Ba lời khuyên Phúc Âm trong cuộc đời linh mục giáo phận

192
BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM
TRONG CUỘC ĐỜI CỦA CÁC LINH MỤC GIÁO PHẬN
bilde
Dẫn nhập cho đề tài hôm nay, con xin thuật lại một chủ đề tình cờ đọc được trên một trang mạng nói về linh mục giáo phận và linh mục dòng (Tu sĩ). Câu hỏi đặt ra cho chủ đề này : Đâu là sự khác biệt giữa linh mục dòng và linh mục giáo phận?[1] Câu trả lời có sẵn : tất cả các linh mục công giáo giống nhau về nhiều phương diện. Mỗi linh mục đều trải qua nhiều năm đào tạo và chuẩn bị tại chủng viện trước khi chịu chức. Tất cả các linh mục được chịu chức để rao giảng Tin mừng và phục vụ dân Chúa trong Đức Kitô. Quan trọng hơn, họ là người quản lý các bí tích của Giáo hội và giúp dân chúng đạt đến nước trời.Những khác biệt dễ thấy nhất qua việc so sánh các lời khấn (vows) được thực hiện bởi các linh mục dòng và các lời hứa (promises) của các linh mục giáo phận.
Các linh mục giáo phận thực hiện ba lời hứa khi chịu chức:

  • Đọc Kinh Phụng Vụ
  • Vâng lời Giám mục
  • Sống độc thân

Linh mục giáo phận sống và làm việc trong địa hạt nào đó thuộc giáo phận. Thường thì vị linh mục đó được giám mục giao cho một giáo xứ, ngài sống và làm việc tại đây. Linh mục giáo phận không thực thi lời hứa khó nghèo, thường thấy có xe riêng cùng những thứ sở hữu khác nhằm phục vụ cho công việc và đời sống cá nhân của ngài. Công việc chính của ngài là rao giảng Phúc âm, dâng thánh lễ, xức dầu bệnh nhân, rửa tội, cử hành lễ cưới, lễ an táng và an ủi những người cần đến sự giúp đỡ của ngài. Ngài là nơi tập trung mọi nhu cầu của giáo dân trong giáo xứ.

Trong khi đó, linh mục dòng thi hành ba lời khấn trọng thể trước khi thụ phong linh mục, là sống :

  • Khó nghèo
  • Khiết tịnh
  • Vâng phục

Ba cách sống này được gọi là các “Lời Khuyên Phúc Âm” vì chúng được Chúa giới thiệu cho các Kitô hữu như là thành phần của Tin mừng. Thật vậy, Giáo lý Công giáo dạy rằng mọi Kitô hữu được mời gọi sống các lời khuyên Phúc âm theo bậc sống của mình, tuy nhiên các linh mục dòng đòi hỏi sống những điều ấy cách mật thiết hơn. Các linh mục dòng lựa chọn cộng đoàn tu trì dựa trên lối sống và sứ mạng. Một số cộng đoàn sống rất khổ chế trong khi một số khác thì không. Một vài cộng đoàn có nhiệm vụ với những người già, giới trẻ hay người nghèo. Một số thì phục vụ như giáo viên tại các trường học hay truyền giáo ở nơi khác. Hầu hết họ thường sống chung trong cộng đoàn với anh em thay vì sống giữa giáo dân trong giáo xứ.

Chủ đề trên đây cho chúng ta thấy có một sự khác biệt rõ ràng trong việc tuân giữ ba lời khuyên Phúc âm giữa các tu sĩ và linh mục giáo phận (linh mục triều). Đọc lại trong các văn kiện của Giáo hội, có thể nói ba lời khuyên Phúc âm thường được trình bày có hệ thống cho đời sống tu dòng hơn là cho các linh mục giáo phận. Linh mục giáo phận không khấn giữ ba lời khuyên Phúc âm như các tu sĩ, nhưng ý nghĩa và giá trị của nó luôn gắn liền với đời sống và công việc mục vụ của linh mục. Và “dẫu cho không bị ràng buộc bởi ba lời khuyên Phúc âm do bậc giáo sĩ, nhưng những lời khuyên Phúc âm này cũng đem đến cho họ, cũng như cho mọi môn đệ Chúa, phương thế chính quy để đi tới mục tiêu đáng khát mong là sự hoàn thiện Kitô giáo”[2]. Ba lời khuyên Phúc âm như cốt lõi của giao ước tình yêu là trở nên giống Chúa Giêsu trên con đường hoàn thiện. Dù là tu sĩ hay linh mục giáo phận, ba lời khuyên Phúc âm như một sợi dây xuyên suốt cuộc đời, trở nên chứng từ sống động của tình yêu thuộc trọn về Chúa, sống cho Chúa và phục vụ tha nhân.

TỔNG QUÁT VỀ BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM
DƯỚI NHÃN QUAN THẦN HỌC
VÀ CÁC GIÁO HUẤN

Ba lời khuyên Phúc âm khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục đặt nền trên lời dạy và gương lành của Chúa, đó là tặng phẩm của Thiên Chúa được Giáo hội lãnh nhận từ Chúa Giêsu và luôn trung thành gìn giữ. Được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chính thẩm quyền Giáo hội đã nỗ lực chú giải quy định việc thực hành, cũng như thiết lập những lối sống cố định dựa trên những lời khuyên ấy[3]. Ba lời khuyên là một trong những yếu tố trung tâm và là đặc tính của đời sống tu trì. Đó là ân huệ của Chúa Ba Ngôi Chí Thánh ban cho con người, cách đặc biệt cho những ai dấn thân trong đời sống tận hiến.

I. TÌM HIỂU VỀ NỀN TẢNG CỦA BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM

Khi nói về đời sống tận hiến, người ta thường nhắc đến ba lời khuyên Phúc âm. Tuy nhiên, khi đọc lại Tin mừng, ta thấy không phải chỉ có ba lời khuyên mà còn có rất nhiều lời khuyên và điều buộc phải giữ (10 điều răn). Huấn quyền của Giáo hội qua Tông huấn Đời Sống Thánh Hiến cũng cho chúng ta thấy rõ điều này. Trong khi ở số 1 nói về Chúa Giêsu như một người khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục, thì ở số 77 Tông huấn chỉ dẫn Chúa Giêsu như người khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục, cầu nguyện và truyền giáo.

1. Thần học hệ thống hóa ba lời khuyên Phúc âm.

Qua dòng lịch sử và kinh nghiệm sống theo Truyền thống, Giáo hội đã tìm thấy được nơi đó các lời khuyên khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục, một sự tổng hợp độc đáo về đời sống và lời rao giảng của Chúa Giêsu. Các lời khuyên này được hệ thống hóa nhắm đến sự thánh hiến trọn vẹn con người cho Thiên Chúa trong mọi khía cạnh của cuộc sống : tự do, tình cảm, của cải…

2. Các lời khuyên được đề nghị cho tất cả mọi người

“Mọi môn đệ Chúa Kitô đều được mời gọi sống các lời khuyên Phúc âm, vốn rất đa dạng”[4]. Các lời khuyên Phúc âm là khuôn mẫu đời sống Chúa Kitô. Khi thực hiện chúng, Chúa Kitô đã hoàn toàn tự hiến đời mình cho Chúa Cha. Chúng là một phần trọn vẹn đời sống của Người và làm nên yếu tố căn bản cho việc cứu rỗi của Chúa Giêsu. Đây là cách mà Chúa Giêsu đạt được sự viên mãn của ân sủng mà Ngài đã ban cho Giáo hội.

Giáo hội có bổn phận sống theo Chúa Kitô. Điều này phải được chu toàn, do đó Giáo hội phải sống lời khuyên Phúc âm. Chúng ta có thể hiểu rằng các lời khuyên Phúc âm được truyền lại cho Giáo hội như một kho tàng của cuộc sống mà không thể bị chối từ, điều mà Giáo hội đã nhận được từ Thiên Chúa, và qua đó, dưới sự nâng đỡ của ơn thánh Chúa, cuộc sống ấy được giữ gìn mãi mãi. Đồng thời, chúng ta có thể hiểu rằng, cách nào đó, các lời khuyên được đề nghị cho mọi Kitô hữu trong cuộc sống, là một đòi hỏi không thể bội ước được.

3. Ơn gọi của mỗi người trong Giáo hội

Mặc dù tất cả các Kitô hữu được mời gọi sống các lời khuyên Phúc âm, nhưng không cùng một cách như nhau, trái lại tùy theo ơn sủng của mỗi ơn gọi đặc biệt được ban họ. Người tín hữu trung thành sống các lời khuyên qua các nhân đức. Các tu sĩ sống các lời khuyên qua các lời khấn, tiêu biểu cho lối sống của Chúa Kitô trong Giáo hội, hiến dâng cuộc đời họ cho Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Ngài. Các giáo sĩ được thánh hiến bằng Bí tích Truyền Chức Thánh, trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô để tiếp nối sứ vụ tông đồ qua dòng thời gian[5].

Tóm lại, dưới cái nhìn thần học, ngày nay các lời khuyên Phúc âm được xem như là đặc sủng, tức là như một lời mời gọi chọn lựa trong đời sống của mỗi người tín hữu, do Thiên Chúa thực hiện qua ân sủng của Người.

4. Sống ba lời khuyên Phúc âm là hành vi của sự tự hiến

Ba lời khuyên như ấn tín cho việc hoàn toàn dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa, “Đấng đáng được yêu mến trên hết mọi sự, phụng sự và làm vinh danh Thiên Chúa với một danh nghĩa mới và đặc biệt”[6]. Chúng là ba phương cách thể hiện sự cam kết của bản thân với đời sống nên giống Chúa Kitô, mà các khía cạnh của nó ôm trọn đời người : sở hữu của cải, tình cảm, sự tự chủ của một người. Chúng thể hiện sự tự hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa và cho anh chị em mình, nâng đỡ con người một cách dứt khoát, để sống tận hiến cách cụ thể.

