CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN. NĂM C

853

CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN C

Lời Chúa: Gr 17, 5-8;  1Cr 15, 12.16-20;  Lc 6, 17.20-26

——–

Mục lục

1. Hai con đường  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Nghèo khó và giàu có (Lm. Thái Nguyên)

3. Con đường hạnh phúc (Jorathe Nắng Tím)

4. Phúc cho anh em (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

5. Để được hạnh phúc Nước Trời  (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

6. Lối sống có phúc (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

7. Phúc vì có tinh thần nghèo khó  (Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)

8. Giá trị thực  (Lm. Vũ Đình Tường)

9. Phúc thật và phúc ảo (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

10. Phúc cho những ai sống vì Tin Mừng (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

 

Mục lục

1. Chúc lành và chúc dữ (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Nghèo vì Nước trời (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Hạnh phúc thật  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Sẽ được đáp đền  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

5. Chúa hứa ban hạnh phúc (Lm. Trần Bình Trọng)

6. Giáo hội bị bách hại (Lm. Anphong Trần Đức Phương)

7. Sống tinh thần nghèo để được hạnh phúc  (Jos.Vinc Ngọc Biển, SSP)

8. Các mối phúc, lời hứa thành hiện thực  (Martin Lê Hoàng Vũ)

9. Phúc cho người nghèo khó (Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

10. Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó  (Lm. Đan Vinh)

11. Đối lập  (Trầm Thiên Thu)

12. Chúa muốn chúng ta là những người có phúc (Lm. Antôn Nguyễn văn Độ)

13. Mối phúc thật  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

14. Suy niệm Chúa Nhật 6 Thường niên_C  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

15. Hạnh phúc đầy nghịch lý (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

16. Phúc và họa (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

17. Hạnh phúc thật.  (Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

18. Hạnh phúc  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

19. Phúc cho những ai đặt trọn niềm tin vào Chúa (Lm. Anthony Nguyễn Ngọc Dũng, SDB)

20. Ước gì nghèo một ngày (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

21. Sống dưới ánh mắt Chúa  (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

22. Mối phúc Nước Trời (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

23. Đặt niềm tin vào Thiên Chúa và Con Một Người (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

24. Thẻ căn cước của Ki-tô hữu  (JM. Lam Thy, ĐVD)

25. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 6 TN_C  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

26. Khổ đau và hạnh phúc (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

27. Phúc thật  (Lm. Vũ Đình Tường)

28. Khốn cho kẻ chỉ biết cậy dựa vào tiền bạc và người đời (Lm.Giuse Đỗ Đức Trí)

29. Đúng địa chỉ (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

30. Bốn mối phúc và bốn mối họa  (P.Trần Đình Phan Tiến)

31. Mối phúc (Lm. Trầm Phúc)

32. Hạnh phúc thật! (Lm. Giuse Nguyễn)

33. Chiếc trâm cài tóc và tiếng chuông trừ tà  (Lm. Giuse Trương Đình Hiền)

34. Phúc họa  (Lm. Thái Sơn)

35. Hạnh phúc cho người hy sinh vì Chúa (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

36. Phần thưởng anh em sẽ bội hậu trên trời  (Fx. Đỗ Công Minh)

37. Chúa Nhật 6 Thường niên_C  (Lm. Antôn)

38. Tin vào Thiên Chúa là Phúc-Khôn; Tin vào con người là Họa-Dại  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

 

HAI CON ĐƯỜNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Khi đọc Thánh Kinh, nhất là phần Tân ước, chúng ta thấy các tác giả thường trình bày những nhân vật hay hình ảnh đi cặp đôi với nhau, ví dụ: hai con đường, một con đường hẹp và một con đường rộng; hai người con, một người con bỏ nhà đi hoang, một người con ở nhà với cha; hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người thu thuế và một người biệt phái. Chúa Giêsu thường dùng cách diễn tả này để nói với chúng ta: con người có tự do chọn lựa một trong hai lối sống, giữa trung thành và phản bội, giữa thánh thiện và tội lỗi. Đó là hai con đường mà chúng ta tự do lựa chọn, một dẫn tới hạnh phúc và một dẫn tới bất hạnh. Một khi đã lựa chọn, chúng ta phải lãnh trách nhiệm về sự lựa chọn ấy.

Thiên Chúa không tạo dựng nên sự dữ. Sự dữ là sản phẩm do tội lỗi và ích kỷ của con người. Thiên Chúa cũng không định cho ai phải đau khổ. Ngài không gò ép ai, nhưng để con người tự do chọn lựa. Đây cũng là quan điểm của dân gian Việt Nam: ai gieo gió ắt sẽ gặt bão, trồng cây nào, ăn quả nấy.

Những ai tin vào người đời, gạt bỏ Thiên Chúa và coi những giá trị trần tục như lý tưởng, giống như cây mọc trong sa mạc. Cây trong sa mạc sẽ khô cằn, không sinh hoa kết trái. Những ai tin tưởng phó thác vào Chúa, xa tránh những hành vi bất hảo và chọn Chúa làm gia nghiệp, giống như cây mọc bên bờ suối, bốn mùa quanh năm đều cành lá xanh tươi và hoa trái dồi dào.

Từ hai ngàn năm, chứng từ về sự phục sinh của Chúa Kitô được rao giảng cho mọi người. Có rất nhiều người đón nhận với thành tâm thiện chí, nhờ đó mà trở nên hoàn hảo. Trái lại, có những người lại nghi nan chối từ, cho đó là chuyện hão huyền, vì vậy mà trở nên bất hạnh. Trong thư gửi giáo dân Corinthô, thánh Phaolô khẳng định: Chúa đã sống lại. Sự phục sinh của Chúa là nền tảng Đức tin đối với Kitô hữu, đồng thời mặc cho phẩm giá con người một ý nghĩa mới, tức là con người sẽ được sống lại với Chúa sau khi đã kết thúc cuộc sống trần gian.

Tác giả Thánh vịnh thứ nhất tiếp nối dòng suy tư của ngôn sứ Giêrêmia. Ông ca tụng những người khôn ngoan, biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Những người này giống như cây trồng bên suối nước, quanh năm ra hoa kết trái. Ông cũng phê phán những người chỉ biết có đời này, và đắm chìm trong ăn chơi sa đọa. Họ giống như vỏ trấu, sẽ bị gió cuốn đi. Tương lai của họ là hư vô.

“Hạnh phúc thay! Bất hạnh thay!”. Đó là những lời mở đầu mà Chúa Giêsu đã dùng để diễn tả những người thiện chí và những người dửng dưng với Nước Trời. Nếu thánh Matthêu ghi lại tám mối phúc thật, là phần khởi đầu của bài giảng trên núi, thì thánh Luca lại ghi lại bài giảng của Chúa Giêsu với một hình thức khác. Nội dung của Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy bốn mối phúc và bốn mối hoạ được trình bày song đối với nhau. Thực ra, những lời được gọi là “chúc dữ” không hẳn là những lời nguyền rủa khi người ta giận dữ và muốn “trù ẻo” người khác. Thiên Chúa tự bản chất là Đấng tốt lành, không lẽ Đức Kitô lại buông những lời nguyền rủa đối với con người, mặc dù họ xấu xa và tệ hại đến đâu đi nữa. Để dễ hiểu hơn, thay vì dịch “Khốn cho các ngươi…”, nên dịch là “Thật bất hạnh cho các ngươi…”. Vì đây là những lời than vãn và luyến tiếc cho những con người đáng lẽ ra phải sống tốt lành, nhưng trong thực tế lại không được như vậy. Đây cũng là những lời cảnh báo vì thấy trước những nguy hiển đang chờ đợi họ ở tương lai, là kết quả của lối sống vô tín đối với Chúa và vô trách nhiệm đối với tha nhân.

Nguyên nhân của những than vãn hay của những lời chúc dữ ấy là gì? đó là sự cậy dựa vào sức mạnh phàm nhân. Theo lời Chúa Giêsu, đó còn là sự kiêu ngạo, cậy vào của cải trần thế. Họ là những người giàu có, no nê và đang vui cười. Dường như họ không cần đến Thượng Đế, vì họ tự cho mình có sức mạnh vô song, có khả năng làm mọi sự. Có một thời, ở Việt Nam, người ta cho rằng niềm tin vào Thượng Đế đã lỗi thời và lạc hậu. Vì vậy, con người có thể “thay trời làm mưa”. Người ta cũng thường rêu rao “bàn tay ta làm nên tất cả”. Đây là lối suy nghĩ ảnh hưởng thuyết vô thần duy vật, coi con người như những “thượng đế” và tự quyết định tương lai, không cần đến thần linh hay Đấng Cao cả nào khác. Thực tế đã chứng minh cho chúng ta thấy một xã hội loại trừ Thiên Chúa sẽ trở nên bất hạnh. Hậu quả là bạo lực, dối trá, lường gạt tràn lan mọi lãnh vực của cuộc sống.

Chúng ta vừa vui mừng đón xuân mới Nhâm Dần. Mùa xuân là thời điểm cây cối đâm chồi nảy lộc. Mùa xuân cũng tượng trưng cho sức sống, tình yêu và hy vọng. Ước chi mỗi Kitô tín hữu chúng ta đâm chồi nảy lộc trong đời sống thiêng liêng và trong những nghĩa cử bác ái.

Hạnh phúc hay bất hạnh, được cứu rỗi hay bị trầm luân, được khen thưởng hay bị kết án… tất cả đều do chúng ta chọn lựa. Trước mặt chúng ta luôn có hai con đường. Nếu chúng ta chọn lựa con đường thánh thiện, Chúa sẽ luôn đồng hành và chúc phúc cho chúng ta.

Về mục lục

NGHÈO KHÓ VÀ GIÀU CÓ

Lm. Thái Nguyên 

Suy niệm

Cuộc đời mỗi người là một cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc thật. Người đời thường coi hạnh phúc bắt nguồn từ giàu sang phú quý, được danh thơm tiếng tốt và quyền cao chức trọng… ai cũng rất sợ nghèo nàn, túng thiếu, thấp kém… Đức Giêsu đưa chúng ta đi vào một thế giới khác, với một não trạng khác:“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó…”. Các môn đệ Đức Giêsu là những người có phúc, vì phải chịu nghèo, chịu đói, chịu oán ghét, và bị khai trừ vì Ngài. Nước Trời thuộc về họ từ hôm nay và hạnh phúc sẽ trọn vẹn trong ngày sau hết.

Người nghèo phải chăng là người thiếu thốn của cải vật chất? Phải chăng Đức Giêsu chúc phúc cho một giai cấp xã hội? Thật ra chẳng có thực trạng xã hội nào được phong thánh hay được đặt quan hệ trực tiếp với Nước Trời. Chúa Giêsu đến cho mọi thành phần xã hội chứ không chỉ riêng cho người nghèo. Tuy nhiên, sứ mạng của Đức Giêsu liên hệ cấp bách đến những người bị đói khát, khóc lóc, bách hại, ngược đãi… Họ là những người bị bỏ rơi, bị loại ra bên lề xã hội vì bệnh tật, nghèo hèn hay vì thành kiến của xã hội và tôn giáo. Chúa Giêsu đến trước tiên là để giải thoát họ khỏi tình trạng quá éo le trong đời. Họ phải là những người được chúc phúc đầu tiên khi Nước Trời đến, và như vậy Ngài đem lại một trật tự mới, vượt qua sự phân chia giai cấp giàu nghèo. Nghèo không thể là ý nghĩa dự phóng của đời người, vì Chúa đến là để cho mọi người được sống và sống dồi dào (x. Ga 10, 10).

Thật ra, tự bản chất giàu – nghèo chưa là gì cả, không xấu cũng không tốt. Hạnh phúc hay đau khổ phát xuất từ trong tâm chứ không đến từ bên ngoài. Những gì bên ngoài chỉ làm tăng thêm cảm xúc chứ không tăng thêm hạnh phúc. Hạnh phúc hay không là tùy thuộc tâm thái của mỗi người trước mọi tình cảnh, dù nghèo vẫn sống vui. Hạnh phúc hay đau khổ là một tâm thái, nên nó cũng là một lựa chọn: sống yêu thương hay ích kỷ, tha thứ hay thù hằn, mở ra hay khép lại, đón nhận hay từ khước… Phúc hay họa đã nằm sẵn trong thái độ sống.

Giàu có bị phủ nhận vì mãi lực của nó muốn biến thành tuyệt đối, đòi được tôn thờ, khiến toàn thể cuộc sống con người bị cuốn hút vào đó. Giàu có làm ta xao lãng và xa cách Thiên Chúa, vì nghĩ rằng hạnh phúc phát sinh từ những gì ta có. Thực chất, giàu chỉ đem lại một thứ an toàn giả tạo, vật hóa tinh thần, vô hiệu hóa khả năng hiệp thông. Những kẻ giàu phải bảo vệ những gì họ có, nên khó sống chân tình với mọi người. “Vi nhân bất phú, vi phú bất nhân”. Không yêu tiền bạc, không đặt nặng vật chất, không coi nhẹ tình nghĩa, sao có thể làm giàu?

Lời Chúa hôm nay cũng cảnh cáo:“khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có”. Chúa Giêsu đã từng nói nhiều về vấn đề này: Ngài gọi kẻ lo thu tích của cải là “đồ ngốc” (Lc 12, 20), coi sự ham muốn giàu có là “bất chính” (Lc 16, 9), ham mê tiền của là điều “ghê tởm” (Lc 16, 14), và khẳng định: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19, 24). Ngài yêu cầu các môn đệ phải lựa chọn dứt khoát giữa Thiên Chúa và tiền của (x. Lc 16, 13).

Tuy nhiên, nghèo không phải là không có nguy cơ. Nghèo cũng dễ đưa tới gian tham, trộm cắp và mọi thứ tội phạm, có khi đưa tới tuyệt vọng. Những lý do nghèo có thể là tiêu cực, nhưng căn nguyên của nó vẫn là sự bóc lột lẫn nhau, tạo nên một phân chia giai cấp, bất bình đẳng và phi nhân hóa. Chỉ khi từ bỏ não trạng chạy theo lợi nhuận, xa hoa và thu tích tài sản, con người mới tạo được một xã hội nhân bản, công bình và huynh đệ. Lúc đó giàu mới là điều tốt và được chúc phúc, vì giữ được tâm hồn sạch tội, không chạy theo của cải, tiền tài (x. Hc 31, 8).

Hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Kitô (x. Lc 6, 20) nhằm xây dựng Nước Trời tại trần gianngười Kitô hữu cần phải sống đơn sơ giản dị, giảm bớt nhu cầu, để có thể sống yêu thương và chia sẻ cho bao người đang lâm cảnh túng thiếu. Điều cần thiết là sống thân phận thụ tạo, thoát khỏi sự kiềm chế của bản năng tham lam, quyền hành và độc chiếm, để đón nhận và trao ban. Mọi của cải đều là ân huệ Chúa ban, nên cũng phải biến thành ân huệ cho người khác. Đã được cho không thì cũng phải cho không. Điều quan trọng là hoàn thiện bản thân, trong việc sống gắn bó và tùy thuộc vào Thiên Chúa. Đây là cốt lõi của tinh thần khó nghèo, cho ta có được hạnh phúc siêu nhiên thanh thoát ngay ở đời này.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Mối phúc đầu tiên Chúa công bố,
dành cho ai có tâm hồn nghèo khó,
là điều làm cho con phải giằng co,
giữa việc sở hữu và sống đời từ bỏ.

Thật ra chẳng có gì là mâu thuẫn,
giữa văn minh tiến bộ và hồng ân cứu độ,
giữa đời này và hạnh phúc đời sau,
vì ơn Chúa trao là cuộc sống dồi dào.

Nhưng lời Chúa cho con biết rõ hơn,
tâm hồn nghèo khó là yếu tố quyết định,
để mọi phát triển trở thành điều chân chính,
vì chúng con dễ ham mê tiền tài danh vọng,
nên cũng dễ lật lọng và đối xử bất công,
gây ra bao khốn cùng cho cuộc sống.

Nghèo khó tinh thần cho con sự bình tâm,
không để cho cảm xúc đẩy đưa hay chế ngự,
không bị lôi cuốn theo những thứ bên ngoài,
để tâm hồn luôn thoải mái an vui.

Hạnh phúc không chỉ là tinh thần nghèo khó,
mà còn dám có một cuộc sống khó nghèo,
là cuộc sống rất thanh cao và giản dị,
tự giải thoát mình khỏi tính tham sân si.

Thật ra sự nghèo khó tự nó chẳng tốt gì,
khi người ta đành phải chịu vì cam phận,
chứ không vui lòng đón nhận vì tình yêu,
hay không chờ đợi mọi điều từ nơi Chúa.

Con nghèo khó khi không ham mê giàu có,
coi mọi sự trong đời dù có cũng như không,
để mở rộng lòng quảng đại biết cho đi,
và dám dâng hiến ngay những gì còn lại.
Cho con sống trọn vẹn giây phút hiện tại,
luôn bên Chúa với tâm hồn thư thái. Amen.

Về mục lục

CON ĐƯỜNG HẠNH PHÚC

Jorathe Nắng Tím  

Đời sống mỗi người là một con đường, vì sống là đi, ai sống cũng phải đi, nhưng đi đâu, đến đâu, về đâu để lòng không hối tiếc, để đời không vô ích, vô vị thì chưa hẳn ai cũng biết.

Nhưng con người biết gì khi đi trên đường đời?

Thưa biết mình cần hạnh phúc, biết đích tới của con đường mình đi là hạnh phúc, biết mục đích phải đạt của cuộc sống là hạnh phúc. Thế nên, ai cũng gặp nhau ở khắc khoải hạnh phúc, cùng khao khát một đời vui, và chung một ước mơ sống  đời an lành.

Thiên Chúa cũng khắc khoải, thao thức và ước mong con người hạnh phúc, vì Thiên Chúa tạo dựng con người để con người được  hạnh phúc trong Ngài và với Ngài, vì Ngài không dựng nên con người do căm phẫn, thịnh nộ, giận dữ con người, nhưng vì yêu con người vô cùng và đến cùng: yêu vô cùng là yêu không giới hạn, và vô điều kiện; yêu đến cùng là  không bao giờ nguôi ngoai, nhàm chán, mệt mỏi trong tình yêu.

Vì yêu nên Ngài muốn con người hạnh phúc, vì hạnh phúc là hoa trái tất yếu của tình yêu, như hai người càng tha thiết yêu nhau, họ càng đắm đuối  hạnh phúc trong tình yêu cho nhau. Và vì yêu, Thiên Chúa muốn con người chọn con đường hạnh phúc thật, bên cạnh nhiều con đường mang dáng vẻ hạnh phúc nhưng kỳ thực là đường mang nhiều rủi ro dẫn đến bất hạnh.

Nhưng con đường hạnh phúc được Thiên Chúa mở ra và đề nghị con người bước vào là con đường nào?

Trong Cựu Ước, ngôn sứ Giêrêmia đã mô tả con đường hạnh phúc Đức Chúa muốn dân Ngài đi. Đó là con đường đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa, vì chỉ con đường tín thác vào Thiên Chúa Giavê mới bảo đảm hạnh phúc đích thực, bởi  người không đặt tin tưởng ở Thiên Chúa, nhưng gắn bó, bám víu vào người đời sẽ “như bụi cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ, hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn không một bóng người” (Gr 17,6). Trái lại, người tuyệt đối tin vào Thiên Chúa “như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái” (Gr 17,8).

Đến trong thế gian, Đức Giêsu cũng không chỉ cho chúng ta con đường hạnh phúc nào khác, ngoài con đường của Thiên Chúa Giavê mà các ngôn sứ đã loan báo trong Cựu Ước được Tin Mừng Luca tường thuật rất chi tiết:

1/ Con đường Hạnh Phúc cho mọi người:

Hôm ấy, Đức Giêsu từ trên núi xuống, “Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđa, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xiđôn đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật” (Lc 6, 17-18).

Như thế, con đường hạnh phúc Ngài sắp công bố sẽ không chỉ dành cho một số người, hay một thành phần nào đó, nhưng cho tất cả mọi người, bất kể là môn đệ hay người bàng quan, xa lạ, thành thị, trí thức hay dân dã, cùng đinh… , vì chỉ duy  một con đường của Tin Mừng mới đem lại và bảo đảm hạnh phúc đích thực cho mọi người.

2/ Con đường  Vượt Qua:

Trước hết, con đường hạnh phúc mà Đức Giêsu mở ra cho nhân loại không là con đường vắng bóng nước mắt của  nghèo khó, đói khát, đau khổ, nhục nhằn, bị oán ghét,  sỉ vả, và  “xóa tên  như đồ xấu xa” (x. Lc 6,20-22), vì đường trần gian do tội lỗi lọt vào đã mọc đầy gai góc bất hạnh, nhưng là con đường Vượt Qua, nghiã là những đau khổ, vất vả, gian nan trên đường đời không là đích đến, là số phận không thể thay đổi, là bản án chung thân, nhất là Thiên Chúa không chủ trương, cũng không là nguyên nhân của những  đau khổ, bất hạnh con người phải chịu ấy, trái lại, Ngài đến để mọi người được hạnh phúc, để tất cả những cay đắng, nhọc nhằn của kiếp người  được hóa giải và những bất hạnh của con người chỉ còn  là “điểm mốc phải vượt qua” để đi vào hạnh phúc, bằng tuyệt đối tín thác  vào Thiên Chúa.

Chính niềm tín thác ở Thiên Chúa là sức mạnh cho phép chúng ta tung người lên để vượt qua những thử thách của thân phận người, vượt qua những thời gian, thời điểm đầy khó khăn do bệnh tật, nghèo đói, thất nghiệp, thất tình, sa cơ thất thế … như Đức Giêsu đã Vượt Qua đau khổ và sự chết để sống lại vinh quang. Chính trong Đức Giêsu phục sinh, Đấng đã làm người và cùng con người chia sẻ thân phận người, mà niềm hy vọng Vượt Qua từ bất hạnh của đời này đến hạnh phúc  trong Thiên Chúa của chúng ta được bảo đảm (x. 1 Cr 15, 12-20).

3/ Con đường vượt qua cái tôi, từ bỏ chính mình:

Như ngôn sứ Giêrêmia, Đức Giêsu cho chúng ta thấy có hai con đường:

a) Một con đường dẫn đến bất hạnh khi đi tìm thoả mãn những đòi hỏi của “cái tôi” như quyền thế, vinh quang, của cải, dục vọng xấu:

Sở dĩ con đường tìm cái tôi, quy chiếu, hướng về về bản thân sẽ dẫn đến đích điểm là  bất hạnh, dù có đạt những hanh phúc nhất thời, vì mục đích của con đường ấy không là gì khác ngoài cái tôi nhiều giới hạn, cái tôi nhỏ bé, chật hẹp vì  đóng chặt, khép kín trước Thiên Chúa và tha nhân, cái tôi khuyết điểm, thiếu sót, lỗi lầm vì bản chất bất toàn của con người, nhất là cái tôi mong manh, chóng vánh như “hoa sớm nở tối tàn” vì sẽ phải chết.

b) Một con đường vượt qua chính mình để đi vào hạnh phúc bao la vô tận của Thiên Chúa:

Đó là con đường  tin tưởng và hy vọng ở Thiên Chúa : tin vào Chúa là Đấng trung tín với lời  hứa Nước Thiên Chúa cho những ai nghèo khó, hứa cho “thoả dạ no lòng” những ai đói khát, hứa niềm vui bất tận cho những ai bây giờ phải khóc lóc, hứa phần thưởng lớn lao trên trời cho những ai bị sỉ nhục, bách hại vì Nước trời (x. Lc Lc 6, 20-22).

Sở dĩ con đường tin vào Chúa và hy vọng vào Lời Hứa của Ngài là con đường hạnh phúc thật, vì con đường ấy không dừng lại ở phận người bất toàn, và phải chết, nhưng là con đường vượt qua những giới hạn, những nhất thời, hư hao, mất mát để đi vào bao la vô tận, đạt đến vô cùng, đời đời, tuyệt đối là chính Thiên Chúa. Và chỉ trong Thiên Chúa, Nguồn Hạnh Phúc bất tận và tuyệt vời, chúng ta mới “no lòng thoả dạ” khát vọng đời đời hạnh phúc.

Về mục lục

PHÚC CHO ANH EM

Bông hồng nhỏ

Hôm nay, Thầy Giêsu cùng với các môn đệ từ trên núi xuống. Người dừng chân tại một chỗ đất bằng, có đông đảo các môn đệ của người và đoàn lũ dân chúng từ khắp nơi đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật. Người ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em…”. Tại sao Thầy Giêsu lại nói các môn đệ là những người được chúc phúc khi họ là những người nghèo khó, bây giờ đang phải đói, đang phải khóc, bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và xóa tên như đồ xấu xa? Các môn đệ là những người được chúc phúc bởi các ông đã vì danh Thầy Giêsu mà đón nhận tất cả những sự ấy. Đúng như lời ngôn sứ Giêrêmia đã khẳng định: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân”.

Thầy Giêsu nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế” (Luca 6, 20-23).

Các môn đệ vốn là những người nghèo khó ư? Không phải, các ông mỗi người một hoàn cảnh khác nhau. Hai anh em Anrê và Phêrô chỉ là những ngư phủ thất học, gia cảnh không khá giả. Ngược lại, hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan lại là con nhà khá giả, gia đình các ông có thuyền riêng, có những người làm thuê. Ông Mátthêu là người thu thuế thì chắc chắn phải thuộc hạng giàu có. Những môn đệ khác cũng mỗi người một cảnh. Như vậy, nghèo khó tự nó không mang lại cho người ta cái phúc. Người Việt có câu “bần cùng sinh đạo tặc”. Sống trong cái nghèo, người ta chỉ muốn mau chóng thoát nghèo cho bớt khổ. Thế nhưng có nhiều người nghèo khi gặp vận may, làm ăn khấm khá, họ thoát nghèo nhưng vẫn thấy khổ. Giàu có cũng không thực sự mang lại cho người ta hạnh phúc thật sự. Nhiều người rất giàu của cải nhưng vẫn sống trong đau khổ vì thiếu tình thương. Còn các môn đệ, từ ngày theo chân Thầy Giêsu rày đây mai đó, các ông biết rõ thế nào là cái nghèo thật sự. Các ông hiểu được thế nào là “không có chỗ gối đầu”, thế nào là đói rét, không ít lần các ông đã phải bứt lúa mà ăn cho đỡ đói. Theo Thầy, các ông cũng sẽ bị người ta sỉ vả, vu khống đủ điều xấu xa. Người ta có thể niềm nở tiếp đón các ông, người ta có thể tung hô Thầy Giêsu nhưng rồi họ cũng có thể trở mặt đuổi Thầy trò ra khỏi thành. Người ta có thể tung hô Thầy Giêsu là vua nhưng rồi họ cũng có thể đóng đinh Người trên thập giá. Thầy chết, các ông sẽ phải trốn chui trốn lủi vì sợ bị người ta bắt, sợ người ta giết. Là môn đệ của Thầy Giêsu, các ông sẽ trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, bị bắt bớ tù đày. Nhưng vì lòng yêu mến Thầy, vì muốn được chung phần với Thầy, các ông lại trở thành những người có phúc hơn mọi người. Bởi các ông đã đặt trọn niềm tín thác nơi Thiên Chúa, có Thiên Chúa làm chỗ nương thân.

Còn ta thì sao? Ta có thật sự thấy mình là người có phúc khi tự nguyện trở nên nghèo khó không vì Chúa Giêsu không? Của cải vật chất không làm phiền lòng ta nhiều như sự nghèo khó trong tâm hồn. Khi phải đối diện với sự giới hạn của bản thân, với những yếu đuối và lầm lỡ, bị người khác quên lãng, bị hiểu lầm, ta mới thấy được bản thân đang thực sự tìm kiếm điều gì. Ta chưa thật sự tìm kiếm Chúa trong mọi sự nên khi sống trong sự nghèo nàn của chính mình, ta buồn bã, thất vọng, vì ta đã đặt tin tưởng ở người đời mà không đặt tin tưởng nơi Chúa. Khi chọn yêu thương một ai đó, ta đã vô tình rời xa Thiên Chúa. Khi họ làm ta hài lòng, ta được họ đánh giá cao, ta cũng tự cho mình như thế. Và rồi, khi ta bị họ đánh giá thấp, ta cũng trở nên tự ti và ngày càng khép kín. Chỉ khi một lòng một ý bước theo Chúa, và để Người yêu thương, ta mới thực sự trở nên người có phúc, vì mọi sự xảy đến cho ta đều sinh ích lợi khi ta thực lòng yêu mến Người. Vì hy vọng của ta đặt trọn nơi Chúa Giêsu. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1Cr 15, 19-20).

