương rơi và nắng chiếu lại có thể làm cho mình bị cảm và chết. Cũng như nhiều người, hạ thần chỉ nhìn thấy cái lợi nhỏ nhen trước mắt mà quên mất cái hại tày đình đang rình chờ ở sau lưng.

Hiểu vị quan này có ý thức tỉnh mình, sau đó nhà vua nước Ngô đã nghĩ lại và quyết định thôi không đem quân đi xâm lấn nước Tề.

3) THIẾU CẢM THÔNG CŨNG LÀ KHÔNG TỈNH THỨC:

Một vị linh mục lớn tuổi đã kể lại câu chuyện sau đây. Xưa kia ở New York, có một bà mẹ sống với một người con trai. Chẳng may đứa con trai bị bệnh nặng. Bà mẹ không còn mong muốn gì hơn là tìm gặp được người thầy thuốc giỏi chữa lành bệnh cho con bà. Bà nghe người ta đồn về một ông bác sĩ rất giỏi từ Vienna, Áo quốc, sẽ ghé thăm thành phố New York, và bà hy vọng sẽ mang đứa con trai đến cho ông chữa bệnh. Vào một buổi tối mùa đông, thời tiết rất xấu, bên ngoài trời mưa lạnh, bà nghe rõ có tiếng gõ cửa. Mở hé cửa ngó ra ngoài bà chỉ nhìn thấy một người đàn ông tóc phủ bờ vai cùng với bộ râu dài và lướt thướt. “Thưa bà, trời đêm tối lạnh lẽo và ướt át, tôi có thể vào nhà bà được không?” Người đàn ông hỏi. “Rất tiếc,” người đàn bà nói, “tôi không thể đón tiếp ông được!” Rồi bà đóng sầm cánh cửa và khóa kín lại.

Ngày hôm sau, người đàn bà mở tờ nhật báo ra. Ngay trang nhất, bà đọc được hàng chữ lớn in đậm: “Vị Bác Sĩ Nổi Tiếng Từ Vienna Viếng Thăm New York.” Phía dưới hàng chữ là bức hình chụp của ông bác sĩ. Với sự ngạc nhiên và buồn rầu, đây chính là người đàn ông tóc dài với bộ râu lướt thướt đã gõ cửa nhà bà tối hôm qua!

Trái với sự tỉnh thức là ngủ mê. Ngủ mê trong ảo tưởng của tội lỗi, vật chất và trần gian. Thánh Phaolô khuyên dạy dân thành Thêxalônica như sau: “Thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ”.

Vài thập niên vừa qua, thành phố Pittsburgh, nơi có nhiều xưởng thép và những lò luyện kim vĩ đại gây nên những tiếng đập ồn ào suốt ngày đêm. Dân chúng sống chung quanh vùng này đã quen tai với những tiếng búa, tiếng nện đến nỗi họ vẫn ngủ yên an bình. Quả vậy, tiếng động đã ru họ ngủ ngon giấc. Nhưng vào một đêm, bất chợt tai nạn xảy đến làm ngưng trệ một nhà máy lớn. Tiếng nện ồn ào ngưng hẳn. Và mọi người đã tỉnh thức.

4) THÁI ĐỘ TỈNH THỨC ĐÒI PHẢI LUÔN TỀ CHỈNH:

Một vị thanh tra kia khi đến thăm một trường tiểu học đã nói với các em học sinh như sau: “Hôm nay thầy thấy có nhiều học sinh đã để bàn học mất trật tự, lớp học thì ồn ào và rác rến vung vãi mất vệ sinh. Vậy thầy quyết định sẽ trở lại đây để kiểm tra các em một lần nữa. Từ nay tới hôm thầy trở lại, em nào giữ được bàn học sạch sẽ, sách vở ngăn nắp sẽ được thưởng”. Bấy giờ có mấy em hỏi: “Thưa thầy, khi nào thầy sẽ trở lại ạ ?”. Thầy đáp: “Thầy sẽ trở lại. Nhưng không cho các em biết ngày giờ chính xác”.

Sau khi thầy thanh tra đi, một cô bé liền nói với mấy đứa bạn rằng mình quyết tâm sẽ dành được phần thưởng của thầy. Các bạn khác nghe vậy liền cười ồ chế diễu, vì cô bé này ít khi nào chỉnh tề ngăn nắp. Có bạn hỏi rằng: “Bàn học của bạn chẳng khi nào chỉnh tề mà bạn lại đòi được lãnh phần thưởng hay sao ?” Nhưng cô bé trả lời: “Từ ngày mai, mỗi buổi sáng tớ sẽ thu xếp dọn dẹp ngay khi mới đến là sẽ gọn gàng ngay thôi mà”. Bạn kia lại hỏi: “Thế nếu thầy thanh tra đến vào buổi chiều hay tối thì sao ?” Cô bé im lặng suy nghĩ một lát rồi nói: “Thôi, mình hiểu rồi. Như thế là lúc nào mĩnh cũng phải giữ bàn học thứ tự gọn gàng sạch sẽ phải không các bạn ?”.

  1. SUY NIỆM:

Trong cuộc sống, nếu mỗi người chúng ta muốn được thưởng hạnh phúc đời sau thì ngay từ bây giờ chúng ta phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện.