5. Đón nhận mầu nhiệm Chúa Kitô qua ba lời khuyên

Ba hình thức này của cuộc sống, thay vì từ bỏ, là chấp nhận cách cụ thể mầu nhiệm Chúa Kitô. Các lời khuyên Phúc âm không được xem như là một sự phủ nhận những giá trị vốn có trong tính dục, trong những mong muốn chính đáng nơi việc sử dụng của cải vật chất và đưa ra quyết định độc lập cho riêng mình. Những khuynh hướng này, trong mức độ nào đó chúng đặt nền tảng trên tự nhiên, là tốt tự thân. Tất nhiên chúng đòi hỏi một sự khổ chế và liên tục hoán cải, như trong mọi ơn gọi của người Kitô hữu. Nhưng trước hết, nó không có nghĩa là từ bỏ một cái gì đó, nhưng mời gọi để làm cho mình luôn sẵn sàng cho Thiên Chúa và cho anh chị em, giống như Chúa Kitô. Trong bối cảnh này “vâng phục là nguồn mạch đưa tới tự do đích thực, khiết tịnh diễn tả niềm thao thức của một con tim mà không một tình yêu hữu hạn nào thỏa mãn được, nghèo khó nuôi dưỡng cơn đói khát công lý mà Thiên Chúa đã hứa sẽ làm no đầy” (x. Mt 5, 6)[7].

6. Ba lời khuyên Phúc âm và nhân đức đối thần

Ba lời khuyên Phúc âm biểu lộ đời sống trọng tâm của người tín hữu qua ba nhân đức đối thần : tin, cậy, mến. Mỗi người tín hữu buộc phải sống trọn vẹn các nhân đức ấy trong cuộc sống. Nhưng chúng ta có thể nói đức mến được thể hiện trong sự độc thân, đức cậy trong sự nghèo khó, đức tin trong sự vâng phục. Khi bước vào trong chiều sâu của đời sống Kitô giáo, chúng ta có thể nói rằng qua việc sống trọn vẹn các nhân đức này chúng ta tiếp tục thông phần bản tính của Thiên Chúa (x. 2Ph 1,4), Đấng là tình yêu (x. 1Ga 4, 8,16), đã đổ đầy trong mọi tâm hồn chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần đã được ban cho chúng ta. (x. Rm 5,5).

II. MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA CỦA BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM

1. Khiết tịnh

Chúa Kitô đã kêu gọi mọi người sống khiết tịnh hoàn hảo tùy theo bậc sống cụ thể của mình. (x. Mt 5,27-30,48;18,8-9;1Cr 7).
Tất cả các linh mục, tu sĩ được mời gọi sống khiết tịnh qua đời sống độc thân, làm hoạn quan cho Nước Trời (x. Mt 19, 10-12; 1 Cor 7, 7; 9, 5-6), để đồng hình dạng tốt hơn với cách sống của Chúa Kitô lịch sử, sẵn sàng là một tông đồ và đồng thời làm cho ý nghĩa cánh chung và tiên tri được rõ ràng hơn.

– Ý nghĩa thần học :

Ý nghĩa nền tảng của đời sống độc thân vì nước trời được tìm thấy nơi Chúa Kitô và qua Người, trong Chúa Ba Ngôi chí thánh[8]. Đời sống độc thân diễn tả trọn vẹn, tình yêu tận hiến chính mình cho Thiên Chúa. Nó mô tả tính ưu việt của Thiên Chúa trên tất cả mọi sự và mọi loài, hơn cả những mối quan hệ mạnh mẽ nhất trong thế gian này, là gia đình. Đời sống độc thân phản chiếu lại tình yêu không bờ bến kết hiệp nơi Ba Ngôi Vị Thần Linh trong mầu nhiệm thẳm sâu của đời sống Thiên Chúa Ba Ngôi. Thật vậy, người được thánh hiến, giữ đức khiết tịnh, làm nên tình yêu trinh khiết của mình đối với Chúa Kitô và tuyên xưng điều đó trước mặt thế gian giống như Con Một Thiên Chúa, Đấng ở với Cha (x. Ga 10,30; 14,11). Thân phận của người được thánh hiến do đó trở thành dấu chỉ tiên tri.

Người được thánh hiến duy trì đời sống độc thân cũng mang lợi ích và hiệu quả cho tình yêu phổ quát. Đời sống độc thân của chúng ta đặc biệt nhấn mạnh đến nhân đức đối thần là đức ái và làm cho chúng ta trở nên huynh đệ, không có gia đình “tự nhiên” của riêng mình, nhờ đó chúng ta có thể yêu mến người khác nhiều hơn. Mỗi một người riêng lẽ trở thành anh chị em với nhau trong một gia đình, và Thiên Chúa là Cha của tất cả chúng ta. (x. Mt 6,9; 23,9).

Sống khiết tịnh có ý nghĩa tông đồ, bởi vì, “trong nền văn hóa hưởng thụ đang tháo gỡ mọi quy tắc đạo đức khách quan của tính dục, thường giản lược tính dục thành một thứ trò chơi và một món hàng tiêu thụ”[9]. Khiết tịnh được thánh hiến cách đặc biệt và được trình bày như đặc sủng của đời sống trung thành trong tình yêu. Hơn nữa, đời sống khiết tịnh của người nam nữ bày tỏ sự cân bằng, điều khiển chính mình, chủ động, tâm lý và tình cảm chín mùi. Khiết tịnh của người được thánh hiến nhìn từ quan điểm này như niềm vui và là kinh nghiệm giải phóng.

2. Khó nghèo

Đời sống khó nghèo theo tinh thần Phúc âm đòi hỏi các môn đệ Chúa Kitô coi Thiên Chúa và Nước Trời như sự giàu sang đích thực của tâm hồn con người (x. Mt 20,28). Điều này liên quan đến tinh thần sẵn sàng từ bỏ tất cả mọi thứ, ngay cả mạng sống mình, chấp nhận tử đạo nếu cần thiết (x. Mt 6,19-21,24-34; 10,37-39; 16,24-26; 19,29).

Khó nghèo không chỉ liên quan đến đời sống của một cá nhân nhưng nó còn liên quan đến việc từ bỏ sử dụng những của cải vật chất, sống khổ chế vì lợi ích của sứ vụ tông đồ.

– Ý nghĩa thần học

Khó nghèo Tin mừng “tuyên xưng rằng Thiên Chúa là kho tàng đích thực duy nhất của con người. Sống theo gương Đức Kitô, Đấng “vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em” (2Cor 8,9), sự nghèo khó trở thành một cách diễn tả việc Ba Ngôi Vị Thần Linh trao ban trọn vẹn cho nhau”[10]. Người được thánh hiến “bắt chước đời sống khó nghèo của Chúa Kitô, nhận biết Người như người Con, Đấng đón nhận mọi sự từ nơi Chúa Cha và dâng lại mọi sự cho Chúa Cha vì yêu thương”[11].

Sống nghèo khó để nên giống Chúa Kitô, hoàn toàn tự do, sẵn sàng và hiệp nhất. Đời sống khó nghèo nhấn mạnh đặc biệt đến nhân đức đối thần của đức cậy. Thiên Chúa là gia nghiệp của chúng ta, là anh em chúng ta trong thiên chức và giáo dân là người nghèo của chúng ta.

Khó nghèo Phúc âm có ý nghĩa tông đồ, bởi vì trong xã hội hôm nay được đánh dấu bởi tính tham lam của cải vật chất làm cho nhiều người “dững dưng với những nhu cầu và đau khổ của những người yếu đuối, cũng chẳng quan tâm gì đến việc làm quân bình những tài nguyên thiên nhiên”[12]. Khó nghèo phản đối quyết liệt việc tôn thờ tiền tài. Khó nghèo Phúc âm công bố rằng Thiên Chúa là kho tàng đích thực của tâm hồn con người, nó hướng đến những người nghèo khổ, yếu kém, bị áp bức và bị gạt ra khỏi lề cuộc sống, bằng một tình yêu được thể hiện qua cách sống noi gương Chúa Kitô, làm chứng cho Tin mừng trong một thế giới có nguy cơ bị bóp chết trong cơn lốc của sự phù du[13].

3. Vâng phục

Chúa Kitô đòi hỏi các môn đệ của Người vâng phục Thiên Chúa và những người đại diện của Chúa trong Giáo hội. Tương tự, Người đòi hỏi mỗi một người hãy phục tùng người khác (Eph 5,21) và phục vụ cho nhau (Mt 20,26; 23,11), hãy mang gánh nặng cho nhau (Gal 6,2), bởi vì tất cả mọi người là anh em với nhau (Mt 23,8) là chi thể trong một thân thể (x. Rm 12,5; 1Cor 12,25; Eph 4,25). Người truyền cho các môn đệ hãy rửa chân cho nhau (Ga 13, 2-15) và hãy hiến dâng cuộc sống mình cho anh em, giống như Người (Ga 15,12-14).

– Ý nghĩa thần học :

Vâng phục, thực hiện việc bắt chước Chúa Kitô, vì lương thực của Người là làm theo Thánh ý Chúa Cha (x. Ga 4,43). Vâng phục thể hiện đặc tính phụ thuộc của người con, chứ không phải nô lệ. Người được thánh hiến, “kết hiệp sứ vụ vâng phục hiếu thảo bằng lễ hy sinh tự do, hy sinh ý riêng của mình, tuyên xưng Người là Đấng được yêu thương và yêu thương vô biên, là Đấng chỉ vui thỏa khi ở trong ý muốn của Chúa Cha.[14]

Chúng ta vâng phục Thiên Chúa, vâng phục giám mục, bề trên bằng chính đức tin của mình. Vì vâng phục nhấn mạnh đến nhân đức đối thần của đức tin. Chúng ta tin cậy vào Chúa và vào anh em, những người được Thiên Chúa trao gửi đến chúng ta. Thiên Chúa là Đấng mà nơi Người chúng ta hoàn toàn tin tưởng, và nói như thánh Phaolô trong thư gửi Timôtê : “tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai” (x. 2Tm 1,12).

