Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày Tuần VI Phục Sinh

126

 SUY NIỆM LỜI CHÚA MỖI NGÀY TUẦN VI PHỤC SINH

Lm. Ngọc Dũng, SDB

THỨ HAI TUẦN VI PHỤC SINH

LÀM CHỨNG CHO CHÚA QUA ĐỜI SỐNG VỮNG MẠNH TRONG ĐỨC TIN

(Cv 16:11-15; Ga 15:26 – 16:4a)

Bài đọc 1 hôm nay tiếp tục trình bày cho chúng ta về hành trình rao giảng Tin Mừng của Thánh Phaolô. Những chương sách Công Vụ Tông Đồ chúng ta đọc trong các tuần vừa qua, chỉ nói đến những người nam lắng nghe và trở lại đạo. Hôm nay, chúng ta thấy một người phụ nữ và cả nhà bà tin vào lời chứng của Phaolô và “chịu phép rửa” (Cv 16:15). Điều này nói lên tính phổ quát của ơn cứu độ. Không chỉ người nam được đón nhận ơn cứu độ và có ảnh hưởng trên người khác, nhưng những người phụ nữ cũng được cứu độ và có vai trò quan trọng trong công việc rao giảng Tin Mừng.

Hình ảnh của bà Lyđia làm chúng ta suy gẫm. Trước khi đón nhận Tin Mừng, bà đã là “người tôn thờ Thiên Chúa.” Khi nghe những lời Phaolô nói, Thiên Chúa mở lòng bà để đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Sau khi chịu phép rửa, bà mời Phaolô và các môn đệ khác đến ở nhà bà và sẵn sàng giúp các ngài trong công việc rao giảng Tin Mừng. Hành trình của bà Lyđia nhắc nhở chúng ta về hành trình đức tin của mình. Bà Lyđia có một đức tin từ cõi thâm sâu của con tim. Bà luôn khao khát được lắng nghe Tin Mừng. Và khi được rao giảng, bà nhanh chóng đón nhận đức tin. Và khi đã đón nhận đức tin, bà bắt đầu hành động, hay đúng hơn, đức tin của bà hướng dẫn bà trong các hoạt động bà thực hiện, đó là đón rước và cộng tác với các Tông Đồ trong việc rao giảng Tin Mừng. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã lắng nghe, đã đón nhận đức tin, nhưng đức tin có hướng dẫn chúng ta trong các việc làm hay không? Chúng ta có diễn tả đức tin qua việc làm của mình để người khác nhìn thấy và tin vào Thiên Chúa không? Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2:17).

Hình ảnh Phaolô được bà Lyđia đón nhận trong bài đọc 1 hôm nay tương phản với hình ảnh bị khai trừ của các môn đệ mà Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng. Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai ý: ý thứ nhất (Ga 15:26-27) nói về Chúa Thánh Thần và ý thứ hai nói về việc các môn đệ sẽ bị bách hại vì danh Chúa Giêsu. Chúng ta cùng nhau phân tích chi tiết hai ý này.

Chúa Giêsu nói về Chúa Thánh Thần làm chứng về Ngài. Vai trò “bảo trợ” của Chúa Thánh Thần cho các môn đệ trong khi bị bách hại cũng được tìm thấy trong Tin Mừng của Thánh Máccô (x. Mc 13:9,11) và Mátthêu (x. Mt 10:20). Hai câu 26 và 27 trong chương 15 của Tin Mừng Gioan hôm nay phối hợp việc làm chứng về Chúa Giêsu của Chúa Thánh Thần và của các môn đệ: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.” Nếu chúng ta liên kết việc làm chứng này với phần đầu của chương 15, chúng ta sẽ nhận ra việc làm chứng này là “sinh hoa trái của tình yêu.” Nói cách khác, người môn đệ dưới sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần làm chứng cho Chúa Giêsu qua đời sống yêu thương của mình. Ở đây, chúng ta cần lưu ý đến một chi tiết khá quan trọng, đó là việc Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc Chúa Thánh Thần “xuất phát từ Chúa Cha” sẽ làm chứng cho Ngài, đồng thời các môn đệ là những người “ở với Ngài ngay từ đầu” cũng sẽ làm chứng cho Ngài. Chúng ta thấy chi tiết này chứa đựng ý tưởng về “nguồn gốc” của Chúa Thánh Thần. Ngài là Đấng phát xuất từ Chúa Cha, là mối dây tình yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Con. Vì Chúa Thánh Thần biết Chúa Cha và Chúa Giêsu là ai, nên lời chứng của Ngài là chân thật. Về phía mình, các môn đệ là những người đã ở với Chúa Giêsu ngay khi Ngài khởi đầu rao giảng, nên các ông biết Chúa Giêsu là ai. Những lời chứng chân thật về Chúa Giêsu chỉ có được nơi những người đã “ở lại” với Ngài. Đây là đề tài chính của chương 15 trong Tin Mừng Thánh Gioan. Như vậy, như Chúa Thánh Thần “ở lại” trong Chúa Cha và Chúa Con là nhân chứng chân thật về Chúa Giêsu, các môn đệ cũng “ở lại” trong Chúa Giêsu “ngay từ đầu” cũng sẽ là những chứng nhân của Ngài. Lời chứng của các môn đệ được thể hiện qua chính đời sống yêu thương, qua việc tuân giữ điều răn mới mà Chúa Giêsu đã trao cho các ông. Ngày nay chúng ta cũng được mời gọi trở nên nhân chứng của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, chúng ta chỉ trở nên nhân chứng chân thật của Ngài khi chúng ta “ở lại” trong Ngài. Những ai không “ở lại” trong Chúa Giêsu sẽ không mang hoa trái của tình yêu, không cảm thông và tha thứ.