1) Ý nghĩa của Mùa Vọng:

  1. a) Mùa Vọng là thời kỳ giúp các tín hữu chờ đợi Chúa đến, không phải như trong thời Cựu Ước, dân Do Thái đang mong chờ Đấng Thiên Sai đến, vì Người đã đến rồi, nhưng là thời gian để các tín hữu chuẩn bị tâm hồn mừng lễ Chúa Giáng Sinh, và cũng là thời gian để chúng ta chờ đón Đấng Thiên Sai tái lâm để phán xét chung và đưa người lành vào hưởng hạnh phúc thiên đàng, nơi không còn đau khổ, không còn nước mắt hay sự chết nữa.
  2. b) Đối với các tín hữu chúng ta thì ngày tận thế vừa là ngày tận cùng để vũ trụ biến đổi thành một “Trời Mới Đất Mới” (Kh 21,1), mà cũng vừa là giờ chết của mỗi người. Trước sự kiện ngày tận thế, phản ứng của loài người sẽ khác nhau tùy họ tin hay không tin như sau:

+ Đối với người không tin thì tận thế là ngày oán phạt: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Lc 21,25-27).

+ Nhưng đối với các tín hữu thì tận thế lại là ngày vui mừng và hy vọng như lời Chúa dạy: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” (Lc 21,28).

2) Bài học về số phận thành Sô-đôm bị hủy diệt:  

  1. a) Tình trạng tội lỗi của dân thành Sô-đôm: Ông Lót và gia đình sống tại thành Sô-đôm. Khi Sô-đôm bị các nước lân bang xâm chiếm thì Lót bị bắt đi. Tổ phụ Áp-ra-ham đã phải đưa gia nhân đi giải cứu. Nhưng sau đó Lót về sống trong thành Sô-đôm giàu có tội lỗi. Vì tội của dân thành này quá nhiều khiến Đức Chúa phải quyết định trừng phạt. Abraham đã phải mặc cả nhiều lần để xin Chúa tha thứ cho dân thành. Nhưng vì tại Sô-đôm không tìm ra được đủ mười người công chính, nên cuối cùng cả thành đã bị tiêu diệt. Trước khi tai họa xảy ra, có hai thiên sứ của Chúa đến giải cứu Lót. Nhưng Lót còn phân vân không muốn dời đi vì tiếc của. Rồi sau khi đã ra khỏi thành, bà vợ ông Lót còn tiếc của ngoái lại và đã biến thành tượng muối đúng như Chúa phán (x. St 19,1-25).
  2. b) Tình trạng tội lỗi của con người hôm nay: Ngày nay, tình trạng sa đoạ ngày càng gia tăng do ảnh hưởng của lối sống hưởng thụ thực dụng, do phim ảnh in-ter-net… đến độ người ta cho rằng phải sống đồi trụy mới là tiến bộ như: quan hệ trước hôn nhân, đồng tính luyến ái, ngoại tình, phá thai và các sách báo, phim, băng hình đồi trụy mỗi ngày một gia tăng, mặc dù cơn đại dịch Sida, Aid đã tiêu diệt hàng trăm ngàn người mỗi năm, thế nhưng nhiều người vẫn nhắm mắt làm ngơ, vẫn lao vào cuộc sống hưởng thụ, sa đoạ, bất chấp lề luật, tai họa, đến mức Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã phải thốt lên: “Cái đáng buồn của thế giới ngày nay chính là mất đi ý thức về tội lỗi. Người ta không còn nghĩ đến tội phúc, và cũng chẳng cần nghĩ đến danh dự phẩm giá con người, mà chỉ cần thoả mãn các nhu cầu dục vọng bất chấp lề luật mà Thiên Chúa đã an bài”.

3) Chúng ta phải làm gì ? :

  1. a) Chờ đợi ngày Chúa sẽ đến bất ngờ: Chúa sẽ đến bất ngờ, nhưng sẽ không bất ngờ đối với những ai luôn tin cậy vào Chúa và trong tư thế sẵn sàng trong cách ăn nết ở như lời thánh Phao-lô: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày. Không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng” (Rm 13,12-14).
  2. b) Phải tỉnh thức đợi chờ Chúa đến thế nào trong mùa Vọng này? :

– Không phải đợi chờ trong lo âu buồn phiền như người vô tín, nhưng trong niềm tín thác, cậy trông và hy vọng như môn đệ Chúa Giêsu.

– Không phải đợi chờ cách thụ động, nhưng phải chu toàn bổn phận của mình.

– Chờ đợi chính là tích cực cộng tác với tha nhân để xây dựng cho gia đình, khu xóm và nơi làm việc của mình ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn.

– Chờ đợi như thế thì ngày Chúa đến trong giờ chết sẽ không còn bất ngờ đáng sợ, nhưng với niềm vui hân hoan. Vui vì tin rằng Chúa sẽ đến thiết lập một “Trời Mới Đất Mới” và sẽ đón nhận chúng ta vào hưởng hạnh phúc Thiên Đàng với Người.

  1. THẢO LUẬN:

1) Có người nói: “Đời người mau qua chóng hết, nên ta cần phải nếm mọi lạc thú ở đời, để đến giờ chết ta sẽ không còn phải hối tiếc vì cuộc sống quá ngắn ngủi mau qua”. Bạn sẽ nói gì với người ấy giúp họ hy vọng vào một cuộc sống vĩnh hằng đời sau ?