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã thương chọn gọi con. Cảm tạ Chúa đã không ngừng nhắc nhở con, cho con biết hướng lòng về Chúa, xin giúp con biết đặt trọn niềm tín thác nơi Chúa. Amen.

Về mục lục

ĐỂ ĐƯỢC HẠNH PHÚC NƯỚC TRỜI

Thiên San

Hôm nay, tại chân núi, Đức Giêsu công bố Hiến chương Nước Trời. Theo thánh sử Luca, Hiến chương này có tám điều khoản: bốn điều phúc và bốn điều khốn. Những điều khoản Đức Giêsu công bố xem ra rất khác lạ. Dường như chúng hơi mâu thuẫn với những điều khoản, mục tiêu mà nhân loại tìm kiếm. Chẳng hạn, trong khi nhân loại cổ võ việc loại bỏ cái nghèo thì Đức Giêsu lại cho nó là một mối phúc. Hay trong khi nhân loại tìm kiếm sự giàu có, phồn vinh thì Đức Giêsu lại cho đó là một cái khốn. Những điều khác cũng tương tự như vậy. Xin Thiên Chúa, qua Đức Giêsu dạy chúng ta biết điều Người muốn chúng ta thực hiện, hầu chúng ta có thể đạt được hạnh phúc Nước Trời.

Điều đầu tiên chúng ta cần chú ý là gì? Đó chẳng phải là các mối phúc Đức Giêsu đề cập đến? Thực vậy, nếu đọc kỹ từng mối phúc, chúng ta sẽ nhận ra rằng, dường như tinh thần nghèo khó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và là trọng tâm của các mối phúc. Tinh thần nghèo khó giúp chúng ta đạt được Nước Trời làm gia nghiệp. Nghèo khó giúp chúng ta biết tựa nương bên Thiên Chúa là gia nghiệp lớn nhất của chúng ta. Tinh thần nghèo khó giúp chúng ta biết được một nhu cầu cơ bản của mình, đó là chúng ta cần đến Chúa. Nghèo khó không có nghĩa là không có sở hữu. Thiết nghĩ, tinh thần nghèo khó mà Đức Giêsu nói ở đây chính là thực trạng tâm hồn của ta. Đó chẳng phải là tâm tình biết ơn, phó thác, tin tưởng, cậy nhờ vào Thiên Chúa nơi ta. Người có tinh thần nghèo khó là người biết mình cần cậy dựa vào ai, tin tưởng vào ai và yêu mến ai. Người ấy biết lấy Chúa làm gia nghiệp của đời mình. Nhờ đó, họ biết đón nhận mọi nỗi khốn khó của cuộc đời như đói, khát, khóc lóc vì lòng yêu mến Chúa cùng với niềm hy vọng về hạnh phúc đời sau.

Với những điều mà Đức Giêsu cho là điều khốn thì sao? Khi nhìn vào đời sống thực tế, chúng ta sẽ ít nhiều nhìn thấy được cái khốn mà Đức Giêsu nói với chúng ta. Những người có nhiều của cải vật chất là những người được người đời ca tụng, ngưỡng mộ. Họ sở hữu các tòa nhà cao tầng, các biệt thự sang trọng, siêu xe, hàng hiệu… Đó chẳng phải là phần an ủi họ đã nhận được ở đời này rồi sao?  Những ai đang được no nê, vui cười, được ca tụng cũng bị xem là những người sẽ phải khốn khổ. Tại sao vậy? Thiết nghĩ, những sung túc, no nê, vinh quang trần thế mà họ đạt đợc ở đời này chỉ là những gì chóng qua, không vĩnh cửu. Một cách nào đó, có thể nói, đấng mà họ tôn thờ, thứ mà họ tìm kiếm, cậy dựa nhiều khi chỉ là vật chất, người đời. Những gì họ đang sở hữu có thể đem lại niềm vui, vinh dự cho họ nhưng chắc gì đã mang lại hạnh phúc đời sau.

Để vào được, chiếm được Nước Trời làm gia nghiệp, không cách nào khác, chúng ta phải có tinh thần nghèo khó. Người có tinh thần nghèo khó có thể là người có nhiều của cải vật chất, người có ít của cải vật chất. Bởi tinh thần nghèo khó cốt ở tâm tình, thái độ sống của ta. Tôi giàu nhưng tôi không huênh hoang, tôi giàu nhưng không cậy dựa vào của cải tôi có. Tôi giàu có nhưng trước nhan thánh Chúa, tôi biết mình chỉ là một thụ tạo được Người dựng nên: “Tôi có là gì cũng là nhờ ơn Chúa” (1Cr 15, 10). Ngược lại, nếu tôi nghèo về của cải vật chất nhưng lại kiêu ngạo, huênh hoang, không lấy Chúa làm gia nghiệp đời mình thì cái nghèo đó trở nên cái khốn cho tôi. Vì tôi vẫn chỉ đang theo đuổi những gì chóng qua ở đời này. Điều mà Đức Giêsu mời gọi những ai muốn trở thành công dân Nước Trời chính là “tinh thần nghòe khó”.

Ngôn sứ Giêrêmia cho chúng ta một cái nhìn khách quan về điều Thiên Chúa muốn chúng ta thực hiện. Thiên Chúa đã dùng ngài để nói cho dân Chúa biết rằng: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa và lòng dạ xa rời Chúa.” (Gr 17, 5-8). Ngài còn cho chúng ta thấy rằng, những kẻ đó sẽ như bụi cây trong hoang địa không được thấy hạnh phúc, hạnh phúc có đến cũng không nhìn ra (x. Gr 17, 6). Còn phúc thay những ai biết đặt niềm tin tưởng nơi Chúa, lấy Đức Chúa làm nơi nương tựa thì họ như cây trồng bên dòng nước trong, không sợ mùa nắng nóng, cành lá xanh tươi, trổ sinh hoa trái (x. Gr 17, 7-8). Đây chẳng phải là những mối phúc và điều khốn mà Đức Giêsu đã đề cập đến trong Hiến chương Nước Trời sao? Là công dân Nước Trời, chúng ta hãy thực thi điều Thiên Chúa dạy đó là tin vào Đấng Người đã sai đến là Đức Giêsu Kitô. Tin nghĩa là yêu mến và thực thi mọi điều Người dạy bảo bao gồm cả Hiến chương Nước Trời.

Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con được làm con cái Chúa. Xin cho chúng biết sống tinh thần nghèo khó, biết lấy Chúa làm gia nghiệp duy nhất, là Đấng chúng con tôn thờ. Xin cho chúng con được như cây mọc bên dòng nước trong, không sợ nắng nóng, khô cằn nhưng luôn trổ sinh hoa trái là lòng mến Chúa yêu người. Xin cho chúng con biết đặt để tình yêu vào mọi việc chúng con làm, đón nhận mọi khó khăn của cuộc sống và biết lấy đó như phương thế, cơ hội để đạt được hạnh phúc Nước Trời. Amen.

Về mục lục

LỐI SỐNG CÓ PHÚC

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Lời Chúa trong hai Chúa nhật VI và VII trình bày những giáo huấn cốt lõi nhất trong sứ điệp Tin Mừng theo thánh Luca. Đó là giáo huấn của Chúa Giêsu về những người thực sự có lòng tin. Người có lòng tin thì sống theo bốn mối phúc (Chúa nhật VI) và thực hành bác ái mà đỉnh cao là biết yêu thương kẻ thù (Chúa nhật VII). Đây chính là bài giảng khai mạc sứ vụ của Chúa Giêsu, được trình bày trước một cử toạ đông đảo đến từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xiđôn. Họ là những người sống triền miên trong cảnh nghèo đói, bệnh tật và bị các thần ô uế quấy nhiễu. Họ tìm gặp Chúa Giêsu, mong được Người chữa lành mọi bệnh tật, xua trừ ma quỷ và đem lại bình an cho tâm hồn.

Chính trong bối cảnh này, Chúa Giêsu không chỉ chữa lành các bệnh nhân, xua ma đuổi quỷ, mà còn biết họ đang mong được Người giúp họ khám phá bản thân và ý nghĩa cuộc sống nên Chúa đã chia sẻ những điều cốt yếu nhất để họ biết cách sống hạnh phúc. Chúa khẳng định sống nghèo khổ, đói khát, phải khóc lóc và bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả…là cuộc sống có phúc. Bởi vì nếm trải những bất hạnh tột cùng này là đang nắm trong tay Nước Trời, có Thiên Chúa ở cùng và được lành phần thưởng lớn lao trên trời. Còn đáng buồn là cuộc sống giàu có, no nê, tươi cười hớn hở và được ca tụng. Bởi vì tất cả những thành đạt này không đưa vào Nước Trời. (Khổng thành Ngọc)

Trước một cử toạ nghèo khổ, bị bệnh tật giày vò và những bất hạnh không ngừng theo đuổi, Chúa Giêsu lên tiếng nói về hạnh phúc. Bốn mối phúc: khó nghèo, đói khát, khóc lóc, chịu bách hại nêu bật rằng hạnh phúc của người theo Chúa khi chấp nhận điều kiện khó nghèo với đức tin, hy vọng và yêu mến, thì trở thành công dân của vương quốc Thiên Chúa. Khó nghèo, đói khát và nước mắt, chịu ngược đãi, là những tình trạng ưu tiên để vào Nước Trời. Hạnh phúc thay ai chấp nhận những sự dữ ấy vì Đức Kitô và với Đức Kitô.

  1. Phúc và hoạ

Rõ ràng bài giảng về các mối phúc của Chúa Giêsu có vẻ đi ngược lại với suy nghĩ của nhân loại. Những gì người ta cho là hạnh phúc như “giàu có, no nê, đầy đủ, vui cười, được ca tụng…” đến ngày mọi giá trị đều bị đảo ngược, sẽ phải “đói khát, khóc lóc, bị thù ghét…”. Những người mà Chúa Giêsu kể là có phúc thì thế gian cho là vô phúc. Những người Chúa Giêsu coi là vô phúc thì thế gian lại cho là có phúc. Có nhiều thứ người đời cho là hạnh phúc, nhưng thực chất là nguồn đau khổ, và ngược lại, hạnh phúc vẫn có thể có nơi những người ở trong tình cảnh mà người đời cho là bất hạnh. Bởi vì, các mối phúc Chúa Giêsu công bố không lệ thuộc một cách tất yếu vào hoàn cảnh sống hiện tại, nhưng được đặt trong viễn tượng Nước Trời.

Trong khi thánh Matthêu ghi lại 8 lời chúc phúc của Chúa Giêsu, thì thánh Luca chỉ ghi lại có 4 lời  “Phúc cho” và còn kèm theo 4 lời quở trách “Khốn cho”. Chẳng ai biết được phúc thật hay hoạ thật, nhưng người ta tin rằng trong phúc có hoạ và trong hoạ có phúc. Chỉ một điều chắc chắn trong Chúa mới có phúc thật.

Thánh Luca trình bày bốn mối phúc và bốn mối hoạ, đối chiếu nhau gần như hoàn toàn: nghèo khó đối lại với giàu có, đói khát đối lại với no đầy, khóc lóc đối lại với vui cười, bị ghét bỏ đối lại với được ca tụng.

Ba mối phúc đầu và ba mối hoạ đầu đi với nhau: nghèo, đói và khóc đối lại với giàu, no và cười. Đói và khóc là hậu quả của nghèo. No và cười là biểu hiệu của giàu. Hai hình ảnh nổi bật lên trong một thế tương phản: người nghèo, đói, khóc và người giàu, no, cười.

Còn mối phúc thứ tư là những người bị ghét bỏ, bị loại trừ và bách hại vì Chúa, là những môn đệ của Chúa, họ chung số phận với các ngôn sứ. Mối hoạ thứ tư là những người được thế gian trọng vọng, là giới Kinh sư, Pharisiêu.

Đối tượng của phúc là người nghèo và người bị ghét bỏ vì Chúa. Đối tượng của hoạ là người giàu và người được thế gian ca tụng.

Giàu và nghèo, phúc và hoạ ở đâu? Không nên hiểu rằng giàu có ở đời này là không được hạnh phúc ở đời sau; nghèo khó ở đời này tất nhiên được hạnh phúc đời sau. Giàu có là phúc nếu đó là thành quả do con người cố gắng chuyên cần lao động cách chân chính. Nghèo khó tự nó chẳng bao giờ là phúc. Phúc của người nghèo chính là tinh thần của họ, một tấm lòng phó thác, không phàn nàn, không kêu trách, không bất mãn.

Cái hoạ của người giàu là khi họ tự mãn, tự kiêu, tự đắc về tài sức của mình mà quên mất Thiên Chúa. Cái hoạ cho người giàu là họ ích kỷ, keo kiệt, không biết dùng của cải chia sẻ cho người nghèo hay không biết dùng sự giàu có của mình mà mua sắm của cải Nước Trời. Cái hoạ của người nghèo là ghen tương, đố kỵ, tham lam.

Tục ngữ Việt Nam có câu “Họa vô đơn chí,phước bất trùng lai”. Câu này có nghĩa “họa” đến với con người nhiều hơn “phúc”, vì họa không đi một mình, mà kéo theo dây chuyền. Khi “họa“ đến thì có dây chuyền, nhưng khi “phước” đã qua thì không trở lại.

Phúc hay hoạ cho người giàu cũng như người nghèo, không phải là chính sự giàu có hay nghèo khổ của họ, nhưng là tinh thần của họ biết đánh giá đúng và hành động đúng với cái giàu hay cái nghèo của mình.

Có bốn mối phúc thì cũng có bốn mối họa. Tục ngữ Việt Nam cũng có câu “Họa phúc khôn lường”, không ai có thể biết trước họa hay phúc của mình. Nếu mình sống có đức, mặc nhiên sẽ có phúc, nếu ngược lại chắc chắn sẽ mang họa. Lời Chúa phân định rõ ràng phúc họa không phải là mơ hồ mà là một sự trả lẽ rạch ròi không thể lẫn lộn, một sự công bằng không thiên vị.

Ngay sau bốn mối phúc và bốn mối hoạ, Chúa Giêsu dạy: “Yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6,27) và hãy có: “lòng nhân từ như Cha là Đấng nhân từ”  (Lc 6,36). Với những điều dạy đó khi thực hiện trong đời, mối hoạ luôn sẽ được chuyển hoá thành phúc, và mối phúc này được ngay ở đời này và đời sau. Đời này được nối tiếp bằng đời sau, và chỉ có một con đường duy nhất cho mỗi người.Cả người giàu và người nghèo cùng đi, ai biết dùng cái giàu cái nghèo của mình để đạt được Nước Trời thì đó là hạnh phúc.

  1. Phúc cho ai tin cậy vào Chúa

Trong bài đọc 1, tiên tri Giêrêmia xác tín: phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa. Con đường hạnh phúc thật là “biết đặt mọi niềm tin tưởng nơi Chúa, lấy Chúa làm tất cả, lấy Chúa làm nơi tựa nương tuyệt đối. Họ giống như cây được trồng bên bờ suối, đâm rễ sâu vào đất ẩm ướt; không sợ gì, khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi; không sợ gì, khi nắng hạn, vẫn sinh hoa kết trái”.

Trải dài trong Tân ước, các lời giảng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Người công bố hạnh phúc cho nhiều người. “Phúc cho ai không thấy mà tin”; “Phúc cho bà là người đã tin”; “Phúc cho ai nghe và giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28), những kẻ tin tuy không thấy (Ga 20,29), những kẻ không vấp ngã vì Đức Giêsu (Lc 7,23; Mt 11,6). Phúc cho những cặp mắt đã nhìn thấy Đức Kitô (Mt 13,16); Phúc cho thân mẫu của Đấng Mêsia vì đã sinh hạ Đấng Cứu độ thế gian (Lc 1,48; 11,27), và đã tin vào những lời Thiên Chúa hứa (Lc 1,45); Phúc cho ông Simon Phêrô, bởi vì ông được Chúa Cha mặc khải cho biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (Mt 16,17); Phúc cho những kẻ tỉnh thức trông chờ Chúa đến (Lc 12,37-38; Kh 16,15); Phúc cho những tôi tớ trung thành và khôn ngoan (Mt 24,46; Lc 12,43); Phúc cho những kẻ thực hành việc thương xót tha nhân (Lc 14,14), khiêm tốn phục vụ anh em (Ga 13,17); Phúc cho ai kiên nhẫn chịu đựng những thử thách và chiến đấu cho đức tin (Gc 1,12.25; 5,11; 1 Pr 3,14; 4,14)…

  1. Hạnh phúc theo lời dạy của Chúa Giêsu

Hạnh phúc Chúa Giêsu nói đến dựa trên kinh nghiệm cứu độ. Người đời xem nghèo khó, khóc lóc, bị bách hại là bất hạnh, còn Chúa Giêsu dạy đó là hạnh phúc. Thế gian coi mệt nhọc, hiền hoà, công chính là vất vả, còn Chúa Giêsu lại gọi đích danh đó cũng là hạnh phúc. Chúa Giêsu công bố bằng lời và còn bằng chính đời sống của Người. Nếu mối phúc thứ nhất là nghèo khó thì Chúa đã khởi đầu đời sống bằng mối phúc ấy đến nỗi khi mệt mỏi “không có chỗ tựa đầu”. Và mối phúc thứ tư bị ghét bỏ bị sỉ nhục thì chính Chúa đã bị ghen ghét bị bách hại bị đóng đinh vào thập giá. Người nói bằng kinh nghiệm cuộc đời đi liền với ơn cứu độ.

Hạnh phúc Chúa Giêsu nói đến mở sang đời sống mai sau. Kết thúc mỗi mối phúc đều là một lời hứa, một phần phúc không thuộc trật tự trần thế mà thuộc trật tự khác. Đó là Nước Trời, là Đất Hứa, là phần thưởng, là xót thương, là hưởng kiến, là thoả lòng, là an ủi. Vế sau của mỗi phúc đều được khởi đầu bằng chữ “vì” khiến ta tự nhiên hình dung các mối phúc Chúa dạy vừa như một khởi điểm vừa như một đích điểm. Động từ dùng trong vế sau của các mối phúc hầu như đều ở thì tương lai. Tất cả các Mối Phúc đều có hai vế: vế thứ nhất là nhân, vế thứ hai là quả; vế thứ nhất là gieo, vế thứ hai là gặt; vế thứ nhất là mình vì người khác, vế thứ hai là người khác vì mình; vế thứ nhất là đau khổ, vế thứ hai là hạnh phúc. Các mệnh đề trong vế một phải hiểu ngầm là vì Chúa, vì tha nhân, nghèo vì tha nhân, hiền lành đau khổ vì tha nhân. Nếu không do tự nguyện vì Chúa, vì tha nhân thì sự nghèo, sự hiền lành, sự đau khổ, bách hại ta phải chịu đều là đau khổ chứ không phải là phúc đức.

Hạnh phúc Chúa Giêsu nói đến phải nỗ lực thực thi. Hạnh phúc đi liền với hồng phúc nên mỗi người phải nỗ lực thực hiện sao cho hạnh phúc trở thành hiện thực trong mỗi cuộc đời. Hạnh phúc là công ơn của Thiên Chúa nhưng lại là công khó của con người. Hạnh phúc là công trình của Thiên Chúa nhưng cũng là công trường còn dang dỡ mở ra cho sự đóng góp tiếp tay tiếp sức của tất cả mọi người. Hạnh phúc không như bông hoa có thể dễ dàng hái được ở bên đường, không giống như chiếc áo, chiếc xe đạp hay cái nhà có thể vẽ ra thành hình hài màu sắc có thể mua bán. Hạnh phúc là điều cảm thấy được trong tâm hồn, nó thuộc chiều sâu cõi lòng tuỳ thuộc thái độ sống đối với cuộc đời. Con người phải ra công chăm sóc vun trồng thì cây hạnh phúc mới đơm hoa kết trái. Hạnh phúc chính là khát khao được sống, được hiện diện, được yêu thương. Đi tìm hạnh phúc cũng là đi tìm sự sống. Sống là tồn tại, có tồn tại mới có yêu thương, có tương quan, có sinh trưởng. Đi tìm hạnh phúc cũng như đi tìm tình yêu. Khi người ta yêu nhau, mọi sự đều trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp: “yêu nhau yêu cả đường đi; yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng; yêu nhau mấy núi cũng trèo mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”. Hạnh phúc là tình yêu. Tình yêu nối dài những ước mơ, ước mơ thường hướng con người về hạnh phúc.Hạnh phúc chính là sự sống và là tình yêu. Tình yêu và sự sống như đôi cánh đưa con người bay vào khung trời hạnh phúc.

Lối sống có phúc được Chúa Giêsu trình bày trong bài giảng khai mạc cũng đã được các đấng công chính và các vị tiên tri chọn lựa và Giáo hội cũng đã không ngừng trung thành theo đuổi nhằm thực hiện hoá giáo huấn cốt lõi nhất trong sứ điệp Tin mừng của Chúa Giêsu.Thực hành lối sống có phúc, người tín hữu đang mở rộng biên cương của Nước Thiên Chúa trên trần gian.

Ngôi Lời Thiên Chúa làm người để giúp con người sống hạnh phúc. Sau khi sống lại, Người mở đường dẫn lối cho chúng ta đi về hạnh phúc viên mãn trong Thiên Chúa Tình Yêu và Sự Sống.Tin và yêu mến Chúa Giêsu là được sống hạnh phúc mỗi ngày trong niềm vui.

Về mục lục

PHÚC VÌ CÓ TINH THẦN NGHÈO KHÓ

Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

Ai sinh ra trên đời này mà chẳng thích giàu sang phú quý, vợ đẹp con ngoan. Người đời thường cho rằng hạnh phúc là khi có nhiều tiền của và giàu sang tràn trề. Tại sao hôm nay ngang qua Tin Mừng Chúa nhật VI thường niên C, Chúa Giê-su lại khẳng định rằng: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”(Lc 6,20). Như vậy, Đức Giê-su không muốn con người giàu có hay sao? Phải chăng Ngài kêu gọi mọi người chọn kiếp nghèo để sống? Phải chăng chỉ có người nghèo mới được hạnh phúc Nước Trời? Thế những người giàu là không được hay sao? Quả thật, Đức Giê-su đã không nhắm về đời sống của cải, vật chất nhưng đến tinh thần siêu thoát với của cải vật chất, nghĩa rằng là Ngài muốn mỗi người chúng ta đừng lệ thuộc vào của cải vật chất quá nhiều mà quên đi đời sống thiêng liêng, là tương quan với Chúa và tình tương thân tương ái, là quan tâm giúp đỡ anh chị em đồng loại.

Thật vậy, Thiên Chúa là tình yêu luôn mong muốn con người sống và sống dồi dào, sống hạnh phúc. Mà làm sao có hạnh phúc và dồi dào nếu thực sự không có cái để ăn, cái để mặc? Vì người ta thường nói ‘có thực mới vực được đạo’. Đói bụng và áo quần không có làm sao để đến nhà thờ đọc kinh – nguyện cầu cũng như giúp đỡ anh chị em. Chính vì thế, có tiền có của, có vật chất càng nhiều thì càng tốt chứ. Tại sao Đức Giê-su lại mời gọi chúng ta “ “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”(Lc 6,20). Tại sao nghèo là có phúc? Giàu có không có hay sao? Ý Đức Giê-su mong muốn mỗi chúng ta hãy tập sống thanh thoát và khoan thai với của cải vật chất. Đừng vì của cải, vật chất mà bỏ Chúa, chà đạp nhân phẩm anh chị em. Vì “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì” (Lc 9, 25 ). Nhiều người vì để có tiền, có của cải vật chất, đã liều mình phạm tội, bán rẻ lương tâm, bán rẻ nhân phẩm, bán rẻ linh hồn ngang qua việc buôn bán mại dâm, ma tuý, buôn người, hoặc các việc phi pháp,…Như vậy, giàu có tiền bạc vì những việc làm phi nhân và phi pháp liệu có thực sự hạnh phúc chăng? Vì thế, Đức Giê-su mong muốn chúng ta vẫn phải làm việc và làm nhiều hơn nữa để có của ăn của để, để có cái giúp đỡ tha nhân, nhất là những hoàn cảnh nghèo đói và bệnh tật. Tuy nhiên, mong muốn của Đức Giê-su là hãy lấy tinh thần nghèo đói, nghĩa là không bám víu quá mức tới của cải vật chất, tới tiền bạc nhưng biết hướng đến điều Chân – Thiện – Mỹ, nghĩa là biết hướng về Chúa là Chủ mọi sự và nhìn đến anh chị em có hoàn cảnh khó khăn và khổ đau.

Hơn nữa, Đức Giê-su mời gọi chúng ta hãy biết dành thời gian để phụng thờ Thiên Chúa và tìm kiếm đức công chính của Ngài, còn tất cả mọi sự Ngài sẽ ban cho. (x.Mt 6,33). Nơi khác, Đức Giê-su khuyên nhủ chúng ta đừng lo lắng cho ngày mai, vì ngày nào có sự khốn khó của ngày đó. (x.Mt 6,34). Quả thật, sự nghèo khó vì Nước Trời là sự lệ thuộc vào Thiên Chúa và uỷ thác cho sự quan phòng của Ngài hơn là lệ thuộc và làm nô lệ cho của cải vật chất. Sự nghèo khó vì Nước Trời, phải chăng là chúng ta dám chấp nhận làm mọi sự để vinh Danh Chúa và giúp ích cho tha nhân? Khi biết sống tinh thần nghèo khó trong Chúa thì mọi người chúng ta đã trở nên giàu có: không là giàu có về của cải theo thói thế gian nhưng giàu có về phần rỗi linh hồn của chúng ta. Nghèo khó vì Nước Thiên Chúa, phải chăng là sẵn sàng hy sinh và phục vụ anh chị em nghèo khó và bệnh hoạn tật nguyền? Vì phục vụ và dấn thân cho anh chị em đó chính lạ phục vụ chính Chúa vậy. (x.Mt 25).

Mặt khác, hôm nay, Đức Giê-su mời gọi chúng ta hướng đến hạnh phúc Nước Trời hơn là của cải vật chất trần gian. Thật vậy, vật chất có thể góp phần vào hạnh phúc, nhưng vật chất tự nó chưa phải là hạnh phúc. Câu chuyện về công nương Diana là một minh hoạ rõ nét. Mùa hè năm 1997, cả thế giới xôn xao về cái chết của công nương Diana. Công nương Diana là một phụ nữ xinh đẹp. Từ khi kết hôn với thái tử Charles, con của nữ hoàng nước Anh, công nương trở thành người có danh vọng và đồng thời cũng có nhiều tiền của vào bậc nhất trên thế giới. Có lẽ ai cũng nghĩ rằng một phụ nữ đẹp đẽ, giàu sang, phú quí như thế phải là người hạnh phúc nhất trên đời. Nhưng không đúng như thế. Công nương rất đau khổ vì cảnh gia đình thiếu tình yêu thương chân thực. Thái tử Charles vẫn lén lút quan hệ với người tình cũ. Đau khổ mà chẳng thể nói ra, vì cả gia đình bên chồng muốn giữ gìn uy tín cho hoàng gia. Chán nản với đời sống gia đình, công nương đã tìm vui bên người bạn trai mới. Trong một chuyến đi chơi ở Paris, cả hai bị thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi. Có nhiều người cho rằng chính hoàng gia Anh đã gây ra tai nạn. Không ai nghĩ rằng cuộc đời công nương có hạnh phúc, dù bà có tất cả: sắc đẹp, tiền của, danh vọng.