Vâng phục có một ý nghĩa tông đồ, bởi vì sứ vụ liên quan đến việc sai đi, và bởi vì vâng phục làm chứng cho tự do tuân thủ đối với ý Chúa Cha. “Đối diện với những quan niệm về tự do, muốn tách rời nét đặc trưng cơ bản nhất của con người ra khỏi tương quan với chân lý và quy tắc luân lý”[15], vâng phục được trình bày như đặc sủng của việc phục vụ, minh chứng rằng vâng phục và tự do không mâu thuẫn nhau, vì trong thánh ý Chúa chúng ta tìm thấy được ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người. Chúng ta có kinh nghiệm là những người con cùng một Cha trên trời và vì thế chúng ta là anh em với nhau (Mt 23,8-9). Đó là lý do cho việc chấp nhận lẫn nhau, kính trọng nhau và phục tùng nhau (Eph 5,21), vượt qua mọi hình thức bất kỳ của chủ nghĩa cá nhân, với tinh thần đức tin, Thiên Chúa hành động qua anh em mình, đặc biệt là những người đại diện cho Thiên Chúa. Bởi vì chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, bất chấp những hạn chế của con người, những người đại diện cho Thiên Chúa[16].

Trên đây là cái nhìn tổng quát những suy tư thần học về ba lời khuyên Phúc âm được rút ra từ Truyền thống và Giáo huấn của Giáo hội. Tuy nhiên, để có được những định hướng chi tiết và rõ ràng cho đời sống và sứ vụ của linh mục, giám mục và việc tuân giữ ba lời khuyên Phúc âm, ngoài các hiến chế, sắc lệnh của Công đồng Vatican II, các tài liệu liên quan, cách đặc biệt hai Tông huấn Pastores Dabo Vobis và Pastores Gregis của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đem lại cho các hoạt động mục vụ của các linh mục một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ.

II. BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM THEO TÔNG HUẤN
PASTORES DABO VOBIS VÀ PASTORES GREGIS.

Hai tông huấn Pastores Dabo Vobis và Pastores Gregis liên quan đến sứ vụ và đời sống của linh mục, giám mục tạo nên một bước nhảy trong việc giải thích và hiện thực hóa các giá trị Tin mừng, cũng như các nhân đức của người linh mục Chúa Kitô, sự hài hòa giữa ơn gọi và sứ vụ của mình. Với việc vâng phục, nghèo khó và khiết tịnh, linh mục cam kết sống Tin mừng cách triệt để, một sự cam kết được thể hiện từ các nhân đức này và bởi những con người ấy, cần thiết cho chính đời sống tâm linh và sứ vụ của linh mục. Các nhân đức này phải được sống theo quan điểm của đức ái mục vụ. Chỉ có đức ái mới quyết định cho con người nên trọn hảo. Vâng lời, khiết tịnh và khó nghèo là ba phương tiện quan trọng để đạt được điều đó. Tuy nhiên, nếu không thủ đắc được nhân đức của Chúa Kitô thì đức ái mục vụ sẽ trở nên trống rỗng trong nội tâm và nó sẽ trở thành các hoạt động thuần túy. Chính đức ái sẽ hỗ trợ cho sự cải thiện và phát triển, bằng cách vượt qua chủ nghĩa duy đạo đức và mở ra cho đời sống tinh thần của linh mục một chiều kích thần linh.

Công đồng Vatican II, và đặc biệt hai Tông huấn trên đã phát họa ra một hướng đi cho các linh mục giáo phận, họ phải là người biết vâng lời, khiết tịnh, nghèo khó không chỉ để trở nên hoàn hảo hơn các tu sĩ, nhưng nhất là để thực thi việc tông đồ hiệu quả hơn. Đó là “nhân đức cần thiết nhất trong thừa tác vụ”[17] linh mục.

Vâng lời linh mục khác với vâng lời của đời sống thánh hiến vì đặc tính tông đồ của nó. Một trong những yếu tố đích thực của nhân đức này được phát họa từ Tông huấn vượt quá nhãn quan cá nhân, vì vâng lời linh mục “không phải là vâng lời của một cá nhân trong tương tác với quyền bính”. Vâng lời linh mục được lồng vào trong trách nhiệm và bổn phận, đó là “linh mục được kêu mời sống cộng tác hài hòa với giám mục, với vị kế nhiệm thánh Phêrô”. Quan điểm này đòi hỏi nhiều hơn quan điểm cá nhân, bởi vì nó đòi hỏi “một sự khổ chế đáng kể”, đòi hỏi một sự tự do khỏi những quan điểm cá nhân, làm gia tăng giá trị các ơn sủng, năng lực và thái độ của các linh mục, vượt “ra ngoài mọi ghét ghen, ganh đua, đố kỵ”, và khả năng thể hiện nội tâm, nhờ đó linh mục định hướng và chọn lựa trách nhiệm. Đặc tính khác của vâng lời linh mục là “tính mục vụ”, theo nghĩa sẵn sàng cho Giáo hội.

Lời khuyên Phúc âm về nhân đức khiết tịnh trong đời sống độc thân linh mục, phải được sống theo động cơ thần học đã được Giáo hội xác nhận trong hàng thế kỷ cho đến hôm nay. Luật của Giáo hội về độc thân được trói buộc qua việc phong chức và bị trói buộc trong mối tương quan vợ chồng của Chúa Kitô với Giáo hội, qua đó linh mục tìm thấy sức mạnh thúc đẩy trong ơn thánh và nhờ đó linh mục tự hiến cho Thiên Chúa, kết hiệp mật thiết với Người trong lời cầu nguyện, trong các bí tích, trong sự đòi buộc khổ chế, mỗi ngày canh tân khả năng dâng hiến, không tự khép mình nhưng trái lại mở tâm hồn cho đức ái mục vụ. Độc thân linh mục còn là bằng chứng trỗi vượt của Thiên Chúa trong đời sống linh mục, được phản chiếu trên chính mầu nhiệm Chúa Kitô.

Linh mục khi sống khiết tịnh là hiến tặng một bằng chứng mạnh mẽ, bằng cách chống lại đời sống “tôn thờ bản năng xác thịt”, như đã được trình bày trong tông huấn Pastores Gregis, và hiến tặng một sự điều trị tâm linh cho thế giới hôm nay. Viễn tượng cánh chung của đời sống độc thân, thúc đẩy niềm hy vọng cho linh mục và công bố cho thế giới về một “trời mới đất mới”. Khiết tịnh không có nghĩa là tách ra khỏi lịch sử tự nhiên, nhưng với sự chọn lựa và cam kết của mình sẽ đem lại ý nghĩa cho lịch sử và hỗ trợ cho chính chúng ta trong niềm vui và ân sủng, nó giải phóng chúng ta khỏi tính ích kỷ cá nhân, tìm thấy được gương mặt của mình và sự thỏa mãn của mình. Thực vậy, nếu độc thân linh mục không được sống cách khiêm nhường trong tình bạn với Chúa Kitô và trong tình huynh đệ với Giáo hội là Mẹ và hôn phu, thì nó sẽ có nguy cơ dẫn đến tự mãn, có thể trở nên kiêu ngạo đến độ khinh miệt người khác.

Việc chọn lựa sống nghèo và kinh nghiệm sống từ linh mục có một ý nghĩa tinh thần, được thể hiện trong sự tự do khỏi những lợi ích kinh tế và thể hiện trong sự thần phục Thiên Chúa, là điều thiện hảo nhất. Ý nghĩa “mục vụ” bao hàm trong sự sẵn lòng mà qua đó linh mục sẵn sàng đi đến bất cứ nơi nào cần và hữu ích. Tính mục vụ của lời khuyên này thúc đẩy linh mục sống gần gũi với những người yếu đuối, thiệt thòi nhất, để phục vụ cho công bằng, sống nhạy cảm và có khả năng hướng đến các vấn đề kinh tế của cuộc sống và có khả năng thúc đẩy sự chọn lựa ưu tiên cho người nghèo, sau cùng là cho lợi ích chung.

BA LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM
TRONG CUỘC ĐỜI LINH MỤC GIÁO PHẬN[18]

Chúng ta đã có cái nhìn tổng quát sơ lược về ba lời khuyên Phúc âm trong dưới khía cạnh thần học và một vài định hướng cho đời sống linh mục giáo phận, liên quan đến ba lời khuyên Phúc âm, qua hai Tông huấn Pastore Dabo Vobis và Pastores Gregis. Với cái nhìn thần học hậu công đồng, ba lời khuyên Phúc âm không phải chỉ dành riêng cho các tu sĩ, những người sống đời sống thánh hiến, trái lại, nó còn là động lực nâng đỡ linh mục giáo phận sống khắn khít với những đòi hỏi của Tin mừng, đồng thời nâng đỡ linh mục thi hành đức ái mục vụ hiệu quả hơn. Trong phần này chúng ta sẽ đào sâu hơn, dựa vào các hướng dẫn của Giáo hội, qua các Tông huấn, Truyền thống để biết rõ lý do tại sao các linh mục giáo phận cũng phải sống theo những đòi hỏi của Tin mừng, tức là sống ba lời khuyên Phúc âm khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục, cho dù chúng ta không khấn giữ điều đó.