2) Ngay từ hôm nay bạn sẽ làm gì để xây dựng gia đình, xã hội trở thành thiên đàng trần gian, một nơi chan chứa sự công bình, yêu thương và hạnh phúc ?

  1. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU: Nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng bối rối. Bối rối vì bản thân chúng con còn nhiều tội lỗi khuyết điểm, vì môi trường và thế giới chúng con đang sống vẫn nhiều dở dang và còn nhiều người chưa nhận biết tin thờ yêu mến Chúa Cha. Chúa đến không để hủy diệt những kẻ tội lỗi, nhưng muốn họ ăn năn sám hối và được sống.

– LẠY CHÚA THÁNH THẦN, xin cho chúng con luôn thành tâm sám hối để đón nhận ơn thứ tha của Chúa Cha. Xin cho chúng con biết luôn cộng tác với Chúa Giê-su để xây dựng một “Trời mới Đất mới” công bình và yêu thương, an vui và hạnh phúc. Xin giúp chúng con luôn cậy trông vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa Ba Ngôi, vì biết rằng tất cả những điều xảy ra đều nhằm thanh luyện và biến đổi chúng con nên tốt hơn, hầu chúng con góp phần xây dựng thế giới mỗi ngày một nên công bình yêu thương và hạnh phúc hơn.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

SỐNG TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Một năm Phụng Vụ lại đến. Thời gian cứ thế trôi đều theo nhịp dường như chẳng có gì mới dưới trần gian này. Đông qua, xuân đến, hạ đi, thu lại về. Hết mùa thường niên, đoàn tín hữu Kitô bước vào mùa Vọng, mùa Giáng Sinh. Tuy nhiên vẫn có đó cái gì mới lạ khi ta bước vào một điểm mốc của thời gian, cho dù đó chỉ là sản phẩm có tính quy ước của con người. Bắt đầu một chu kỳ mới, được gọi là năm dựa trên vòng xoay của vũ trụ nói chung, của thái dương hệ mặt trời và trái đất chúng ta nói riêng hay khởi đầu một chu kỳ lịch sử ơn cứu độ theo niên lịch Phụng Vụ Kitô giáo, hẳn nhiên vẫn tiềm tàng một khao khát, ước mơ, hy vọng nào đó. Chắc chắn đó là những hy vọng, mơ ước về nhiều điều tốt đẹp, có thể là hợp lý, phải đạo, cũng có thể là không và không thể loại trừ những ước vọng cao cả.

Bước vào một chu kỳ mới của niên lịch Phụng Vụ, Hội Thánh mẹ, trong năm Phụng Vụ năm A này có vẻ hơi lạ thường khi mời gọi chúng ta hướng cái nhìn đến ngày chung cục của thế giới, của đời người chúng ta. Bài Tin Mừng theo thánh Matthêu tường thuật những lời cảnh báo của Chúa Giêsu về tính bất ngờ, đột ngột của cái ngày chung cục ấy. Đồng thời Người kêu gọi khán thính giả lúc bấy giờ cũng như chúng ta hôm nay là hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Quy luật tự nhiên giúp ta thêm xác tín rằng sự gì khi đã có khởi đầu thì hẳn có lúc kết thúc.

Vòng đời “thành, trụ, hoại, không” của nhiều vật, nhiều loài hữu hình trước mắt chúng ta là một dấu chứng cho sự kết thúc của vạn vật nói chung và của đời người chúng ta nói riêng. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh là tính bất ngờ. Hình ảnh cơn lụt đại hồng thủy thời Noe hay hình ảnh hai người đàn ông đang làm ruộng, hai người đàn bà đang xay bột, thì một người bị đem đi, một người bị để lại, tất thảy đều muốn mô tả sự bất ngờ. Khi nói đến sự bất ngờ người ta thường nói đến hệ quả của nó là sự mất mát, sự thiệt hại hơn là sự may mắn hay là được lợi, cho dù thỉnh thoảng nhiều sự may mắn có xảy đến cách bất ngờ như chuyện trúng số độc đắc. Để tránh những hệ quả xấu, di hại cho hạnh phúc chúng ta đời này, nhất là cho hạnh phúc vĩnh cửu mai sau, Chúa Giêsu lặp đi lặp lại là hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Vậy thế nào là thái độ biết sẵn sàng và tỉnh thức? Hội Thánh, qua bài đọc thứ nhất trích Sách Tiên tri Isaia và bài đọc thứ hai trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Roma, muốn trình bày hai phương thế sống tỉnh thức sẵn sàng, xét theo phương diện tiêu cực và tích cực.

  1. Sống tỉnh thức sẵn sàng theo phương diện tiêu cực: Hãy loại bỏ những việc làm đen tối. Hãy dứt khoát với việc chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng, cãi cọ ghen tương. Không chìu theo tính tự nhiên mà thỏa mãn các dục vọng bất chính, đê hèn. Những hành vi bất chính, những thái độ bất xứng, những việc làm ám muội thường là những thái độ, hành vi, việc làm mà ta ít dám thể hiện công khai và thường không muốn cho ai hay, ai biết, ngoại trừ người đồng lõa, người tòng phạm.