Sau đám tang của công nương Diana 1 tuần lễ, thế giới lại xôn xao về một đám tang khác: đám tang của mẹ Terexa Cancutta. Khác hẳn với công nương Diana, mẹ Terexa là một nữ tu già nua, sống một đời sống nghèo. Trong phòng của mẹ chỉ có một chiếc ghế và một chậu thau đựng nước. Người ta cho mẹ nhiều tiền, nhưng mẹ tự nguyện sống nghèo, dành hết tiền của để giúp những người nghèo, những trẻ mồ côi, tàn tật. Khi Đức Giáo Hoàng sang thăm Ấn độ, thấy mẹ đi lại công tác nhiều, tặng mẹ một xe ô – tô sang trọng. Nhưng khi Đức Giáo Hoàng về, mẹ đã bán xe lấy tiền giúp người nghèo. Có 40 nguyên thủ quốc gia đến tham dự đám tang của mẹ. Và Ấn độ, một nước không ưa gì đạo Công Giáo, đã cử hành quốc táng cho mẹ. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn mẹ trong khi các vị nguyên thủ quốc gia quyền uy đứng cúi đầu kính cẩn trước thi hài vị nữ tu già nua, nghèo khó. Mẹ đã thực hành Lời Chúa: “Phúc cho anh em là người nghèo khó, vì nước Trời thuộc về anh em” (Lc 6, 20).

Câu hỏi suy gẫm:
1/ Tôi có muốn chiếm trọn hạnh phúc Nước Thiên Chúa không?
2/ Tôi có thực sự đang mải miết tìm kiếm của cải vật chất hơn là của cải thiêng liêng?
3/ Từ ngay hôm nay, tôi có quyết tâm sống đời sống đơn giản, thanh thoát và nghèo khó vì Nước Thiên Chúa và nhằm để hy sinh phục vụ những hoàn cảnh khó khăn và đói nghèo?

Về mục lục

GIÁ TRỊ THỰC

Lm Vũđình Tường

Chúng ta quan sát cùng một sự vật, nhưng khi diễn tả, mỗi người diễn tả cách khác nhau. Điều này giải thích tường thuật bài giảng Mối Phúc Thật, có chung chủ í, nhưng ít nhiều khác biệt về chi tiết giữa thánh Mathêu và thánh Luca. Phần cốt lõi bài giảng giống nhau, nhưng chi tiết có khác. Thánh Mathêu ghi lại Đức Kitô giảng trên núi và ghi lại chi tiết tỉ mỉ hơn; thánh Luca ghi Đức Kitô giảng nơi đồng bằng, vắn, gọn hơn và ít chi tiết hơn.

Khác biệt trên núi và đồng bằng thể hiện hai cách nhìn khác biệt về chương trình cứu chuộc của Đức Kitô. Mỗi tác giả Kinh Thánh chú trọng đến cách nhìn của riêng mình. Thánh Mathêu muốn nói đến điểm Đức Kitô ‘nâng nhân loại lên khỏi vũng lầy tội lỗi’, bằng cách kêu gọi nhân loại đi lên, theo Ngài đi lên, thoát khỏi vòng u tối của ma quỉ và tội lỗi. Trình thuật thánh Luca muốn nhấn mạnh đến điểm Đức Kitô ‘nâng nhân loại lên khỏi vũng lầy tội lỗi’ bằng cách không phải kêu gọi nhân loại đi lên với Ngài, nhưng chính bản thân Ngài đi xuống, xuống cùng chung sống với nhân loại để cứu chuộc nhân loại. Ngoài việc giảng dậy ra, Ngài còn cùng đồng hành, cùng chia sẻ đau khổ, lo lắng, nỗi thống khổ của nhân loại. Hình ảnh rõ ràng nhất là Ngài cùng chịu đau khổ, đói khát, chịu vu vạ, cáo gian, chịu đóng đanh, chịu chết và sống lại vinh quang. Vì thế Đức Kitô luôn kèm theo sau mỗi đớn đau, tủi nhục một lời hứa, một hy vọng trong bài giảng bằng niềm vui thật, hạnh phúc thật, ‘Phúc cho anh em’.

Đức Kitô kêu gọi môn đệ luôn tìm hy vọng vào tình yêu, lòng Chúa xót thương. Chúng ta thường nghe nói ‘không ai thành công trong nhung lụa’. Mọi thành công lớn nhỏ trên đời đều đòi cố gắng, hy sinh. Điều này đúng cho mọi thành công nơi trần thế và cũng đúng với thành công về mặt tâm linh. Niềm vui thật, nỗi mừng thật trong cuộc lữ hành trần thế không đến trước, nhưng đến sau khi đau khổ, thử thách qua đi; lúc đó niềm vui thật mới xuất hiện. Thiên Chúa tạo lập thế giới với nhiều niềm vui, hạnh phúc, không phải của riêng ai, nhưng cho tất cả mọi người chung hưởng. Chúa cũng ban cho con người quyền tự do chọn lựa trong cuộc sống. Ma quỉ nhảy vào ăn có, dụ dỗ, con người lún sâu vào cám dỗ. Thứ nhất, chúng dụ dỗ con người lạm dụng quyền tự do. Chọn sống theo í riêng, làm ngơ điều tốt lành Chúa dậy bảo. Từ đó sinh ra giai cấp lãnh đạo, nắm quyền thống trị và giai cấp phục vụ, bị cai trị. Thứ hai, quyền hành và tham vọng luôn chung vai, sát cánh, vì thế kẻ có quyền luôn có tham vọng kèm theo. Tham vọng nảy sinh từ đó. Vũ trụ Chúa tạo dựng có khả năng cung cấp đủ thực phẩm cho toàn thể nhân loại. Đói khổ, thiếu ăn, rách rưới là do khôn ngoan con người tạo ra cảnh thầy tớ, chủ thợ. Một khi đặt chân vào nấc thang danh vọng, mấy ai có khả năng từ chối leo cao. Người nào cũng muốn leo cao hơn, leo cho tới đỉnh. Ghen tị xảy ra, lập bè, kéo phái, tạo đảng tranh giành vật chất, quyền hành. Tranh giành không tránh khỏi chém giết, thù oán gây đau khổ cho mọi người. Tranh giành không thắng thì tạm hoà hoãn, hoà đàm, chia chác vì thế giới lãnh đạo nắm hầu hết tài sản đất nước trở thành đại tỉ phú, trong khi đó đại đa số tằn tiện đủ ăn, đủ mặc, số khác cố gắng lắm cũng ngày đói, ngày no. Đức Kitô loan báo Tin Mừng cho giới nghèo.

Đức Kitô nói với Kitô hữu, dù đang sống trong hoàn cảnh đớn đau, sầu khổ, đói khát; đừng bao giờ thất vọng. Thứ nhất những đau khổ trên có giới hạn, sẽ có ngày chúng qua đi. Thứ hai, sau đau khổ là chân trời hy vọng, tươi sáng bởi tình Chúa thắng mọi toan tính của con người. Những gì trần gian coi là ‘bất hạnh’ sẽ trở thành ‘ân sủng’ trong tình yêu Chúa. Của cải, vật chất, danh vọng là những thứ trao tay. Hôm nay chúng ở tay người này, ngày mai có thể sẽ sang tay người khác. Theo nghĩa đó của cải, danh vọng gắn liền với đau khổ, thất vọng. Thứ hai, danh vọng, vật chất mang lại niềm vui nhất thời, vì thế người ham thích chúng ngày đêm chăm lo cầm giữ, mong chúng khỏi vuột khỏi tay.

Giới nghèo vừa chiếm đại đa số, vừa là nạn nhân của áp bức, đè nén, chèn ép, thiệt thòi đủ điều, vì thế Tin Mừng Đức kitô loan báo là Tin Mừng cho giới nghèo, không phải Tin Mừng cho thiểu số mà cho đại đa số. Thực ra Tin Mừng là cho bất cứ ai chọn sống, thực hành điều Đức Kitô rao giảng: Mến Chúa, yêu tha nhân như chính mình. Ân sủng Chúa ban mang lại niềm vui hạnh phúc muôn đời, bất tận.

Những gì thuộc về trần thế sẽ ở lại trần thế; những gì thuộc về Chúa sẽ về nước trời với Chúa. Những gì thuộc về Chúa không phải là những gì con người gom góp, tích trữ mà chính là những gì con người cho đi, ban phát, thi ân. Những gì làm cho cuộc sống tha nhân tốt hơn, ít bất hạnh hơn, no ấm hơn tồn tại mãi mãi. Cho đi có thể nghèo hơn về vật chất nhưng lại giầu hơn về tinh thần, giầu hơn về lòng mến. Đây chính là điều Đức Kitô dậy trong bài giảng Phúc Thật. Cốt lõi bài giảng chính là chọn sống theo í Chúa, từ bỏ í riêng. Í riêng cho riêng mình; trong khi í Chúa cho tha nhân, cho mọi người. Chọn í Chúa chính là chọn sống cho tha nhân. Sống không có Chúa, là sống tạm bợ, không có hy vọng trong tương lai. Chúng ta cầu xin đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô.

Về mục lục

PHÚC THẬT VÀ PHÚC ẢO

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Có những điều người đời cho là phúc nhưng cũng là mầm mống sinh ra tai họa. Đó không phải là phúc thật mà là phúc ảo.

Nhiều người khao khát tiền bạc, tài sản, của cải trần gian… và tìm mọi cách chiếm hữu cho bằng được, càng nhiều càng tốt. Người ta hy vọng khi chiếm hữu được nhiều tiền bạc, trở nên phú quý giàu sang thì họ sẽ được hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, tiền bạc cũng gây ra nhiều tai họa cho con người; như ta thấy sau đây:

– Thứ nhất, đồng tiền cuốn hút rất nhiều người vào con đường tội lỗi như cướp của giết người, tham ô, chiếm đoạt, làm đủ điều xấu xa và tàn ác để thu lợi cho mình; hậu quả là nhiều người vô tội trở thành nạn nhân của họ và bản thân họ phải chịu tù tội, chịu án phạt đời nầy và đời sau.

– Thứ hai, người sở hữu nhiều tiền bạc dễ bị người đời ganh ghét, gièm pha, trở thành đối tượng cho trộm cướp rình rập và nếu không chia sẻ tài sản mình cho người nghèo thiếu thì mai sau sẽ bị án phạt nặng nề.

Chính vì thế, Chúa Giê-su nói: “Khốn cho các ngươi là những người giàu có…”
Ngược lại, có những thứ người đời cho là họa như nghèo túng, đói khát… thì Chúa Giê-su cho rằng đó là hồng phúc. Ngài nói:

“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em.” Tại sao như thế?

Khi tuyên bố những lời này, Chúa Giê-su vừa ngước mắt nhìn các môn đệ vừa nói. Vậy thì đây là những lời Chúa Giê-su nói trực tiếp với các môn đệ. Các môn đệ là đối tượng của những lời chúc phúc nầy.

Trước đây, trong số các môn đệ của Chúa có người làm nghề chài lưới, có thuyền có lưới, có thu nhập hằng ngày ổn định; cũng có người làm nghề thu thuế như Lê-vi, cuộc sống sung túc chẳng thiếu thốn gì…

Thế rồi, khi lên đường theo Chúa, các ngài bỏ hết thuyền bè, nhà cửa, công việc làm ăn… nên trở thành những người nghèo thiếu… Nghèo khó vì từ bỏ mọi sự để đi loan báo Tin mừng như thế thì sẽ được nhiều hồng phúc, chứ không phải bất cứ ai nghèo khó đều có phúc.
Rồi Chúa Giê-su nói tiếp với các môn đệ:

“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang đói vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.”
Với nghề chài lưới trên biển hồ nhiều tôm cá hoặc nghề thu thuế như Lê-vi đã làm… các môn đệ chưa biết đói khát là gì. Vậy mà từ ngày theo Chúa Giê-su, lang bạt từ làng quê lên phố thị, từ bờ biển đến nơi hoang địa… các ngài phải chịu đói khát; thậm chí có ngày đi qua đồng lúa, các ông đã bứt những gié lúa, vò xát trong tay rồi ăn để dằn cơn đói… Đói khát vì ra đi xây dựng Nước Trời như các môn đệ ắt sẽ được Thiên Chúa ban nhiều hồng phúc lớn lao.

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho chúng ta thấy hạnh phúc do tiền bạc, của cải và sự giàu sang đời nầy mang lại không phải là hạnh phúc thật vì có thể mang lại tai họa và án phạt đau thương. Đồng thời, Ngài cũng cho chúng ta thấy rằng “nghèo khó” vì Tin mừng, chịu “đói” vì chia sẻ cơm áo cho nhau, chịu buồn phiền “khóc lóc” vì đạo Chúa, chịu “oán ghét, khai trừ, sỉ vả” vì Nước Trời là phúc thật vì mang lại hạnh phúc đời đời.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin dạy chúng con nhớ rằng: Của cải đời này chỉ là phù du, mau tan biến như sương mai, như làn khói, chỉ có hạnh phúc thiên đàng mới vĩnh viễn thiên thu.

Xin giúp chúng con biết phấn đấu đạt cho được Nước Trời dù phải hy sinh thời giờ, công sức, tiền bạc và chấp nhận gian lao khó nhọc… để góp phần loan báo Tin mừng và phục vụ anh chị em chung quanh, nhờ đó chúng con đạt được những mối phúc mà Chúa công bố trong Tin mừng hôm nay.

Về mục lục

PHÚC CHO NHỮNG AI SỐNG VÌ TIN MỪNG

 Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Nhìn lại “Năm Con Trâu” với hàng loạt các drama về từ thiện khiến cho những người có lòng tốt cũng bị tổn thương. Có khi dư luận đẩy lên cao trào những xì xào, ngờ vực và quy kết tội mà không cần chứng cứ hay tòa án!

Người ta nghi ngờ tất cả, mặc dầu chuyện từ thiện vốn tốt đẹp đầy ý nghĩa nhân văn. Tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau có thể xem là sức mạnh là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Tinh thần liên đới ấy đã được cha ông ta gửi gắm trong câu ca dao :

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng”

Và rồi đến phút 89 của những ngày cuối năm 2021 mới được công bố những Drama này không “ăn chặn từ thiện”! Nhưng lòng tốt bị tổn thương làm sao hàn gắn? Và liệu rằng lòng tin về người làm từ thiện có dễ dàng quay trở lại như xưa ?

Ở đời thường lạ vậy. Những người sống vì công chúng lại dễ bị làm tổn thương vì bị nghi ngờ về lòng tốt. Những người sống bảo vệ công lý và làm chứng cho sự thật càng dễ bị tổn thương do bị chụp mũ , bị quy kết tội , bị vu khống  . . .

Ngày 29/01/2022 dường như khắp các trang mạng xã hội đều đau xót khi cha  Giuse Trần Ngọc Thanh OP bị sát hại ngay lúc đang ngồi giải tội. Cái chết của ca Giuse gây bàng hoàng cho mọi người và là nỗi hoang mang cho những ngôn sứ của Chúa.

Theo Fides, một cơ quan truyền thông thuộc bộ Truyền bá và Phúc Âm hóa các Dân tộc cho biết, trong năm 2021 vừa qua có 22 nhà truyền giáo đã bị giết trên toàn thế giới, nhiều hơn 2 người so với năm 2020 và một nửa trong số đó là các linh mục.

Bài phúc âm hôm nay Chúa Giê-su nói nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ đói khát”? . “Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy, các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời”.

Thánh Luca ghi rõ: “Đức Giê-su ngước mắt nhìn các môn đệ và nói…”. Vậy thì đây là những lời Đức Giê-su trực tiếp nói với các môn đệ và đối tượng đầu tiên của các mối phúc nầy chính là những môn đệ của Chúa Giê-su.

Nghèo khó, đói khát, bị bách hại là những thứ tai hoạ mà người đời tìm cách vượt qua hết sức có thể. Nhưng đối với những ai sống vì tin mừng thì những điều này lại là một mối phúc.

“Phúc cho anh em là những người nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. Như các môn đệ Phê-rô, An-rê, Gioan, Giacôbê là những những khá giả có ghe, có thuyền, có lưới… ngày ngày đánh bắt được tôm cá để nuôi sống gia đình và bản thân. Nay vì theo tiếng gọi của Chúa Giê-su, các vị từ bỏ ghe thuyền, nhà cửa, nghề nghiệp, bỏ lại cả vợ con, ra đi với hai bàn tay trắng, lên đường phục vụ cho Tin Mừng. Thế nên các ngài sẽ được Chúa Giê-su trọng thưởng. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đâu có thua lòng quảng đại của con người.

Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Nhưng hãy vui lên vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.

Các môn đệ của Chúa Giê-su là những người đã dốc hết cuộc đời cho Chúa Giê-su và cho việc rao giảng Tin Mừng, đến nỗi các ngài trở nên nghèo thiếu, và bị bách hại vì Chúa Giê-su, thế nên các ngài sẽ được Thiên Chúa đổ đầy hồng ân. Nước Thiên Chúa thuộc về các ngài. Hạnh phúc thiên đàng đang ở trong tầm tay.

Hôm nay Chúa vẫn đang chúc phúc cho những ai biết rộng lượng cống hiến cho Chúa khả năng, thời giờ, sức lực, trí tuệ… để làm sáng danh Chúa và loan báo Tin Mừng. Mỗi việc chúng ta làm cho Chúa đều được Chúa trả công bội hậu cho chúng ta ngay ở đời này và nhất là được thừa hưởng Nước Trời mai sai.

Xin Chúa giúp chúng ta biết sống vì tin mừng. Xin Chúa ban thêm ơn khôn ngoan và can đảm để chúng ta vượt qua tính sợ hãi và ích kỷ để sống và làm chứng cho tin mừng cho dẫu bị thiệt thòi ở đời này, có khi bị hàm oan, bị bách hại . . . Nhưng luôn vui tươi hân hoan vì chúng ta hiến dâng cho Chúa một, Chúa sẽ ban thưởng gấp trăm gấp ngàn lần ở đời này và cả đời sau. Amen

Về mục lục

 

CHÚC LÀNH VÀ CHÚC DỮ

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Bài đọc Cựu ước và bài Tin Mừng của Chúa nhật này đều bao gồm những lời chúc lành và chúc dữ. Thực ra, những lời được gọi là “chúc dữ” không hẳn là những lời nguyền rủa khi người ta giận dữ và muốn “trù ẻo” người khác. Thiên Chúa tự bản chất là Đấng tốt lành, không lẽ Ngài lại buông những lời nguyền rủa đối với con người, mặc dù họ xấu xa và tệ hại đến mấy đi nữa. Đúng hơn, phải hiểu đây là những lời than vãn và luyến tiếc cho những con người đáng lẽ ra họ phải sống tốt lành, nhưng trong thực tế lại không phải như vậy. Đây là những lời than vãn vì thấy trước những nguy hiểm đang chờ đợi họ ở tương lai, là kết quả của lối sống vô tín đối với Chúa và vô trách nhiệm đối với tha nhân.

Nguyên nhân của những than vãn hay của những lời chúc dữ ấy là gì? đó là sự cậy dựa vào sức mạnh phàm nhân. Theo lời Chúa Giêsu, đó còn là sự kiêu ngạo, cậy vào của cải trần thế. Họ là những người giàu có, no nê và đang vui cười. Dường như họ không cần đến Thượng Đế, vì họ tự cho mình có sức mạnh vô song, có khả năng làm mọi sự. Có một thời, ở Việt Nam, người ta cho rằng niềm tin vào Thượng Đế đã lỗi thời và “cổ hủ”. Vì vậy, con người có thể “thay trời làm mưa”. Người ta cũng thường rêu rao “bàn tay ta làm nên tất cả”. Đây là lối suy nghĩ ảnh hưởng thuyết vô thần duy vật, coi con người như những “thượng đế” và tự quyết định tương lai, không cần đến thần linh hay Đấng Cao cả nào khác. Thực tế đã chứng minh cho chúng ta thấy một xã hội loại trừ Thiên Chúa sẽ trở nên bất hạnh như thế nào. Hậu quả là bạo lực, dối trá, lường gạt và phi luân lý tràn lan mọi lãnh vực cuộc sống.

Chúa Giêsu đã cảm thương và coi những người kiêu ngạo cậy mình, là những người bất hạnh. Cách nói “Khốn cho các ngươi”, như đã nêu ở trên, không phải là lời nguyền rủa, nhưng là một lời than vãn, tựa như khi ta nói: Thật bất hạnh thay, những kẻ cậy vào của cải, những kẻ cho rằng mình tự làm được mọi sự, và những kẻ đang vui cười, vì tương lai của họ thật đen tối và thảm hại!

Những hình ảnh được dùng để minh họa người hạnh phúc và người bất hạnh cũng rất cụ thể và dễ hiểu. Đó là những cây được trồng để sinh hoa kết trái. Người đặt niềm tin ở người đời mà lãng quên Thiên Chúa thì giống như cây mọc trong sa mạc cằn cỗi, quanh năm khô cháy vì chỉ có gió và nắng nóng. Trái lại, người đặt niềm tin nơi Chúa thì giống như cây trồng bên suối, quanh năm bốn mùa sinh hoa trái tốt tươi.

Lắng nghe Lời Chúa hôm nay, mỗi người tự vấn lương tâm, để xem cuộc đời và tương lai của mình đang đặt nền tảng trên cái gì. Trong cuộc sống đầy bon chen toan tính, chúng ta có nguy cơ phủ nhận Thiên Chúa để tìm cho mình những nguồn trợ lực trần gian. Những nguồn trợ lực ấy, có thể đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của chúng ta, hoặc có thể đem lại cho chúng ta những niềm vui nhất thời, nhưng không bền vững và nhất là không đem lại cho chúng ta niềm vui siêu nhiên. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng lấp đầy những khát vọng của chúng ta. Người là Cha nhân hậu, hiểu biết nỗi lòng và nguyện vọng của chúng ta. Người cũng thấu hiểu những băn khoăn trăn trở của chúng ta và ra tay cứu giúp, nếu chúng ta tin tưởng phó thác nơi Ngài.

Nhiều người nản lòng vì họ cầu nguyện mà dường như Chúa không nhận lời. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy kiên trì và hy vọng kể cả trong những hoàn cảnh bi đát nhất. Thực thế, mầu nhiệm Phục sinh là một bằng chứng cho quyền năng của Thiên Chúa. Ngôi mộ là một kinh nghiệm đen tối nhất của kiếp con người. Vậy mà Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, bước ra khỏi mộ vinh quang. Người tin vào Chúa Giêsu là người sống niềm hy vọng, kể cả những lúc cơ cực nhất. Họ không chỉ chờ đợi những lợi lộc trần gian, mà còn hướng tâm hồn về trời, là phần thưởng tối hậu cao quý Chúa dành cho những ai yêu mến cậy trông Người. Thánh Phaolô khẳng định: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (Bài đọc II).

Mỗi người trong chúng ta có một môi trường sống: gia đình, văn phòng, công ty, phố chợ, công trường… Trong những môi trường ấy, mỗi chúng ta đều là một cây do Thiên Chúa trồng. Những ai cậy trông nơi Ngài, sẽ quanh năm trổ lá sinh hoa, đem lại hoa thơm trái ngọt cho đời. Chúng ta được hưởng lời chúc lành hay chúc dữ, đó không phải là một định mệnh, nhưng là do chúng ta tự do chọn lựa, thể hiện qua lối sống của mình. Xin Chúa giúp chúng ta luôn kiên trung bền bỉ, cậy trông vào Chúa, để nhờ suối ân sủng của Ngài, chúng ta luôn sinh hoa kết trái.

“Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa” (Thánh Phanxicô de Salê)

Về mục lục

.

NGHÈO VÌ NƯỚC TRỜI

Tgm. Ngô Quang Kiệt

Bầu khí ngày Tết vẫn chưa tan, nhất là tại miền Bắc giàu truyền thống lễ hội. Ta vẫn còn nghe những lời chúc thịnh vượng, khang ninh cho năm mới. Đầu năm mới, các nước trên thế giới đều phấn đấu để kinh tế phát triển, tăng thu nhập cho toàn dân. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay lại nói: “Hỡi anh em là những kẻ nghèo khó, anh em thật có phúc, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. Phải chăng Chúa Giêsu phản lại tiến bộ, muốn nhân loại tụt hậu?

Để thấu hiểu Lời Chúa, ta cần ghi nhận mấy điểm sau đây:

Trước hết ở đây Chúa Giêsu không nói về kinh tế, nhưng nói về hạnh phúc, nhưng vật chất tự nó chưa phải là hạnh phúc. Câu chuyện về công nương Diana là một minh hoạ rõ nét.

Mùa hè năm 1997, cả thế giới xôn xao về cái chết của công nương Diana. Công nương Diana là một phụ nữ xinh đẹp. Từ khi kết hôn với thái tử Charles, con của nữ hoàng nước Anh, công nương trở thành người có danh vọng và đồng thời cũng có nhiều tiền của vào bậc nhất trên thế giới. Có lẽ ai cũng nghĩ rằng một phụ nữ đẹp đẽ, giàu sang, phú quý như thế phải là người hạnh phúc nhất trên đời. Nhưng không đúng như thế. Công nương rất đau khổ vì cảnh gia đình thiếu tình yêu thương chân thực. Thái tử Charles vẫn lén lút quan hệ với người tình cũ. Đau khổ mà chẳng thể nói ra, vì cả gia đình bên chồng muốn giữ uy tín cho hoàng gia. Chán nản với đời sống gia đình, công nương đã tìm vui bên người bạn trai mới. Trong một chuyến đi chơi ở Paris, cả hai bị thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi. Có nhiều người cho rằng chính hoàng gia Anh đã gây ra tai nạn. Không ai nghĩ rằng cuộc đời công nương có hạnh phúc, dù bà có tất cả: sắc đẹp, tiền của, danh vọng.

Thứ đến, Chúa không lên án vật chất, nhưng chỉ lên án thái độ sử dụng vật chất. Vật chất do Chúa dựng nên để phục vụ con người. Chúa dựng nên và Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng con người đã làm sai chương trình của Chúa. Thay vì sử dụng vật chất như phương tiện, người ta đã biến nó thành mục đích. Thay vì sử dụng vật chất phục vụ đồng loại, người ta đã sử dụng đồng loại để phục vụ vật chất. Đó là những thái độ bị Chúa lên án. Những thái độ ấy biến vật chất thành chướng ngại ngăn cản ta đạt đến hạnh phúc Nước Trời.

Sau cùng, Chúa không khuyến khích cảnh nghèo, càng không khuyến khích những người vì lười biếng mà trở nên nghèo. Chúa chỉ khuyến khích những người vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.

Những người vì Nước Trời mà tự nguyện trở nên nghèo là những người hiểu biết giá trị thực sự của tiền bạc. Biết rõ tiền bạc chỉ là phương tiện nên họ dùng tiền bạc mà không dính bén, có tiền mà không nô lệ cho đồng tiền, nhất là biết dùng tiền vào những việc hữu ích cho đồng loại. Vì tha nhân, vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.

Những người tự nguyện sống nghèo như thế không làm cho xã hội tụt hậu, trái lại giúp phát triển xã hội, đưa nhân loại tiến lên. Không chỉ tiến lên về văn minh vật chất mà còn tiến về nền văn minh tình thương.

Những người tự nguyện sống nghèo như thế giúp nâng cao nhân phẩm con người, đem niềm vui cho người sầu khổ, gieo niềm hy vọng cho những người bị bỏ quên, đem tình thương đến cho những người bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Những người tự nguyện sống nghèo như thế không phải là những người lười biếng, hèn nhát, uỷ mị, bạc nhược. Trái lại đó là thái độ của những tâm hồn dũng mạnh, luôn phấn đấu với chính mình để nâng tâm hồn mình và nâng cả thế giới lên.

Tự nguyện sống nghèo như thế là một mối phúc cho thế giới, cho nhân loại. Thế giới sẽ tốt đẹp biết bao nếu có nhiều người tự nguyện như thế.