Chúng ta vẫn còn nhớ trong ngày lễ thụ phong linh mục, giám mục muốn tiến chức tuyên bố những quyết tâm của mình về nhiệm vụ sắp lãnh nhận trước mặt cộng đoàn dân Chúa, trong đó một câu hỏi trực tiếp, rõ ràng nhất liên quan đến ba lời khuyên này là vâng phục. “Con có hứa kính trọng và vâng phục Cha cùng các Đấng kế vị Cha không ?”. – Tiến chức trả lời : thưa, con hứa!”[19].

Như đã nói trong phần dẫn nhập, ba lời khuyên Phúc âm thường được trình bày có hệ thống cho đời sống tu dòng hơn là cho các linh mục giáo phận. Vì thế, đối với nhân đức khó nghèo, nhiều người trong chúng ta nói rằng “tôi đâu phải là tu sĩ, tôi không có lời khấn ấy”. Tuy vậy, trong phần tiếp theo đây dựa theo Giáo huấn và Truyền thống Giáo hội, chúng ta sẽ thấy rằng các lời khuyên Phúc âm rất quan trọng và cần thiết trong cuộc đời của mỗi linh mục giáo phận.

Đời sống khó nghèo có tác động không nhỏ đến cách sống của linh mục và đôi khi tạo ra những tranh cãi lớn. Có lúc chúng ta phải đối diện với những câu hỏi rất thiết thực của người giáo dân đặt ra cho các linh mục: cha xứ đang dùng xe gì, tivi, điện thoại hiệu gì, ngài đi nghỉ ở đâu… Điều quan trọng nhất là: khi giáo dân của tôi so sánh cách sống của tôi với họ, làm cho họ thấy tôi đang sống đời linh mục nghèo, hay là họ cảm nhận được sự “trần tục” của linh mục là người không ở trong thế gian nhưng vẫn thuộc về thế gian.!

I. BẢN CHẤT CỦA CÁC LỜI KHUYÊN PHÚC ÂM

Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, trước khi nói về đời sống tu trì, đã dạy rằng “mọi môn đệ Chúa Kitô đều được mời gọi sống các lời khuyên Phúc âm, vốn rất đa dạng”[20]. Sách Giáo lý còn thêm: mọi Kitô hữu được kêu gọi sống đức ái hoàn hảo để phục vụ Nước Trời.

Theo thánh Tôma Aquinô đức ái là thước đo của sự hoàn thiện Kitô giáo. Ngài viết về các lời khuyên Phúc âm khi cho rằng những lời khuyên được chứa đựng trọng Luật mới. Trong tổng luận thần học (I-II q.108 a.4), thánh Tôma cho thấy “một số lời khuyên xác định” nằm trong Luật mới, và ngài thêm rằng như Chúa Kitô là Đấng khôn ngoan và là người bạn tốt nhất của chúng ta, các lời khuyên của Ngài được xem như “vô cùng hữu ích và thích hợp”. Xét về bản chất thì các giới răn bắt buộc phải giữ. Tuy nhiên, các lời khuyên không phải dư thừa vì chúng là những điều kiện để đạt đến mục tiêu hạnh phúc đời đời, chắc chắn và nhanh chóng hơn. Con người đứng giữa những gì thuộc về thế gian và của cải thiêng liêng thuộc về hạnh phúc đời đời. Và một khi con người gắn bó với cái nào nhiều hơn thì buộc phải buông mình ra khỏi những cái khác. Các giới răn ngăn cản chúng ta không gắn bó với của cải trên thế gian như một cứu cánh, vì như vậy sẽ làm cho chúng ta đánh mất của cải thiêng liêng. Nhưng từ bỏ những gì thuộc về thế gian hoàn toàn dẫn đến mục đích tối hậu của con người nhanh chóng hơn và đó là những gì mà các lời khuyên Phúc âm đề nghị cho chúng ta.

Trước đó trong tổng luận (q.77 A.5 I- II) thánh Tôma mô tả các dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và kiêu ngạo là nguyên nhân của tội lỗi, bởi vì yêu bản thân thái quá là nguồn gốc của mọi tội lỗi (I -II q.77 a.4) và nó bao gồm cả việc khao khát điều tốt cách thái quá, bởi vì con người muốn điều tốt cho người mà họ yêu thương. Ba nguyên nhân của tội lỗi liên hệ mật thiết đến tất cả mọi phương diện trong đời sống con người. Thế nhưng các lời khuyên Phúc âm đưa ra một biện pháp khắc phục cho mỗi nguyên nhân của tội lỗi : đối với dục vọng đôi mắt – sự giàu có bị khước từ bởi tinh thần nghèo khó; đối với dục vọng tính xác thịt – thú vui nhục dục được thay thế bởi khiết tịnh trọn đời; và tính kiêu căng trong cuộc sống bị ràng buộc bởi sự vâng phục” (I- II q.108 a.4).

Cần phải lưu ý rằng các lời khuyên này có thể được tuân giữ cách tuyệt đối (đối với các tu sĩ) hoặc trong một sự giới hạn nào đó (đối với giáo dân). Vì vậy, Công đồng Vatican II và Giáo lý Công giáo mời gọi các Kitô hữu sống các lời khuyên, lặp lại truyền thống mà chúng ta tìm thấy tương tự như của thánh Tôma, “các lời khuyên, xét như chính nó, thích hợp cho tất cả mọi người” (I-II q.108 a.4 ad.1), mặc dù chúng thích hợp cho một số người theo đuổi con đường này hơn so với những người khác.

Khi bàn về thiên chức linh mục, tóm tắt tinh thần của các lời khuyên Phúc âm, cha Réginald Marie Garrigou-Lagrange[21] cho rằng tinh thần của các lời khuyên là tinh thần khổ chế, hãm mình. Nơi mỗi lời khuyên chúng ta thực hành việc khổ chế, và giữa ba lời khuyên ấy chúng ta tập luyện việc từ bỏ mình trong mọi khía cạnh khác nhau của cuộc sống. Từ bỏ bản thân là một phần căn bản của đời sống Kitô giáo, được Chúa Giêsu kêu mời không phải chỉ cho một số ít các môn đệ nhưng cho tất cả, như Tin mừng Marcô đã nói : “Ai muốn là môn đệ Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mc 8,34). Do đó, dù cho các hình thức sám hối riêng biệt và các hình thức khổ chế khác nhau đối với mỗi ơn gọi, tất cả đều được mời gọi chết đi cho bản thân để có thể sống cho Chúa Kitô.

II. CÁC TU SĨ ĐƯỢC THÁNH HIẾN QUA LỜI KHẤN BẰNG CÁCH NÀO

Để thấy rõ hơn về các lời khuyên, và cách chúng ảnh hưởng đến đời sống của con người thế nào, tiếp theo chúng ta cùng tìm hiểu cách mà các tu sĩ đã thực hiện, và đặc biệt là mối liên hệ giữa việc thánh hiến và các lời khấn.

Mọi Kitô hữu, giáo dân, linh mục, tu sĩ được thánh hiến cho Thiên Chúa qua Bí tích Rửa tội, và họ được mời gọi sống hoàn thiện mỗi ngày. Tuy nhiên, đối với các lời khuyên Phúc âm, nó tạo thêm một sự khác biệt. Đời sống thánh hiến bao trùm toàn bộ cuộc đời những người cam kết sống các lời khuyên Phúc âm trong “tinh thần và thực chất”[22], trong khi người giáo dân sống các lời khuyên chủ yếu trong tinh thần. Hiến chế Lumen Gentium số 44, Giáo luật điều 573#1 khẳng định : “qua việc tuyên khấn hay qua những ràng buộc linh thánh khác tương tự như lời tuyên khấn, các Kitô hữu tự buộc mình thực thi ba lời khuyên Phúc âm, hiến thân hoàn toàn cho Thiên Chúa, Đấng được yêu mến trên hết mọi sự”[23]. Có thể nói người tu sĩ sống khó nghèo “thực chất” bởi vì họ không sở hữu bất cứ điều gì cho chính mình mà sống tùy thuộc vào hội dòng của mình. Trái lại, các linh mục giáo phận có thể sống một cuộc sống giản dị, nhưng vẫn sở hữu mọi thứ, vì vậy họ không sống khó nghèo trong “thực chất”.

Như đã nói ở trên, tinh thần của các lời khuyên trở thành tinh thần khổ chế, bởi vì các lời khấnlời khuyên cả hai đều ảnh hưởng đến cách mà chúng ta liên hệ đến của cải. Trước hết, cần phải lưu ý, cả hai là lời khấn hơn là lời hứa, hơn nữa, chúng rất khác nhau về kiểu cách giải quyết mà chúng ta thực hiện. Chẳng hạn như: quyết chí sửa mình trong việc xưng tội, nó loại trừ tội lỗi chứ không phải chọn lựa điều tốt nhất trên những điều tốt. Trái lại, lời khấn là một hành động thuộc nhân đức thờ phượng mà một người đã chọn lựa điều tốt nhất trên những điều tốt, qua đó họ thề hứa thờ phượng và phục vụ Thiên Chúa. (STII – II q88 a5)

Tuy vậy, các lời khấn tự chúng không phải là cuối cùng, chúng là phương tiện làm tăng trưởng đức ái và các nhân đức. Nhưng các phương tiện cho mục tiêu này thay đổi tùy theo ơn gọi đặc biệt của mỗi người. Người giáo dân theo đuổi ơn gọi của họ giữa thế gian, thường thấy trong các lĩnh vực hôn nhân, gia đình, sở hữu của cải, và quyền tự quyết[24]. Vì vậy đời sống hôn nhân chia sẻ trong mầu nhiệm hôn nhân của Chúa Kitô đối với Giáo hội của Người bằng tình yêu của họ dành cho người phối ngẫu, và đây là điều tốt. Trong đời sống thánh hiến, điều tốt này được dành cho điều tốt hơn[25]. Khiết tịnh, trực tiếp chia sẻ mầu nhiệm hôn nhân của Chúa Kitô với Giáo hội của Người nhiều hơn. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói, khiết tịnh trực tiếp gắn liền với Chúa Kitô, không qua trung gian người phối ngẫu. Đối với đời sống khó nghèo và của cải, vâng phục và sự tự quyết cũng vậy. Bởi vì phương tiện theo đuổi ơn gọi này trực tiếp hơn, không qua một trung gian nào, nó quy chiếu vào bậc sống hoàn thiện.