Ý tưởng thứ hai về việc các môn đệ bị bách hại được diễn tả trong đoạn văn được viết theo kiểu “bánh mì kẹp.” Như chúng ta thấy, câu 1 và câu 4a giống nhau (“Thầy đã nói với anh em các điều ấy, để anh em khỏi bị vấp ngã” [câu 1]; “Nhưng Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để khi đến giờ họ hành động, anh em nhớ lại là Thầy đã nói với anh em rồi” [câu 4a]). Cả hai câu đều nói về lời cảnh báo của Chúa Giêsu cho các môn đệ: Ngài cảnh báo các ông để các ông khỏi bị vấp ngã. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ về “những điều ấy,” là những điều gì? Câu trả lời được tìm thấy trong câu 2 và 3 được kẹp giữa câu 1 và 4a: “Họ sẽ khai trừ anh em khỏi hội đường. Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa. Họ sẽ làm như thế, bởi vì họ không biết Chúa Cha cũng chẳng biết Thầy.” Hai câu này nói cho chúng ta biết về hoàn cảnh bị bách hại mà cộng đoàn của Thánh Gioan đang phải đối diện: họ sẽ bị khai trừ, bị giết. Tuy nhiên, chúng ta thấy câu 3 [“Họ sẽ làm như thế, bởi vì họ không biết Chúa Cha cũng chẳng biết Thầy.”] phản chiếu điều Chúa Giêsu nói với Chúa Cha trên thập giá: họ giết Ngài vì họ “không biết việc họ làm” (x. Lc 23:34). Ngài nói điều này để các môn đệ học nơi Ngài sự vâng phục thánh ý Chúa Cha và không bị vấp ngã. Tóm lại, trong ý thứ hai này, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ và chúng ta rằng, chúng ta sẽ phải đối diện với chống đối của thế giới, và do đó mất niềm tin vào Ngài. Ngài muốn chúng ta không vấp ngã, nhưng đứng vững trong đức tin. Chúng ta đứng vững trong đức tin vì chúng ta biết Ngài, còn thế gian không biết Ngài và Chúa Cha. Nhưng chúng ta có thật sự “biết” và “yêu” Chúa không? Nếu chúng ta biết và yêu Ngài, tại sao nhiều lần chúng ta để cho thế gian lôi kéo và vấp ngã? Đây là điều chúng ta cần dừng lại và suy gẫm trong ngày hôm nay.

*************

THỨ BA TUẦN VI PHỤC SINH

THÁNH THẦN LUÔN ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚNG TA

(Cv 16:22-34; Ga 16:5-11)

Một hình ảnh thật cảm động được trình bày trong bài đọc 1 hôm nay, đó là việc Phaolô và Xila rao giảng Tin Mừng ngay cả trong lúc bị chống đối, đánh đòn và bị lao tù. Các ngài cảm hoá ngay cả viên cai ngục [và cả nhà của ông], người “tống hai ông vào phòng giam sâu nhất và cùm chân lại” (Cv 16:24), hay nói đúng hơn là “kẻ thù” của hai ông. Chính thái độ “lấy ơn báo oán” của các ngài đã cải hoá người cai tù và gia đình ông. Ai trong chúng ta cũng muốn cải hoá người khác, nhất là những người mà chúng ta cho là không tốt [hoặc chưa tốt], những người làm chúng ta phải rơi lệ. Nhưng cách thức chúng ta cảm hoá họ đôi khi mang tính cách “trả thù” và với thái độ “trịch thượng và dạy đời” hơn là tỏ cho họ sự hiền dịu, yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa. Lời mời gọi của Chúa Giêsu cho các môn đệ, hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho những kẻ ghét các con, phải là một trong những tính chất của những người Kitô hữu. Chúng ta cần phải tận dụng mọi cơ hội để tỏ cho người khác tình yêu và niềm vui được biết và tin vào Thiên Chúa.

Về phần mình, người cai ngục đã nhận ra tình thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho ông sau sự kiện động đất và những người tù “không trốn chạy.” Điều để chúng ta suy gẫm là câu hỏi đầu tiên của ông với Phaolô và Xila sau sự kiện: “Thưa các ngài, tôi phải làm gì để được cứu độ?” (Cv 16:30). Ông không hỏi: “Tại sao các ông không chạy trốn khi có cơ hội?” Ông biết nhìn vượt qua sự kiện để nhận ra ý định cứu độ của Thiên Chúa dành cho ông và gia đình của ông. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng: Thiên Chúa có thể dùng tất cả những sự kiện [vui hay buồn, tốt hay xấu] xảy ra trong ngày sống hầu mưu ích ơn cứu độ cho chúng ta và cho những người thân yêu của chúng ta. Liệu chúng ta có nhìn ra bàn tay nhân từ của Ngài trong những sự kiện xảy ra trong ngày sống không?

Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu trình bày cho chúng ta một cách rõ ràng hơn vai trò của Chúa Thánh Thần trong tương quan với thế gian và các môn đệ. Để chuẩn bị chúng ta mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Lời Chúa trong các Bài Tin Mừng mỗi ngày tập trung vào việc Chúa Giêsu chuẩn bị các môn đệ đối diện với sự kiện Ngài sẽ ra đi về với Chúa Cha và sẽ sai Chúa Thánh Thần đến với họ. Đọc bài Tin Mừng hôm nay trong bối cảnh đó, chúng ta có thể rút ra ba điều sau cho ngày sống của chúng ta.