Sau đám tang của công nương Diana 1 tuần lễ, thế giới lại xôn xao về một đám tang khác: đám tang của mẹ Tesexa Cancutta. Khác hẳn với công nương Diana, mẹ Tesexa là một nữ tu già nua, sống một đời sống nghèo. Trong phòng của mẹ chỉ có một chiếc ghế và một chậu thau đựng nước. Người ta cho mẹ nhiều tiền, nhưng mẹ tự nguyện sống nghèo, dành hết tiền của để giúp những người nghèo, những trẻ mồ côi, tàn tật. Khi Đức Giáo hoàng sang thăm Ấn Độ, thấy mẹ đi lại công tác nhiều, tặng mẹ một xe hơi sang trọng. Nhưng khi Đức Giáo hoàng về, mẹ đã bán xe lấy tiền giúp người nghèo. Có 40 nguyên thủ quốc gia đến tham dự đám tang của mẹ. Và Ấn Độ, một nước không ưa gì đạo Công giáo, đã cử hành quốc tang cho mẹ. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn mẹ trong khi các vị nguyên thủ quốc gia quyền uy đứng cúi đầu kính cẩn trước thi hài vị nữ tu già nua, nghèo khó. Mẹ đã thực hành Lời Chúa: “Phúc cho anh em là người nghèo khó, vì Nước Trời thuộc về anh em”.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Bạn có kinh nghiệm vui buồn gì về tiền bạc? Vì tranh chấp tiền bạc mà mất tình nghĩa? Nhờ biết nhường nhịn về tiền bạc mà thêm bạn hữu?
  2. Lời Chúa hôm nay có chúc phúc và chúc dữ. Bạn thuộc diện nào? Được chúc phúc hay bị chúc dữ?
  3. So sánh cuộc đời của công nương Diana và cuộc đời của mẹ Tesexa, bạn rút ra được quyết định nào cho đời bạn?
  4. Tiền bạc và hạnh phúc. Bạn thấy chúng có liên hệ gì với nhau?

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC THẬT

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Sống trên đời giầu và nghèo là hai thái cực, hai giai cấp luôn đối chọi nhau.Tin Mừng của thánh luca hôm nay cho chunh1 ta hiểu thế nào là lời chúc, thế nào là lời nguyền rủa của Chúa. Hạnh phúc mà con người muốn đạt được ở trần gian này, chắc chắn không phải là cái gì mau qua, chóng tàn mà phải là sự bền lâu, vĩnh viễn..Tin Mừng mô tả các mối phúc để mời gọi người tín hữu chọn lựa.

Tin Mừng của thánh Luca hôm nay đưa ra bốn lời chúc phúc của Chúa Giêsu cho những kẻ nghèo đói, khóc than, bị khử trừ, bị sỉ vả và bốn lời nguyền rủa, chúc dữ cho những người giầu có ,no phỉ,vui cười, được nhiều người ở đời ca tụng, tán dương. Đây là những điều nghịch lý, phản đề, đối chọi,mời gọi người môn đệ Chúa phải biết phân định, chọn lựa vv…

Điều Chúa muốn hướng chúng ta và mọi người về những người xấu số, khổ cực, đói nghèo, những kẻ thấp cổ bé họng , đồng thời Ngài đem lại cho họ niềm hy vọng.Thực tế, Chúa không lên án những người giầu có vì họ có lắm tiền, nhiều của, Chúa không bần cùng hóa xã hội, nhưng Chúa chỉ lên án những người giầu có khi họ có tiền của mà không biết chia sẻ, dùng tiền của vung vít, bừa bãi mà không nghĩ đến những người nghèo, những người cơ cực trong xã hội. Chúa chỉ lên án người giầu khi họ dùng tiền, tài sản như vật cản đường không cho người khác đến với Chúa, và vào Nước Trời.

Tiền bạc, của cải, tài sản tự nó không phải những gì xấu xa, tội lỗi. Cách sử dụng tiên của sao cho phù hợp mới là điều quan trọng. Tiền của, vật chất có thể được dùng vò việc tốt và việc xấu. Điều quan trọng là biết chia sẻ và trao ban. Anh thanh niên giầu có trong Tin mừng là một điển hình cụ thể. Anh có thể thao Chúa, nhưng với điều kiện duy nhất là đừng bám víu, đừng ham của cải nữa mà về bán hết tài sản, phân chia cho những người nghèo khó và đi theo Đức Giêsu. Tự bản chất, giầu không phải là xấu.Nghèo cũng không phải là nhân đức.

Khốn cho người giầu có khi họ chỉ bo bo giữ của cho riêng mình, không biết xót thương, chia sẻ, trao ban. Họ thu tích của cải, tiền bạc vào kho, rồi đóng kín kho không biết mở ra để giúp người nghèo, giúp những công việc chung vv…Hạnh phúc đích thật là con người biết yêu thương, chia sẻ, quảng đại cho đi mà không đòi lại.

Vâng, người ta sinh ra ở đời là để được sống hạnh phúc. Cả cuộc sống trần gian của con người là tìm kiếm hạnh phúc. Con người có thể ở giữa cái họa và cái phúc. Nhưng họa là khi con người chỉ bo bo, nông cạn tìm điều phúc ngắn hạn, những thú vui mau qua ở trần gin. Hạnh phúc đích thực là chính Chúa mà con người phải tìm kiếm. Lúc con người đặt Chúa ưu tiên trong cuộc sống, lắng nghe tiếng Người và phục vụ, thực thi Lời Chúa trong cuộc sống.Chắc chắn, khi lắng nghe, cầu nguyện, xin ơn soi sáng thì các mối phúc của Chúa dạy là lời an ủi, khích lệ, động viên mạnh mẽ và đó cũng chính là lời thức tỉnh cho những ai bước trên hành trình theo Chúa, và giúp những ai biết xây dựng đời sống của mình trên những thực tại vĩnh viễn, trường cửu của Nước Thiên Chúa hơn là chỉ dựa vào những việc mau qua ở trần gian, ở thế giới này.Nói cách khác, con người phải biết cộng tác với Chúa để các mối phúc được hiện thực ngay nơi trần thế này, nhờ biết chia sẻ, trao ban tiền của cho tha nhân, đem lại hy vọng, niềm vui cho những kẻ khó nghèo, sầu khổ vv…

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết đem yêu thương và phụng sự Chúa nơi mọi người, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem thứ tha vào chốn lỗi lầm. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Bốn mối phúc nói gì cho chúng ta ?
2.Bốn mối họa nói gì cho chúng ta ?
3.Hạnh phúc đích thực là gì ?
4.Ai ban cho chúng ta hạnh phúc đích thực ?
5.Chúng ta phải làm gì để các mối phúc của Chúa được thành tựu ở đời này ?

Về mục lục

.

SẼ ĐƯỢC ĐÁP ĐỀN

Lm. Ignatiô Trần Ngà

Nghèo khó, đói khát là những thứ tai hoạ mà người đời tìm cách khắc phục, tiêu diệt cho đến cùng. Nhân loại hôm nay đang cùng nhau nổ lực xoá đói giảm nghèo. Vậy mà sao Chúa Giêsu lại nói: Phúc cho anh em là những người nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ bây giờ phải đói? Không lẽ Chúa Giêsu lại chủ trương một đời sống nghèo nàn, đói khát và lạc hậu sao?

Tất nhiên là không. Chúa Giêsu muốn cho mọi người được hạnh phúc và no đủ. Trong kinh lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy xin Chúa Cha ban cho lương thực hằng ngày và chính Chúa Giêsu cũng đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và dư dật cho những người đi theo Chúa vào nơi hoang vắng hôm xưa được ăn no.

Thế thì tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ đói khát”?

Ðể hiểu rõ lời Chúa Giêsu dạy, chúng ta hãy đọc cho kỹ câu văn: Bấy giờ “Ðức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó… là những kẻ bây giờ phải đói… bây giờ đang khóc…”

Thánh Luca ghi rõ: “Ðức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói…” Vậy thì đây là những lời Ðức Giêsu trực tiếp nói với các môn đệ và đối tượng đầu tiên của các mối phúc nầy chính là những môn đệ của Chúa Giêsu.

Trước đây, các môn đệ như Phê-rô, An-rê, Gioan, Giacôbê là những những khá giả có ghe, có thuyền, có lưới… ngày ngày đánh bắt được tôm cá để nuôi sống gia đình và bản thân. Nay vì theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, các vị từ bỏ ghe thuyền, nhà cửa, nghề nghiệp, bỏ lại cả vợ con, ra đi với hai bàn tay trắng, lên đường phục vụ cho Tin Mừng. Vì thế các ngài là những người trở nên nghèo thiếu vì Tin Mừng và vì Chúa Giêsu. Thế nên các ngài sẽ được Chúa Giêsu trọng thưởng. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đâu có thua lòng quảng đại của con người.

Trước đây, với nghề chài lưới trên một vùng biển vốn nhiều tôm cá, các môn đệ Chúa Giêsu không biết đói khát là gì. Thế mà từ ngày lang bạt theo Chúa Giêsu rày đây mai đó để loan báo Tin Mừng, các ngài phải chịu cảnh bữa đói bữa no. Có lần các môn đệ khi đi qua đồng lúa, phải bứt lúa mà ăn cho đỡ đói (Mt 12,1). Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng quảng đại ắt sẽ bù đắp cho họ dư đầy. “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng”.

Rồi cũng theo dòng tư tưởng đó, Chúa Giêsu nói: Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế”.

Như vậy, nói tóm lại, các môn đệ sẽ được dư đầy hồng phúc vì các ngài đã chịu nghèo đói, thua thiệt vì Chúa Giêsu và vì Tin Mừng của Ngài. Hôm nay cũng thế, nếu chúng ta chấp nhận hy sinh vì Chúa, chịu thiệt thòi mất mát vì Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban thưởng dư đầy, bởi vì lòng quảng đại của Thiên Chúa thì triệu lần lớn lao hơn lòng quảng đại của chúng ta. Chúng ta hiến dâng cho Chúa một, Chúa sẽ ban thưởng gấp trăm gấp ngàn.

Ðại thi hào Tagore người Ấn độ có một bài thơ minh hoạ cho chân lý nầy:

“Tôi đang đi hành khất hết cửa nhà nầy đến cửa nhà kia dọc suốt đường làng lúc xe người vàng óng xuất hiện đàng kia như một giấc mơ rực rỡ; lòng nhủ lòng tôi hỏi đức vua oai phong nầy là ai!

Hy vọng trong tôi giang cánh bay cao; tôi thầm nghĩ ngày xấu số từ đây thôi chấm dứt; tôi đứng đợi chờ của bố thí chẳng hỏi xin mà có và bạc vàng trên bụi đường rơi vãi tứ tung.

Xe ngừng nơi tôi đứng. Người đưa mắt nhìn tôi rồi bước xuống, mỉm cười. Tôi thầm nhủ duyên may đời mình thế là đã đến. Nhưng chẳng chần chừ, người lại chìa bàn tay phải ra mà nói: Có gì cho ta không?

A ha, gớm chưa lời thử lòng vương giả khi mở bàn tay ăn xin một người hành khất tầm thường! Bối rối, tôi đứng lặng im lưỡng lự một hồi, rồi từ từ móc trong bị lấy ra hạt lúa nhỏ bé nhất đưa cho người.

Nhưng, ngạc nhiên xiết bao, lúc ngày tàn, giốc túi ăn xin ra nền đất, tôi lại thấy giữa đống của bố thí nghèo nàn hạt lúa vàng vô cùng nhỏ bé. Tôi khóc nức nở, nghĩ bụng ước gì đã có tấm lòng dám cho người tất cả những gì là của riêng tôi!”

Người ăn xin trên đây đã vò đầu bức tóc và khóc nức nở vì tiếc xót. Giá như ông ta dốc hết cả túi thóc cho đức vua, thì giờ đây, ông đã được một túi đầy những hạt bằng vàng!

Các môn đệ của Chúa Giêsu là những người đã dốc hết cuộc đời cho Chúa Giêsu và cho việc rao giảng Tin Mừng, đến nỗi các ngài trở nên nghèo thiếu, trống không vì Chúa Giêsu, thế nên các ngài sẽ được Thiên Chúa đổ đầy hồng ân. Nước Thiên Chúa thuộc về các ngài. Hạnh phúc thiên đàng đang ở trong tầm tay.

Nếu hôm nay, chúng ta không bủn xỉn như gã ăn xin trên đây, nhưng biết rộng lượng cống hiến cho Chúa khả năng, thời giờ, sức lực, trí tuệ… của chúng ta cho Thiên Chúa và cho việc loan báo Tin Mừng như các môn đệ của Chúa Giêsu năm xưa, chúng ta cũng sẽ là những người được Thiên Chúa ban cho dư đầy phúc lộc mai sau và đối tượng của những lời chúc phúc của Chúa Giêsu trong Tin Mừng là hôm nay cũng chính là chúng ta.

Về mục lục

.

CHÚA HỨA BAN HẠNH PHÚC

Lm. Trần Bình Trọng

Thế kỷ ta đang sống là một thế kỷ tiến bộ lạ lùng trong mọi cố gắng của loài người. Loài người đã khống chế được không gian và thời gian: du lịch mau lẹ hơn tiếng động. Loài người còn được hưởng những dịch vụ nhanh chóng bằng cách chỉ cần bấm nút là có món hàng mình muốn, và có thể nói với người ở xa cả hàng ngàn dậm. Muốn mua bao thuốc lá, bỏ tiền vào máy, bấm nút, có liền; muốn mua lon nước ngọt cũng vậy. Người ta có thể thu gọn cả thế giới vào trong cái màn ảnh vô tuyến truyền hình trong phòng. Loài người đã lên cung trăng, đã đi vào thế giới nguyên tử, đã khám phá ra những bí mật của bệnh truyền sinh. Loài người tiến quá lẹ đến nỗi một món hàng sản xuất vừa ra khỏi khuôn đã trở thành lỗi thời. Chẳng hạn như đồ vi tính, vừa mua máy này, đã nghe có máy tốt hơn sắp ra.

Tất cả những tiến bộ đó có được là nhờ sự hiểu biết về khoa học của loài người. Du lịch, truyền thông, y tế, canh nông, giải trí, hầu như tất cả mọi lãnh vực trong cuộc sống con người đều được phát triển nhờ khoa học kỹ thuật. Khi gặp nguy hiểm, người ta xây hầm trú ẩn, hay có quân đội bảo vệ an ninh. Người ta lái xe có thắt giây an toàn. Người ta giữ giấy tờ quan trọng trong hộp an toàn trong nhà băng. Người ta mua bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm sinh mạng, đóng tiền an sinh xã hội cho tuổi già…

Tuy nhiên mặc dầu với những tiến bộ về khoa học, cũng như những tiện ích người ta được hưởng dùng, người ta vẫn không có hạnh phúc thực sự ở đời này. Vậy làm sao để giải quyết vấn đề thiếu hạnh phúc? Tiên tri I-sai-a trong bài trích sách Cựu ước hôm nay cho ta một giải pháp: Phúc cho người đặt tin tưởng vào Chúa vì có Chúa làm nơi nương thân (Gr 17: 7). Thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Cô-rin-tô vọng thêm: Nếu chúng ta đặt hi vọng vào Đức Ki-tô chỉ ở đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hại nhất trần gian (1Cr: 15:19). Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu chúc phúc cho những người mà trước mặt người đời là những người đáng thương hại: người nghèo khó, đói khát, khóc lóc và bị thù ghét. Chúa bảo ta những người được Chúa chúc phúc không phải là những người được người đời ưu đãi. Những đau khổ và bất hạnh của những người bất hạnh trước mặt thế gian, không phải là dấu hiệu Chúa bỏ rơi họ.

Tại sao những người này được chúc phúc và làm sao để được Chúa chúc phúc? Thường những người nghèo khó, đói khát, khóc lóc và bị thù ghét không có gì để bám víu, không có tài năng để làm nên sự nghiệp, không có thế lực để tự bênh đỡ mình, không có bạn bè để nương tựa. Trong trường hợp này họ có thể nảy sinh ra hai phản ứng khác nhau. Phản ứng thứ nhất là họ có thể trở nên thất vọng, sinh ra hận Chúa và hận đời nên dễ làm càn. Cái phản ứng thứ hai là họ tìm đến cậy trông, nương tựa vào Chúa khi không còn gì để bám víu và nương tựa. Họ ý thức về sự hiện diện của Chúa trong đời sống. Và ý thức về sự hiện diện của Chúa là dấu hiệu sơ khởi được Chúa chúc phúc. Khi ý thức được sự hiện diện của Chúa trong đời sống, họ nảy sinh ra cái lòng kính sợ Chúa, không dám làm mất lòng Chúa. Họ cũng nảy sinh ra cái lòng cậy trông vào quyền năng Chúa, tin rằng Chúa sẽ bênh đỡ họ, ở bên họ và trợ giúp họ. Họ tin rằng Chúa sẽ bù đắp cho họ những thiếu sót của họ về của cải, bạn bè, và tài năng mà họ không có, nếu không được ở đời này, thì đời sau họ sẽ được bù đắp. Khi mà cái cùng đích, cái chủ thể, cái lẽ sống của họ là Chúa, thì mặc dù họ không có của cải, bạn hữu, quyền thế, sự nghiệp, họ vẫn không bị sụp ngã, thất vọng, nhưng vẫn còn gì để bám víu. Và cái nơi họ nương tựa bám víu là chính Chúa. Và đó là hạnh phúc của họ.

Về mục lục

.

GIÁO HỘI BỊ BÁCH HẠI

Lm. Anphong Trần Đức Phương

Ai trong chúng ta cũng muốn sống sung sướng, hạnh phúc, và thông thường sự giầu có, tiền bạc đầy đủ bảo đảm hạnh phúc cho chúng ta. “Tiền bạc là chìa khóa mở cửa vào cuộc sống hạnh phúc.” “Có tiền mua tiên cũng được!” Số người mua xổ số càng ngày càng đông, vì muốn giàu có mau chóng và được sống hạnh phúc.

Tuy nhiên, trong thực tế, sự giầu có tiền bạc không hẳn bảo đảm hạnh phúc cho chúng ta. Theo các thống kê của xã hội học về vấn đề tự tử thì tỷ lệ người giầu tự tử nhiều hơn người nghèo; tỷ lệ người tự tử ở các nước tiên tiến , giàu có như Hoa Kỳ và các nước Âu Châu dẫn đầu các nước khác (xin vào website Suicide để tham khảo). Theo cuộc điều tra mới đây về những người trúng xổ số và trở nên triệu phú trong giây lát, hầu như không người nào nhờ đó mà sống hạnh phúc hơn. Vào khoảng đầu năm 2009, thần tài đã đến viếng thăm một ông, và ông đã trúng số 30 triệu; nhưng chỉ vài tháng sau, ông bị mất tích. Bà mẹ ông thì cho rằng ông sống ẩn dật ở đâu đó, còn cảnh sát thì suy đoán ông đã bị giết, đã phải đổi mạng sống của ông vì tấm vé số trúng. Trong thực tế có nhiều người trúng số lớn, đã mất hẳn cuộc sống tự do lúc bình thường, vì cứ lo bị ‘bắt cóc’, nên đi đâu, ở đâu cũng lo sợ; ngoài ra, còn bị rầy rà vì bao nhiêu bạn bè, bà con thăm hỏi và xin giúp đỡ, nên phải rút vào cuộc sống “ẩn dật” cho yên thân. Chắc chúng ta còn nhớ câu chuyện ngụ ngôn của La Fontaine về “Ông Phú Hộ” đêm đêm mất ngủ vì cứ phải lo tính tiền bạc và sự làm ăn sao cho khỏi thua lỗ và được giầu có thêm mãi. Trái lại, người thợ đóng giầy ngủ nhờ dưới chân cầu thang của nhà ông thì đêm nào, khi đi làm về cũng húyt sáo vui vẻ, rồi đi ngủ ngon một giấc đến sáng để lại bắt đầu một ngày mới. Ông phú hộ liền đem tặng cho ông ta một túi tiền. Thế là từ ngày đó, ông ta không còn ngủ yên như trước, vì đêm nằm cũng lo sợ bị mất trộm túi tiền, và khi đi làm cũng vẫn phải lo giữ túi tiền. Ông ta cảm thấy cuộc sống không còn bình an, thanh thản như trước. Và ông ta đã quyết định trả lại ông phú hộ túi tiền để được trở lại cuộc sống nghèo khó nhưng bình yên hạnh phúc hơn.

Trong Bài Phúc Âm Chúa Nhật này, thường được gọi “Tám Mối Phúc Thật”, Chúa Giêsu có vẻ như đã đi ngược đời, nói đến hạnh phúc không phải cho người giầu có, quyền thế, ăn no mặc ấm… nhưng là cho những người nghèo khó, đói khát, đau khổ, bệnh tật, bị bách hại, phỉ báng, đánh đập tàn nhẫn (như những Giáo sĩ, Giáo dân đang bị bách hại tại Việt Nam, Mã Lai , Trung Quốc, Bắc Hàn, ở Trung Đông và Phi Châu… chẳng hạn). Quả thật là ngược đời hết sức! Nhưng trong Bài Đọc I hôm nay, Thiên Chúa đã soi sáng cho chúng ta biết, qua tiên tri Giêrêmia: con đường hạnh phúc thật là “biết đặt mọi niềm tin tưởng nơi Chúa, lấy Chúa làm tất cả, lấy Chúa làm nơi tựa nương tuyệt đối. Những người đó được sống hạnh phúc thật. Họ giống như cây được trồng bên bờ suối, đâm rể sâu vào đất ẩm ướt; không sợ gì, khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi; không sợ gì, khi nắng hạn, vẫn sinh hoa kết trái!”

Chúa Giêsu Kitô, Thày Chí Thánh của chúng ta, đã không mở đường hạnh phúc cho chúng ta bằng sự giàu sang, quyền qúy; nhưng bằng cuộc sống nghèo khó của chính Ngài, và trong thời gian đi rao giảng Phúc Âm Tình thương, lo cho những người nghèo khổ, bệnh tật, tội lỗi, lại thường xuyên bị chống đối, ghét bỏ, thù hận. Cuối cùng lại chấp nhận bị bắt, bị hành hạ, sỉ nhục và chết trên Thập Giá, táng xuống mồ, rồi mới sống lại và về Trời để mở đường hạnh phúc Nước Trời cho chúng ta. Nếu chúng ta không tuyệt đối tin tưởng như vậy; nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Chúa Giêsu Kitô trong cuộc đời này mà thôi; nếu chúng ta chỉ đặt hạnh phúc vào sự giàu sang, quyền quý và tự do mọi sự ở đời này, thì chúng ta sẽ là những kẻ vô phúc nhất thiên hạ! (Như Thánh Phaolô nói với chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay).

Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác,

Không theo đường lối những tội nhân,

Không ngồi chung với những kẻ khinh bỉ người khác;

Nhưng vui thỏa trong lề luật Chúa,

Và suy ngẫm luật Chúa đêm ngày.

Họ như cây trồng bên bờ suối nước,

Trổ sinh hoa trai đúng mùa,

Lá cây không bao giờ tàn úa,

Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.

Kẻ gian ác không được như vậy,

Họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi!

Phúc thay người đặt niềm tin cậy nơi Chúa;

Vì Chúa canh giữ đường người công chính,

Con đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.

(Bài Đáp Ca theo Thánh Vịnh 1)

Theo đường lối của Chúa, Giáo Hội cũng chỉ lo rao giảng Tin Mừng hạnh phúc thật cho mọi người, giúp đỡ người bệnh hoạn, người đang ở các trại phong cùi (như ở Việt Nam hiện nay), mở mang văn hóa cho các dân tộc, loan truyền ơn cứu độ, con đường đưa đến hạnh phúc thật đời đời. Nhưng như Chúa Giêsu Kitô, trong mọi nơi, mọi thời, Giáo Hội cũng luôn bị bách hại, phỉ báng, lăng nhục. Tuy nhiên, từ những Hoàng Đế Rôma tàn bạo như Neron đến các bạo chúa thời nay như Hitler, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông v.v… tất cả đều đã trở về với cát bụi, nhưng Giáo Hội Chúa vẫn trường tồn và phát triển.

Theo mệnh lệnh của Chúa, chúng ta hãy: “Yêu thương mọi người, làm ơn cho những ai ghét bỏ chúng ta, chúc lành cho những người nguyền rủa chúng ta, và cầu nguyện cho những người vu khống cho chúng ta những điều gian ác.” (Lc. 6,27…). Đó là con đường yêu thương, con đường đưa đến hạnh phúc thật trong cuôc sống đời đời.

Về mục lục

.

SỐNG TINH THẦN NGHÈO ĐỂ ĐƯỢC HẠNH PHÚC

Jos.Vinc. Ngọc Biển

Đức Giêsu được mọi người biết đến là một người nghèo. Nghèo từ khi sinh ra đến lúc từ giã thế gian để về với Chúa Cha.

Chính Đức Giêsu đã ví cuộc đời của mình như: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”.

Lúc sinh thời, nhất là trong thời gian loan báo Tin Mừng, từ lối sống đến hành động, Ngài luôn quan tâm đến tận cùng kiếp sống con người, nhất là những người khốn khó, bệnh hoạn, tật nguyền. Nên Đức Giêsu không ngần ngại để sống với những người nghèo hèn, cảm thông cho những người tội lỗi và ăn uống với họ, đồng thời, luôn coi họ như những người bạn, sẵn sàng đứng về phía họ để bênh đỡ, chở che.

Tinh thần và lối sống đó hôm nay được Đức Giêsu chính thức chúc phúc, và qua đó như một lời mời gọi mọi người đi theo con đường đó để được hạnh phúc: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi”.

Phải chăng Đức Giêsu là người cổ hủ, lỗi thời khi cổ súy cho cái nghèo? Hơn nữa, Ngài lại còn mời gọi những ai muốn đi theo và làm môn đệ cũng phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực?

Thưa! Hẳn là không! Qua mối phúc này, Đức Giêsu muốn cho con người được hạnh phúc hoàn toàn, khi không bị chi phối bởi lòng ham muốn tiền bạc, vì nếu mê mẩn với chúng thì sẽ trở thành nô lệ cho tiền bạc.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng tâm hồn lên Đức Giêsu và quy chiếu cuộc đời của ta với Ngài, để vui mừng khi được sống tinh thần nghèo khó như Ngài.

Một cách cụ thể, đó là sống hết mình và hiến thân trọn vẹn cho tha nhân, nhất là những người bần cùng trong xã hội.

Cần phải xác định thật rõ rằng: gia tài đích thực của chúng ta là Thiên Chúa. Giá trị lớn lao nhất là sống cho Thiên Chúa qua cung cách phục vụ tha nhân. Cùng đích của con người không phải là của cải chóng qua đời này mà là cuộc sống mai hậu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương Chúa để mặc lấy tâm tình nghèo khó như Ngài, ngõ hầu chúng con được tự do để dấn thân phục vụ người nghèo cách vô vị lợi như Chúa khi xưa. Amen.

Về mục lục

.

CÁC MỐI PHÚC, LỜI HỨA THÀNH HIỆN THỰC

Martin Lê Hoàng Vũ

Bài Tin Mừng hôm nay Thánh sử Luca thuật lại việc Chúa Giêsu công bố các mối phúc. Cả hai thánh sử Luca và Matthêu đều ghi lại bài giảng này, nhưng mỗi người lại có một lối viết riêng, rất độc đáo và có tính bổ sung cho nhau nhằm cung cấp cho các độc giả Kitô hữu những bài học cụ thể trong đời sống đức tin.