1. Khiết tịnh

Truyền thống Tôma xếp lời khấn khó nghèo trước khiết tịnh, như Basil Cole OP.[26] đã nói “thứ tự thần học cổ điển bắt đầu với điều nhỏ nhất rồi tiến dần về yếu tố trung tâm của việc thánh hiến bản thân – từ đức khó nghèo – khiết tịnh – vâng phục”. Tuy nhiên, Công đồng Vatican II và Đức Gioan Phaolô II, cho rằng đức khiết tịnh đứng hàng đầu, là động lực của đời sống thánh hiến, bởi vì qua lời khấn khiết tịnh mà người được thánh hiến trở nên kết hiệp trong mầu nhiệm hôn nhân của Thiên Chúa và vì thế họ khước từ của cải thế gian để sống với nhân đức khó nghèo và do đó họ sống phục tùng Thiên Chúa.

Trong đời khiết tịnh, phương diện đặc thù của người được thánh hiến bởi lời khấn này là tính dục của họ. Tưởng cũng nên nhắc lại, các lời khấn này là phương tiện để nên thánh, nhưng không phải tất cả các phương tiện đều có hiệu quả như nhau. Giáo hội dạy rằng trung thành với Thiên Chúa bằng một con tim “không san sẻ” trong lời khấn khiết tịnh, là phương tiện hiệu quả hơn bí tích hôn nhân để tăng trưởng đức ái. Đức Giáo Hoàng Piô XII trong tông huấn Sacra Virginitas số 32 đã kết luận điều này, và Công đồng Vatican II với tông huấn Optatam totius số 10 cũng đã lặp lại : khiết tịnh “trỗi vượt hơn” khi so với hạnh phúc hôn nhân. Đức Gioan Phaolô II nêu rõ lý do về điều đó khi nói rằng : nếu bí tích hôn phối dẫn đưa hai người phối ngẫu vào trong mầu nhiệm kết hiệp của Chúa Kitô với Giáo hội, thì đời sống độc thân có khả năng trực tiếp chia sẻ mầu nhiệm hôn nhân của Chúa Kitô và Giáo hội của Người nhiều hơn, vì “tình yêu trinh khiết dẫn đưa con người cách trực tiếp đến với Chúa Kitô trong sự kết hiệp với Ngài, mà không cần trung gian khác; đó là hôn ước thiêng liêng thật sự, trọn vẹn và dứt khoát”[27]. Vì vậy, con đường dẫn tới sự thánh thiện của đời sống hôn nhân và khiết tịnh không như nhau.

Khẳng định giá trị của đời sống khiết tịnh, Tông huấn Vita Consecrata trình bày: “đang khi những người tuyên giữ lời khuyên Phúc âm đi tìm sự thánh thiện cho bản thân, thì họ như thể đề nghị một thứ trị liệu thiêng liêng cho nhân loại”[28]. Như vậy việc “trị liệu” nối kết cách dễ dàng với ý niệm trinh khiết, là cách duy nhất làm hiện tại hóa tương lai thời cánh chung, nơi mà mọi người bị lòng quyến luyến của cải làm rối loạn, sẽ được chữa lành.

2. Khó nghèo

Bộ giáo luật 1983 khẳng định việc khấn giữ khó nghèo bao gồm sự từ bỏ chiếm hữu[29]. Từ bỏ một cách tự do để đến với Thiên Chúa là thực hành bản năng và quyền tự nhiên chiếm hữu. Cho nên việc thánh hiến con người theo khía cạnh này trở thành một phương tiện thiêng liêng hướng đến việc chiếm hữu Thiên Chúa và Nước Trời như là cùng đích tối hậu của mọi nhu cầu của con người.

Trong khi Công đồng Vatican sắp xếp lời khấn liên hệ với tình yêu và khiết tịnh, khó nghèo liên quan đến đức ái; Đức Gioan Phaolô II dẫn ra một lưu ý đầy thú vị về mối quan hệ giữa khó nghèo và chiêm niệm : chiêm niệm tự nó hướng đến việc tăng trưởng trong đức ái. Tất cả các lời khuyên Phúc âm là phương tiện nên hoàn thiện, mà đó là đức ái, và tự nguyện sống khó nghèo cũng là phương tiện đó. Sở hữu của cải có thể đưa con người xa rời đức ái, nhưng tự nguyện sống nghèo sẽ giải phóng con người khỏi những suy nghĩ về của cải thế gian, và như vậy sẽ giúp đào sâu việc thực hành gia tăng đức ái tốt hơn. Đức Thánh Cha nói : với cái nhìn Kitô giáo, khó nghèo luôn được coi như một bậc sống giúp ta dễ dàng bước theo Chúa Kitô trong việc chiêm niệm, cầu nguyện và rao giảng Tin mừng[30].

Giải thích của thánh Tôma : “thật rõ ràng vì trái tim con người quá mãnh liệt đến nỗi bị lôi kéo đến một đối tượng, mức độ bị lôi kéo tùy thuộc tỷ lệ được rút ra từ những ước muốn. Vì vậy, con người càng giải thoát khỏi sự ham muốn trần tục bao nhiêu, điều đó sẽ cho phép họ yêu mến Thiên Chúa cách trọn hảo bấy nhiêu”[31].
2. Vâng Phục

Công đồng cũng như học thuyết Tôma sắp xếp sự vâng phục như đỉnh cao của các lời khuyên Phúc âm. Vâng phục, lời khuyên mà qua đó con người từ bỏ bản thân để quy phục Thiên Chúa. Dựa trên quan điểm này của thánh Tôma, Đức Gioan Phaolô II nói rằng : “vâng phục là hình thức hoàn hảo nhất trong việc bắt chước Chúa Kitô”[32].

Xin nhắc lại, mỗi lời tuyên khấn, thánh hiến con người cho Thiên Chúa dưới một phương diện khác nhau. Khó nghèo thánh hiến bản năng và quyền sở hữu của cải trần tục, trong khi khiết tịnh thánh hiến tính dục con người. Tuy nhiên, vâng phục không thánh hiến về phương diện con người, nhưng bằng cách từ bỏ ý riêng, vâng phục thánh hiến bản thân, qua đó trái tim con người được thánh hiến cho Thiên Chúa. Trong sự vâng phục, tinh thần, thể xác và tính chiếm hữu của con người, tất cả trở nên “hiến lễ hoàn hảo” để thờ phượng Thiên Chúa. Đó là việc chiếm hữu của ý chí tự do làm cho con người khác với động vật. Qua việc vâng phục hoàn toàn trong đức tin mà con người dâng lại cho Thiên Chúa những gì là căn bản nhất của mình : tự do và trí tuệ. Kinh thánh mạc khải Thiên Chúa như là Đấng kêu gọi dân Người, và vâng phục bắt nguồn từ tiếng la tinh Oboedire, nghĩa là lắng nghe, lắng nghe lời mời gọi của Thiên Chúa.

Như vậy, vâng phục được cho là sống trong “thực chất” của những người được thánh hiến. Và mặc dù hình thức chính xác của điều này thay đổi, mỗi người được thánh hiến quyết tâm tuân theo các quy tắc, hiến pháp của hội dòng hay tu hội của mình. Đối với những người tuân giữ lời khấn (không chỉ là lời hứa thiêng liêng), thì lời khấn làm cho đức vâng phục của con người thành một hành vi, làm biến đổi đời sống của đức vâng phục, đến nỗi “tất cả mọi hoạt động vâng phục trong phạm vi trách nhiệm mới này cũng là những hành động của nhân đức thờ phượng”[33].

Ngoài ra chúng ta có thể coi sự vâng phục như một phương tiện cho đức ái, bằng cách nghĩ đến việc kết hiệp cách siêu nhiên với Thiên Chúa, Đấng là cùng đích của cuộc đời người tín hữu. Yêu thương người nào là muốn điều mà họ muốn, và quy phục làm cho con người và Thiên ý hòa hợp với nhau.

III. THÁNH HIẾN QUA VIỆC THỤ PHONG LINH MỤC

1. Mối tương quan giữa những lời khấn và lời khuyên đối với linh mục giáo phận là gì?

Như đã nói ở trên, mỗi một lời khấn thánh hóa mỗi phương diện khác nhau của con người cho Thiên Chúa, và giữa các lời thề ấy toàn thể con người được thánh hiến cho Thiên Chúa.

Việc thụ phong linh mục thánh hiến toàn bộ con người cho Thiên Chúa, và đồng thời đưa đến bổn phận phải sống các lời khuyên trong thiên chức linh mục cách đặc biệt. Đối với linh mục giáo phận, không phải các lời khấn buộc họ phải có bổn phận sống các lời khuyên Phúc âm, nhưng điều trói buộc họ là thánh chức linh mục, và đối với các linh mục, nó không chỉ thích hợp mà còn cần thiết nữa.

Giữa việc phong chức linh mục và việc thánh hiến qua lời khấn, có thể nói rằng việc phong chức linh mục là kiểu thánh hiến khác : vì nó không thuộc khía cạnh của cá nhân con người, không thêm phần cứu rỗi cho chính người ấy, cũng không thêm phần nối kết chính họ với Thiên Chúa. Sách giáo lý, phần dẫn nhập Bí tích Truyền chức và Hôn nhân, nói về chúng như là “bí tích để phục vụ cho Giáo hội”. Chúng “trực tiếp hướng đến ơn cứu rỗi người khác; nếu có góp phần cho ơn cứu độ cá nhân, thì thông qua việc phục vụ cho người khác, họ làm điều ấy cho mình. “Hai bí tích này vừa trao ban một sứ mệnh đặc biệt trong Hội thánh, vừa xây dựng cộng đoàn dân Thiên Chúa”[34].