Để sống tỉnh thức sẵn sàng theo nghĩa này thì xin hãy nhớ rằng không có sự gì mà sẽ không bị tỏ lộ. Chúng ta có thể che giấu một người nhiều lần. Chúng ta cũng có thể che giấu nhiều người một vài lần. Nhưng chúng ta khó mà che giấu mọi người nhiều lần. Nhất là chúng ta không thể nào che giấu được Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn tâm can con người, từng người và mọi người (x.Tv 139). 

Để sống sẵn sàng tỉnh thức theo ý hướng này không gì hơn hãy minh bạch hóa các việc làm của ta. Một người không ngần ngại công khai hóa các lời nói, tâm tư và hành động của mình thì sẽ tránh được nhiều sai sót, lỗi lầm. Và nếu có lỡ lầm hay sai sót thì cũng sẽ dễ có cơ hội khắc phục, sửa sai nhờ tha nhân góp ý, nhận định, phê bình.

  1. Sống tỉnh thức sẵn sàng theo phương diện tích cực: Lấy gươm đao rèn thành cuốc thành cày; lấy giáo mác đúc thành liềm, lưỡi hái. Một động thái tích cực thật tuyệt vời. Đó là quay ngược 180 độ các xu hướng xấu xa, các việc làm ám muội, các hành vi gian ác. Một ngày kia, người ta hỏi văn hào Bernard Shaw, một văn hào rất thông minh và dí dỏm trong lối ứng xử: Nhờ đâu, và bằng cách nào ngài có được những câu ứng xử vừa thông minh vừa dí dỏm như thế? Có gì đâu. Tôi cứ tưởng tượng ra một câu nói thật ngu ngốc và nhạt nhẽo, rồi tôi tìm cách nói ngược lại.

Ai trong chúng ta lại không có những điểm yếu, những nghiêng chiều bất chính, những thói quen không tốt, chẳng hay, nếu chưa muốn nói là xấu xa? Ai trong chúng ta lại không có những tội lỗi mà nếu công khai ra thì thật ngượng ngùng? Ai trong chúng ta lại không có nhũng lầm lỗi hay tái phạm nhiều lần, khó chữa, khó chừa? Cứ vạch rõ chúng ra rồi hãy làm điều ngược lại. Giả như tôi có tật xấu hay bủn xỉn, keo kiệt về tiền bạc thì ước gì tôi tích cực tập chia sẻ cho tha nhân cách cụ thể bằng những đồng tiền rút từ hầu bao của tôi.

Kinh “Cải tội bảy mối, có bảy đức” chúng ta dường như thuộc nằm lòng. Kinh ấy có ra không phải là để chỉ đọc trong các ngày Chúa Nhật và Lễ trọng mà là để chúng ta sống. Có thể nói một cách chắc chắn rằng những ai sống nội dung kinh “Cải tội bảy mối…” là đang thật sự tỉnh thức và sẵn sàng.

Người đang sẵn sàng và tỉnh thức thì không có gì là đột ngột hay bất ngờ mà là luôn trong tư thế chuẩn bị và đón chờ. Người biết đón chờ trong tư thế chuẩn bị thì hẳn sẽ gặp nhiều may lành khi giờ Chúa đến. Nói đến giờ Chúa gọi thì có thể có người cho là còn xa. Nhưng chắc chắn người biết chuẩn bị và đón chờ thì sẽ gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp trong dịp kỷ niệm Chúa Kitô đến thế gian lần thứ nhất là Đại Lễ mừng Chúa Giáng Sinh. 

Về mục lục

.

CANH THỨC VÀ SẴN SÀNG CHÒ ĐÓN CHÚA

Dã Quỳ

Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng, khởi đầu cho Năm Phụng Vụ mới. Chắc hẳn ta cảm nhận thời gian trôi qua thật nhanh. Khi khí trời se lạnh một chút, chúng ta đã thấy ngoài thị trường trưng bày bán đầy dẫy những đồ trang trí lễ Noel. Người ta rộn ràng mua sắm, chuẩn bị cho ngày lễ và mở nhạc Giáng Sinh khắp nơi. Thế nhưng, với mỗi người Kitô hữu, Hội Thánh mong muốn chúng ta sống Mùa Vọng với tâm tình chuẩn bị kính nhớ biến cố Con Thiên Chúa đến với nhân loại lần thứ nhất, đồng thời chúng ta hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày cánh chung. Vì thế, Lời Chúa mời gọi ta “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến.” Vậy, chúng ta cần làm gì và sống như thế nào để có thể canh thức và sẵn sàng đón Chúa?

Khi mừng Lễ Giáng Sinh, chúng ta nhớ về một biến cố trong quá khứ đã diễn ra trước đây hơn hai ngàn năm. Chúng ta cử hành sinh nhật của Chúa Giêsu, Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa trở nên một người ở giữa chúng ta. Còn Mùa Vọng lại thúc đẩy chúng ta hướng về tương lai. Mùa Vọng nhắc chúng ta nhớ rằng một ngày nào đó Chúa Giêsu sẽ đến trong vinh quang, là ngày cùng tận của thế giới, để thay đổi, làm cho tất cả nên mới. Vì thế, “Hãy canh thức, hãy sẵn sàng” là điều Chúa Giêsu chỉ dạy và mong ước chúng ta thực thi.