  1. Các mối phúc theo Tin Mừng:

Các mối phúc của Tin Mừng thánh Luca ghi lại hướng trực tiếp đến những người nghèo, những hoàn cảnh đáng thương vì thiếu cơm ăn áo mặc, những người thấp cổ bé miệng bị xã hội bạc đãi, những nạn nhân của bất công. Họ lại được Thiên Chúa yêu thương, hứa ban hạnh phúc Nước Trời. Có thể nói Tin Mừng Luca là Tin Mừng của người nghèo, cái nhìn của Luca là suốt cuộc đời hoạt động của Chúa Giêsu, Ngài luôn ưu tiên dành chỗ cho người nghèo. Bên cạnh đó, các mối phúc theo Tin Mừng Mátthêu lại mang nặng tính luân lý hơn. Khi nói đến người nghèo, Matthêu cho thấy con người được vào Nước Trời không phải là những người ở trong tình trạng thiếu thốn phương tiện vật chất, nhưng lại do tình trạng sở hữu. Thánh sử Mátthêu nhấn mạnh đến những cơn đói khát tinh thần của con người, đói khát công lý, bác ái và hòa bình viên mãn.

Tóm lại cả hai thánh sử đều muốn khẳng định rằng: Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo trong các mối phúc không phải là thiên đàng trong thế giới tương lai đang đến. Những thực tại Nước Trời được xem như là những giá trị bền vững như công bình, bác ái, liên đới. Đó là Nước Trời mà suốt cả cuộc đời người Kitô hữu luôn kiếm tìm và xây dựng.

  1. Phúc cho người nghèo khó:

Đối với Chúa Giêsu, nghèo hay giàu không phải là cái tội. Của cải, danh vọng và chức quyền tự nó không có gì trái ngược với Tin Mừng. Nhưng Chúa Giêsu trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng luôn cảnh cáo những thái độ làm cho con người trở thành nô lệ. Một cuộc sống nghèo túng có thể là cạm bẫy, những sinh hoạt hằng ngày có thể biến con người thành ngu dại, chỉ biết nhìn thấy miếng cơm manh áo mà quên đi ý nghĩa cùng đích của đời người. Một cuộc sống thiếu thốn vật chất dễ nảy sinh những tật xấu như chúng ta thường nói với nhau “Bần cùng sinh đạo tặc”.

Ngoài ra, sự giàu có cũng có thể là sợi dây trói buộc lòng quảng đại của con người, phát sinh tính ích kỷ và biến cuộc sống trở thành khép kín. Khi công bố các mối phúc Chúa Giêsu không khuyến khích một thái độ sống vô lo, thiếu trách nhiệm hay phó mặc cuộc đời cho số phận may rủi. Vì đó cũng không phải là thái độ đích thực mà Tin Mừng muốn dạy chúng ta.

Trong bài đọc 1 hôm nay, qua miệng Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Thiên Chúa muốn nói rằng: Ai cũng cần phải lớn lên trong trách nhiệm và tự do. Nhưng không vì thế mà chúng ta chối bỏ sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa. Hơn bất cứ ai, Ngài chính là điểm tựa vững chãi của đời người. Bởi đó chúng ta đừng đi tìm kiếm điều gì khác ngoài Ngài, đừng cậy dựa vào sức riêng của mình mà rời xa Thiên Chúa. Chính khi biết đặt niềm tin vào Thiên Chúa, con người sẽ tìm được hạnh phúc đích thực. Đó là bí quyết hạnh phúc Chúa muốn truyền lại cho mỗi người Kitô hữu hôm nay. Tất cả chúng ta điều là những người nghèo của Thiên Chúa. Trước mặt Thiên Chúa là Đấng giàu sang phú quí vô cùng, chúng ta đâu có gì để mà tự hào khoe khoang, nếu chúng ta có gì cũng đều là của Chúa ban cho mà thôi. Chính vì thế chúng ta hãy tin tưởng ở Chúa, hãy tìm đến với Ngài để được Ngài ban cho hạnh phúc. Thực tế cho thấy, ngày nay trong khi con người đi tìm kiếm lợi lộc trần thế họ dễ có nguy cơ tách cuộc đời mình ra khỏi Chúa và chỉ phụ thuộc vào vật chất. Suốt cả cuộc đời con người luôn tìm kiếm giàu sang, danh tiếng, chức quyền nhưng họ đâu có biết đi tìm chính Thiên Chúa là nguồn mạch của tất cả mọi sự.

  1. Nước Trời, nước tình yêu:

Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu đã sống nghèo, Ngài đứng về phía những người nghèo, tuy nhiên Ngài không lấy việc san bằng xã hội làm mục tiêu tranh đấu. Ngài chỉ luôn nhắc nhở con người rằng: Giá trị đích thực của mỗi người không phải là những gì nó có mà là do cái nó là, có nghĩa là chỉ có tình yêu mới làm nên giá trị đích thực của con người mà thôi.

Theo các mối phúc của Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu không hứa hẹn một thiên đàng ngay tại trần thế này, Ngài cũng không loan báo một Nước Trời xa lạ với trần thế. Thực ra Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo thiết yếu là nước tình yêu, nước của liên đới và chia sẻ.

Chính khi biết sống yêu thương, công bình, bác ái trong đời sống chúng ta mới hiểu được Nước Trời là gì. Khi biết tận hưởng niềm hân hoan, hòa bình chúng ta mới khám phá ra thế nào là niềm hạnh phúc đích thực. Và khi được quyền sống, được quyền thể hiện và phát triển phẩm giá của mình một cách trọn vẹn nhất thì chính lúc đó các mối phúc Thiên Chúa ban, qua Chúa Giêsu sẽ trở thành hiện thực.

Như vậy các mối phúc không phải là một lời hứa hão, không phải là chuyện ảo tưởng, viễn vông,nhưng là một sự thật hiển nhiên, điều sẽ đến với mỗi người, rất gần gũi với chúng ta, bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói “Nước Thiên Chúa ở giữa anh em”.

Lạy Chúa Giêsu. Khi công bố các mối phúc Chúa hứa ban Nước Trời cho những người nghèo khó, Chúa mời gọi chúng con sống tinh thần khó nghèo là biết tận dụng những gì Chúa ban để sinh lợi ích cho mọi người, chứ không bo bo giữ cho riêng mình. Xin cho chúng con biết yêu thương, liên đới và chia sẻ với người nghèo, những người đang cần chúng con giúp đỡ, những nạn nhân của bất công xã hội để chúng con được Chúa yêu thương chúc phúc và hừa ban Nước Trời. Amen.

Về mục lục

.

PHÚC CHO NGƯỜI NGHÈO KHÓ

Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

So sánh với Bài giảng trên núi trong Matthêô (5:1-7.29), bài giảng trong Luca ngắn hơn và diễn ra trên một chỗ đất bằng và có rất nhiều điểm khác biệt khác (6:17. 20-26). Bốn mối phúc trong Luca nói đến những thiếu thốn cụ thể: nghèo nàn, đói khát, khóc lóc, và bị ghét bỏ. Đoạn 6:20-26 nằm trong văn mạch của diễn từ dành cho các môn đệ (6:17-49), vì họ vừa được qui tụ thành nhóm (6:12-16). Đoạn nầy có thể phân chia làm hai phần đối xứng nhau: 1 – Bốn mối phúc (6:20-23); 2 – Bốn lời chúc dữ (6:24-26). Thính giả trực tiếp của bài giảng nầy là đám đông các môn đệ: “Ngước mắt lên nhìn các môn đệ, Người nói..” (6:20). Như thế, những gì Người sắp nói cho họ phải được hiểu trong tương quan làm môn đệ của Chúa Giêsu. Các mối phúc khác có thể tìm thấy rãi rác trong tin mừng Luca (1:45; 7:23; 10:23; 11:27.28; 12:37.43; 14:15; 23:29; Cv 20:35; ). “Phúc cho…” là từ diễn tả sự ca ngợi, qui chiếu về một điều may mắn chẳng hạn con mắt (Lc 10:23), cái dạ mẹ (23:29), tuy nhiên phần lớn qui chiếu về một người được sủng ái, chúc phúc, may mắn. Thiên Chúa là nguồn của mọi phúc lành ban cho họ (x. 1 Tt 6:15). Và “Khốn cho…” là tiếng ta thán diễn tả sự đau buồn hoặc than phiền hơn là một lời chúc dữ hoặc kết án.

Mối phúc thứ nhất là “Phúc cho người nghèo vì Nước Thiên Chúa thuộc về họ” (6:20); đối lại “Khốn cho người giàu vì họ đã được sự an ủi” (6:24). Luca không dùng chữ “nghèo trong tinh thần” như trong Matthêô (x. Mt 5:3). “Người nghèo” (ptōchos) theo nguyên ngữ chỉ một người sợ hãi vô cùng đến nỗi phải che dẩu mình. Họ thường lẩn tránh và không ở một nơi nào nhất định. Từ đó, chữ nầy chỉ đến người ăn xin, túng thiếu (x. Cv 4:34).

Thế nào là người nghèo? Luca không định nghĩa “người nghèo”, mà chỉ cho thấy cách hành động của người nghèo để được Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu là người nghèo vì Người đã “trở nên không” (kenoō) vì Chúa Cha (x. Phip 2:7), đến nỗi Người chẳng còn nơi để tựa đầu (9:58). Các môn đệ là nghèo vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Người (5:11; 18:28). Bà góa được gọi là nghèo không phải vì bà chỉ có hai xu, trong thực tế có thể bà giàu hơn người chỉ có một xu hoặc chẳng có gì hết, mà vì bà đã bỏ tất cả hai xu ấy vào hòm dâng cúng cho Thiên Chúa (21:3); trong khi người được Chúa Giêsu mời gọi bán của cải tất cả mà cho người nghèo được gọi là giàu và “có nhiều của cải”, là vì người ấy từ chối từ bỏ và “trở nên không” để có thể đi theo Người (18:22). Vậy người nghèo được đặt trong tương quan với Chúa Giêsu, chứ không phải với những gì họ đang có hoặc với người khác khi so sánh về tài sản.

Mối phúc thứ nhất nầy được kết cấu bằng hai mệnh đề, mà mệnh đề phụ có chức năng cắt nghĩa mệnh đề trước: không phải vì nghèo mà người môn đệ có phúc, nhưng vì họ được Nước Thiên Chúa như là kết quả của việc từ bỏ mọi sự. Động từ “là” ở thì hiện tại trong mệnh đề phụ muốn chỉ đây là một quả quyết, chứ không phải là một lời hứa. Điều nầy trở nên định luật cho những ai muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu là phải “từ bỏ những gì mình có” (14:33); trái lại, nếu không từ bỏ để trở nên nghèo như Người, không thể làm môn đệ của Người, như trường hợp người giàu có. Đàng khác, chỉ khi nghèo mới để mình lệ thuộc hoàn toàn vào sự trợ giúp của người khác, đến bất cứ lúc nào và từ bất cứ hướng nào. Đặc điểm nổi bật của họ là đón nhận dễ dàng hơn người giàu. Họ dễ chấp nhận vào dự tiệc hơn bội phần những người giàu có đã được mời (x. 14:13.21). Và cũng cho đi cách dễ dàng và quảng đại hơn những người giàu. Xem xét sự quảng đại của bà goá (x. 21:3) và sự từ chối của người giàu có (18:22). Vậy, mối phúc của người nghèo là được Nước Thiên Chúa làm của mình, vì họ đã từ bỏ mọi sự để làm môn đệ của Chúa Giêsu; khác với những người giàu là tìm và hưởng những an ủi do sự giàu có mang lại (x. 6:24).

Câu 6:21 nói đến hai mối phúc “đói-no” và “khóc-cười” (6:21). Chúng được xem như là biểu hiện và hậu quả của cái nghèo. Luca liên kết cái nghèo với sự thiếu thốn thực phẩm: Lazarô vì nghèo nên không có gì để ăn (x. 16;21); trái lại, ông phú hộ thì tiệc tùng linh đình mỗi ngày (16:19). Luca xác định thời điểm hiện tại “bây giờ” (6:21[2x]) vừa để cho thấy là sự đau khổ của cái đói và khóc lóc chỉ là tạm thời chứ không trường cửu; đồng thời cho thấy sự tương phản của tình trạng hiện tại với điều sẽ đến khi Thiên Chúa can thiệp vào. Do đó, sự no đầy và vui cười của những người đang hưởng bây giờ cũng tạm thời; cái đói khát và khóc lóc sẽ đến ngay với họ (x. 6:24). Những câu chuyện được ghi lại trong tin mừng Luca cho thấy những người đang khóc lóc là những người đang sầu khổ: bà góa thành Naim (7:13), ông Giairô (8:51-51), người đàn bà tội lỗi (7:38), Phêrô (22:62). Và chính khi họ đang khóc lóc, Chúa Giêsu can thiệp và biến đổi sự khóc lóc ấy thành tiếng cười khi thấy người con sống lại, hoặc biết tội lỗi đã được tha. Đối lại mối phúc nầy (6:24), Luca dùng thêm chữ “than khóc” (x. Mt 5:4; 9:15) bên cạnh chữ “khóc” để nhấn mạnh tình trạng trầm trọng đảo ngược của những người bây giờ đang vui cười. Động từ “no đầy” ở thể thụ động cho thấy chính Thiên Chúa là người làm hành động nầy. Đồng thời cả hai hành động “được no đầy” và “cười” đều ở thì tương lai, hướng về một sự can thiệp từ phía Thiên Chúa sẽ đến. Vậy, hai mối phúc nầy không xây dựng trên sự đói khát thể lý hoặc thiêng liêng và trên những đau buồn đang xảy ra (x. Mt 5:6), mà trên sự can thiệp quyền năng của Chúa Giêsu, “Người đã đổ đầy cho người đói những điều tốt lành” (1:53).

Sự chúc phúc bằng việc sở hữu Nước Thiên Chúa đã bắt đầu ngay bây giờ cho những ai trở nên nghèo như Chúa Giêsu: Maria (1:48), Simêôn (2:29), Phêrô (5:10), Lazarô (16:25) và ngay cả Con Người (22:69).

Về mục lục

.

PHÚC CHO ANH EM LÀ NHỮNG KẺ NGHÈO KHÓ

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG:  Lc 6,17.20-26

(17) Đức Giê-su đi xuống cùng với các ông. Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đon đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật. (20) Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. (21) Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. (22) Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa. (23) Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa. Vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các Ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế. (24) Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. (25) Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than. (26) Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế.

  1. Ý CHÍNH: PHÚC CHO KẺ NGHÈO KHÓ

Bài Tin mừng Lu-ca hôm nay ghi lại bài giảng khai mạc của Đức Giê-su tương đương với Tám Mối Phúc Thật trong Tin mừng Mát-thêu. Nội dung được tóm lại như sau:

– BỐN LỜI CHÚC PHÚC (c 20-23) : Phúc cho những kẻ nghèo hèn, đói khát, ưu sầu và bị bách hại, vì bây giờ Chúa đến thiết lập Nước Thiên Chúa, họ sẽ được đền bù những thiệt thòi kia bằng ơn cứu độ và hạnh phúc đời đời

– BỐN LỜI THỞ THAN (c 24-26) : Đây là những lời cảnh báo và ngăm đe đối với những kẻ đang sống trong giàu có, được no đầy, vui cười và được ca tụng, vì những điều ấy sẽ không còn nữa khi Nước Thiên Chúa đến trong Ngày của Chúa. Bấy giờ kẻ giàu có sẽ hóa nên trắng tay, kẻ no nê sẽ phải chịu đói khát, kẻ vui cười sẽ phải chịu khổ đau, kẻ được vinh dự trước mặt người đời sẽ bị tước đọat tất cả.

  1. CHÚ THÍCH:           

– C 20-21: +Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó…: Nghèo khó ở đây là sự nghèo về tiền bạc vật chất, khác với Tin mừng Mát-thêu nói về sự nghèo khó trong tâm hồn. Nghèo khó còn được hiểu là sự bé mọn (x. Lc 10,21), khiêm nhường tự hạ (x. Lc 14,11), là thái độ không dựa vào thế lực của tiền bạc, mà chỉ biết tín thác vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. +Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói…: Sự đói khát và no thỏa ở đây cần hiểu theo chiều hướng cánh chung hay thế mạt. +đang phải khóc…: Người ta cần phải biết đón nhận đau khổ gặp phải hằng ngày trong mầu nhiệm tình thương cứu độ của Thiên Chúa.

C 22-23: +Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa: “Bị xóa tên như đồ xấu xa” nghĩa là bị bôi nhọ thanh danh. +Hãy vui mừng nhảy múa: vì Chúa đến sẽ thiết lập một Trời Mới Đất Mới (x. Kh 21,1), và sẽ đền bù cho những ai đang bị thiệt thòi bằng ơn cứu độ.

C 24-26: +Khốn cho các ngươi…: Bốn lời tuyên bố nói đây song đối với bốn mối phúc ở trên. Đây không phải là những lời nguyền rủa, nhưng chỉ là sự xác nhận, than thở và ngăm đe, nhằm kêu gọi người ta ăn năn hối cải để thay đổi đời sống. +Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có: Lời kêu gọi người giàu có phải hồi tâm sám hối, vì không thể cùng lúc làm tôi hai chủ là Thiên Chúa và tiền bạc được (x. Lc 16,13). +Khốn cho các ngươi bây giờ đang được no nê, đang được vui cười: Đức Giê-su cảnh báo về một sự đảo ngược tình thế: No nê bây giờ, nếu không chịu chia sẻ cơm bánh cho người nghèo thì sau này chính mình sẽ bị đói khát! Vui cười hôm nay, cần phải đề phòng mai ngày sẽ phải khóc than! +Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng: Nếu kẻ nào chỉ lo tìm kiếm hư danh cho mình ở đời này, nếu không sống theo sự chân thật công chính, thì số phận sau này của họ sẽ phải chịu đau khổ nhục nhã mà bọn ngôn sứ đạo đức giả sẽ phải gánh chịu!

  1. CÂU HỎI: Tại sao Đức Giê-su lại chúc phúc cho những kẻ nghèo khó tiền bạc, những kẻ đang chịu đói khát, khóc lóc sầu khổ và bị người đời thù ghét bách hại, là những điều không ai mong muốn và thường mang lại sự bất hạnh ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” (Lc 6,20).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) GIÁ TRỊ TƯƠNG ĐỐI CỦA TIỀN BẠC:

Một cuộc khảo sát do Đại Học PO-LY-TECH-NIC ở Hong Kong thực hiện phỏng vấn 2,000 người giúp việc Philippines ở Hong Kong và 300 ông bà chủ của họ. Kết quả là 92% người giúp việc Phi cảm thấy “hạnh phúc” hơn các ông bà chủ của họ.

– Tuy nhiên, khi hỏi nếu được hoán đổi vị trí xã hội để trở thành ông bà chủ, thì 100% các chị em ô-sin đều sẵn sàng hoán đổi, dù họ biết rất rõ là các người chủ của họ hàng ngày phải lo lắng đối phó với bao điều phức tạp như: Bị căng thẳng do áp lực của công việc kinh doanh, lúc nào cũng lo xem chỉ số chứng khoán lên xuống, nên không có giờ vui chơi giải trí hay giao tiếp với người thân, luôn phải suy nghĩ để cải tiến kỹ thuật giúp công ty tồn tại và phát triển…

– Ngược lại, khi hỏi các ông bà chủ có muốn hoán đổi vị trí để trở thành ô-sin không, thì 100% đều dứt khoát trả lời “không bao giờ”, dù trước đó họ vừa công nhận là những người giúp việc đang sống “hạnh phúc” hơn họ nhiều.

Như vậy tiền bạc tuy có giá trị vì là thành quả của tài trí khôn ngoan và lao động chăm chỉ. Nhưng giá trị của tiền bạc cũng chỉ là tương đối, dễ bị tiêu tan và không phải lúc nào cũng đem lại hạnh phúc… như tựa đề một cuốn phim: “Người giàu cũng khóc !”. Chính thái độ đối với tiền bạc mới là nguyên nhân làm cho người ta được hạnh phúc hay bị bất hạnh. Người nghèo tiền bạc vẫn có thể hạnh phúc nếu biết quan tâm chia sẻ cho tha nhân những gì mình đang có. Và người giàu cũng có thể bị bất hạnh nếu coi đồng tiền là ông chủ và tìm mọi cách để sở hữu nó càng nhiều càng tốt. Chính khi biết quên mình để lo tìm hạnh phúc cho tha nhân bằng việc chia cơm xẻ áo cho những người nghèo ở bên cạnh như lời Chúa dạy: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35).

2) CHIẾC QUẦN LÓT CỦA GÃ CHĂN CHIÊN HẠNH PHÚC:

Một ông vua kia có đủ mọi thứ của cải trên đời: Nào là cung điện nguy nga tráng lệ, vàng bạc chất đầy kho, ăn uống no say với đủ thứ cao lương mỹ vị, lại có cả một đoàn hầu thiếp mỹ nữ phục vụ ngày đêm… Thế mà nhà vua vẫn không cảm thấy được hạnh phúc. Vua ngày một bị buồn phiền không thiết đến việc ăn uống đến bị phát bệnh. Các thày thuốc giỏi trong triều đình ngày đêm chữa trị cho nhà vua nhưng tất cả đều bó tay. Cuối cùng một vị thần y đã được phát hiện và được cấp thời triệu vời vào hoàng cung chũa bệnh cho nhà vua. Sau khi thăm mạch, vị danh y cho biết Đức vua chỉ bị tâm bệnh, không cần dùng thuốc, mà chỉ cần mặc được chiếc quần lót của người nào thực sự hạnh phúc là bệnh sẽ lập tức khỏi ngay. Một đoàn thái y được sai đi khắp nơi để tìm kiếm con người hạnh phúc để lấy chiếc quần lót mang về trị bệnh cho nhà vua. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp nơi nhưng đoàn vẫn không sao tìm ra được người nào thực sự hạnh phúc, nên viên quan trưởng đoàn đành quyết định quay về triều chịu tội. Một hôm khi đi ngang qua một cánh đồng cỏ thì đột nhiên đoàn thái y nghe thấy có tiếng ca hát rất hồn nhiên vui vẻ. Lần theo tiếng hát thì đoàn thái y gặp một gã chăn chiên nằm dưới gốc cây đa và đang nghêu ngao ca hát. Khi được hỏi, gã chăn chiên cho biết dù luôn sống nghèo khó, nhưng lúc nào gã cũng thấy hạnh phúc. Đoàn người liền vui mừng hè nhau trói gã lại, lột chiếc áo khoác cũ kỹ gã đang mặc trên người để tìm lấy chiếc quần lót đem về cho nhà vua chữa bệnh. Thế nhưng thật bất ngờ: Gã chăn chiên này lại nghèo đến nỗi ngoài chiếc áo khoác sờn rách đang mặc, trên người gã chẳng còn bất kỳ thứ quần áo nào ngay cả một chiếc quần lót !

Nhiều người nghĩ rằng, chỉ những người giàu sở hữu nhiều của cải mới được hạnh phúc. Vì thế, họ không thỏa mãn với số tài sản đang có, và luôn tìm mọi cách để của cải ngày một gia tăng.  Đang khi thực ra hạnh phúc không hệ tại sở hữu nhiều tiền bạc của cải mà bắt nguồn từ sự bình an nội tâm như lời Chúa dạy: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời sẽ là của họ” (Mt 5,3).

3) KHI TIỀN VÀO NHÀ THÌ CHÚA ĐI RA:

Có một đôi vợ chồng tá điền kia làm công cho một ông lãnh chúa giàu có. Hai vợ chồng tuy nghèo nhưng rất có lòng đạo đức: Ngày nào cũng vậy, cả hai đều thức giấc khi gà vừa gáy sáng và dâng giây phút đầu ngày tạ ơn chúc tụng Thiên Chúa. Trong ngày dù phải chịu vất vả làm việc nắng nôi, họ cũng không quên hát những bài thánh ca quen thuộc. Trước và sau bữa ăn đạm bạc, cả hai đều có những lời cầu nguyện sốt sắng. Ngày nào họ cũng đọc kinh tối: ăn năn sám hối tội lỗi và đọc 50 kinh Mân côi dâng kính Đức Mẹ rồi phó thác hồn xác cho Chúa trước khi nghỉ đêm. Tiếng lành về lòng đạo đức của đôi vợ chồng tá điền đã đến tai ông lãnh chúa. Ông ta quyết định thử để biết nếu đôi vợ chồng này giàu lên thì họ có còn giữ được lòng đạo đức như hiện tại hay không ?

 Một hôm chờ lúc đêm khuya ông lãnh chúa sai đầy tớ bí mật mang một hòm tiền đựng 100 đồng vàng đến để trước cửa nhà của đôi vợ chồng tá điền rồi quan sát động tĩnh. Hôm ấy khi nghe tiếng gà gáy sáng, theo lệ thường hai vợ chồng bác nông dân liền thức dậy đọc kinh râm ran rồi ăn sáng qua loa trước khi ra đồng làm việc. Chợt anh chồng phát hiện ra một chiếc hòm rất đẹp nằm ngay trước cửa nhà. Anh liền gọi vợ ra khiêng vào nhà. Cả hai rất đỗi ngạc nhiên khi mở hòm ra đếm được tới 100 đồng tiền vàng, một tài sản lớn lao mà không bao giờ hai người dám mơ ước. Thế là họ không đi làm như mọi khi mà ở nhà bàn nhau cách cất giấu hòm tiền vàng. Họ hết đào góc nhà lên chôn hòm tiền vàng xuống, rồi lại moi lên mang cất giấu chỗ khác trong nhà vì không yên tâm. Buổi trưa hôm ấy họ không cảm thấy đói và bỏ ăn luôn cả bữa chiều. Đến tối họ cũng không còn đọc kinh râm ran như mọi khi và lúc nào cũng thắc mắc hòm tiền kia của ai và lý do tại sao xuất hiện trước cửa nhà mình. Ba ngày sau, do ăn uống thất thường và tâm trạng quá lo lắng, nên sức khỏe suy kiệt và cả hai vợ chồng đều nằm liệt giường với chiếc hòm tiền được cất giấu ngay dưới gầm giường.

Tất cả thái độ và cách ứng xử của đôi vợ chồng đều được gia nhân báo cáo cho ông lãnh chúa nên ba ngày sau, ông liền đến nhà đôi vợ chồng tá điền thăm hỏi và báo tin nhà ông bị trộm mất một hòm tiền vàng. Lúc đầu cả hai vợ chồng đều chối, nhưng một phần vì sợ bị đi tù và phần khác biết không thể tiếp tục dấu được mãi, nên hai vợ chồng đành phải thành thật khai báo đã cất giữ hòm tiền vàng ra sao và xin được hoàn lại chủ cũ để tránh sự tù tội. Từ ngày đó, do không còn lo lắng về tiền của bất minh nên hai vợ chồng bác nông dân đã dần dần bình tâm trở lại và tiếp tục thói quen cầu nguyện chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa như trước. Từ nay họ bằng lòng với hòan cảnh hiện tại và đã rút ra bài học này: “Khi tiền vào nhà thì Chúa đi ra!”.

  1. THẢO LUẬN: Mỗi người chúng ta phải làm gì để góp phần xóa đói giảm nghèo, thăng tiến và phát triển con người ngay từ trong gia đình ra đến môi trường xã hội ta đang sống ?
  2. SUY NIỆM:

1) Con người sinh ra là để được sống hạnh phúc: Cuộc đời mỗi người là một cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc. Người đời thường coi hạnh phúc bắt nguồn từ sự giàu sang phú quý, có danh thơm tiếng tốt và quyền cao chức trọng… Thế nhưng Đức Giê-su lại chúc phúc cho những kẻ nghèo khó! Thế nhưng Người không đề cao sự bần cùng, vì “bần cùng sinh đạo tặc!”.