Thứ nhất, Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ lý do làm các ông phải ưu phiền: “Bây giờ Thầy đến cùng Đấng đã sai Thầy, và không ai trong anh em hỏi: ‘Thầy đi đâu?’ Nhưng vì Thầy nói ra các điều ấy, nên lòng anh em tràn ngập ưu phiền” (Ga 16:5-6). Lúc này các môn đệ biết Chúa Giêsu sắp về với Chúa Cha. Điều này được hàm ý trong câu: “không ai trong anh em hỏi, ‘Thầy đi đâu?’.” Chúa Giêsu hiểu tâm lý của con người rất rõ, vì Ngài là người thật. Ngài biết cuộc chia ly nào cũng mang lại ưu phiền. Ngài biết khi Ngài “chia tay” các môn đệ để về với Chúa Cha thì các môn đệ sẽ ưu phiền. Đó là điều tự nhiên của con người. Chúng ta cũng thế, khi chia tay một người chúng ta yêu mến, chúng ta cũng ưu phiền “đến chết được.” Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta thường đau buồn khi chúng ta chia tay với con người. Còn khi “chia tay” với Chúa lúc chúng ta “phạm tội,” chúng ta không mấy đau buồn. Nhiều người trong chúng ta còn sống lì trong tình trạng tội lỗi của mình. Hãy ưu phiền khi chúng ta “mất Chúa” hơn là khi chúng ta “mất của.”

Thứ hai, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ về ích lợi cho họ khi Ngài về với Chúa Cha: “Song, Thầy nói thật với anh em: Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16:7). Từ những lời này, Chúa Giêsu muốn trấn an và làm dịu nỗi ưu phiền của các môn đệ. Một lần nữa, chúng ta thấy Chúa Giêsu rất tâm lý: Ngài nói cho các môn đệ về mối lợi mà các ông sẽ có khi Ngài ra đi về với Chúa Cha. Thường những người gặp ưu phiền rất cần những lời khích lệ và động viên để giúp họ nhận ra được “mối lợi” ẩn sau những ưu phiền của họ. Chúng ta có làm được điều này không? Hay những lời nói của chúng ta càng làm cho họ mất đi sự bình an của tâm hồn hoặc chỉ nhìn thấy mối lợi về vật chất hơn là mối lợi thiêng liêng được ẩn dấu trong Thiên Chúa.

Thứ ba, Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ về vai trò của Chúa Thánh Thần trong tương quan với thế gian: “Khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử: về tội lỗi: vì chúng không tin vào Thầy; về sự công chính: vì Thầy đến cùng Chúa Cha, và anh em không còn thấy Thầy nữa; về việc xét xử: vì Thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử rồi” (Ga 16:8-11). Trong những câu này, chúng ta thấy vai trò của Chúa Thánh Thần là chứng minh sự sai lầm của thế gian. Theo các học giả Kinh Thánh, chữ “chứng minh” ở đây có thể được hiểu là “đem ra ánh sáng” hoặc “kết án.” Chúa Thánh Thần chứng minh sự sai lầm của thế gian về ba điều: (1) về tội lỗi – trong Tin Mừng của Thánh Gioan, “tội lỗi” ám chỉ sự “không tin” vào Chúa Giêsu (x. 3:19, 36; 8:21-24; 15:22-25); (2) về sự công chính – trong Tin Mừng Thánh Gioan, từ này chỉ xuất hiện ở đây dù trong Ga 5:30 Thánh Gioan đã khẳng định Chúa Giêsu, Đấng luôn làm theo ý muốn của Đấng đã sai Ngài, phán xét rất “công minh.” Trong bối cảnh này, sự công chính ám chỉ đến việc “làm theo ý muốn của Thiên Chúa”; (3) về xét xử – chúng ta tìm thấy điểm này trong Ga 7:24. Trong câu này, Chúa Giêsu thách đố những người kết án Ngài về việc chữa lành trong ngày Sabbath. Ngài kêu gọi họ “đừng xét đoán theo bề ngoài nữa, nhưng hãy xét đoán công minh.” Phía sau câu này là lời mời gọi đừng xét đoán, để chúng ta khỏi bị Thiên Chúa xét đoán. Tóm lại, qua ba điều Chúa Thánh Thần chứng minh cho thế gian, chúng ta rút ra điều đáng suy gẫm sau: Chúng ta được mời gọi tin vào Chúa Giêsu, và niềm tin này được diễn tả trước hết qua việc tìm kiếm và thực hành thánh ý Chúa và không xét đoán anh chị em.

*************

THỨ TƯ TUẦN VI PHỤC SINH

CHÚA THÁNH THẦN: ĐẤNG DẪN CHÚNG TA ĐẾN SỰ THẬT TOÀN VẸN

(Cv 17:15.22 – 18:1; Ga 16:12-15)

Khi đi rảo qua một khu vực nào đó, chắc chắn ai trong chúng ta cũng bị cuốn hút vào một vài cảnh hấp dẫn, hợp sở thích: người thích thiên nhiên thì lưu ý đến cây cối cảnh vật, người thích mua sắm thì lưu ý đến các tiệm bán đồ, người thích đọc sách thì để ý đến các nhà sách, v.v. Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta một tình huống tương tự, đó là việc Thánh Phaolô rảo qua thành phố Athen và cũng bị cuốn hút vào những điều ngài quan tâm. Ngài quan tâm đến điều gì? Thánh Phaolô quan tâm đến việc rao giảng Lời Chúa hay đúng hơn vị trí của Thiên Chúa trong đời sống của người Athen. Ngài nói lên điều này qua những lời sau: “Thưa quý vị người Athen, tôi thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết. Thật vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: ‘Kính thần vô danh.’ Vậy Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị” (Cv 17:22-23). Vì mối bận tâm của ngài là rao giảng Tin Mừng, nên ngài chỉ lưu ý đến những yếu tố giúp ngài nói về Chúa. Mối bận tâm của chúng ta là gì? Có bao giờ chúng ta bận tâm việc rao giảng Lời Chúa trong đời sống hằng ngày không? Nếu chưa, chúng ta hãy bắt đầu từ hôm nay!

Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý rằng: không phải lúc nào lời rao giảng của chúng ta cũng được đón nhận. Bài đọc 1 cho chúng ta thấy người Athen phản ứng mạnh mẽ khi Thánh Phaolô nói đến việc Chúa Giêsu sống lại, một điều quá xa lạ với họ. Thay vì ngạc nhiên và “tò mò” để hiểu thêm, họ nhạo cười Thánh Phaolô. Tuy nhiên, cũng có một số người tin vào ngài, trong số đó có cả những người có chức sắc (x. Cv 17:34). Trong cuộc sống, có những lúc chúng ta thấy việc rao giảng của mình bị chống đối hay không mang lại những hoa trái như lòng mong ước và chúng ta nản chí, không còn muốn rao giảng nữa. Chúng ta phải kiên nhẫn rao giảng, dù không nhiều người nghe và tin vào lời rao giảng của chúng ta. Dù chỉ có một người nghe và tin vào Chúa qua lời giảng dạy của chúng ta, cũng đã là niềm vui rồi. Đừng đặt nặng đến tầm ảnh hưởng “rộng” của mình, nhưng quan tâm đến sự ảnh hưởng “sâu đậm” trên niềm tin của người khác vào Thiên Chúa. Tìm thấy niềm vui trong những kết quả nhỏ bé của việc rao giảng là chìa khoá của hạnh phúc đích thật.

Bài Tin Mừng hôm nay tập trung vào vai trò của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ hướng dẫn các môn đệ đến với sự thật toàn vẹn. Như chúng ta thấy, Thánh Gioan đã một phần nào đó trình bày vai trò của Chúa Thánh Thần trong chương 14 (câu 25-26). Đối với Thánh Gioan, Chúa Thánh Thần có một vai trò quan trọng trong cộng đoàn. Lý do các môn đệ (cộng đoàn của Thánh Gioan) cần đến Chúa Thánh Thần là vì Chúa Giêsu “còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi” (Ga 116:12). Trong tương lai, sau khi Chúa Giêsu về với Chúa Cha, Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn các môn đệ, lý do là vì Chúa Giêsu đã không thể nói với các môn đệ về tất cả những gì họ phải biết, và vì các môn đệ không thể hiểu lời nói và hành động của Ngài trước khi Ngài được tôn vinh (x. Ga 2:22; 12:16; 13:7). Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan trình bày vai trò của Chúa Thánh Thần như sau: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16:13a). Vai trò của Chúa Thánh Thần là đưa các môn đệ đến chân lý toàn vẹn, là hiểu tất cả những lời nói và hành động của Chúa Giêsu khi Ngài còn ở với họ, đồng thời nói cho các môn đệ biết những điều mà Chúa Giêsu chưa nói với họ vì họ “không có sức chịu nổi.” Trong những lời này, chúng ta thấy rằng để biết và hiểu Chúa Giêsu, chúng ta cần đến sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần. Xin Chúa Thánh Thần đến không chỉ để canh tân bộ mặt trái đất, nhưng còn biến đổi cõi lòng của chúng ta, để chúng ta hiểu được những lời nói và hành động của Chúa Giêsu hầu học đòi bắt chước và trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.

Điểm kế tiếp trong bài Tin Mừng hôm nay được trình bày trong câu 13b đến câu 15, đó là sự hiệp nhất giữa sứ mệnh của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần trong việc mạc khải Chúa Cha. Ở đây chúng ta cũng thấy sự hiệp nhất của Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Để dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn, Chúa Thánh Thần sẽ thực hiện hai điều:

Thứ nhất, “Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16:13). Những lời này khẳng định cho chúng ta về sự đồng nhất giữa lời loan báo của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu khẳng định rằng, Ngài chỉ nói những gì Ngài đã nghe từ Chúa Cha (x. Ga 5:19; 8:38; 12:49). Chúa Thánh Thần cũng thế, Ngài chỉ loan báo những gì Ngài nghe từ Chúa Cha [và Chúa Giêsu]. Điều này nhắc nhở chúng ta về việc “loan báo” hay lời nói thường ngày của chúng ta. Chúa Giêsu mong muốn những lời nói của chúng ta là hoa trái của những điều chúng ta đã nghe được từ Ngài. Những gì chúng ta nghe từ Ngài đó là Tin Mừng, tin mang lại niềm vui cho người khác. Như vậy, khi lời nói của chúng ta không chuyển tải điều chúng ta nghe từ Thiên Chúa sẽ dễ dàng làm tổn thương người khác. Đừng làm tổn thương người khác vì lời nói của mình, nhưng hãy nói cho họ những lời yêu thương, cảm thông và an vui mà chúng ta nghe từ Thiên Chúa.

Thứ hai, “Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16:14). Với những lời này, chúng ta thấy Chúa Thánh Thần không tôn vinh chính Ngài, nhưng tôn vinh Chúa Giêsu, vì khi Ngài tôn vinh Chúa Giêsu là chính Ngài được tôn vinh. Chúa Thánh Thần tôn vinh Chúa Giêsu bằng cách lấy những gì là của Chúa Giêsu mà loan báo cho các môn đệ, chứ không phải lấy những gì là của mình mà loan báo. Ở đây chúng ta thấy được sự hiệp nhất bất khả phân ly giữa Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Những gì các Ngài có đều được đón nhận từ Chúa Cha: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16:15). Thật vậy, với những lời này, Chúa Giêsu khẳng định sự hiệp nhất giữa Ngài và Chúa Thánh Thần với Chúa Cha. Hơn nữa, sứ điệp Chúa Thánh Thần dạy các môn đệ là điều Ngài lấy từ Chúa Giêsu để dạy. Nói cách khác, sứ điệp mà Chúa Thánh Thần dạy các môn đệ không đi ngược với sứ điệp Chúa Giêsu đã dạy. Điều này khuyến cáo chúng ta về đời sống và sự loan báo Tin Mừng của mình. Để trở nên những người tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta phải lấy mọi sự từ Ngài để nói cho người khác. Nói cách khác, đời sống của chúng ta sẽ trở thành sứ điệp Tin Mừng khi chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu: Những lời nói và việc làm của chúng ta phải phản chiếu cách trung thực những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu.