2. Đâu là sự thánh hiến của thiên chức linh mục?

Đó là việc thánh hiến “nhân danh Chúa Kitô để nuôi dưỡng Giáo hội bằng lời nói và ân sủng của Thiên Chúa”[35], tiếp tục sứ mạng mà Chúa Kitô đã trao phó cho 12 Tông đồ. Thực vậy nó liên quan đến sứ mạng của con người hơn là đến khía cạnh cụ thể của nhân loại. Nhưng như một hữu thể tính được phong ban bí tích, nó thay đổi toàn bộ khuynh hướng của người được thánh hiến.

Như đã trình bày, Công Đồng Vatican II và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thay đổi thứ tự truyền thống của ba lời khấn bằng cách dùng hình ảnh hai người phối ngẫu gắn bó với Thiên Chúa như nền tảng của đời sống thánh hiến. Đức Gioan Phaolô II thực hiện điều tương tự với việc xem linh mục như phu quân, bằng cách liên kết vai trò của linh mục như là Đầu và là Chủ chăn với vai trò như một phu quân của linh mục. “Các linh mục, nhờ vào sự thánh hiến đã lãnh nhận qua Bí tích Truyền Chức thánh, được sai đi bởi Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu Kitô, và một cách đặc biệt được nên đồng hình dạng với Ngài, Đấng là Đầu và Mục Tử của dân Ngài, để sống và hoạt động, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, nhằm phục vụ Giáo Hội và cứu độ thế giới” [36].

Thực vậy, sự thánh hiến của linh mục xảy ra nhờ việc lãnh nhận thánh chức chứ không phải nhờ bởi lời khấn hay lời hứa. Việc thánh hiến của linh mục là dành cho sứ mạng của mình, cho điều mà ngài được sai đến để thực hiện. Và việc thánh hiến này định hình con người linh mục với Chúa Kitô, không phải theo cách chung chung, nhưng theo cách thức đặc biệt : như Thủ lãnh và Chủ chăn, vì thế linh mục có thể hành động trong Chúa Kitô là đầu[37], “in persona Christi Capitis”.

Đó là đức ái mục mục mà Chúa Kitô là Đầu và Chủ chăn của Giáo hội, và “cốt lõi của đức ái mục vụ là trao hiến chính mình, trao hiến hoàn toàn cho Giáo Hội”[38]. Tình yêu tự hiến là trung tâm và tình yêu này thành toàn trong tình yêu vợ chồng, đặc biệt là tình yêu vợ chồng của Chúa Kitô đối với Giáo hội. Giáo Hội là thân thể của Chúa Kitô là Đầu. Cũng như Eva được rút ra từ thân thể của Ađam để từ đó trở thành vị hôn thê của ông, cũng vậy, “Giáo Hội còn là Hiền Thê, như một Evà mới được dựng nên từ cạnh sườn bị đâm thủng của Đấng Cứu chuộc trên Thập Giá”[39]. Vì thế tình yêu vợ chồng là nguồn gốc đứng sau mối quan hệ của Chúa Kitô với Giáo hội như là Đầu, và mối quan tâm mục vụ dành cho Giáo hội như người chủ chăn.

– Tương tự với các linh mục

Linh mục được mời gọi trở nên hình ảnh sống động của Chúa Giêsu Kitô, phu quân của Giáo hội. Qua việc đồng hình dạng với Chúa Kitô, là Đầu và Mục tử, linh mục đứng trong mối tương quan vợ chồng này bằng cách quan tâm đến toàn thể cộng đoàn. Vì linh mục đại diện cho Chúa Kitô, là Đầu, Chủ chăn và là phu quân của Giáo hội. Bởi vậy, trong đời sống thiêng liêng của mình, linh mục được mời gọi bằng cuộc sống sao chép tình yêu của Đức Kitô Phu Quân đối với Giáo Hội Hiền Thê[40].

Thế nhưng động lực cho tình yêu của linh mục phần lớn không dành cho Giáo hội, nhưng dành cho Chúa Kitô. Chúa Giêsu ủy thác cho thánh Phêrô chăm sóc đoàn chiên của Ngài sau ba lần làm chứng về tình yêu, thậm chí về một tình yêu trổi vượt : “Ngài nói với Phêrô lần thứ ba “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Ta không?” – Phêrô trả lời : “Lạy Chúa, Chúa biết hết mọi sự; Chúa biết rõ con yêu Chúa”. Đức Giêsu nói với ông: ‘Hãy chăn dắt các chiên của Ta” (x. Ga 21,17). Đây là giao ước của linh mục với Chúa Kitô là căn nguyên giao ước của Người với Giáo hội, một giao ước trên bình diện hữu thể và là giao ước tình yêu. Khi trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, linh mục thực sự là biểu tượng sống động của Chúa Kitô Phu quân[41].

3. Chúng ta có thể nói gì về các lời khuyên Phúc Âm?

Linh mục không được thánh hiến theo những cách này. Tuy nhiên việc thánh hiến mà linh mục nhận được qua việc truyền chức áp đặt một trách nhiệm đặc thù trên linh mục để sống các lời khuyên Phúc âm như phương tiện hầu đạt được đức ái vợ chồng, tương xứng với đặc điểm hôn nhân mà linh mục đã nhận lãnh trong ngày thụ phong. Tất cả các Kitô hữu buộc phải sống các lời khuyên Phúc âm như phương tiện để tăng trưởng đức ái của họ, nhưng các linh mục đón nhận bổn phận này theo con đường thuộc về mình là : tăng trưởng đức ái vợ chồng đối với Giáo hội. Chúa Giêsu Kitô là mẫu mực và là nguồn mạch các nhân đức khiết tịnh, nghèo khó, và vâng phục mà linh mục được mời gọi sống như là biểu hiện tình yêu mục vụ đối với anh chị em của mình[42].

Linh mục giáo phận được mời gọi sống các lời khuyên Phúc âm theo cách riêng của mình. Vì thế, việc vâng phục của linh mục không phải là vâng phục theo kiểu của một tu sĩ, cũng không phải theo kiểu tài tử. Vâng phục là để sống cho động cơ và cách cư xử thuộc về linh mục, được biểu lộ ở cấp độ mục vụ, qua thái độ lắng nghe những nhu cầu và đòi hỏi của dân chúng, những người được trao phó cho mình. Tương tự với đức khiết tịnh và khó nghèo – linh mục được mời gọi sống cho những điều này bởi vì ngài là linh mục, và cách thức ngài hành động phải là cách thức của một linh mục chứ không phải là một tu sĩ.

Khiết tịnh linh mục kết nối rất rõ ràng với tình yêu vợ chồng dành cho Giáo Hội: “Giáo Hội xét như là Hiền Thê của Đức Giêsu Kitô mong muốn được linh mục yêu mến một cách hoàn toàn và độc chiếm giống như Đức Giêsu Kitô Đầu và Phu Quân đã yêu mến Giáo Hội. Đời sống độc thân linh mục lúc ấy sẽ là sự trao hiến chính mình trong và với Đức Kitô cho Giáo Hội Ngài và sẽ biểu lộ công việc phục vụ mà linh mục thực thi cho Giáo Hội trong Chúa Kitô và với Chúa Kitô”[43].

Cũng như các tu sĩ, đời sống độc thân của linh mục giáo phận “cho phép ngài khắn khít với Thiên Chúa một cách dễ dàng hơn, bằng một trái tim không san sẻ, và có thể hiến mình phục vụ Thiên Chúa và nhân loại cách tự do hơn”[44]. Nhưng động cơ thúc đẩy thì khác : hơn bao giờ hết nó được bén rễ từ một linh đạo tông đồ chứ không phải từ một linh đạo trực tiếp hướng đến việc thánh hóa chính mình.
Tương tự như vậy, các linh mục giáo phận được mời gọi sống nghèo. Nghèo như là một phần của lòng yêu mến Thiên Chúa bằng một trái tim trọn vẹn, một trái tim không bị hủy diệt bởi lòng mến của cải thế gian, một trái tim có thể yêu mến Giáo Hội qua việc từ bỏ chính mình[45], mà đặc tính phu phụ thuộc về linh mục đòi hỏi.
Lời mời gọi sống khó nghèo không chỉ được tìm thấy trong tông huấn Pastores Dabo Vobis, hay các Giáo huấn khác của Giáo hội, Giáo luật điều 282#1 đã khẳng định : “Các giáo sĩ nên sống đời giản dị, và xa tránh tất cả những gì có vẻ phù hoa”. Cũng vậy, Kim Chỉ Nam Về Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục số 67[46] kêu gọi sống đời sống khó nghèo dứt khoát hơn.