Hãy Canh Thức. Chúa tha thiết kêu mời chúng ta hãy canh thức để có thể nhận biết sự hiện diện của Chúa trong trần gian và trong cuộc sống của chính chúng ta. Chúa Giêsu đưa ra quang cảnh ngày Chúa đến sẽ như nạn hồng thủy ập xuống bất ngờ “Thời ông Nôê thế nào thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy.” Vì thế, cần phải canh thức mới nhận ra ngày giờ Chúa đến và mới được cứu. Người canh thức là người tỉnh, không ngủ mê trong những tội lỗi; là người tỉnh thức trước những cám dỗ của trần gian, của những ham mê danh lợi thú, của những lo lắng sự đời và tất cả những gì ngăn cản Chúa đến với ta.

Cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tỉnh thức hướng lòng về Chúa và không còn bám víu vào thế trần. Chính Chúa đã dạy các môn đệ “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.”(Mc 14,38). Cầu nguyện là vũ khí của người Kitô hữu và là chìa khóa mở trái tim Thiên Chúa. Vì vậy, thánh Phaolô đã khuyên chúng ta hãy “Cầm lấy cũ khí của sự sáng để chiến đấu.”(Rm13,12)  Nhờ vũ khí cầu nguyện, chúng ta mới thức dậy và mạnh mẽ loại trừ những việc làm đen tối, ăn ở đứng đắn, không chiều theo tính xác thịt hay dục vọng nhưng luôn mặc lấy Chúa Kitô (x. Rm 13,12-14). Vậy đừng bao giờ chúng ta ngừng cầu nguyện, vì “Ai không cầu nguyện, không cần ma quỉ lôi kéo, sẽ tự mình sa xuống hỏa ngục.”(Thánh Têrêsa Avila) Ước mong sao mỗi chúng ta biết dùng thời giờ trong ngày sống để dâng lên Chúa những tâm tình tôn vinh, chúc tụng, cảm tạ, hối lỗi và xin ơn lành…Như thế, cầu nguyện sẽ là chiếc thang nối trời với đất và giúp ta luôn tỉnh thức sẵn sàng đón chờ Chúa đến.

Hãy Sẵn Sàng. Lời Chúa tha thiết nhắc nhở ta hãy biết chuẩn bị chu đáo từ xa để có một tâm hồn sẵn sàng chờ đón Chúa. Bởi “Đời đâu học được chữ ngờ“, thế nên thái độ sẵn sàng không bao giờ là thừa, nhất là sẵn sàng chờ đón giờ Chúa đến. Vì “chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến“. Giờ và ngày ấy sẽ không bất ngờ nếu ta biết chuyên chăm cầu nguyện, cử hành các Bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể mỗi ngày. Chỉ trong cầu nguyện và cử hành Bí tích, ta mới có cơ hội tập quen dần đón Chúa, gặp gỡ Chúa và trò chuyện thân mật với Chúa. Nhờ cầu nguyện, Chúa ban cho ta sức mạnh và lòng can đảm để vượt qua những thử thách, những sự dữ và có thể đứng vững trong ngày Chúa đến.

Chúng ta cần lắng nghe Chúa nhắn nhủ và ý thức để sống Canh Thức và Sẵn Sàng, vì “Anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến.” Hãy để Lời Chúa ngân vang trong lòng chúng ta, và cố gắng thực thi Lời Chúa dạy. Hãy dành thời gian cầu nguyện, tập nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc đởi mình, trong những biến cố, trong anh chị em. Và ta cũng hãy biết đón Chúa qua việc tiếp đón, yêu thương chia sẻ với những anh chị em bé nhỏ, nghèo hèn đang sống quanh ta ngay nơi trần gian này. Có như thế, tâm hồn ta mới luôn ở trong tư thế canh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa. Đừng để ta bị bất ngờ về “Ngày ấy” Ngày Chúa đến với ta qua giờ chết của mỗi người và trong ngày Chúa quang lâm.

Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến. Xin hãy ban thêm lòng tin, cậy, mến, để chúng con luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa và được hưởng ơn cứu độ. Amen.

Về mục lục

.

TỈNH THỨC CHỜ CHÚA ĐẾN

Huệ Minh

Mùa vọng là thời gian đặc biệt để tập sống chờ đợi. Không phải chỉ là chờ mừng lễ Giáng sinh mà nhất là chờ đợi Chúa đến kết thúc dòng lịch sử. Ngày tận thế và ngày Chúa quang lâm là một. Ðó là một ngày đáng sợ, không phải vì những hiện tượng kinh khủng sẽ xảy ra, nhưng vì là ngày Chúa đến phán xét kẻ sống người chết. Ngày đó còn là một ngày hội vui: ngày vui của Chúa Giêsu toàn thắng vinh quang, ngày vui của những người được cứu chuộc, ngày vui của cả vũ trụ vật chất được giải phóng. Tận thế là cánh cửa mở ra trời mới đất mới. Tất cả được đưa vào thế giới vĩnh cửu.

Ngôn sứ Isaia cổ võ thêm cho sự mong chờ ấy bằng lời sấm đầy tràn hy vọng về đấng Emmanuel: “Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, đặt tên là Emmanuel” (Is 7, 14). Vị ngôn sứ còn loan báo một cuộc hành hương vĩ đại vào thời thiên sai: mọi dân nước trên mặt đất sẽ tiến về Giêrusalem, tập trung quanh Israel, để nhận biết và phụng thờ Giavê (Is 2, 2-5; x. Mk 4,1-5). Niềm hy vọng vội tan biến khi Israel bị Babylone xâm lăng và bị lưu đày (587).