2) Đức Giê-su đã thực hiện các mối phúc: Người đã làm nghề thợ mộc vất vả để kiếm sống; Người đã bị rơi vào vảnh đói khát sau khi ăn chay 40 ngày. Người đã nhỏ lệ khóc thương bạn thân là anh La-da-rô mới chết; Trong cuộc khổ nạn, Người chấp nhận mọi đau khổ, xỉ nhục, đòn vọt và chịu đóng đinh chân tay vào thập giá… Nhưng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Người vẫn luôn hạnh phúc vì đã bỏ đi ý riêng để vâng theo thánh ý Chúa Cha…

3) Đức Giê-su đến để xóa bỏ các đau khổ bất công: nhân loại đang giàu có đã trở nên nghèo khó, đang sung sướng hạnh phúc lại phải chịu đau khổ bệnh tật và còn phải chết là do tội lỗi đã phạm, bắt đầu từ tội tổ tông truyền và sau đó là tội của tất cả mọi người. Đức Giê-su đến để chia sẻ thân phận nghèo khó ấy để mở ra con đường cứu độ giúp loài người chúng ta lại được ơn nghĩa với Thiên Chúa như thánh Phao-lô đã dạy: “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã hóa nên nghèo khó vì anh em, để lấy sự nghèo khó của mình mà làm cho anh em nên giàu có” (x. 2 Cr 8,9). Người đến ban ơn cứu độ bằng việc: xua trừ ma quỷ, tha thứ tội nhân, mở mắt người mù, mở tai kẻ điếc, cho kẻ què được đi, người câm nói được, phục sinh kẻ chết, mở xiềng xích cho các tù nhân và công bố Năm Hồng Ân của Thiên Chúa (x Lc 4,18-21).

4) Chúng ta phải làm gì ? Hôm nay Đức Giê-su muốn các tín hữu chúng ta tiếp tục sứ mệnh cứu độ bằng cách thay Người thăm viếng chia sẻ tiền bạc cho những bệnh nhân nghèo khó tại các bệnh viện, những trẻ em đường phố … Người muốn chúng ta cộng tác với những người thiện chí để xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ các tệ nạn xã hội như: mê tín, mù chữ, sì-ke ma túy, đĩ điếm…, tạo công ăn việc làm cho những người thất nghiệp, sản xuất nhiều của cải phục vụ xã hội… Người muốn chúng ta sống có nhân cách: “Đói cho sạch, rách cho thơm”.

Tóm lại, Đức Giê-su đã tự nguyện sống khó nghèo, để nêu gương chịu đựng gian khổ và góp phần biến đổi thế giới đau khổ hiện tại nên Trời Mới Đất Mới như sách Khải huyền đã tiên báo: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt của họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).

  1. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sao Chúa lại sinh ra trong thân phận người nghèo? Đói nghèo cực khổ lắm như Chúa đã quá biết : Vừa bị túng thiếu đói khát lại vừa phải sống vất vả nhọc nhằn, và còn bị người khác khinh dể. Thật là thiệt thòi đủ thứ! Chúa chọn sống nghèo như thế làm chi ? Nếu không phải là Chúa, thì thế nào người ta cũng sẽ chê cười và coi Chúa là kẻ khờ dại dở hơi thôi!

– LẠY CHÚA. Chúa đã chúc phúc cho người nghèo không phải để họ tiếp tục sống trong sự bần cùng nghèo khổ. Sứ mệnh của Chúa đến là để thiết lập Nước Trời, một “Trời Mới Đất Mới” công bình và hạnh phúc. Trong đó mọi người yêu thương nhau và chia sẻ tình thương cho nhau. Chúa đến nhằm tái lập “công lý và hòa bình”, để cất đi những sự thiệt thòi bất công mà người nghèo phải gánh chịu. Xin cho chúng con ý thức trách nhiệm của mình là phải sống vị tha, quảng đại chia sẻ cơm bánh vật chất cho người nghèo và làm cho xã hội chúng con đang sống ngày một ấm no hạnh phúc hơn và công bình nhân ái hơn.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

Về mục lục

.

ĐỐI LẬP

Trầm Thiên Thu

Đối lập là tình trạng trái ngược nhau, đối nghịch, bất đồng, mâu thuẫn. Phải có ít nhất hai thứ (người, vật, phe, hướng,…) mới xảy ra tình trạng đối lập, chỉ một thì không thể. Trong mọi lĩnh vực, cụ thể và trừu tượng, đều có nhiều thứ đối lập: cao – thấp, dài – ngắn, vuông – tròn, trắng – đen, đẹp – xấu, tốt – xấu, hay – dở, khôn – dại, yêu – ghét, thiện – ác, phúc – họa, sinh – tử. Và còn nhiều thứ khác…

Một trong các cặp đối lập “nổi bật” liên quan tinh thần là cặp đôi “phúc – họa”, được đề cập trong Gr 17:5-8. Chính Đức Chúa đã tuyên phán: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa!”. Đó là cái họa lớn nhất và nguy hiểm nhất.

Tại sao nguy hiểm? Như một cách giải thích, cũng chính Đức Chúa cho biết: “Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa CHẲNG ĐƯỢC THẤY hạnh phúc bao giờ, hạnh phúc có đến cũng CHẲNG NHÌN RA, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn không một bóng người”. Người ta nói đó là tình trạng “có mắt mà không tròng” hoặc “có mắt mà như mù”. Thế thì thật nguy hiểm và đáng sợ, vì đó là đại họa!

Ngược với cái họa là cái phúc. Chắc chắn chẳng có phúc nào bằng phúc của Thiên Chúa trao ban: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái”. Thánh Vịnh gia so sánh tín nhân như cây tươi tốt vì đủ nguồn nước để phát triển, rất dễ hiểu và thực tế. Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).

Thánh Vịnh gia nói tới “hai con đường” liên quan Phúc – Họa: “Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng, nhưng vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày” (Tv 1:1-2). Cách so sánh cũng rất cụ thể: “Người ấy tựa cây trồng bên dòng nước, cứ đúng mùa là hoa quả trổ sinh, cành lá chẳng khi nào tàn tạ. Người như thế làm chi cũng sẽ thành. Ác nhân đâu được vậy: chúng khác nào vỏ trấu gió thổi bay” (Tv 1:3-4).

Nguyên nhân thế nào thì hệ quả như vậy, chúng ta gọi là nhân – quả. Và hệ lụy là điều tất yếu và minh nhiên: “Vì Chúa hằng che chở nẻo đường người công chính, còn đường lối ác nhân đưa tới chỗ diệt vong” (Tv 1:6). Cái gì Tốt thì Lành, dù cụ thể hay trừu tượng. Vấn đề tâm linh cũng không ngoài quy luật tất yếu như vậy.

Qua trình thuật 1 Cr 15:12, 16-20, Thánh Phaolô đề cập cặp đối lập đặc biệt nhất: Sinh – Tử. Thánh nhân đặt vấn đề: “Nếu chúng tôi rao giảng rằng Đức Kitô đã từ cõi chết trỗi dậy thì sao trong anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại?”. Sống hôm nay, chết ngày mai, rồi chấm hết. Nếu chỉ thế thôi thì cũng không hơn gì cây cối và thú vật, người ta không gì phải lo sống tốt hay xấu. Cứ xả láng rồi sáng về sớm cũng chẳng sao.

Thánh Phaolô giải thích: “Vì nếu kẻ chết không trỗi dậy thì Đức Kitô cũng đã không trỗi dậy. Mà nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”. Ôi, tội nghiệp thật. Và chỉ như thế thì chán thật, cũng chẳng có gì để người ta phải cố gắng chi cho mệt.

Nhưng không phải thế! Nhân quả của con người khác hẳn thảo vật và động vật: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại”. Đó mới là chuyện đáng nói, đáng nỗ lực không ngừng. Nếu sinh – tử theo kiểu luân hồi thì cũng chẳng đáng quan ngại, vì cứ như vòng tuần hoàn thì không gì phải lo lắng cho nhọc óc, nghĩa là cứ “vô tư”. Thế nhưng không như thế, cho nên cứ “vô tư” thì hóa “đại ngu”, ta tự hại mình!

Trình thuật Lc 6:17, 20-26 (≈ Mt 5:1-12) đề cập một cặp khác cũng đặc biệt: Phúc – Họa. Hôm đó, Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông, Ngài dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Ngài, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn. Chúa Giêsu nói hai vấn đề:

Thứ nhất là các MỐI PHÚC (Lc 6:20-23 ≈ Mt 5:3-10). Thánh Mátthêu cho biết đầy đủ chi tiết hơn, gọi là Bát Phúc, còn Thánh Luca tóm tắt thành Tứ Phúc: “Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: PHÚC cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. PHÚC cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. PHÚC cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. PHÚC cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế”.

Thứ nhì là các MỐI HỌA (Lc 6:24-26 ≈ Mt 5:11-12), Thánh Luca phân định thành Tứ Khốn: “KHỐN cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. KHỐN cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. KHỐN cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than. KHỐN cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế”.

Cách phân định của Thánh sử Luca tạo thành hai vế đối cân bằng: Tứ Khôn và Tứ Khốn. Phải chịu khốn vì không sống khôn, nếu sống khôn thì tránh được cái khốn – cái họa. Liên quan sự khôn ngoan có truyện “Bán Sự Khôn Ngoan” thế này:

Một ngày nọ, hiền triết Diogène (Hy Lạp) đến giữa chợ Athènes và dựng lên một căn lều với tấm bảng ghi đậm hàng chữ: “Ở đây có bán sự khôn ngoan”.

Một bậc khoa cử tình cờ đi qua căn lều, đọc được lời rao và cười thầm trong bụng. Muốn biết phía sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.

Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ. Anh ta đưa cho Diogène 3 hào và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào túi, hiền triết Diogène vẫn thản nhiên và ôn tồn nói với người đầy tớ: “Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này: ‘Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến Cùng Đích’. Vậy nhé!”.

Vị khoa cử thành Athènes vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày, và cũng để mọi người đi qua trước nhà ông đều có thể đọc được: “Trong tất cả mọi sự, hãy suy nghĩ đến Cùng Đích”.

Nghĩ đến Cùng Đích là nghĩ đến cái gì? Đó là Cái Chết. Nghĩ đến Cái Chết không phải là ý tưởng tiêu cực, bi quan, chán đời hoặc yếm thế, mà lại chính là CÁCH SỐNG KHÔN NGOAN, với hệ lụy tất yếu: sống Khôn để thoát Khốn. Chính Thiên Chúa cũng đã nhắc nhớ: “Ngươi là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất” (St 3:19). Người Latin có thành ngữ: Memento Mori – Hãy Nhớ Mình Sẽ Chết. Nhớ làm gì cái thứ đó? Nhớ để nên khôn bằng cách Luôn Sẵn Sàng – Semper Paratus – Always Ready.

Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, Ngài thấu suốt mọi sự, biết cả những gì con chưa nghĩ tới, xin ban Thần Khí soi sáng để con biết việc phải làm cho hợp ý Ngài, biết khôn ngoan chọn những gì đẹp ý Ngài, và cố gắng sống vuông tròn cho tới hơi thở cuối cùng. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA MUỐN CHÚNG TA LÀ NHỮNG NGƯỜI CÓ PHÚC

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Trong Tin mừng thánh Luca hôm nay dìu chúng ta về với các Mối Phúc để sống và các mối họa để mà tránh. Trước khi nói đến phúc thì Chúa Giêsu nói đến họa “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có!” Quả thật, nghèo khó là trung tâm của Tin Mừng : “Phúc cho những ai có tình thần nghèo khó” là mối phúc đầu tiên trong các mối phúc và là sứ mạng khi Chúa Giêsu tự giới thiệu về mình với dâng làng Nagiaret tại hội đường : “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo, tin vui cho người nghèo”.

Vấn nạn từ mối phúc

Người đời thường coi hạnh phúc bắt nguồn từ giàu sang, no đủ, từ danh thơm tiếng tốt. Khi công bố trong đoạn Tin Mừng (Lc), Chúa Giêsu đưa chúng ta đi vào một thế giới khác, với sự đánh giá khác. Người cho các môn đệ biết rằng: họ là những người có phúc, khi phải chịu nghèo đói, đau khổ, bách hại vì Người, khiến người nghe những mối họa và phúc không khỏi thắc mắc : Thế nào là giàu, thế nào là nghèo ? Phải chăng Đức Giêsu là người cổ hủ, lỗi thời khi cổ súy cái nghèo? Hơn nữa, Người lại còn mời gọi những ai muốn đi theo và làm môn đệ cũng phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực?

Nếu Chúa Giêsu tuyên bố : “Phúc cho anh em là những người bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng” (Lc 6,21). Vậy ai là người đói khát và ai là người no thỏa ?

Chẳng những Chúa Giêsu từ ngàn xưa đã công bố như thế, mà ngay chính Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong thời hiện đại khi kể chuyện về giây phút cái danh hiệu PHANXICÔ đi vào lòng ngài, ngài diễn tả chương trình hành động của ngài, không phải bằng một lời tuyên bố long trọng, nhưng bằng cách bộc lộ một nỗi khao khát: “Ôi, tôi mong ước biết bao có được một Hội Thánh nghèo và vì người nghèo”. Nhưng khi nghe đến “một Hội Thánh nghèo và vì người nghèo”, có người hỏi : “Thế còn người giàu thì sao?” Phải chăng một “Hội Thánh nghèo” là một Hội Thánh gồm toàn những người nghèo?

Phúc cho kẻ nghèo

Câu chuyện về một vị ẩn tu sống rất nghèo do Đức Cố Hồng Y Carôlô Maria Martini viết trong một cuốn sách, giúp chúng ta hiểu phần nào về người giàu có thể có tâm hồn nghèo khó, người nghèo lại không.

Chuyện kể rằng, vị ẩn sĩ này chỉ có một tấm áo rách trên mình và một cái vò đựng nước đã bể… Một hôm ông hỏi Chúa: “Lạy Chúa, con có phải là người nghèo nhất trên thế gian này chưa?” Chúa sai thiên thần đưa ông đến trước một lâu đài sang trọng và bảo: “Người sống trong lâu đài này mới là người nghèo nhất trên thế gian”. Vị ẩn sĩ rách rưới ngẩn người hỏi Chúa: “ Sao lại như thế được?” Chúa trả lời: “Người sống trong lâu đài sang trọng này có đủ mọi thứ, nhưng lòng không dính bén chút gì, còn con, con dính bén với chính cái áo rách và cái vò đã bể của con”.

Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó”, Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất thật cần thiết để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người đặt con người làm chủ và hưởng dùng mọi sự trong vũ trụ. Nhưng của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh. Người nghèo là người biết sống cho những giá trị ấy, cho dù giữa những vất vả lo toan, miếng cơm, manh áo, họ vẫn luôn tìm kiếm Nước Trời, họ sẽ là người hạnh phúc nhất, vì biết mình sống để làm gì và sẽ đi về đâu.

Khốn cho người giầu

Tại sao Chúa Giêsu lại nặng lời với những người giầu? Có lẽ vì của cải là ngẫu tượng hấp dẫn, nó cuốn hút chúng ta và đẩy xa Thiên Chúa ra khỏi lòng chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã từng tuyên bố : “Anh em không thể làm tôi hai chủ, hoặc ghét chủ này yêu chủ nọ”. Liên hệ trực tiếp, chúng ta chỉ có thể làm tôi Thiên Chúa, hoặc làm tôi tiền của, chứ không thể làm tôi cả hai được. Vì thế, nếu xem tiền của là chủ đời ta, thì tiền của sẽ túm lấy ta, phá vỡ sự hòa hợp giữ con người với nhau, hủy hoại cuộc sống và linh hồn khiến ta không còn yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức và hết trí khôn nữa, và như thế là đối nghịch lại với điều răn thứ nhất là thờ phượng Một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự.

Nếu Chúa ban cho ta của cải giàu có thì chính là để trao tặng cho người khác, để nhân danh Chúa làm nhiều điều tốt cho tha nhân. Nhưng của cải có khả năng cám dỗ chúng ta và chúng ta bị sa ngã, trở thành nô lệ của sự giàu có. Đã có lần Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi chúng ta cầu nguyện một tí và hy sinh một tí, không phải cho người nghèo, nhưng cho người giàu. (REI 24/05/2018)

Một Hội Thánh nghèo và vì người nghèo

Một Hội Thánh nghèo không phải là một Hội Thánh gồm toàn người nghèo. Hội Thánh không phải là Bang Hội của Cái Bang (ăn mày). Hội Thánh gồm tất cả những ai tìm kiếm và tin nhận Thiên Chúa là hạnh phúc duy nhất và vĩnh cửu và “Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,2). Chính khi kêu gọi các tín hữu quyên góp để chia sẻ với cộng đoàn Giêrusalem đang lâm cảnh khó khăn mà thánh Phaolô nại đến gương Chúa Giêsu: “Quả thật anh em biết Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của minh mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cor 8,9). “Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân…”(Pl 2,7) để cho chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa. Như vậy, Một Hội Thánh nghèo là một Hội Thánh sống tinh thần nghèo khó của Tin Mừng, không dính bén với của cải vật chất, không chạy theo thói thế gian, không đặt của trọng hơn người.

Sống lời Chúa dạy

Việc đầu tiên phải làm cho người nghèo, là chiến thắng sự lãnh đạm, vô cảm, những viện cớ này khác để xa tránh những con người này, biết quan tâm đến những cảnh ngộ lầm than, đáng thương quanh ta. Giảm thiểu khoảng cách bất công giữa người giầu và người nghèo một vùng miền nào đó.

Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta trở nên những khí cụ tình thương hải hà của Chúa đối với anh em. Amen.

Về mục lục

.

MỐI PHÚC THẬT

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Thầy trò xuống núi truyền rao,
Tin mừng giải thoát, ơn cao đổ tràn.
Đám đông dân chúng kêu van,
Chữa lành bệnh tật, ban ngàn ân thiêng.
Dẫn đường mở lối thiêng liêng,
Thực hành Phúc Thật, ơn riêng theo Thầy.
Phúc thay nghèo khó đời này,
Nước Trời chiếm hữu, vui vầy mai sau.
Phúc ai đói khát khổ đau,
Mai ngày vui sướng, no đầy phúc vinh.
Phúc người khóc lóc cực hình,
Vui cười hớn hở, an bình cõi tiên.
Người ta thù ghét sỏ xiên,
Mong rằng hạnh phúc, cõi thiên tìm về.
Bất lương phỉ báng ê chề,
Hân hoan phần thưởng, mọi bề reo vui.
Khốn kẻ giầu có mù đui,
No say đầy đủ, sống chui phận hèn.
Vui cười thỏa mãn đời khen,
Người đời ca tụng, sang hèn chóng qua.

Phúc cho ai đặt niềm tin tưởng nơi Chúa, họ sẽ được hạnh phúc và sẽ gặp may mắn. Mối phúc thật thứ nhất: Phúc cho ai có tinh thần khó nghèo, vì nước trời là của họ. Chúng ta đang sống trong xã hội mà các giá trị của con người đặt trong các kỷ lục thế giới. Trong cuốn Guiness Book of World Records, chúng ta đọc thấy giá trị cuộc sống được đánh giá qua các thành qủa của các môn thể thao, phát minh khoa học và kỹ thuật…và những giá trị trần thế tựa dựa vào sự phát triển và sự giầu sang phú quí. Là Kitô hữu, chúng ta đặt niềm tin nơi Chúa và đi tìm hạnh phúc đích thực cho cuộc đời.

Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu trình bày dẫn vào các mối phúc thật. Chúa nói rằng: Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó. Ai trong chúng ta cũng sợ cái nghèo và cái khổ. Nhiều người coi sự nghèo khó là bất hạnh. Nên ai ai cũng cố gắng kiếm tiền càng nhiều càng tốt. Chúng ta lo làm lụng để có của ăn, của để và một chút vốn liếng phòng thân. Thánh Phaolô nhắc nhở: Nếu ai không muốn làm, thì đừng có ăn. Chúng ta phải cật lực lao động để trang trải cuộc sống và trả các món nợ. Đó là lẽ thường, ‘tay làm hàm nhai.’ Nhưng Chúa Giêsu lại nhắc khéo chúng ta rằng các con chớ áy náy lo lắng các con sẽ ăn gì, mặc gì. Cha các con biết rõ. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và mọi sự Người sẽ ban thêm cho.

Tiền là ông chủ xấu nhưng là đầy tới tốt. Khi có tiền, chúng ta vẫn có thể sống tinh thần nghèo khó. So với các nhà tỷ phú và triệu phú thì vốn liếng của chúng ta chẳng có là bao. Có bao nhiêu tiền của mới gọi là giầu và người thiếu bao nhiêu, mới gọi là người nghèo. Có người nghèo của cải, nhưng lại giầu lòng từ bi như bà góa bỏ tiền vào thùng khấn. Sống tinh thần nghèo khó sẽ giúp chúng ta trút bỏ được những bận vướng của trần gian.

Truyện kể: Khi xảy ra nạn đói tại Hoa Kỳ, các cơ quan thiện nguyện của chính phủ đi tìm giúp đỡ những người bất hạnh ở vùng núi. Họ tìm đến những nơi nghèo khó để giúp đỡ tiền bạc, sửa chữa nhà cửa và phân phát hạt giống để gieo trồng. Nhân viên cơ quan gặp một người đàn bà sống trong một túp lều nghèo nàn. Cánh cửa thì bể nát và mái lều xiêu vẹo. Người đàn bà chỉ có nơi tạm trú nghèo hèn và thiếu thốn mọi bề. Nhân viên nói với bà rằng nếu chính phủ cho bà 200 đô la, bà sẽ làm gì với nó? Bà trả lời: Tôi sẽ cho người nghèo.

Nghèo về vật chất, đôi khi chúng ta còn có thể phấn đấu và vượt qua. Khi phải khóc lóc vì vu oan giáng họa, bị thù ghét và phỉ báng, tâm hồn chúng ta mới thấy khổ não và buồn phiền. Chúa chúc phúc cho những người phải khóc lóc và bị người ta thù ghét vì danh Chúa. Chúa phán: Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Chúa, Chúa sẽ nâng đỡ bổ sức cho. Trong tất cả mọi sự, chúng ta hãy luôn hướng lòng lên cùng Chúa. Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_C

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Kính thưa anh chị em,

Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng rất hay do Thánh Luca ghi lại. Đây là bài Tin Mừng hơi khó giải thích. Thế nhưng đây lại là bài Tin Mừng hết sức quan trọng vì nó đề cập đến một vấn đề cũng hết sức quan trọng trong cuộc sống của con người. Đó là vấn đề Hạnh Phúc.

Khi bàn về đời sống hạnh phúc, sách Giáo Lý chung ngay từ số đầu tiên (Số 1) đã có những diễn tả hết sức ấn tượng như sau:

“Thiên Chúa, tự bản thể là Đấng vô cùng hoàn hảo và hạnh phúc. Theo ý định hoàn toàn do lòng nhân hậu, Ngài đã tự ý tạo dựng con người, để cho họ được thông phần sự sống hạnh phúc của Ngài. Do đó, trong mọi thời và mọi nơi, Ngài đã đến gần với con người. Thiên Chúa kêu gọi con người, giúp họ tìm kiếm Ngài, nhận biết và đem hết tâm lực yêu mến Ngài. Thiên Chúa triệu tập mọi người, vốn đã bị phân tán vì tội lỗi, để hợp nhất thành gia đình của Ngài là Hội Thánh. Để thực hiện điều này, khi thời gian tới hồi viên mãn, Ngài đã sai Con Ngài đến làm Đấng Chuộc Tội và Cứu Độ. Trong và nhờ Người Con ấy, Thiên Chúa kêu gọi loài người để trong Chúa Thánh Thần, họ trở nên dưỡng tử của Ngài và do đó, được thừa hưởng sự sống hạnh phúc của Ngài.” (Số 1)

Chúng ta hãy nhắc lại một lần nữa để chúng ta thấy được tầm quan trọng của vấn để mà bài Tin Mừng hôm nay đề cập tới như thế nào: “Theo ý định hoàn toàn do lòng nhân hậu, Thiên Chúa đã tự ý tạo dựng con người, để cho họ được thông phần sự sống hạnh phúc của Ngài”+ “Thiên Chúa kêu gọi loài người để trong Chúa Thánh Thần, họ trở nên dưỡng tử của Ngài và do đó, được thừa hưởng sự sống hạnh phúc của Ngài.”

Đúng là Thiên Chúa muốn cho con người được sống hạnh phúc, thế nhưng làm sao con người có thể có được hạnh phúc theo lòng nhân hậu của Thiên Chúa đây?

Có một câu chuyện cổ phát xuất từ Ba Tư là nơi người ta bảo là cái nôi của sự khôn ngoan trên thế giới như sau.

Ngày xưa, tại quảng trường của thành phố nọ có một nhà hiền triết đã xuất hiện và tuyên bố sẽ giải đáp được mọi thắc mắc của bất cứ ai tới vấn kế. Một hôm, giữa lúc mọi người đang say mê lắng nghe lời của nhà hiền triết thì có một người mục tử trên núi cao đi xuống. Nghe tiếng về sự thông thái của nhà hiền triết nên anh muốn chứng kiến tận mắt và nghe tận tai, nhất là để hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông. Anh đến gần nhà hiền triết, trong tay bóp chắc một con chim nhỏ. Anh hỏi:

– Thưa ngài, tôi nghe đồn ngài là một người thông thái khôn ngoan, vì vậy ngài có thể nói cho tôi rõ con chim tôi đang cầm trong tay là con chim sống hay con chim đã chết được không?

Nhà hiền triết biết đây là một cái bẫy mà người mục tử đang giương, nếu ông bảo rằng nó còn sống thì tức khắc người mục tử sẽ bóp cho nó chết, trước khi anh ta mở bàn tay ra. Còn nếu như ông bảo con chim không còn sống thì người mục tử sẽ mở bàn tay để chim bay đi. Sau một hồi thinh lặng trước sự hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết trả lời như sau:

– Con chim, mà ngươi đang cầm trong tay đó sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi muốn cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn cho nó chết thì nó sẽ chết.

Hạnh phúc cũng tương tự như thế. Hạnh phúc có được hay không là tuỳ ở mỗi người chúng ta.

Có nhiều người trong chúng ta tưởng hạnh phúc ở chỗ nọ chỗ kia nên đã dốc công đi tìm. Có người tìm ở nơi tiền bạc. Có kẻ đi tìm ở nơi lạc thú. Có kẻ khác đi tìm ở nơi danh vọng nhưng thử hỏi đã có ai thực sự tìm thấy hạnh phúc ở nơi tiền bạc, lạc thú, danh vọng hay chưa thì quả là chưa có ai dám can đảm quả quyết đã tìm thấy.

Hôm đó Đức Thích Ca vào thủ đô của vua Kaniska. Nhà vua đã thân hành ra đón chào Ngài. Nhà vua là bạn thân của thân phụ Đức Thích Ca. Đức Thích Ca nhìn sâu vào đôi mắt nhà vua và nói: “Xin Ngài hãy thành thực nói với tôi: Trong tất cả những thú vui mà Ngài đang có, Ngài có thực sự được một ngày hạnh phúc không?”

Vua Kaniska cúi nhìn xuống đất và giữ thinh lặng.

Nhà vua im lặng vì không có can đảm trả lời là có.

Ermann Coen được mệnh danh là thánh Augustinô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do thái rất giàu có, thời trai trẻ ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện. Trong buổi giảng mùa vọng tại đền thờ đức bà ở Balê, ngài nói:

– Tôi đã đi khắp cả mặt đất, tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều: không có hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở những nơi vàng bạc, ở nơi sắc đẹp… Ôi lạy Chúa, điều con mơ ước mọi giờ mọi ngày ở đâu? Và con chỉ tìm được nó trong Chúa và trong tình yêu Chúa mà thôi.

Vua Abder Rahman Đệ Tam Vị vua Hồi giáo nổi tiếng nhất của Tây Ban Nha , đã biến đất nước Tây Ban Nha thành trung tâm khoa học của Âu Châu vào thế kỷ thứ 10  vào cuối đời rằng Ông đã tuyên bố:

– Ta đã ngồi trên ngai vàng 50 năm, đã kinh nghiệm chiến thắng và hòa bình, được thần dân mến phục, kẻ thù sợ hãi, và đồng minh kính nể. Danh lợi, quyền quí và tất cả các thú vui trên trần gian ta đều có cả. Nhưng khi ngồi tính thật kỹ số ngày ta được hoàn toàn hạnh phúc, thì con số đó quá ít ỏi, chỉ vốn vẹn có 14 ngày.