*************

THỨ NĂM TUẦN VI PHỤC SINH

TÌM NIỀM VUI TRONG CHÚA

(Cv 18:1-8; Ga 16:16-20)

Ơn gọi làm tông đồ cho dân ngoại ngày càng trở nên rõ nét hơn nơi Thánh Phaolô. Điều này là nội dung chính trong bài đọc 1 hôm nay. Dù biết mình đã được kêu mời làm tông đồ cho dân ngoại, nhưng, chúng ta có thể nói rằng, vì khuynh hướng tự nhiên, Phaolô vẫn muốn làm việc cho những người “đồng bào” của mình là những người Do Thái. Đây cũng chính là cám dỗ cho mỗi người chúng ta. Chúng ta luôn mong làm việc với những người chúng ta quen, những người có cùng niềm tin, cùng sở thích. Không mấy người trong chúng ta muốn làm việc cho những người xa lạ.

Khi làm việc cho người Do Thái, Thánh Phaolô cũng gặp được những người cộng tác với ngài. Họ cũng là những người rất quảng đại với ngài, như Aquila và vợ là Pơrítkila (x. Cv 18:1-3)). Tuy nhiên, bên cạnh đó, ngài cũng bị chính những người đồng bào của mình chống đối và nói lộng ngôn (x. Cv 18:6). Vì sự chống đối này mà Thánh Phaolô quyết định sẽ đến với dân ngoại. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về một “chân lý” trong cuộc sống, đó là chúng ta không thể làm hài lòng hết mọi người. Dù chúng ta có sống tốt, sống vui và làm những điều tốt đẹp đến đâu, vẫn có người chống đối và nói những lời không tốt về chúng ta. Khi biết được “chân lý” này, chúng ta đừng để cho mình bị chi phối bởi một sự chống đối của một vài người mà dừng làm việc tốt, ngừng làm chứng cho Chúa qua đời sống yêu thương, cảm thông và tha thứ của chúng ta. Đừng để cho bất kỳ người nào lấy đi niềm vui có Chúa và làm việc với Chúa của chúng ta!

Kinh nghiệm thường ngày dạy chúng ta rằng, không phải lúc nào chúng ta cũng có thể cảm nghiệm được sự hiện diện gần gũi của Thiên Chúa hoặc của Chúa Giêsu. Có những lúc chúng ta thấy Chúa rất gần, nhưng cũng có lúc chúng ta thấy Chúa quá xa vời. Điều này được diễn tả cách trung thực qua lời nói của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Nói cách khác, Chúa Giêsu dường như muốn chơi trò chơi trốn tìm với các môn đệ. “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” (Ga 16:16). Trong câu này, Chúa Giêsu chuyển sự tập trung của các môn đệ từ “nơi Ngài đi” đến “ít lâu nữa,” từ “nơi chốn” đến “thời gian.”

Đề tài “ít lâu nữa” là trung tâm của 4 câu (16-19) trong bài Tin Mừng hôm nay. Câu 16 được xem là “tiền đề” của “câu đố” mới cho các môn đệ. Hai câu tiếp theo (17 và 18) nói đến sự cố gắng tìm câu trả lời cho câu đố của các môn đệ, nhưng cuối cùng, họ không thể tìm thấy câu trả lời. Câu 19 nói đến sự can thiệp của Chúa Giêsu để giúp các môn đệ tìm ra câu trả lời. Trong câu này có một chi tiết mà chúng ta cần lưu ý là “Đức Giêsu biết là các ông muốn hỏi mình, nên bảo các ông….” Chi tiết này ám chỉ về sự “biết trước” của Chúa Giêsu mà chúng ta thường gặp trong Tin Mừng Gioan: Chúa Giêsu luôn đi bước trước. Ngài “đã biết” và “đi bước trước” để giải thích cho các môn đệ điều các ông đang thắc mắc. Điều này có ý nghĩa gì với chúng ta? Trong cuộc sống, chúng ta cũng gặp nhiều điều không hiểu. Nhưng chúng ta không dám hỏi Chúa? Nhiều khi chúng ta cứ loay hoay đi tìm câu trả lời cho riêng mình, hay chúng ta tìm sự giúp đỡ từ con người hơn là từ Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý rằng, Chúa luôn đi bước trước. Ngài luôn tìm cách giải thích cho chúng ta bằng nhiều cách: qua lời Ngài, qua các sự kiện xảy ra trong ngày sống hoặc qua những người khác. Liệu chúng ta có nhạy cảm và nhận ra sự hướng dẫn của Ngài không?

Trở lại với “câu đố” và câu giải thích của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra rằng Chúa Giêsu không cho các môn đệ câu trả lời trắng đen. Ngài giải thích “ít lâu nữa” không phải là thời gian ám chỉ về Ngài, nhưng ám chỉ về các môn đệ: “anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16:20). Trong những lời này, chúng ta nhận thấy một sự “đổi ngược” mang tính mạc khải sẽ xảy ra trong thời cánh chung. Các môn đệ của Ngài sẽ khóc lóc và lo buồn, thế gian sẽ vui mừng. Nhưng sự khóc lóc và lo buồn của các môn đệ không “tồn tại muôn đời.” Sự khóc lóc và lo buồn của các môn đệ sẽ trở thành niềm vui. Lời hứa về sự “đổi ngược” này sẽ xảy ra trong “tương lai.” Điều này nhắc nhở chúng ta rằng:  trong cuộc sống, khi gặp phải những khó khăn, thử thách, buồn sầu và lo lắng, chúng ta đừng để cho những điều đó lấy mất đi niềm tin và hy vọng của chúng ta vào một tương lai với nhiều niềm vui và hạnh phúc đang chờ đợi. Những người sống không niềm tin và hy vọng vào một tương lai đầy yêu thương và niềm vui sẽ thấy mỗi giây phút sống của mình rất nặng nề và không có ý nghĩa. Ngược lại, những người đón nhận mọi khó khăn và thử thách trong cuộc sống với con tim của Chúa Giêsu sẽ luôn thấy cuộc sống này thật đẹp và có ý nghĩa.