Khi liên kết đời sống khó nghèo với việc chăm sóc mục vụ, Kim Chỉ Nam nói rõ : “một linh mục hầu như không thể vừa là đầy tớ và vừa là thừa tác viên cho anh chị em mình nếu linh mục đó quá bận tâm với tiện nghi và sức khỏe của mình”. Thánh bộ nhắc nhở rằng linh mục được kêu mời noi theo gương mẫu của Chúa Ktiô, Đấng đã trở nên nghèo khó vì chúng ta. Dùng hình ảnh của Cựu ước trích từ sách Dân Số (18,20), Thánh bộ nói rằng, linh mục có Chúa làm gia nghiệp đời mình. Trích dẫn giáo luật và sắc lệnh Presbyterorum Ordinis của Công Đồng Vatican II, Kim Chỉ Nam kết luận: “mặc dù ngài không sống đức khó nghèo do lời khấn công khai, linh mục vẫn phải sống một cuộc sống giản dị và xa lánh hết những gì là phù phiếm[47], tự nguyện sống khó nghèo nên giống Chúa Kitô. Trong mọi lãnh vực (nhà ở, phương tiện đi lại, nghỉ ngơi….) “linh mục phải loại trừ mọi kiểu cách xa hoa, có thể làm các ngài xa rời người nghèo […] đừng làm cho nơi mình cư ngụ trở thành quá xa cách, để bất cứ ai, dù nghèo hèn đến đâu, cũng không cảm thấy ái ngại khi đến gặp các ngài”[48].

Nhiều giáo dân đặt vấn đề nghiêm túc đối với các linh mục của mình, nghĩa là liệu có thể nhìn thấy điều này được thực hiện trong hàng ngũ các linh mục ở giáo phận mình đang sống hay không. Gisbert Greshake[49] trong tác phẩm “Ý Nghĩa Chức Linh Mục Kitô Giáo”[50] đã giải thích về điều này khi nói về sự cần thiết đối với các lời khuyên khác nhau để sống hiệp nhất. Hầu hết các linh mục công giáo đều vui vẻ chấp nhận sống độc thân, nhưng khi đã từ bỏ hạnh phúc gia đình lớn lao, và hạnh phúc này dễ dàng được thay thế bằng sự quyến luyến của cải thế gian và những sở hữu khác.

IV. HỨA VÂNG PHỤC

Như đã trình bày ở trên, qua việc phong chức buộc linh mục phải sống các lời khuyên Phúc âm. Tuy nhiên, có một nghĩa vụ thêm vào để các lời khuyên làm phát sinh hành động của người được chịu chức đó là : Lời hứa vâng phục của linh mục, bởi vì lời hứa này được áp dụng cho nhiều thứ, nó bao hàm cả việc hứa sống các lời khuyên Phúc âm.

Vâng phục có vai trò kết hợp trong cuộc sống của người tu sĩ, bởi vì theo lời khấn vâng phục của tu sĩ, tất cả mọi hành động làm nên một phần nhân đức vâng phục của người ấy : bởi họ dâng hiến ý muốn của mình trong sự vâng phục, người ấy tự hiến cho Thiên Chúa. Hai cộng đoàn dòng Đa minh và Biển đức dùng chỉ một lời khấn[51], đó là vâng phục, và với đời sống khó nghèo và khiết tịnh, ngầm hiểu rằng chúng được gồm tóm trong các quy tắc buộc họ phải đồng ý vâng theo. Tương tự như vậy, lời hứa vâng phục của linh mục bao hàm cả việc vâng phục trong toàn bộ cuộc sống mình. Tất cả các hành vi tương lai của linh mục, đặc biệt, tất cả các hành vi tự hiến điều dính líu trong việc sống các lời khuyên Phúc âm của linh mục. Sự vâng phục đối với người phối ngẫu của mình là Giáo hội là nét đặc trưng duy nhất của đời sống linh mục.

Kim Chỉ Nam lưu ý rằng vâng phục là đặc tính riêng biệt của linh mục. Hiến tế của Chúa Kitô trên thập giá là hiến tế đầu tiên về đức vâng phục của Người, dâng hiến ý muốn của mình cho Chúa Cha, cho nên có thể nói “sự vâng phục đối với Chúa Cha nằm ở trung tâm chức tư tế của Chúa Kitô”[52], vì thế, vâng phục cũng là trung tâm của đời sống linh mục. Đặc biệt hơn nữa, lời hứa vâng phục với đấng bản quyền bao gồm việc vâng phục với giáo huấn của Giáo hội, giáo luật và luật chữ đỏ phụng vụ[53]. Vì vậy, vâng phục bao gồm việc sống các lời khuyên theo cách mà giáo huấn của Giáo hội chỉ dạy.

Khi không được yểm trợ bởi các điều kiện và ân sủng tương tự đi kèm theo lời hứa sống các lời khuyên Phúc Âm, xem ra linh mục giáo phận có những loại ân sủng liên quan giúp linh mục sống các lời khuyên, bởi vì lời hứa vâng phục của linh mục được coi như hướng đến việc tự hiến mình cho cách sống này, một cách sống bao hàm đời sống khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục.

V. ĐẶC SỦNG

Trở lại vấn đề động cơ của linh mục trong việc sống các lời khuyên, theo ý niệm họ sống cho người khác chứ không vì mục đích thánh thiện của chính mình. Để làm được việc đó cần phải nại đến một thứ đặc sủng được ban cho linh mục, mà chức linh mục là một đặc sủng.

Đặc sủng được ban cho một người, không vì lợi ích của người đó, nhưng vì ích lợi của Giáo hội[54]. Một người có thể được thánh hiến khi sử dụng đặc sủng của mình, nhưng không phải trong ý nghĩa trực tiếp, chỉ thứ cấp mà thôi. Tương tự, hồng ân thánh chức ban cho con người không hướng trực tiếp đến việc thánh hiến chính người đó. Giống mọi Kitô hữu, ơn gọi đặc biệt của linh mục là phương tiện nên thánh, và vì thế việc sống với thiên chức linh mục là phương tiện nên thánh của mình. Đang khi lời khấn của tu sĩ được xem như hướng đến sự nên thánh của người ấy bằng cách thánh hiến mọi phương diện đời sống của người ấy cho Thiên Chúa, việc thánh hiến linh mục qua bí tích truyền chức không nhằm để thánh hóa chính mình nhưng là để phục vụ Giáo hội và cứu độ thế giới. Việc thánh hiến làm cho linh mục nên đồng hình đồng dạng trong mối tương quan duy nhất với Chúa Kitô và hiền thê của Chúa Kitô là Giáo hội, điều này thiết đặt cho linh mục bổn phận duy nhất để tiếp tục sống đặc tính phu phụ đã được ghi dấu trong tâm hồn mình. Đặc tính ấy được xem như phẩm chất của linh mục, xứng hợp với đặc tính bí tích hôn nhân đã ghi dấu khi được phong chức. Điều này có nghĩa là linh mục phải có bổn phận đặc biệt là tiếp tục sống cho các lời khuyên Phúc âm, trong khi không khấn giữ những điều ấy trong cuộc sống. Các linh mục giáo phận thiếu những ơn đặc biệt đến từ việc khấn giữ các lời khuyên Phúc âm, và họ cũng không có sự nâng đỡ này trong cuộc sống của họ. Nhưng với các ơn theo bậc sống đến từ Bí tích Truyền Chức Thánh, linh mục có được đặc sủng riêng biệt, trợ giúp trong bổn phận của mình để sống các lời khuyên Phúc âm, vì lợi ích của Giáo hội, Hiền thê Chúa Kitô. Cho nên, ý niệm đặc sủng giúp phân biệt động cơ khác nhau mà linh mục giáo phận và các tu sĩ sống các lời khuyên phúc âm.

VI. CHIÊM NIỆM VÀ CẦU NGUYỆN

Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói rằng động lực thúc đẩy đầu tiên đối với đời sống độc thân là chiêm niệm. Đời sống độc thân linh mục giúp đạt được sự cân bằng giữa hoạt động và chiêm niệm[55].

Về phương diện chiêm niệm và hoạt động, thánh Tôma dạy rằng chiêm niệm tốt hơn hành động. Trong số những lý do mà thánh nhân nêu ra cho việc này đó là chiêm niệm lôi cuốn những gì tốt nhất nơi con người, cụ thể là trí tuệ của mình, và bởi vì chiêm niệm, trong phúc kiến, là toàn thể đích điểm của đời sống kitô hữu (ST II-II q.180 a.4).

Độc thân linh mục liên quan với chiêm niệm, bởi vì nó là phương tiện để linh mục lớn lên trong đức ái và có khả năng tốt hơn để sống đức ái vợ chồng của mình đối với Giáo hội. Đức Gioan Phaolô II nói : dưới cái nhìn Kitô giáo, khó nghèo luôn được xem như một bậc sống giúp theo Chúa Kitô cách dễ dàng hơn trong đời sống chiêm niệm, cầu nguyện và rao giảng Tin mừng.

Nếu đời sống độc thân là hình thức của khó nghèo, thì đời sống độc thân linh mục làm cho ngài có khả năng tốt hơn để chiêm niệm, và bước theo tình yêu vợ chồng đối với Giáo hội. Nghĩa là trong đời sống độc thân, ngay cả linh mục giáo phận, phải trung thành với Thiên Chúa với một con tim không san sẻ, xem như đó là động lực đầu tiên có thể làm cho linh mục yêu thương và chiêm niệm. Nhưng trong bối cảnh của việc truyền chức linh mục, tình yêu độc thân này đối với Thiên Chúa dẫn linh mục đến việc yêu mến Giáo hội của Chúa Kitô với một tình yêu hôn nhân và mục vụ – một tình yêu mà chỉ có tự do để trao ban, bởi vì linh mục sống độc thân. Như vậy, việc chiêm niệm và tình yêu hôn nhân có thể được xem là những lý do hài hòa kêu gọi linh mục sống độc thân.

KẾT LUẬN

Tất cả các Kitô hữu được mời gọi sống các lời khuyên Phúc âm trong tinh thần, cho dù họ đang sống trong bậc sống nào.

Những người được thánh hiến là được thánh hiến bằng những lời tuyên khấn và lời hứa rằng họ sẽ thực hiện. Mỗi lời thề hứa thánh hiến một khía cạnh khác nhau của con người cho Thiên Chúa, vì thế, cả ba lời khuyên tập hợp nên việc thánh hiến toàn thể con người cho Thiên Chúa, cùng một cách như thế, người ấy trở nên “hoàn toàn” được hiến dâng cho Thiên Chúa, sống các lời khuyên trong “thực chất” chứ không phải trong “tinh thần”.