Làm vua một nước lớn, có quyền thế, danh vọng, giàu sang trong tay suốt 50 năm, tức là 18.250 ngày, vậy mà chỉ hương được có 14 ngày hạnh phúc! Nhiều người ngày nay tương rằng danh vọng, giàu có, quyền thế là hạnh phúc, nhưng thật ra những thứ đó đều không thể hoàn toàn đem lại hạnh phúc. Những ngày hạnh phúc do các thứ ấy mang lại rất là ít ỏi.

Xét như vậy thì Hạnh Phúc không phải là thứ mà con người muốn có là có. Muốn có Hạnh Phúc con người phải tìm đến với một nguồn cội khác. Nguồn cội ấy là Thiên Chúa.

Khi hoàng đế Napoléon của Nước Pháp bị đày sang đảo Saint Hélène sau những thất bại thê thảm trên chiến trường và chính trường. Người viết tiểu sử vẫn theo sát bên cạnh ông để ghi lại từng chi tiết của cuộc đời một con người rất nổi tiếng, đã từng chinh phục một phần  khổng lồ của lục địa Châu Âu.

Một hôm, biết ngày tận cùng của Napoléon đã đến gần, người viết tiểu sử mới hỏi ông

– Thưa hoàng đế, xin ngài cho biết trong suốt cuộc đời của ngài, ngày nào là ngày hạnh phúc nhất?

Vị cựu hoàng, lúc ấy đang nằm liệt giường, không vội trả lời ngay. Ông quay đầu ra cửa sổ, nhìn biển xanh thắm một lúc rồi quay lại, nói như một lời tâm sự cuối cùng:

– Ta nhớ, ta nhớ rất rõ, ngày hạnh phúc nhất trong đời ta đã diễn ra cách đây lâu lắm rồi, khi ta còn thơ bé. Đó chính là ngày ta được rước lễ lần đầu!

Đức Cha Fulton Sheen trong tác phẩm bàn về Hạnh Phúc đã có một xác tín rất hay khi Ngài nói: “Cho dầu thế giới này có xa cách Thiên Chúa đi nữa, thì con tim của mỗi người cũng không xa cách Ngài”.

Vâng! Đúng như vậy. Chỉ khi nào con người biết tin vào Chúa xót thương, để rồi cũng xót thương kẻ khác như Chúa xót thương mình, chúng ta mới có được hạnh phúc, một thứ hạnh phúc ngọt ngào, đầy bình an, vượt trên mọi thứ hạnh phúc, mà trần gian tôn vinh tìm kiếm, một thứ hạnh phúc vượt trên không gian và thời gian, hòa nhập vào hạnh phúc của Thiên Chúa Ba Ngôi.Amen.

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC ĐẦY NGHỊC LÝ

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Lời Chúa của Chúa Nhật này chứa đựng sứ điệp niềm vui và chỉ cho chúng ta con đường tốt nhất để đạt tới hạnh phúc mà con người không ngừng tìm kiếm. Con đường đó không phải là con đường mà người đời nói đến, nhưng là con đường các mối phúc thật của Chúa Giêsu, được thánh Luca trình thuật trong Tin Mừng hôm nay.

1- Tin Mừng cho người nghèo của Thiên Chúa

Theo Luca, các mối phúc là “Tin Mừng,” tin vui dành cho những người “nghèo của Thiên Chúa” để khích lệ niềm hy vọng của họ và đề nghị một sự thay đổi tận căn của con người trong xã hội về bậc thang giá trị cuộc sống. Các mối phúc thiết lập một dạng thức Kinh Thánh về truyền thống ngôn sứ. Theo Mátthêu, có tám mối phúc (x. Mt 5,1-10). Còn theo Luca, chỉ có bốn mối phúc đối lập với bốn mối họa. Khi trình bày các mối phúc đối lại với các mối họa, thánh Luca muốn đề cập đến tám loại người đối nhau: phúc cho anh em là người nghèo khó vì Nước Trời là của họ, và khốn cho các người giàu có vì các ngươi đã được an ủi rồi; phúc cho anh em là những kẻ đang phải đói, và khốn cho các ngươi là những kẻ đang no nê; phúc cho anh em là những người đang phải khóc, và khốn cho các người là những kẻ đang vui cười; phúc cho anh em là những kẻ đang bị oán ghét, và khốn cho các ngươi là những kẻ được mọi người ca tụng…

Theo đó, các mối phúc tiếp tục đường hướng của truyền thống ngôn sứ Kinh Thánh, là xây dựng lược đồ song đối, vì thế, chúng chứa đựng lời loan báo ngôn sứ về một phúc lành mà nó mang lại niềm vui, đồng thời gửi tới một lời “khốn thay,” như là lời cảnh báo, để mời gọi sự tỉnh thức và sự hoán cải.

Cũng theo cách thức này, trong bài đọc I, ngôn sứ Giêrêmia đối lập hai hạng người: hạng thứ nhất đó là phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa và hạng thứ hai là khốn thay kẻ tin ở người đời và lòng dạ xa rời Đức Chúa. Hạng người thứ nhất như cây trồng bên dòng nước. Hạng thứ hai như bụi cây trong hoang địa (x. Gr 17,5-8).

2- Các mối phúc, cuộc canh tân tận căn

Các mối phúc tạo nên một trang Tin Mừng có tính cách mạng lớn nhất. Bởi lẽ, trong đó Chúa Giêsu thiết lập một cuộc thay đổi toàn diện các tiêu chuẩn nhân loại liên quan đến hạnh phúc. Nó trở thành điều kiện mà mỗi người phải có nếu muốn sống hạnh phúc. Vì thế, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta cách thức để thoát ra khỏi tiêu chuẩn mà mỗi người quan niệm về hạnh phúc khi cho rằng hạnh phúc là giàu có, tiền bạc, thành công, có địa vị xã hội, an toàn và tình yêu, quyền lực và thống trị, tính dục và hưởng lạc v.v… Chúa Giêsu biết rõ trái tim con người luôn khát khao tìm kiếm hạnh phúc. Với các mối phúc này, Người đề nghị với con người một hành trình chắc chắn để tìm kiếm hạnh phúc đích thực. Đây cũng là hành trình mới mẻ và đầy nghịch lý.

Bởi lẽ, tất cả những gì mà thế gian cho là bất hạnh, thì Chúa Giêsu quả quyết chúng là những mối phúc. Tất cả những ai sống nghèo khó, những ai đói khát, khóc lóc, những ai đang chịu đau khổ, những ai biết thương xót người, những ai có tâm hồn trong sạch, những ai xây dựng hòa bình, những ai chịu bách hại vì đạo, họ sẽ được chúc phúc vì Nước Trời là của họ. Và ngược lại, Chúa cũng loan báo những bất hạnh, đáng thương và những hiểm họa cho những ai giàu có, tự mãn, những kẻ vui cười và những ai được người đời ca tụng.

Trước Chúa Kitô, chưa có một ai đã dám khẳng định như thế. Các mối phúc thực sự rất nghịch lý, mà chỉ có thể hiểu được đối với những ai sống, thực hành nó, như chính Chúa Giêsu, như Đức Maria và thánh Phanxicô Assisi. Chính Chúa Giêsu, nơi con người, đời sống và cách hành xử của Người, thiết lập một chìa khóa tốt nhất để giải thích các mối phúc, một chìa khóa có giá trị hoàn vũ cho mọi thời và mọi nơi để đọc các mối phúc. Người là một người nghèo, người đau khổ, người dấn thân cho hòa bình và hòa giải, bị bách hại và hiến mạng vì công bình và thiện ích chung.

3- Các mối phúc, tóm lược Tin Mừng

Các mối phúc là một tóm lược Tin Mừng Chúa Giêsu, là lời loan báo ngôn sứ về Nước Thiên Chúa, hiện diện và khai mở trong con người Chúa Kitô, là sự công bố những thái độ nền tảng để trở thành môn đệ Chúa Giêsu, là căn cước của những công dân Nước Trời, là chương trình sống và là bản trắc nghiệm mà mỗi người mỗi ngày phải xét mình với tư cách là Kitô hữu.

Bởi vì sự mới mẻ tận căn của các mối phúc, nên có những người cáo buộc rằng chúng là ảo tưởng, là phi logic; một số người khác cho rằng chúng chỉ là một lý tưởng duy tu đức, cao xa không thể vươn tới. Tuy nhiên, khi loan báo các mối phúc, Chúa Giêsu biết rõ ý nghĩa của chúng mà Người giới thiệu và đưa ra cho những ai muốn theo đuổi con đường này. Bởi lẽ, chúng là những thái độ nền tảng để trở thành môn đệ Người, để vào Nước Trời, và đạt tới sự hạnh phúc viên mãn.

Quả thật, các mối phúc không phải là một hình thức duy tu đức, phi nhập thể, một sự thụ động vong ngã hay là một dạng thức ảo tưởng chạy trốn trách nhiệm xây dựng xã hội. Chúa Giêsu cũng không có chủ trương bần cùng hóa con người. Nhưng các mối phúc chứa đựng một nhiệm vụ cá nhân và hiệu lực đối với việc xây dựng đời sống xã hội tốt hơn nhờ sự nghèo khó và hy sinh của con người trong bất kỳ sự diễn tả nào: như sự vô vị lợi và sự cộng tác, chọn lựa sống theo sự tử tế và công bình ngay cả khi có nguy cơ bách hại, dấn thân vì hòa bình và bất bạo động, yêu thương, huynh đệ và đoàn kết giữa loài người.

Tuy nhiên, khi chọn lựa sống theo các mối phúc, có thể chúng ta phải đối diện với những chống đối và thù ghét, bởi vì tinh thần các mối phúc không phù hợp với những tiêu chuẩn của thế gian. Vì thế, chúng tạo nên sự thù ghét. Điều đó thánh Phaolô đã báo trước: “Tất cả những ai muốn sống đạo đức trong Chúa Kitô Giêsu, đều sẽ bị bắt bớ” (2 Tm 3,12). Đó là sự chống đối mà Tin Mừng thánh Gioan đề cập đến, sự chống đối giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Chúa Kitô và thế giới thù địch với Thiên Chúa, giữa tin và không tin, giữa tình yêu và ích kỷ, giữa thiện và ác.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta yêu mến các mối phúc của Chúa Giêsu và sống các mối phúc đó trong đời sống hằng ngày, để chúng ta tìm thấy con đường dẫn tới hạnh phúc đích thực là Nước Trời. Amen

Về mục lục

.

PHÚC VÀ HỌA

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Chẳng ai biết được phúc thật hay hoạ thật, nhưng người ta tin rằng trong phúc có hoạ và trong hoạ có phúc. Chỉ một điều chắc chắn trong Chúa mới có phúc thật. Thánh Luca sở dĩ trình bày bốn mối phúc và bốn mối hoạ, cũng cho thấy điều này, để giới thiệu về phúc thật từ nơi Chúa.

Trong Thánh Lễ đầu năm Chúa phán bảo với Môi sê, truyền cho Aaron khi cầu nguyện cho dân Chúa: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em!” (Ds 6, 24).

Những câu truyện về phúc và hoạ nhiều lắm. Đó là một thực tại cho thấy, chẳng biết đâu hay chẳng biết đâu dở. Người ta vẫn bảo: “Phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí”. Cái hoạ thường hay gặp phải nhưng không phải thật sự là bất hạnh, còn tuỳ theo cách mình nhìn nhận.

Nhà văn Ohenry nói; “Nếu con người tha thiết với cuộc sống thì có thể ung dung đối mặt với khó khăn, thử thách.”. Con người biết xoay chuyển tình thế luôn nhìn thấy những khoảng mở hẹp trong cái hoạ xảy đến.

Nguy hiểm nhất vẫn là tưởng cái phúc trong cái hoạ. Đó là cái tưởng do tâm trí mù tối. Trong cái tội lỗi là cái hoạ mà cứ tưởng là cái phúc trời cho để hưởng thụ. Có rất nhiều hoang tưởng ấy, cho nên sau cuộc vui tàn lại phải kiếm cuộc vui khác, cho đến khi chẳng còn gì, mới tỉnh ngộ thì đã muộn.

Thánh Luca nói đến bốn cái hoạ mà tưởng cái phúc đó. Giàu có, no nê, vui cười, được ca tụng. Bốn cái vui này thuộc về thế gian, nó thuộc về ba điều tham, sân, si. Hậu quả luôn theo sau nếu không tỉnh ngộ biết chuyển hoá sớm.

Lão Tử viết đại ý như: “Biết mình dũng mãnh mà lại luôn nhu hòa, khiêm những, nhẫn nhịn. Biết nhưng giả không biết, không áp đặt cái biết lên người khác, học thêm cái biết ở nơi người. Biết mình ở địa vị cao, vinh hoa phú quý nhưng luôn sống giản dị, gần gũi, giúp đỡ mọi người” (Đạo Đức Kinh).

Hành thiện tích đức.

Ngay sau bốn mối phúc và bốn mối hoạ, Chúa Giêsu dạy: “Yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em”  (Lc 6, 27) và hãy có: “lòng nhân từ như Cha là Đấng nhân từ”  (Lc 6, 36). Với những điều dạy đó khi thực hiện trong đời, mối hoạ luôn sẽ được chuyển hoá thành phúc, và mối phúc này được ngay ở đời này và đời sau.

Xin Chúa ban thêm lòng quả cảm để thắng cái ích kỷ của cái tôi, sống hài hoà với anh em, có lòng nhân từ, bác ái, độ lượng. Sống mối phúc thật mỗi ngày nên hoàn hảo hơn, nhờ ơn Chúa ban không trở nên vô ích.

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC THẬT.

Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Nếu chúng ta có chìa khóa của Thánh Phêrô để mở cửa thiên đàng, chúng ta sẽ thấy đầy những người nghèo như “bà góa nghèo đến bỏ tiền vào đền thờ hai đồng kẽm chỉ bằng một phần tư đồng bạc Rôma” (Mc. 12, 42), đầy những kẻ đói khát như anh ăn mày Ladarô mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà giàu (Lc. 16, 20), đầy những người khóc lóc như con thành Giêrusalem đến khóc thương Chúa trên đường vác Thánh giá, đã được Chúa đứng lại yên ủi như Cha yên ủi con trong cơn khóc lóc, hay như Phêrô khóc than vì đã phạm tội chối Thầy ba lần, đầy những người bị oán ghét, khai trừ, nhục mạ và xóa bỏ tên tuổi coi như đồ xấu xa như Đức Giêsu, Gioan tiền hô, các tiên tri và các thánh tử đạo.

Nếu chúng ta có quyền tự lực đập tan cửa hỏa ngục, chúng ta sẽ thấy đầy dẫy những hạng phú hộ ăn chơi, những hạng tham ô, móc ngoặc, những quản lý giết người cướp của, như hạng nhà giàu không thương giúp Ladarô, hạng kinh sư móc hết tài sản các bà góa, hạng tá điền cướp vườn nho (Mc. 12. 1-9, 38-40), đầy những hạng quyền quý sang trọng được tung hô, yến tiệc khao vọng, múa nhẩy, nghiện ngập như Hêrôđê no say còn bày trò chém đầu Gioan tiên hô, đầy hạng vui cười, chế nhạo, oán thù như quân dữ, trưởng tế và luật sĩ nhục mạ Đức Giêsu lúc bị treo trên Thánh giá.

Tại sao những người nghèo khó, đói khát, khóc lóc bị oán ghét lại được Chúa chúc phúc chan chứa vui mừng trong vinh quang nước trời?

Thưa, vì họ bị đàn áp, bóc lột, tước đoạt hết các thứ thuộc về thế gian. Hàng đoàn đám đông dân chúng đó chỉ còn biết trông cậy vào Đức Giêsu. Họ bỏ cả quê hương danh tiếng như Giudêa, Giêrusalem, Tyrô, Siđon để đến theo Chúa. Người đã cứu chữa họ cả xác lẫn hồn. Người vừa chữa cho họ khỏi tật nguyền quỷ ám, vừa giảng cho họ biết đường sống hạnh phúc muôn thuở.

Họ là những người nghèo khó về tiền của như Đức Giêsu không có chỗ tựa đầu, nhưng lại giầu lòng thương người như Đức Giêsu đã cho bao nhiêu người nương tựa. Họ nghèo khó, vì không tham lam, trộm cắp, nhưng lại giầu tinh thần cao quý thanh tao, siêu thoát. Họ nghèo của trần tục, nhưng họ giầu của nước trời. Họ là những người bụng đói của ăn như Ngài, đến nỗi các môn đệ bứt lúa ăn và bị chỉ trích, nhưng họ khao khát công chính và theo Ngài đi rao giảng Tin Mừng nước trời cho muôn dân. Họ đói bánh nuôi cái bụng, nhưng họ thoả dạ an lòng vì siêng năng rước Bánh Hằng sống.

Họ là những người sầu khổ khóc lóc thương xót bao nhiêu cảnh lầm than như Chúa đã khóc thương Ladarô, khóc thương thành Giêrusalem và chịu chết cho con cháu họ. Ít ra, họ là những người như Phêrô biết ăn năn thống hối và trở lại với Thầy để lãnh nhận trách nhiệm cứu giúp muôn dân sa ngã như mình.

Họ là những người hy sinh chịu đau khổ, oan uổng, bất công, biết vác thập giá theo Chúa để cứu nhân độ thế. Họ đã được phần thưởng lớn lao trên nước trời.

Tại sao những kẻ giầu, no nê, vui sướng, vinh quang lại bị chúc dữ?

Thưa, họ là những kẻ ham danh, ham lợi, ham thú vui vật chất phàm tục. Họ cậy vào tiền của vì họ tưởng: “Có tiền mua tiên cũng được”, chẳng cần đến ai. Họ xa lìa Thiên Chúa đi theo các thần tài, thần hoàng, thần nữ, thần thổ địa và các thần tượng. Đó là các tử thần, họ sẽ chết theo chúng.

Lịch sử đã cho thấy, khi con người nghèo đói, túng cực, lam lũ khổ sở, họ sốt sắng chạy đến kêu cầu, trông cậy vào Thiên Chúa. Nhưng khi được ấm no, sung túc thì ăn chơi, lười biếng, cậy mình kiêu ngạo, không cần đến Thiên Chúa nữa. Dân nước Balan trước đây hơn 90% siêng năng đi lễ, cầu nguyện, đoàn kết như một, dưới quyền hướng dẫn của Giáo Hội. Nay được dễ dãi, làm ăn phát đạt, họ lại chia rẽ, khinh thường hàng giáo phẩm và xa lìa Thiên Chúa. Các nước Âu Mỹ cũng thế. Giáo dân Việt Nam cũng không khá gì: trong những năm 1975-1985, đời sống đói khổ, thì ngày thường cũng như Chúa nhật nhà thờ đầy người. Nay, ngày thường chỉ leo teo một số cụ già, con nít, còn thanh niên người lớn có tiền bạc, ăn chơi, rượu chè, hút sách bất tận. Chúa nhật đi lễ hơn một giờ thì thấy lâu, sốt ruột, ngồi ngoài sân, đứng lấp ló xó nọ góc kia, nói chuyện, hút thuốc, mà không biết rằng ai cho cái miệng để ăn nói, ai cho cái mũi để thở, ai cho hơi thở khí mát để sống. Thật vô phúc, vô ơn Thiên Chúa đến chừng nào! Những hạng đó đến bao giờ mới được chúc phúc, Đức Giêsu còn phải chúc dữ đến bao giờ!

Người ta nói: “Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Trồng người để có người tốt, có dòng giống con cháu tốt thì mới có việc tốt, nhờ đó xây dựng gia đình, xã hội tốt từ đời này tới đời kia, lâu dài hàng trăm năm. Trồng cây để lấy của hưởng thụ, chỉ được mươi mười năm là hết. Biết rõ như thế, những bậc thánh hiền vĩ nhân luôn luôn quan tâm đặc biệt tới trồng người, dù có phải sống hy sinh kham khổ như Khổng Tử, Đức Phật.

Khổng Tử đã từ chức quan đại thần sống thật thanh bần: “Ăn cơm thô, uống nước lã, co cánh tay gối đầu, lòng đầy hoan lạc. Bất nghĩa mà giầu sang, ta coi như phù vân … Ta thường trọn ngày quên ăn, trọn đêm quên ngủ vì suy tư … lo đạt đạo” (Ln. 7, 15 và 15, 30-31). Đức Phật không thể chịu nỗi cảnh giầu sang, danh vọng của hoàng cung, đã trốn lên rừng tìm đạo để cứu nhân độ thế, thoát khỏi cảnh khổ của hoàng cung phàm trần này mà nhân loại đang trầm luân trong đó. Các vị đó thật giống với cuộc đời thanh bần trong sáng của Đức Kitô: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc. 9, 58). Vậy hạnh phúc muôn thuở của các ngài, không phải giầu sang, quyền quý, mà là siêu thoát để truyền dậy chân lý không mệt.

Lạy Chúa, xin cho con “đừng tựa vào tường vì tường sẽ đổ, đừng tựa vào cây vì cây sẽ gẫy, đừng tựa vào người vì người sẽ chết” mà chỉ lo sống tựa vào lời chúc phúc của Chúa

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Là con người, ai cũng mong muốn hạnh phúc và nỗ lực đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là khát vọng ngàn đời của mỗi người. Khi con người chiều theo cơn cám dỗ của loài rắn, đó chính là lúc hạt mầm hạnh phúc không còn đủ “thiên thời địa lợi” để đơm hoa kết trái. Bất hạnh và gian dối theo về, ùa vào cuộc đời, chảy xuôi dòng lịch sử. Con người bắt đầu dệt những ước mơ, chắt chiu từng kỷ niệm, hồi tưởng về quá khứ, một quá khứ in đầy dấu chân hạnh phúc. Vậy hạnh phúc là gì giữa đa đoan và trắc trở, giữa bền vững và mong manh, giữa ích kỷ và bao dung?

1. Quan niệm về hạnh phúc.

Có người cho rằng hạnh phúc là có thật nhiều tiền của, nhiều vàng bạc, lúa thóc đầy kho; hạnh phúc là quyền lực, địa vị danh vọng. Có người nghĩ hạnh phúc là có nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con thơ, ruộng vườn thẳng cánh cò bay. Có người lại quan niệm hạnh phúc là sức khoẻ, là sự bình an thư thái của tâm hồn; hạnh phúc là sự hòa hợp giữa thể xác và tâm hồn, giữa cá nhân và cộng đồng xã hội, giữa cái tôi và vũ trụ bao la.

Theo truyền thống Ấn Độ, hạnh phúc là Sukha, đó là trạng thái giống như một bánh xe mà trong đó mọi sự đều ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hòa hợp với các thành phần khác, do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là Dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.

Tần Thuỷ Hoàng cho xây vạn lý trường thành, sai người đi tìm thuốc trường sinh bất tử để mong thỏa ước mơ được hạnh phúc, được sống bất tử. Với Nhà văn Philippe Delerm, hạnh phúc là điều thật đơn giản, là tổng cộng các niềm vui nhỏ gộp lại. Năm phút nằm dài trên bãi cỏ xanh nhìn mây trời lãng đãng trôi, hớp ngụm bia ngon, thưởng thức một bản nhạc hay… đều có thể làm hưng phấn, tạo được niềm vui hạnh phúc. Kim Thánh Thán, nhà phê bình Trung Hoa đã từng có 33 phút vui tinh thần mà ông cho đó là phút giây thực sung sướng trong đời. Thú vui đó là thưởng thức thiên nhiên, dưới ánh trăng non, tay bầu rượu túi thơ, cùng bạn hữu trao đổi kinh sử văn thơ, cùng uống trà để quên đi sự huyên náo của phồn hoa, lòng thấy thanh thản (x. quan niệm về hạnh phúc, nội san chia sẻ số 23). Có muôn lối nhìn về hạnh phúc tuỳ theo quan niệm mỗi người.

2. Đi tìm về hạnh phúc.

Hạnh phúc không như bông hoa có thể dễ dàng hái được ở bên đường, không giống như chiếc áo, chiếc xe đạp hay cái nhà có thể vẽ ra thành hình hài màu sắc có thể mua bán. Hạnh phúc là điều cảm thấy được trong tâm hồn, nó thuộc chiều sâu cõi lòng tuỳ thuộc thái độ sống đối với cuộc đời. Con người phải ra công chăm sóc vun trồng thì cây hạnh phúc mới đơm hoa kết trái.

Hạnh phúc chính là khát khao được sống, được hiện diện, được yêu thương. Đi tìm hạnh phúc cũng là đi tìm sự sống. Sống là tồn tại, có tồn tại mới có yêu thương, có tương quan, có sinh trưởng. Đi tìm hạnh phúc cũng như đi tìm tình yêu. Khi người ta yêu nhau, mọi sự đều trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp “yêu nhau yêu cả đường đi; yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng; yêu nhau mấy núi cũng trèo mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”. Hạnh phúc là tình yêu. Tình yêu nối dài những ước mơ, ước mơ thường hướng con người về hạnh phúc.

Hạnh phúc chính là sự sống và là tình yêu. Tình yêu và sự sống như đôi cánh đưa con người bay vào khung trời hạnh phúc.

3. Tám mối phúc thật.

Đức Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarêch bằng câu: Vạn sự vô thường vạn sự thường, nghĩa là mọi sự thay đổi không ngừng nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh lão bệnh tử, con người sinh ra để rồi già yếu, bệnh tật và cuối cùng là phải chết. Đời là bể khổ, muốn có hạnh phúc, ra khỏi bể khổ, cần diệt lòng tham sân si. Khổ diệt lòng tham muốn mới thoát khỏi bến mê, khỏi u minh chốn hồng trần.

Đức Kitô trên “Núi Bát Phúc” đã thuyết giảng điệp ca hạnh phúc “Tám mối phúc thật”: Phúc cho ai… (Mt 5, 1-12).

Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ. Đức Phật coi đời là bể khổ. Đức Giêsu nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch của tâm hồn nghèo khó.

LmThiện Cẩm đã nhận định rằng: Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời gian, sức lực để nghiên cứu suy tư bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu. Tuy nhiên, có lẽ chẳng mấy ai hiểu chính xác nội dung ý nghĩa hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra cả Đức Phật và Đức Giêsu đều không chú ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân như, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Đức Giêsu là kinh nghiệm của một người thấy được cái tồn tại trong cái mất mát, thấy được sự sống trong cái chết.

Điệp ca trên núi của Đức Giêsu đã trở thành Hiến Chương Nước Trời: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho ai hiền lành. Phúc cho ai… điệp ca vang vọng mãi ở trên núi được nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho các môn đệ và cho nhân loại qua muôn thế hệ.

Tất cả Tám Mối Phúc đều có hai vế: vế thứ nhất là nhân, vế thứ hai là quả; vế thứ nhất là gieo, vế thứ hai là gặt; vế thứ nhất là mình vì người khác, vế thứ hai là người khác vì mình; vế thứ nhất là đau khổ, vế thứ hai là hạnh phúc. Các mệnh đề trong vế một phải hiểu ngầm là vì Chúa, vì tha nhân, nghèo vì tha nhân, hiền lành đau khổ vì tha nhân. Nếu không do tự nguyện vì Chúa, vì tha nhân thì sự nghèo, sự hiền lành, sự đau khổ, bách hại ta phải chịu đều là đau khổ chứ không phải là phúc đức. Chẳng hạn, mối phúc thứ nhất là nghèo vì người khác, sống nghèo cho người khác thì mới là phúc thật, còn sống nghèo để dành dụm tiền của ngày càng nhiều thì đó là trọc phú, là hà tiện chứ không phải là sống nghèo theo Tin mừng. Cái nghèo mà Đức Giêsu nói đến là nghèo vì yêu thương tha nhân. Nghèo vì cho đi vì muốn làm lợi ích cho người khác thì cái nghèo đó mới gọi là Đức Khó Nghèo. Vì thế giữa Đức Khó Nghèo và Đức Bác Ái có tương quan với nhau. Khó nghèo để bác ái, khó nghèo mà không bác ái thì trở thành hà tiện. Hà tiện là một trong bảy mối tội đầu. Vì thế tâm hồn nghèo khó của Tin mừng là tâm hồn sẵn sàng chấp nhận mất mát thời giờ, vật chất, sức lực, của cải, tài năng vì yêu thương tha nhân, vì mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Một người có tinh thần phục vụ cao, dám hy sinh cho người khác, chắc chắn người đó sẽ được mọi người quý trọng, yêu mến, được tín nhiệm, được giao những trọng trách. Một người như vậy thì Nước Trời trong lòng họ, tinh thần họ luôn bình an, hạnh phúc, tràn đầy niềm vui vì sống cho hạnh phúc của người khác.