*************

THỨ SÁU TUẦN VI PHỤC SINH

NIỀM VUI KHÔNG AI LẤY MẤT

(Cv 18:9-18; Ga 16:20-23a)

Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta hành trình rao giảng Tin Mừng của Thánh Phaolô ở Côrintô. Thánh nhân vẫn phải chịu sự chống đối từ người Do Thái (x. Cv 18:12-17). Nhưng Thiên Chúa khuyến khích Phaolô trong thị kiến tiếp tục làm chứng cho Ngài: “‘Đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với anh; không ai tra tay hại anh được, vì Thầy có một dân đông đảo trong thành này.’ Ông Phaolô ở lại đó một năm rưỡi, dạy cho họ lời Thiên Chúa” (Cv 18:9-11). Những lời này chỉ ra cho chúng ta thấy điều làm cho Phaolô mạnh mẽ và can đảm trong đời sống rao giảng Tin Mừng chính là việc “Chúa Giêsu luôn ở với thánh nhân.” Đây chính là lời hứa của Chúa Giêsu cho các môn đệ và cũng là điều Thiên Chúa hứa cho những người Ngài chọn để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Chúng ta cũng được mời gọi để cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ, trong việc đem Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Nhiều lần đối diện với khó khăn và thử thách, chúng ta cũng nản lòng và muốn bỏ cuộc. Có khi chúng ta không còn can đảm để rao giảng lời Chúa. Nhưng Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng, Ngài luôn ở với chúng ta. Điều đáng để chúng ta suy gẫm ở đây là: Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta trong từng giây phút của đời sống chứng tá; còn chúng ta, chúng ta có ở với Ngài trong từng giây phút của ngày sống mình hay không?

Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta về những điều các môn đệ sẽ đối diện khi Chúa Giêsu ra đi. Chúng ta thấy bài Tin Mừng nói về sự tương phản giữa hai thái độ của các môn đệ khi Chúa Giêsu ra đi và khi Ngài trở lại. Chúng ta đã trình bày điều này trong bài chia sẻ lời Chúa ngày hôm qua [Chúa Giêsu dùng sự tương phản giữa thái độ của các môn đệ và thế gian khi “ít lâu nữa” sẽ đến: các môn đệ sẽ khóc lóc và than van, trong khi thế gian sẽ vui mừng]. Nếu lưu ý đến cấu trúc của trình thuật hôm nay, chúng ta thấy trình thuật có ba phần và được xếp theo cấu trúc “bánh mì kẹp.” Hai “miếng bánh mì” nói lên sự tương phản của nỗi buồn và niềm vui của người môn đệ trước và sau khi Chúa Giêsu ra đi. Phần kẹp bên trong, Chúa Giêsu dùng một dụ ngôn để làm sáng tỏ sự tương phản trong thái độ của các môn đệ khi đối diện với việc ra đi và trở lại của Chúa Giêsu.

Chúng ta thấy hai “miếng bánh mì” là sự tương phản trong thái độ sống của người môn đệ trước và sau khi Chúa Giêsu ra đi. Trong miếng bánh mì thứ nhất, Chúa Giêsu nói đến một sự đổi ngược trong thái độ sống của người môn đệ nhưng không nói đến lý do của sự đổi ngược này: “Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16:20). Chúng ta thấy ở đây chỉ là dữ kiện, đó là các môn đê sẽ khóc lóc và than van trong khi thế gian sẽ vui mừng. Nhưng rồi, nỗi buồn của các môn đệ sẽ trở thành niềm vui. Đây là lý do? Chúng ta sẽ biết được lý do trong miếng bánh mì thứ hai: “Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được. Ngày ấy, anh em không còn phải hỏi Thầy gì nữa” (Ga 16:22-23a). Những lời này chỉ cho chúng ta thấy điều mang lại sự đổi ngược trong thái độ của người môn đệ chính là  việc được gặp lại Chúa Giêsu. Niềm vui được gặp Chúa Giêsu là niềm vui tuyệt hảo nhất vì sẽ không bị ai lấy mất. Trong cuộc sống thường ngày của mình, chúng ta cũng mong ước được thấy nhiều thứ hoặc nhiều người. Chúng ta mong ước được thấy bạn hữu hoặc những người chúng ta yêu mến; chúng ta muốn thấy những người nổi tiếng mà chúng ta ngưỡng mộ. Chúng ta cảm thấy rất vui khi chúng ta gặp được những người này. Còn thái độ chúng ta đến gặp Chúa Giêsu mỗi ngày như thế nào? Chúng ta có thấy vui khi đến gặp Ngài hay không? Chúa Giêsu khẳng định cho chúng ta rằng, khi chúng ta gặp Ngài, chúng ta sẽ vui mừng để rồi chúng ta không còn nhớ đến những đau khổ chúng ta đã phải chịu vì danh Ngài. Điều này cho thấy, những người sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa luôn cảm thấy vui tươi hạnh phúc vì họ không còn đặt niềm vui của mình nơi những thứ chóng qua của trần thế này, nhưng hoàn toàn đặt trọn niềm vui của mình nơi Chúa Giêsu. Khi có Chúa Giêsu, chúng ta sẽ quên hết những lo âu phiền muộn. Đây chính là điều được Chúa Giêsu nói trong dụ ngôn được kẹp ở giữa.