Do Thái, dân tuyển chọn, lúc ấy đang sống trong thời kỳ bi thảm về chính trị, xã hội lẫn tôn giáo. Phương Bắc đã hoàn toàn bị đế quốc Assyri tiêu diệt (721), Phương Nam, tức đất nước Giuđa, sống dưới sức ép của đế quốc Babylone đang hăm he thôn tính. Xã hội đầy những bất công, áp bức và chèn ép: người giàu cứ phè phỡn hưởng thụ trong khi dân nghèo bị bỏ rơi và khốn khổ. Tôn giáo lỏng lẻo, pha trộn, vụ hình thức. Chính trong thời buổi nhiễu nhương và thất vọng ấy, sấm ngôn Nathan (2S 7,14) về việc Thiên Chúa hứa sẽ bảo đảm cho vương triều Đavít được miên trường khơi dậy trong lòng người nỗi mong chờ một vị Thiên Sai thuộc dòng tộc Đavít xuất hiện để giải cứu và phục hưng đất nước. 

Trước hết Ngài dùng chuyện ông Nôê trong Cựu Ước để khuyến cáo các môn đệ mình: người ta dễ bị cuốn hút trong những lo lắng cho cuộc sống vật chất (ăn uống, cưới vợ lấy chồng). Những lo lắng này không có gì là tội lỗi, nhưng có thể khiến người ta quên mất điều quan trọng là luôn luôn sống xứng đáng là môn đệ Chúa. Do đó khi ngày ấy đến một cách nhanh chóng và bất ngờ, thì những kẻ không sẵn sàng sẽ phải hư mất.

Tiếp theo là một số hình ảnh diễn nghĩa, giúp dễ hiểu: Có những người bề ngoài thì hoàn toàn giống nhau (hai người đàn ông cùng làm ruộng ngoài đồng, hai người đàn bà cùng xay một cối bột) nhưng số phận hoàn toàn khác nhau: kẻ có chuẩn bị sẵn sàng thì được đem đi (đem đi với Thiên Chúa), còn kẻ không chuẩn bị thì bị bỏ lại (bỏ lại trong hư vong).

Nếu trước đây Thiên Chúa đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập, giờ đây Người lại giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày để họ được hồi hương tái thiết Đền Thờ và đất nước. 

Một lần nữa, hy vọng lại dâng cao với sự mong chờ vị Thiên Sai Ngôn sứ mà trước đây Môsê đã từng loan báo (Đnl 18,18). Đấng Thiên Sai Ngôn sứ này là người Tôi trung của Giavê mà Isaia II đã phác hoạ là người được Thiên Chúa tuyển chọn và ban tràn đầy Thần Khí, sẽ phải chịu nhiều đau khổ và chịu chết để cứu độ dân Người. Hy vọng và mong chờ vẫn kéo dài cho đến lúc người ta lại chuyển sang việc mong đợi Con Người, một nhân vật thiên quốc mà Daniel mô tả là Đấng ngồi bên hữu Thiên Chúa, được Thiên Chúa trao cho toàn quyền chung thẩm nhân loại (Dn 7,13-14). 

Trong từng giai đoạn,Israel lại mong chờ vị Thiên Sai cứu tinh. Niềm hy vọng mong chờ đó đã nâng đỡ dân trong suốt thời kỳ đầy thảm hoạ. Sống là hy vọng và mong chờ. Suốt thời kỳ đầu của Giáo Hội tiên khởi, giữa trăm chiều thử thách, các tín hữu hằng mong chờ ngày Chúa trở lại và tha thiết kêu xin:  Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!

Giữa lúc nhân loại đang chìm sâu trong đêm tối của lầm lạc và tội lỗi, khát mong ơn cứu độ. Khi Israel đang mòn mỏi mong chờ vị Thiên sai đến giải thoát. Một vì sao sáng xé ngang màn đêm. Ánh sáng xuất hiện. Thiên Chúa đã nhập thể đến giữa loài người, mang tên gọi Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1,23). 

Loài người khát khao cứu độ, nhưng nhận biết mình hoàn toàn bất lực, chỉ còn biết trông đợi ở Chúa. Con người không thể lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa lại xuống với con người. Thánh Gioan viết:  “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Người Con một ấy chính là Ngôi Lời vĩnh cữu đã trở nên người phàm (Ga 1,1.14), sinh bởi một người nữ và sống dưới Lề Luật để cứu những ai đang sống dưới Lề Luật, hầu cho họ được ơn làm nghĩa tử (Gl 4,4-5).

Đó là lần thứ nhất Thiên Chúa xuống trong lịch sử mà ta vui mừng tưởng niệm trong ngày lễ Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh sắp đến, hãy chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Chúa đến với ta, mang niềm vui, an bình và cứu độ. 