Linh mục được thánh hiến cho Thiên Chúa qua việc truyền chức. Việc thánh hiến này là bản chất của đặc sủng, qua đó người lãnh nhận thánh chức linh mục hướng đến việc nên thánh và cứu độ người khác, chứ không phải trực tiếp thánh hóa chính bản thân mình. Việc thánh hiến này mang lại một bổn phận đặc biệt là sống các lời khuyên Phúc âm. Trong thánh chức ấy, linh mục lớn lên trong tình yêu vợ chồng dành cho Giáo hội của Chúa Kitô. Đây không phải là bổn phận sống các lời khuyên Phúc âm trong “thực chất” theo cách mà các tu sĩ đã làm. Tuy nhiên, đó là một bổn phận với ngụ ý đời sống của họ để bổ sung cho những gì mà người giáo dân thường đòi hỏi.

Giống như các tu sĩ, linh mục giáo phận được mời gọi sống độc thân và vâng phục : các tu sĩ vâng phục tùy theo vai trò và chức phận của họ; các linh mục giáo phận vâng phục tùy theo luật của Giáo hội. Đối với đời sống khó nghèo, hiện nay vẫn chưa có một hình thức xác định rõ ràng bởi luật lệ của Giáo hội dành cho các linh mục giáo phận. Nhưng bất kể tinh thần của ba lời khuyên này thế nào, tinh thần hãm mình khổ chế, phải được sống bởi mọi linh mục, vì linh mục là người tế lễ trên bàn thờ và cuộc sống của ngài cũng sẽ được thánh hiến như một hy lễ dâng lên Thiên Chúa.

Lm. G Võ Tá Hoàng

THƯ MỤC THAM KHẢO
  • Công Đồng Vatican II, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, 2012
  • Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, nhiều dịch giả, 1997
  • Kim Chỉ Nam Cho Thừa Tác Vụ và Đời Sống Linh Mục, Bộ Giáo Sĩ, 1994 và 2013
  • Tông Huấn Vita Consecrata, ĐTC Gioan Phaolô II, Linh mục Phan Tấn Thành, Op chuyển ngữ.
  • Tông Huấn Pastores Dabo Vobis, ĐTC Gioan Phaolô II, 1992
  • Bộ Giáo Luật 1983, nhiều dịch giả.

[1] http://www.bridgeportvocations.org/your-vocation/discerning-the-priesthood/diocesan-or-religious-priesthood/)
[2] Thư của ĐTC Benêđictô XVI nhân ngày cử hành Năm Thánh Linh Mục (x. http://www.hdgmvietnam.org/thu-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-tuyen-bo-cu-hanh-nam-danh-cho-cac-linh-muc/469.120.6.aspx
[3] x. CĐ VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium số 43
[4] Sách GLCG số 915; LG số 43
[5] x. ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Vita Consecrata, số 31.
[6] CĐ VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium số 44
[7] ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Vita Consecrata, số 36.
[8] ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Vita Consecrata, số 17-21
[9] Sđd, số 88.
[10] Sđd, số 21
[11] Sđd, số 16
[12] Sđd, số 89
[13] Sđd, số 105
[14] Sđd, số 16
[15] Sđd, số 91
[16] Sđd, số 92
[17]CĐ VATICAN II, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, số 15
[18] Dựa theo tác giả Dylan James, trong tác phẩm cùng tên.
[19] Nghi Thức Giám Mục, xem phần Nghi Thức Phong Chức Linh mục.
[20] Sách GLCG, số 915
[21] Réginald Marie Garrigou-Lagrange, OP (1877–1964) Thần học gia Công giáo, người Pháp.
[22] x. BASIL COLE OP & PAUL CONNER O.P., Christian Totality: Theology of the Consecrated Life (New York, Alba House, 1997), 27.
[23] CĐ VATICAN II, Lumen Gentium, số 44
[24] CĐ VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, số 36; 54.
[25] Bộ Giáo luật điều 1191: (1) Lời khấn là lời hứa cách ý thức và thong dong đối với Thiên Chúa, về một điều thiện tốt hơn và có thể thi hành được. Xét vì thuộc về đức thờ phượng, lời khấn buộc phải được chu toàn.
– SGLCG số 2102: Lời khấn là một lời hứa có suy tính và tự do dâng lên Thiên Chúa, về một điều thiện tốt hơn và có thể thi hành được. Vì thuộc về nhân đức thờ phượng, lời khấn buộc phải được chu toàn. Lời khấn là một hành vi đạo đức, nhờ đó người tín hữu tự hiến cho Thiên Chúa hay hứa thực hiện một việc tốt dâng kính Người…
[26] Cha Basil Cole Op, Giáo sư thần học luân lý và thần học tín lý, người Mỹ.
[27] ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, L’Osservatore Romano, English edition 30/11/ 1994, 19, số.4;
x. ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Familiaris Consortio, số 16.
[28] ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Vita Consecrata, số 87
[29] GIÁO LUẬT điều 600: “Lời khuyên Phúc Âm khó nghèo để bắt chước Ðức Kitô, Ðấng tuy giàu sang nhưng đã trở nên nghèo vì chúng ta, ngoài một nếp sống nghèo cả về thực chất lẫn tinh thần, cần cù và thanh đạm, không dính bén tài sản thế tục, còn mang kèm theo sự lệ thuộc và hạn chế trong việc xử dụng và định đoạt tài sản, chiếu theo quy tắc của luật riêng của từng hội dòng”.
[30] ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, L’Osservatore Romano, 7/12/ 1994, 11, số 1
[31] THÁNH TÔMA AQUINÔ, De Perf. Spirit. Vitae., ch. 6
[32] ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, L’Osservatore Romano, 14/12/ 1994, 11, số 3
[33] Cole, 216
[34] Sách GLCG, số 1534
[35] CĐ VATICAN II, Hiến chế Lumen Gentium, số 11,b; Sách GLCG, số 1534
[36] ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 12b
[37] Sách GLCG, số 1548
[38] ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Pastore Dabo Vobis, số 23,b
[39] Sđd, số 22c
[40] Sđd, số 22c
[41] Sđd, số 13
[42] Sđd, số 30g
[43] Sđd, số 29d
[44] THÁNH BỘ GIÁO SĨ, Kim Chỉ Nam – Tác Vụ Và Đời Sống Linh Mục, số 58
[45] x. ĐTC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 22d
[46] Linh mục có Chúa làm phần gia nghiệp. Biết rằng sứ mạng của ngài cũng như của giáo hội diễn ra giữa lòng trần gian và của cải cần thiết cho sự phát triển cá nhân của con người. Tuy nhiên ngài phải sử dụng của cải này với ý thức trách nhiệm, có chừng mực với ý ngay và siêu thoát, là những đặc điểm của người canh giữ kho tàng mình trên trời và biết rằng mọi sự phải đem ra sử dụng để xây dựng nước Thiên Chúa.
[47] BỘ GIÁO LUẬT, điều 282#1
[48]CĐ VATICAN II, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, số 17e.
[49] GISBERT GRESHAKE, Thần học gia Công giáo và giáo sư Thần Học Tín Lý, người Đức
[50] GISBERT GRESHAKE, The Meaning of Christian Priesthood, trans. Peadar MacSeumais S.J. (Westminster, Md.: Christian Classics, 1989) p.131ff
[51] – “Đã từ lâu, nhiều đan sĩ đã tuyên hứa ba điều, nhưng không hẳn là ba lời khuyên Phúc âm giống như giáo luật hiện nay. Chúng ta thử lấy một thí dụ từ các bản luật đan tu hồi thế kỷ IV-V bên Tây phương thì đủ hiểu. Ai giữ luật thánh Augustinô thì cam kết ba điều: độc thân, khó nghèo, sống cộng đoàn. Các tu sĩ dòng Biển đức thì cũng tuyên hứa ba điều: định cư, hoán cải cuộc sống, vâng phục. Chúng ta thấy rằng ba điều này của luật Biển đức thì rộng hơn ba lời khuyên Phúc âm rất nhiều, bởi vì lời hứa “hoán cải” coi như là vô giới hạn, bó buộc phải cải thiện liên lỉ theo tinh thần Phúc âm. Một cách tương tự như vậy, lời hứa “vâng lời” cũng mang tầm mức rất phổ quát, bởi vì đan sĩ hứa tuân giữ bản luật đặt ra rất nhiều nghĩa vụ tu đức (từ việc đọc kinh cầu nguyện, ăn chay kiêng thịt, cho đến thực tập đức khiêm nhường), chưa kể đến việc vâng phục bản luật sống là chính viện phụ. Vì thế mà không lạ gì các tu sĩ dòng Đa Minh chỉ hứa một điều, đó là vâng giữ Hiến pháp, xét vì tất cả các lời khuyên đều được viết trong đó rồi.” (Phan Tấn Thành, Op, Tại Sao Gọi Là “Lời Khuyên Phúc Âm”? – http://catechesis.net/)
[52] BỘ GIÁO SĨ, Kim Chỉ Nam cho thừa tác vụ và đời sống linh mục, số 61
[53] Sđd, số 61-66.
[54] Sách GLCG số 799 : “Dù là phi thường, hay đơn giản và khiêm tốn, các đặc sủng là những ân huệ của Chúa Thánh Thần, trực tiếp hay gián tiếp đều nhằm lợi ích cho Hội Thánh, để xây dựng Hội Thánh, mưu ích cho loài người và đáp ứng những nhu cầu của thế giới”. (xem thêm số 2203 nói riêng về ân sủng)
[55] ĐTC PHAOLÔ VI, Tông thư Sacerdotalis Caelibatus, số 70