Trong dụ ngôn kẹp giữa, Chúa Giêsu sử dụng hình ảnh người mẹ trong khi sinh con để nói đến sự tương phản trong thái độ của người môn đệ trước và sau khi gặp Chúa Giêsu: “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian” (Ga 16:21). Những lời này cho thấy sự đổi ngược trong thái độ sống của người phụ nữ sinh con. Hình ảnh này đã từng được áp dụng cho thời đại của Đấng Messia trong Cựu Ước (x. Is 26:17-18; 66:7-10, nói đến sự đau đớn sinh con của Sion trong Ngày của Đức Chúa). Tuy nhiên, ở đây thuật ngữ “đau đớn sinh con” (Gk. thlipsis) cũng có thế ám chỉ đến “những thử thách” mà những người tin Thiên Chúa phải đối diện trong những ngày cuối cùng (x. Zeph 1:14-15; Hab 3:16; Mc 13:19,24). Hình ảnh người phụ nữ sinh con ở đây là lối nói loại suy sự đảo ngược trong đời sống của người tin: Trong cuộc sống trần thế, họ sẽ phải đối diện với những thứ thách và đau khổ; họ phải than van khóc lóc cho tội lỗi của họ và của người khác. Nhưng trong những ngày sau hết, họ sẽ được tràn đầy niềm vui vì sẽ được vui hưởng nhan thánh Chúa. Chi tiết này giúp chúng ta đối diện với những khó khăn, thử thách và đau khổ trong đời sống của chúng ta với niềm hy vọng, tin yêu là chúng ta sẽ được nhìn thấy Chúa, Đấng chúng ta yêu mến trên hết mọi sự.

*************

THỨ BẢY TUẦN VI PHỤC SINH

ĐỨC KITÔ LÀ ĐẤNG TRUNG GIAN

(Cv 18:23-28; Ga 16:23b-28)

Hành trình rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại của Thánh Phaolô bắt đầu được mở rộng. Ngài ra khỏi cộng đoàn quen thuộc đầu tiên, đó là Antiôkhia và bắt đầu với một cộng đoàn mới, đó là Êphêsô, cộng đoàn mà ngài đã viết một lá thư để lại và vẫn có giá trị cho chúng ta ngày hôm nay. Tuy nhiên, trước khi di chuyển qua một cộng đoàn mới Thánh Phaolô đã “làm cho tất cả các môn đệ [ở Antiôkhia] được vững mạnh” (Cv 18:23). Đây là điều đầu tiên chúng ta có thể suy gẫm dựa trên lời Chúa hôm nay. Chúng ta chắc cũng đã di chuyển nhiều chỗ ở và làm nhiều việc. Khi di chuyển như thế, chúng ta cũng muốn có ảnh hưởng trên người khác. Hình ảnh của Thánh Phaolô hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại sự ảnh hưởng của mình trên người khác. Nói cách cụ thể, sự hiện diện của chúng ta ở một nơi nào đó phải làm cho niềm tin của người khác vào Thiên Chúa được vững mạnh. Điều này chỉ có thể khi chúng ta sống yêu thương và khiêm nhường: sự hiện diện của chúng phải làm cho người khác cảm nghiệm được niềm vui và tình yêu của Thiên Chúa.

Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta nghe kể về câu chuyện Apôlô: “Có một người Do Thái tên là Apôlô, quê ở Alêxanria, đã đến Êphêxô; ông là người có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh. Ông đã được học Đạo Chúa; với tâm hồn nồng nhiệt, ông thường lên tiếng giảng dạy chính xác những điều liên quan đến Đức Giêsu, tuy rằng ông chỉ biết có phép rửa của ông Gioan. Ông bắt đầu mạnh dạn rao giảng trong hội đường. Sau khi nghe ông nói, bà Pơrítkila và ông Aquila mời ông về nhà trình bày Đạo của Thiên Chúa cho ông chính xác hơn” (Cv 18:24-26). Apôlô là người sau này được Thánh Phaolô nhắc lại trong một lá thư ngài viết: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cr 3:6). Trong những lời này, chúng ta thấy Apôlô là người đi sau để xây dựng và vun đắp những gì Thánh Phaolô đã gieo. Điều này nhắc nhở chúng ta về thái độ cộng tác trong việc rao giảng Tin Mừng. Chúng ta tránh thái độ “phá đổ” những gì người trước đã tốn công gây dựng. Người ta thường nói: nếu muốn phát triển một cái gì đó, thế hệ đi sau phải xây dựng trên nền tảng thế hệ đi trước đã xây dựng. Còn nếu phá đổ tất cả để xây dựng lại, thì mãi mãi không có sự phát triển nào vì mỗi thế hệ luôn bắt đầu từ con số không.

Điểm cuối cùng chúng ta quan tâm trong bài đọc 1 là mục đích rao giảng của các môn đệ: “Khi đến nơi, nhờ ơn Chúa, ông đã giúp ích nhiều cho các tín hữu, vì ông mạnh mẽ và công khai bẻ lại người Do Thái, dẫn Kinh Thánh mà minh chứng rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô” (Cv 18:27-28). Những lời này trình bày cho chúng ta nỗ lực của các môn đệ là “chứng minh rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô,” nhưng sự làm chứng này không dựa vào khả năng hoặc trí thông minh của con người. Sự làm chứng này hoàn toàn dựa trên mạc khải, dựa trên lời Kinh Thánh. Nói cách cụ thể hơn, những người có thể chứng minh Đức Giêsu là Đấng Kitô là những người luôn “lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành.” Thật vậy, chỉ có đời sống được gợi hứng bởi những giá trị Tin Mừng mới có thể làm chứng cho Chúa Giêsu. Hãy để Lời Chúa hướng dẫn và gợi hứng cho ngày sống của chúng ta. Đừng sống theo những giá trị thế gian, nhưng sống theo những giá trị Tin Mừng. Đó là cách làm chứng tốt nhất cho Chúa Giêsu Kitô.