 Tưởng niệm không phải chỉ là một hoài niệm quá khứ, nhưng căn bản là hiện tại hoá việc Chúa đến hôm nay trong mỗi giây phút cuộc sống và nhất là hướng lòng về ngày Chúa quang lâm khi niên cùng nguyệt tận để phán xét toàn nhân loại. Lúc ấy Người sẽ phân định sự sống đời đời cho những người lành và án phạt muôn đời cho những kẻ dữ là những ai khi sống nơi dương thế đã chối từ Thiên Chúa để đặt mình dưới quyền thống trị của ma quỷ và tội lỗi.

Hãy biết lắng nghe, suy niệm và thực hành Lời Chúa bởi đơn giản rằng Chúa đến và đối thoại với ta trong Thánh Kinh.

Hãy thu xếp công việc để rồi năng tham dự thánh lễ và rước lễ, hãy chiêm ngắm, tôn thờ và sống bí tích Thánh Thể. Chúa đến và ở giữa chúng ta trong Thánh Thể bằng tất cả tình yêu tự hiến, và trở nên Bánh hằng sống nuôi dưỡng ta trên bước đường lữ thứ tiến về nhà Cha. 

Trọn cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu là yêu thương và phục vụ hết tình và hết mình. Chúa đến trong anh em: “Sự gì các ngươi làm cho một anh em bé mọn là làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Người đã rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc ly như mẫu gương của sự phục vụ khiêm tốn và vô vị lợi (Ga 13,14-15). Người đã yêu thương đến tận cùng, đến chết trên thập giá. Hãy sống yêu thương và phục vụ vì đó là lề luật quan trọng nhất và là dấu chỉ của người môn đệ Chúa Giêsu (Ga 13,34-35).            

Ngày Quang Lâm vào lúc thế tận sẽ rất bất ngờ. Sự chuẩn bị sẵn sàng được xác định qua tư cách biết đón Chúa đến mỗi ngày trong cuộc sống hiện tại. Sách Khải huyền viết: “Phúc cho ai chết trong ân nghĩa của Chúa”. Nhưng để chết trong ân nghĩa thì phải biết sống trong ân nghĩa. Chúa đứng ngoài cửa và gõ; ai sẵn lòng mở, Người sẽ vào và dự bàn tiệc với người ấy.

Hãy quay trở về nơi chốn thâm sâu nhất của cõi lòng mình và hãy nhận ra cho được ai và cái gì đang ngự trị trong chốn thâm sâu đó, và đang thực sự điều hướng tất cả mọi suy nghĩ, mọi ước muốn, mọi hành vi của mình… 

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG_A

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Hôm nay là Chúa nhật thứ nhất khởi đầu cho mùa vọng và năm phụng vụ mới được gọi là năm A.  Mùa vọng kéo dài trong 4 tuần và được biểu hiệu bằng 4 cây nến đặt trong vòng hoa trước bàn thờ đây.  Mỗi tuần một cây nến sẽ thứ tự được đốt lên.  Cây nến màu hồng tượng trưng cho sự vui mừng trong vòng hoa sẽ được đốt lên vào tuần thứ ba. Trong thời gian 4 tuần mùa vọng này, Giáo hội kêu gọi chúng ta thành tâm dùng Lời Chúa chiếu soi vào tất cả những kía cạnh của cuộc sống: cá nhân, gia đình, cộng đoàn, đặc biệt là đời sống đạo, đời sống đức tin, để nhận ra những lỗi lầm và xin ơn tha thứ, mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, bằng cách gia tăng cầu nguyện, thực hiện những việc bác ái, quảng đại, những việc hy sinh và hãm mình, chuẩn bị tâm hồn một cách sốt sắng đón nhận hồng ân của Chúa trong ngày mừng Giáng Sinh của Chúa Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa.

Mùa vọng nhắc nhở chúng ta không những đến ngày Giáng sinh của Đấng Chúa Cứu Thế đã sinh xuống trần thế cách đây 2016 năm tại Be lem, mà còn muốn chúng ta chú ý đến ngày tận thế, ngày Chúa đến lần thứ hai để xét xử kẻ sống và kẻ chết, và chú ý đến ngày Chúa đến với mỗi người chúng ta trong ngày sau hết, trong ngày chết, và trong ngày ấy chúng ta sẽ phải đứng trước mặt Chúa chịu xét xử công minh để được thưởng hay phạt. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa cảnh báo chúng ta ngày giờ Chúa đến một cách bất ngờ và khuyên chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi. Cuộc đời của chúng ta có thể kết thúc bất ngờ và lúc Chúa đến cũng sẽ xảy ra một cách bất ngờ.  Bài Tin mừng hôm nay khẳng định việc gì đã xảy ra thời ông Nôe thế nào, thì lúc Chúa đến cũng sẽ như vậy.  Trong những ngày trước đại nạn hồng thủy, dân chúng vẫn ăn uống nhậu nhẹt say sưa, vẫn cưới vợ, lấy chồng.  Có nghĩa là mọi người vẫn sống một cách bình thản bỏ ngoài tai những lời kêu gọi của ngôn sứ.  Họ che mắt hay ngoảnh mặt làm ngơ, khinh thường và chế diễu những điều ông No-ê đang làm mà họ đang thấy trước mắt. Cho đến thời điểm ông Nôe và các thú vật vào tàu, họ cũng không hay biết gì hay không thèm biết.  Tin mừng cho chúng ta biết: “Thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả,” và khẳng định rằng “Khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy.”  Chúng ta hãy nghe lời Chúa Giê-su cảnh báo: “Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến.”

Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện này quả thực là một lời cảnh báo cho mọi người chúng ta.  Đừng quá miệt mài với cõi đời tạm bợ này mà quên đi cuộc sống đời đời mai sau. Đừng quá chú tâm đến việc thế gian mà quên rằng, có một Thiên Chúa và vấn đề sống chết đều nằm trong bàn tay của Ngài.  Bất cứ khi nào Chúa gọi, buổi sáng, trưa hay chiều tối chúng ta phải sẵn sàng.  Và nếu Chúa cho chúng ta biết rõ, ngày giờ Ngài đến không ai biết trước được, thì mọi người chúng ta đang sống phải phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày giờ đó.  Chúng ta phải tránh thái độ cho rằng mình còn có nhiều thời giờ.  Đây là một thái độ rất nguy hại, một cạm bẫy dễ vấp phạm trong xã hội vật chất và hưởng thụ ngày nay.

Trong kho tàng những câu chuyện dụ ngôn, có một câu chuyện như sau. Ba quỷ dữ sửa soạn xuống trần để tập sự làm công việc lừa dối nhân loại.  Trước khi khởi hành, quỷ vương Satan gọi tất cả vào để phỏng vấn.  Qủy vương Satan hỏi quỷ thứ nhất: “Có kế hoạch gì để lừa dối loài người không?”  Con qủy thứ nhất trả lời: “Tôi có một kế hoạch là cố gắng thuyết phục mọi người là không có Thiên Chúa.”  Satan hỏi con qủy thứ hai: “Nhà ngươi có kế hoạch gì để thuyết phục con người không?”  Con qủy thứ hai thưa: “Tôi có một kế hoạch là cố gắng thuyết phục mọi người là không có hỏa ngục.”   “Còn ngươi”, Satan hỏi con qủy thứ ba, “ngươi có kế hoạch cao siêu gì để thuyết phục loài người không?”  Qủy thứ ba trả lời: “Kế hoạch của tôi thì không cần sự thông minh và siêu phàm.  Tôi chỉ thuyết phục họ một cách đơn giản là họ đừng có vội vã làm gì, còn có rất nhiều thì giờ để sửa soạn cho cái chết của họ và sự trở lại của ông Giêsu.”  Qủy vương Satan mỉm cười khoái chí nói với quỉ dữ thứ ba: “Hãy làm việc đó cho ta. Việc đó sẽ lừa dối được nhiều người.”

Ông bà anh chị em thân mến.  Câu truyện trên muốn khuyên chúng ta một điểm quan trọng là đừng để bị ma quỉ lừa dối, tránh ảo tưởng cho rằng còn có nhiều thời giờ.  Chúng ta nhận biết rằng hiện tại chúng ta đang có một cuộc sống phải sống với những trách nhiệm và bổn phận.  Nhưng quan trọng hơn, là những Ki-tô hữu, chúng ta phải biết nghe Lời Chúa dạy bảo, phải biết chú ý đến đời sống đức tin và tinh thần, thành tâm và khiêm nhường sửa đổi những lầm lỗi trong cuộc sống. Chúng ta phải nhận ra có nhiều việc và nhiều vấn đề trong cuộc sống mà chúng ta không thể để tới ngày mai, bởi vì chúng ta không biết chắc chắn ngày mai có đến với chúng ta hay không.  Bởi vậy, chúng ta phải sửa soạn và chuẩn bị ngày Chúa đến hôm nay và bắt đầu ngay lúc này. Chúng ta sẽ phải trả lời với Chúa như thế nào về đời sống của chúng ta nếu giả sử Thiên Chúa đến trong giây phút này?   Hay nếu Chúa cho chúng ta có 5 phút hay 1 ngày để sửa soạn cho cái chết, chúng ta dùng ngày giờ đó để làm điều gì?  Chúng ta có muốn gia đình yêu thương, hạnh phúc và được hòa thuận hơn không?   Chúng ta muốn có một đời sống đạo đức, tốt lành ngay thẳng, thành thật hơn không?”  Chúng ta muốn có một đức tin mạnh mẽ, có một lòng xác tín vào Chúa và giáo huấn của Chúa hơn không?  Chúng ta muốn có một sự an bình trong tâm hồn không?   Chúng ta muốn có đời sống làm những việc bác ái và quảng đãi hơn không? 

Giáo hội muốn chúng ta suy niệm những câu hỏi quan trọng trên trong Chúa nhật thứ nhất mùa vọng này, và muốn hỏi chúng ta sửa soạn như thế nào và phải làm gì?  Những điều tốt lành, đạo đức, sốt sắng, bác ái, quảng đại hay hy sinh gì mà chúng ta muốn làm, đó chính là điều Giáo hội khuyến khích và mong muốn chúng ta thực hiện trong thời gian mùa vọng này, để chuẩn bị cho mùa Giáng sinh và để chuẩn bị cho ngày Chúa đến.  Chúng ta tin vì yêu thương và muốn cứu rỗi ngày Chúa đến không là để hủy diệt và mất một người nào, vì vậy, Chúa muốn chúng ta sửa soạn để sống trong ân sủng và an bình của Ngài.  Xin Chúa soi sáng và giúp chúng ta đừng để mùa vọng, mùa ân sủng đến và qua đi vô ích. 

Về mục lục

.