Chúng ta có thường xuyên cầu xin với Chúa Cha không? Chúng ta có nhân danh Chúa Giêsu để xin Chúa Cha không? Hay chúng ta chỉ xin Chúa Giêsu [hoặc Mẹ Maria và các thánh]. Và điều chúng ta xin là gì? Trong phần đầu tiên của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ về việc xin Chúa Cha “nhân danh Ngài”: “Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em nhân danh Thầy. Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 16:23b-24). Những lời này cho chúng ta biết, các môn đệ đã không xin Chúa Cha điều gì nhân danh Chúa Giêsu. Ở đây chúng ta thấy Chúa Giêsu liên kết điều các môn đệ xin nhân danh Ngài với niềm vui mà họ sẽ có khi Chúa Cha ban cho họ điều họ xin. Niềm vui này là một niềm vui trọn vẹn. Nói cách khác, những điều chúng ta xin nhân danh Chúa Giêsu sẽ mang lại cho chúng ta niềm vui, và đây không phải là niềm vui chóng qua, nhưng là niềm vui trọn vẹn. Nhìn vào đời sống thường ngày, có thể chúng ta đã xin Chúa Cha nhiều điều, nhưng có lẽ chúng ta vẫn chưa xin nhân danh Chúa Giêsu. Chúng ta thường nhân danh mình hoặc Đức Mẹ hoặc các thánh để xin cho mình và cho người khác. Điều đó rất tuyệt vời! Nhưng điều tuyệt hảo nhất là xin Chúa Cha nhân danh Chúa Giêsu vì Ngài là vị trung gian duy nhất giữa Chúa Cha và con người. Khi chúng ta xin nhân danh Ngài, chúng ta sẽ nhận ra rằng, điều chúng ta xin không phải chỉ là một vài của cải vật chất hay sức khoẻ thể lý chóng qua của cuộc đời này, nhưng là ơn cứu độ, ơn khỏi phải chết muôn đời. Vì chỉ có ơn cứu độ, được sống muôn đời với Thiên Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ và yêu mến trên hết mọi sự, mới mang lại cho chúng ta niềm vui trọn vẹn.

Điểm thứ hai của bài Tin Mừng mà chúng ta cần lưu ý là việc Chúa Giêsu mạc khải mọi sự cho các môn đệ. Đây là phần nằm giữa hai miếng “bánh mì”: “Thầy đã dùng dụ ngôn mà nói những điều ấy với anh em. Sẽ đến giờ Thầy không còn dùng dụ ngôn mà nói với anh em nữa, nhưng Thầy sẽ nói rõ cho anh em về Chúa Cha, không còn úp mở” (Ga 16:25). Câu này giúp chúng ta nhận ra điều chúng ta phải xin nhân danh Chúa Giêsu, đó là được biết về Chúa Cha và tình yêu vô bờ bến của Ngài. Điều này có phải là điều chúng ta xin mỗi khi đến với Thiên Chúa không? Xin được biết và thấy Chúa Cha và cảm nhận được tình yêu của Ngài “khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khoẻ.” Để nhìn thấy Thiên Chúa và cảm nghiệm được tình yêu của Ngài khi thịnh vượng và mạnh khoẻ thì dễ. Nhưng khi gian nan và đau ốm, chúng ta thật khó nhận ra bàn tay yêu thương của Ngài đã và đang bồng ẵm chúng ta. Giống như Chúa Giêsu trên thập giá, Ngài cũng cảm nghiệm sự cô đơn và bỏ rơi của Chúa Cha và các môn đệ. Nhưng Ngài đã cầu xin Chúa Cha và đã cảm nghiệm được tình yêu vô điều kiện và tuyệt đối của Chúa Cha dành cho Ngài và nhân loại. Vì lý do này, thập giá Chúa Kitô là đỉnh cao của hiến tế và cũng là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.

Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc cũng với việc Chúa Giêsu dạy các môn đệ hãy nhân danh Ngài để xin Chúa Cha. Chúng ta lại thấy lối viết “bánh mì kẹp” quen thuộc trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là mở và kết giống nhau với lời nhắc nhở của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, trong hai miếng “bánh mì” [câu mở và kết] của Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhận ra điều Thánh Gioan thường sử dụng trong Tin Mừng của mình, đó là hành trình đi từ “chưa tin” [hoặc “chưa có”] đến “tin” [“có”]. Trong câu mở, Chúa Giêsu nói, “cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy,” còn trong câu kết, Chúa Giêsu lại nói, “ngày ấy, anh em sẽ nhân danh Thầy mà xin….” Các môn đệ vẫn chưa xin gì vì Chúa Giêsu đang ở với họ. Nhưng khi Chúa Giêsu “bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha,” “ngày ấy” các môn đệ sẽ xin, vì từ “ngày ấy” họ không còn nhìn thấy Đấng mà khi thấy Ngài họ sẽ nhìn thấy Chúa Cha. Chúng ta không được nhìn thấy Chúa Giêsu hiện diện cách thể lý như các môn đệ. Vì vậy, điều chúng ta cần phải xin mỗi khi chúng ta đến với Chúa là sự cảm nghiệm được Chúa Cha yêu mến chúng ta vì chúng ta yêu mến Chúa Giêsu và tin vào Ngài (x. Ga 16:27). Chỉ khi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Cha được diễn tả nơi Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể yêu người khác với một tình yêu cho đến cùng như thế. Khi không cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Cha qua Đức Giêsu, chúng ta khó có thể phản chiếu tình yêu đó qua tư tưởng, lời nói và hành động của mình.