Kinh nghiệm trong cuộc sống cho thấy, những người ích kỷ suốt ngày chỉ nghĩ tới mình, tới hạnh phúc hay nỗi đau của mình đều là những người đau khổ nhất. Còn những người có tâm hồn vị tha, chỉ nghĩ đến người khác, đến hạnh phúc và đau khổ của người khác, không còn thời giờ để nghĩ đến mình thì những người ấy luôn luôn hạnh phúc thoải mái trong tâm hồn và thành công trong cuộc đời.

Người Kitô hữu chúng ta cần tập thói quen sống vì Chúa, vì tha nhân và thường xuyên tìm đủ mọi cách để người xung quanh mình được hạnh phúc. Sống như thế không những được hạnh phúc ở đời này mà còn đời sau nữa. Đường lên thiên đàng thì nhỏ và chật hẹp, vất vả hơn đường xuống hỏa ngục đầy thênh thang bóng mát. Chọn lựa theo Chúa Giêsu là đón nhận cho đời mình chính nguồn hạnh phúc chân thật và sự sống phong phú dồi dào.

Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người để giúp con người sống hạnh phúc. Sau khi sống lại, Người mở đường dẫn lối cho chúng ta đi về hạnh phúc viên mãn trong Thiên Chúa Tình Yêu và Sự sống.

Về mục lục

.

PHÚC CHO NHỮNG AI ĐẶT TRỌN NIỀM TIN VÀO CHÚA

Lm. Anthony Nguyễn Ngọc Dũng

Trong xã hội ngày hôm nay, người ta thường nói: Con cha cháu ông muốn gì được nấy. Hay chúng ta thường nghe ông bà ta nói: “Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa.Bao giờ dân nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa.” Chúng ta thường cậy dựa vào sức lực và ảnh hưởng của người khác, của những ngưới có quyềnthếvàđịa vịtrong xã hội [hoặc Giáo Hội], để tìm chút lợi danhcho mình và cho người thân. Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta đặt lại những giá trị trong cuộc sống và trong xã hội, vì chúng ta là những môn đệ của Ngài, những người thuộc về Ngài chứ không thuộc về thế gian.

Ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc 1 trình bày sự tương phản vềcuộc sống của những người đặt niềm tin vào con người và những người đặt niềm tin vào Đức Chúa. Thật vậy, Đức Chúa, qua ngôn sứ Giêrêmia, khiển trách những kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làmnơi nương tựa,và lòng dạ xa rời Đức Chúa!” (Gr 17:5). Họ sẽ như bụi cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ,hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra,nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy,trong vùng đất mặn không một bóng người”(Gr 17:6).Còn những người “đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Đức Chúa làm chỗ nương thân.Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong,mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi,gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại,và không ngừng trổ sinh hoa trái” (Gr 17:7-8). Hai loại người này sẽ được trình bày cách chi tiết và rõ ràng hơn trong bài Tin Mừng.

Còn trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói đến sự phục sinh của Đức Giêsu Kitôlà trung tâm điểm của niềm tin Kitô giáo: “Vì nếu kẻ chết không trỗi dậy, thì Đức Kitô cũng đã không trỗi dậy.Mà nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cor 15:16-17). Chính niềm tin vào sự phục sinh đã làm cho chúng ta hiểu rằngcuộc sống của chúng ta không kết thúc bởi cái chết, như Thánh Phaolô nói: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cor 15:20). Sự kiện Đức Kitô trỗi dậygiúp chúng ta nhận ra rằng, những giá trị đích thật trong đời sống của chúng ta không nằm ở cuộc sống chóng qua ở trần thếnày, nhưng nằm ở cuộc sống mai sau, vì khi chết chúng ta không thể mang theo tiền tài danh vọng xuống nấm mồ. Trong bối cảnh của sự phục sinh của Đức Kitô mà Thánh Phaolô trình bày, chúng ta hiểu bài Tin Mừng hôm naycách rõ ràng hơn vì những lời hứa và hình phạt kèm theo nằm ở “thể tương lại,”tức là ởcuộc sống mai sau. Thật vậy, chỉ trong sự sống phục sinh chúng ta mới hiểu điều Chúa Giêsu nói với các môn đệ về các mối phúc thật.

Bản phúc thật của Thánh Luca trong Tin Mừng hôm naygồm có bốn mối phúc và bốn mối hoạ, thay vì cả tám mối phúc nhưđược tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Mátthêu (x. Mt 5:1-12). Qua các mối phúc và hoạ trong bàiTin Mừng,Chúa Giêsu đảo lộn các giátrị mà người đời xemnhư là tiêu chuẩn của thành công hay thất bại để trở thành những giá trị đích thật của cácmôn đệ của Ngài. Nói cách khác, những môn đệ mà Chúa Giêsu gọi là có phúc thì thế gian cho là bất hạnh; còn những môn đệmà Chúa Giêsu gọi là bất hạnh thì thế gian cho là hạnh phúc. Đề tài này tiếp nối đề tài “đáp lại tiếng Chúa Giêsu mời gọi” để trở nên môn đệ của Ngài trong Chúa Nhật tuần trước: Khi đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, những giá trị trong cuộc đời của chúng ta cũng bị thay đổi. Và Chúa Giêsu đã đưa ra bản giá trị mới này cho chúng ta trong các mối phúc và hoạ. Theo Deissmann, “Những mối phúc [và hoạ] được công bố trong môi trường đầy điện [và có thể tạo nên những cú điện giật chết người]. Chúng không phải là những vì sao thinh lặng, nhưng là những tia chớp của sét kèm theo tiếng sấm đầy kinh ngạc và sửng sốt.”

Trước khi phân tích chi tiết các mối phúc và hoạ, chúng ta cần lưu ý điều này: Như chúng ta đã trình bày ở trên, Chúa Giêsu muốn nói các mối phúc và họa này cho chính các môn đệ [nhóm 12] của Ngài, cho chính mỗi người chúng ta: “Khi ấy, Đức Giêsu ở trên núi xuống cùng với Nhóm Mười Hai, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, có nhiều môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng đến từ khắp miền Giuđê, Giêrusalem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xiđôn…. Thấy vậy, Đức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói” (Lc 6:17-20). Vì vậy, để lời Chúa hôm nay trở nên “máu thịt” của mình, chúng ta hãy mở rộng con tim và đặt mình trước mặt Chúa Giêsu để nghe Ngài nói những lời đầy thách đố, nhưng cũng đầy an ủi này cho mỗi người chúng ta.

Mối phúc thứ nhất: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6:20). Khi thế gian xem những người giàu có về của cải vật chất là có phúc thì Chúa Giêsu lại nói chỉ những người nghèo mới có phúc.Cái nghèo mà Chúa Giêsu nói đến ở đây không nhất thiết là cái nghèo về vật chất, nhưng là “thái độ tự do, không làm nô lệ cho vật chất” để chỉ sở hữu mình Thiên Chúa làmgia nghiệp.Chúng ta đã từng chứng kiến việc có những người giàu có về của cải vật chất, nhưng họ sống nghèo vì họ sử dụng của cải của mình để chia sẻ và chuẩn bị cho mình một kho tàng ở trên trời. Ngược lại, có những người nghèo về của cải vật chất, nhưng “giàu có” trước mặt Chúa vì họ chỉ lo đi tìm của cải vật chất để thoả mãn ước mơ có được đời sống tiện nghi để rồiquên mất Chúa.

Mối hoạ thứ nhất: “Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi” (Lc 6:24). Như chúng ta đã trình bày, khi thế gian xem giàu có là một ơn phúc, thì Chúa Giêsu lại xem giàu có là một mối hoạ.Tại sao giàu có là mối hoạ? Vì nó dễ dàng làm cho con người ngủyên trong phần an ủi chóng qua của mìnhở đời này mà quên đi hoặc dửng dưng trước những nhu cầu của anh chị em xung quanh. Có câu nói trong đời rằng: Giàu có dễ dàng làm cho chúng ta ngăn cách với người nghèo bằng những bức tường thật cao, những cánh cổng khoá thật chặt. Hơn nữa, giàu có dễ dàng làm cho con người sử dụng tất cả năng lực mình có để càng trở nên giàu có hơn trước mặt người đời mà không lo đến việc chuẩn bị cho mình một khotàng ở trên trời. Chúng ta hãy nhớ rằng: Những gì chúng ta có được về của cải vật chất chỉ là những giá trị của thế gian. Khi sự chết ập đến, khotàng trần thế sẽ để lại cho người khác. Những giá trị của người môn đệ của Chúa Giêsu là: “Hãy đi, bán hết của cải anh [chị] có, cho người nghèo, tích luỹ cho mình một kho tàng ở trên trời, rồi đến và theo Thầy” (x. Mt 19:21).Một lối sống thật thanh thoát với của cải vật chất!

Mối phúc thứ hai: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói,vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng” (Lc 6:21). Mối phúc này đi theo mối phúc về  nghèo  khó.  Thường những người nghèo khó thì thiếu thốn cái ăn cái mặc nên dễ dàng phải chịu đói chịu khát. Khi thế gian xem những người luôn no đầy là có phúc thì Chúa Giêsu nói phúc cho các môn đệ khi họ phải chịu đói khổ. Tuy nhiên, cái đói mà Chúa Giêsu nói đến ở đây không phải là cái đói đơn giản mang tính vật chất, mà là cái đói và cái khátlời Chúa và sự công chính của Ngài. Chỉ những người đói khát lời Chúa và sự công chính của Ngài mới luôn hướng lòng về Ngài và xem Ngài là tất cả của cuộc đời mình. Khi làm như thế, họ sẽ được Thiên Chúa cho no lòng với tình yêu, sự tha thứ, ủi an và chăm sóc của Ngài.

Mối hoạ thứ hai: “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói” (Lc 6:25).Những người đang no nê ở đây là những người đang tận hưởng những của cải vật chất như mối hoạ thứ nhất nói đến. Họ được no nê về của cải vật chất, nhưng đói khát những giá trị thiêng liêng.Chúng ta chứng kiến trong cuộc sống thường ngày của chúng ta thực tại này là có nhiều người và nhiều gia đình rất no đủ về vật chất, nhưng họ lại rất đói về tình thương, về cảm thông và tha thứ.

Mối phúc thứ ba: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười” (Lc 6:21). Khi thế gian gọi những người luôn vui cười là hạnh phúc thì Chúa Giêsu lại nói nhưng ai đang phải khóc là được phúc. Tại sao Chúa Giêsu lại nói những người than khóc là có phúc? Theo nghĩa Kinh Thánh, dân Chúa than khóc khi họ phạm tội và cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa. Như vậy, những người than khóc là có phúc vì họ than khóc cho tội của mình và của người khác. Đây là sự than khóc của những tâm hồn thống hối ăn năn, của những người khóc cho sự bất công trong xã hội. Nhưng than khóc đó sẽ được Chúa làm cho trở nên vui cười, niềm vui vì được tha thứ và yêu thương.

Mối hoạ thứ ba: “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bâygiờ đang được vui cười vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than” (Lc 6:25).Những người sẽ gặp khốn cùng trong ngày sau hết là những người không bao giờ biết than khóc cho tội của mình và tội của người khác. Những người “cười” trên nỗi đau của đồng loại; những người hưởng lộc, ăn no mặc ấm trong khi anh chị em của mình đói khát và lạnh lẽo.

Mối phúc thứ tư: “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6:22-23). Khi thế gian cho rằng những người không bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả là hạnh phúc, thì Chúa Giêsu lại nói ngược lại. Ai trong chúng ta cũng đã từng bị oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xem như là tên xấu xa. Nhưng thường chúng ta bị đối xử như vậy là vì những việc làm vì mình. Điều đó không làm cho chúng ta được chúc phúc. Chúng ta được phúc chỉ khi chúng ta chịu những điều đó vì danh Chúa Giêsu. Nói cách cụ thể, chúng ta bị loại trừ, oán ghét, sỉ vả, và xem là tên xấu xa khi sống đời sống thật yêu thương, thật tha thứ, thật cảm thông, thật tốt. Tóm lại, là chúng ta sống một lối sống như Chúa Giêsu vậy. Chúng ta trở nên quá khác với những người thời đại là những người cảm thấy khó để yêu thương, để tha thứ, để cảm thông và sống thành thật.

Mối hoạ thứ tư: “Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6:26). Lối sống giả tạo và chạy theo vẻhào nhoáng bên ngoài luôn là một hấp dẫn và cám dỗ của chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta thường làm việc với động lực để được người khác biết đến và khen ngợi, ngay cả những việc “bác ái” đúng ra ngay cả tay phải cũng không biết việc tay trái làm, thì chúng ta lại dùng chúng để tìm vinh danh cho mình thay vì vinh danh cho Thiên Chúa.

Tóm lại, chủ đề chính của lời Chúa trong Chúa Nhật VI Thường Niên hôm nay được trình bày cách tuyệt diệutrong câu Thánh Vịnh Đáp ca: “Phúc thay người đặt tin tưởng nơi Chúa.”Những người đặt niềm tin vào Chúa là những người để cho Chúa hướng dẫn cuộc đời của mìnhtheo cách Ngài muốn chứ không theo cách họ muốn; họlà những người trao cho Chúa trọn con tim của họđể Chúa đổ vào trong đó tình yêu vô điều kiện của Ngài; và cuối cùng, họlà những người luôn sẵn sàng tha thứ và cảm thông cho người phạm đến mình bảy mươi lần bảy trong một ngày.

Về mục lục

.

ƯỚC GÌ NGHÈO MỘT NGÀY

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có một sự thật mà ai cũng phải gật đầu thừa nhận rằng trên đời nàychẳng aimuốn mình phải sống trong cảnh nghèo khổ. Nếu như không quá tham vọng một cuộc sống nhung lụa, phú quý thì chí ít con người cũng khao khát cho mình có một gia đình hòa thuận, một cuộc sống đủ ăn, đủ mặc vàmột chút dư thừa.

Và chẳng ai hi vọng mình cứmãi sống trong cái cảnh nghèo túng đâu?Nghèo cũng có đến năm bảy loại nghèo, nhưng chung quy đã nghèo thì chỉ thấy bất hạnh. Nghèo đến độ mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc thì quả thực là khốn khổ vô cùng.

Có câu chuyện vui kể rằng : Cuối tháng, Tèo than thở với ông bạn đồng nghiệp:

– Anh biết không, nhiều khi tôi chỉ ước được sống trong cảnh nghèo đói một ngày thôi mà Trời vẫn không cho!

– Trời ạ! – anh đồng nghiệp sửng sốt – Người ta sợ nghèo, sợ đói còn không kịp, cậu lại đi ước ao nghèo.

Tèo thở dài:

– Tôi chỉ ước một ngày thôi, chứ ngày nào cũng đói khổ như hiện tại làm sao mà chịu nổi.

– !!!

Nghèo đói là tai hoạ của kiếp người. Xã hội hôm nay đang cùng nhau nổ lực xoá đói giảm nghèo. Thế mà, phúc âm Chúa Giê-su lại chúc phúc cho anh em khi được đói nghèo: “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, phúc cho anh em là những kẻ bây giờ phải đói?”.Không lẽ Chúa Giê-su lại chủ trương một đời sống nghèo nàn, đói khát và lạc hậu sao?

Chúa không chúc phúc cho sự đói nghèo mà Chúa chúc phúc cho các môn đệ của Chúa là những người đã dám bỏ mọi sự mà đi theo Chúa, để rồi chẳng còn gì là của riêng mình.Trước đây, các môn đệ như Phê-rô, An-rê, Gioan, Giacôbê là những ngư phủ khá giả có ghe, có thuyền, có lưới… ngày ngày đánh bắt được tôm cá để nuôi sống gia đình và bản thân. Nay vì theo tiếng gọi của Chúa Giê-su, các ngài từ bỏ ghe thuyền, nhà cửa, nghề nghiệp, bỏ lại cả vợ con, ra đi với hai bàn tay trắng, lên đường phục vụ cho Tin Mừng. Vì thế các ngài là những người trở nên vô gia cư, vô sản vì Tin Mừng và vì Chúa Giê-su. Thế nên các ngài sẽ được Chúa Giê-su trọng thưởng. “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em”. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đâu có thua lòng quảng đại của con người.Thiên Chúa sẽ bù đắp lại cho những gì con người đã làm cho Chúa, Ngài không để cho ai thiệt thòi vì tin mừng.

Hôm nay cũng thế, nếu chúng ta chấp nhận hy sinh vì Chúa, chịu thiệt thòi mất mát vì Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban thưởng dư đầy, bởi vì lòng quảng đại của Thiên Chúa thì triệu lần lớn lao hơn lòng quảng đại của chúng ta. Chúng ta hiến dâng cho Chúa một, Chúa sẽ ban thưởng gấp trăm gấp ngàn những cái chúng ta dâng cho Chúa.

Thiết tưởng đây phải là lối sống mà những kẻ tin theo Chúa cần thể hiện một cách triệt để trong cuộc sống hôm nay. Giữa một thế giới mà lòng ích kỷ, hưởng thụ, khiến nhân loại đang chìm đắm trong bể khổ của ly tán, bất công và bạo lực, người kytô hữu phải sống triệt để tinh thần bác ác, vị tha. Con người hôm nay đang tự đầy đoạ nhau trong những bon chen danh lợi thú, những đam mê bất chính đã đẩy nhận loại đến tận cùng của sự dữ, đến nỗi người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau và đẩy nhau đến chỗ diệt vong. Người kytô hữu hơn bao giờ hết cần phải ý thức rằng tất cả chỉ là phù hoa. Trần gian là phù vân. Mọi sự rồi cũng sẽ qua. Thiên đàng mới là bất diệt. Ở nơi đó mới làm thoả mãn mọi ước vọng của con người. Cuộc sống trần gian ngắn ngủi tựa như “bóng câu qua cửa sổ”, còn đời sống thiên quốc mới vĩnh viễn ngàn thu. Đó mới là nơi mà chúng ta phải phấn đấu để đạt lấy triều thiên của vinh quang, của hạnh phúc bất diệt.

Nguỵên xin Chúa Giêsu Thánh Thể, là lương thực trợ giúp chúng ta trên đường về đất hứa xin ban cho chúng ta được no thoả ân tình của Chúa để luôn hạnh phúc với những gì Chúa ban. Amen

Về mục lục

.

SỐNG DƯỚI ÁNH MẮT CHÚA

Bông hồng nhỏ

Lắng nghe là điều cần thiết và quan trọng. Mỗi ngày, ta không chỉ nghe bằng đôi tai mà còn nghe bằng mắt, bằng miệng, bằng nét mặt và toàn thân.

Đã bao giờ ta nhìn vào ánh mắt của người khác và hiểu được điều mà họ muốn bày tỏ? Hôm nay, ánh mắt Thầy Giêsu đã nhìn vào đôi mắt ta và ngay lúc Thầy nói, lòng ta đã vui lên. Thầy Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và bắt đầu nói về các mối phúc. “Phúc anh em là…” đó là cách Thầy giảng. Những mối phúc Thầy nhắc đến là nghèo khó, đói, khóc, bị bách hại, bị loại trừ. Đây là những điều mà thế gian đang tìm cách loại trừ, muốn tránh xa thì Thầy lại cho là phúc đang ở trong tầm tay. Vì sao vậy? Chẳng phải vì nghèo khó mà người ta hạnh phúc nhưng nhờ trở nên những người nghèo khó vì Nước Thiên Chúa khiên người ta thực sự hạnh phúc. Tự nguyện trở nên nghèo khó và chấp nhận cái nghèo khó của Tin Mừng, người môn đệ sẽ ở trong Nước Thiên Chúa, được chính Chúa là gia nghiệp. Thánh Têrêsa Avila cũng có kinh nghiệm về việc được Thiên Chúa là được tất cả, chẳng còn thiếu gì nữa. Chỉ trong tình yêu của Chúa, người môn đệ mới sẵn sàng đón nhận cái đói, cái đớn đau của việc loại trừ, bị bách hại, bị chính người thân cận phản bội. Cái đói mà Thầy Giê su muốn nói là cái gì? Có một cái đói, khát mà lương thực không làm cho no thỏa được đó là đói khát sự công chính Thiên Chúa Chân – Thiện – Mỹ, Thầy Giêsu đã khẳng định: “Vì chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng” ( Lc 6, 21).

Niềm vui được làm môn đệ Chúa, được trở nên giống Chúa hơn qua từng chọn lựa trong ngày sống là niềm vui không ai lấy mất được. Thiên Chúa là Đấng luôn dõi nhìn đến con cái bằng ánh mắt của người cha nhân lành. Trên Thập giá, đôi tay của Chúa Giêsu dang rộng để ôm lấy tất cả. Vòng tay của người môn đệ có đủ rộng để ôm lấy tất cả mọi người như Chúa đã yêu thương? Phúc cho ai can đảm dang rộng vòng tay yêu thương để đón nhận tất cả mọi người, dù họ có bách hại ta nhưng vì Tin Mừng ta đón nhận tất cả.

Khi nói về các mối phúc, Thầy Giêsu đã chỉ rõ: “Phúc cho anh em” và khi nói về các mối họa, Thầy lại nói: “Khốn cho các ngươi”. Như thế, được trở nên môn đệ Thầy Giêsu là cái phúc lớn nhất. Sống xa Chúa thì thật là bất hạnh. Phúc cho người đặt tin tưởng nơi Đức Chúa nhưng khốn cho người tin tưởng người đời (x. Gr 17, 5-8). Nếu được giàu sang sung túc ở đời này, được no thỏa, được vui cười mà chưa biết Tin Mừng hay được biết Tin Mừng nhưng lại chối bỏ thì thật khốn thay, bất hạnh thay. Đồng khô cỏ cháy không phải là một điều đáng mơ ước. Được sống trong đồng cỏ xanh bên dòng suối mát, mới là hạnh phúc.

Lạy Chúa! Hạnh phúc cho con vì con được đón nhận Tin Mừng của Chúa. Đó là cái phúc con được Chúa ban qua sự quảng đại dấn thân của các nhà truyền giáo, của các môn đệ đã hết lòng rao giảng Tin Mừng. Nay con lại được mời gọi trở nên môn đệ Chúa, tiếp tục sống các mối phúc của người môn đệ để Nước Chúa ngày càng lan rộng. Xin cho con luôn biết sống dưới cái nhìn của Chúa và dấn thân hơn. Amen.

Về mục lục

.

MỐI PHÚC NƯỚC TRỜI

Anna Cỏ May

Trong từng ngày sống, chúng ta thường được nghe những lời chúc phúc từ người khác và chúng ta cũng trao lời chúc phúc cho mọi người. Người ta thường chúc cho nhau muốn gì được nấy, làm ăn phát tài… Đó là những lời chúc phúc của thế gian, còn mối phúc Nước Trời thì sao?

Hôm nay, Tin Mừng Luca sẽ cho chúng ta biết về mối phúc Nước Trời.

Chúa Giê su ngước mắt nhìn các môn đệ và nói về các mối phúc. Phúc cho những người nghèo khó, phúc cho những ai đang đói, phúc cho ai đang khóc, phúc cho ai bị người ta oán ghét, khai trừ sỉ vả…(x.Lc 17,20-23). Tất cả những mối phúc ấy đi ngược với phúc của thế gian. Phúc thế gian luôn chỉ hướng về bản thân mình, còn phúc Nước Trời đạt đến sự trọn vẹn hoàn thiện cùng với tha nhân. Khi đi sâu vào các mối phúc Nước Trời, chúng ta sẽ thấy sự giàu có trên Nước Trời được thể hiện trong các mối phúc thế nào.

Phúc cho những ai nghèo khó là những người sống tinh thần nghèo khó, ý thức trách nhiệm trong công việc, lắng nghe Lời Chúa với tâm hồn khiêm nhường vì Nước Trời là của họ.

Phúc cho những ai đang phải đói về quyền hành nhưng sẵn sàng phục vụ người khác vì Thiên Chúa sẽ cho được no lòng, no trong tâm hồn no sự bình an.

Phúc cho những ai than khóc là những ai khóc khi thấy sự đổ vỡ và ly tán trong xã hội. Họ than khóc vì những thành kiến, những lo sợ, tội lỗi khiến cho mọi người chia cắt với nhau, và họ ước mong trở nên những người biết chữa lành thương tích để mọi người được vui cười.

Phúc cho ai bị người ta oán ghét khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu là những ai đã cảm nghiệm Lời Chúa trong tâm hồn và được thức tỉnh bởi tình yêu của Thiên Chúa, những ai bị khai trừ khi chia sẻ Tin Mừng với anh em mình; ngày ấy, họ sẽ vui mừng vì được phần thưởng trên trời.

Sống các mối phúc là cách duy nhất để sống tư cách là con Thiên Chúa vì các mối phúc diễn tả lại về cuộc đời của Chúa Giêsu đã sống.

Đối chiếu vào mối phúc của Chúa Giêsu trao ban, chúng ta có đang sống mối phúc trong đời sống mỗi ngày không? Điều gì khiến chúng ta cảm thấy khó khăn khi sống mối phúc? Sống các mối phúc là cách thể hiện tình yêu dành cho Chúa Giêsu. Một khi để cho Chúa Giê su và các mối phúc của Ngài đi vào đời sống chúng ta, thì chúng ta sẽ qua được những thử thách mỗi ngày. Lúc căm hờn, Chúa bảo hãy tha thứ; lúc sợ hãi, Chúa bảo hãy can đảm; lúc ghen ghét, Chúa bảo hãy yêu…những thử thách luôn đi ngược với cuộc sống, với suy nghĩ của chúng ta. Nhưng khi vượt qua các thử thách, chúng ta có thể cảm nghiệm được sự yêu thương tha thứ, chăm sóc không ngơi của Thiên Chúa. Noi gương các thánh, chúng ta cũng chọn cho mình một mối phúc. Vì sống trọn vẹn một mối phúc sẽ chạm và đạt tới các mối phúc khác. Thánh Anê trinh nữ vì làm chứng đức tin của mình, cô đã bị đối xử tàn bạo nhưng cô vẫn bình thản giữa những cực hình. Thánh Têrêxa Calcutta đã sống một đời bên những người nghèo bệnh tật, và đã tận tình phục vụ. Còn rất nhiều vị thánh khác đã sống trọn mối phúc của Chúa Giêsu. Sống các mối phúc là con đường dẫn về Nước Trời.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con con đường về Nước Trời qua các mối phúc. Xin cho mỗi người chúng con biết sống mối phúc của Chúa hằng ngày. Nhờ đó, chúng con được thẳng tiến về Nước Trời. Amen.

Về mục lục

.

ĐẶT NIỀM TIN VÀO THIÊN CHÚA VÀ CON MỘT NGƯỜI

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Gr 17:5-8;  1Cr 15:12, 16-20;  Lc 6:17, 20-26)

Sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho nhân loại được Thiên Chúa trao ban cho Chúa Giê-su và tất cả chúng ta.  Tuy nhiên việc đón nhận Tin Mừng lại đòi hỏi người ta phải có lòng tin, tin vào Thiên Chúa và tin vào sứ điệp của Người, đồng thời cũng phải tin vào Chúa Giê-su Ki-tô là sự biểu lộ và thể hiện chính Tin Mừng ấy.  Mỗi bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay diễn tả niềm tin dưới một khía cạnh đặc biệt.  Bài trích sách Giê-rê-mi-a thì nhấn mạnh đến những hiệu quả của niềm tin vào Thiên Chúa.  Đoạn thư thánh Phao-lô thì lấy sự phục sinh của Chúa Ki-tô làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta.  Riêng bài Tin Mừng diễn tả những cách biểu lộ niềm tin của những người được gọi là có phúc, mặc dù hạnh phúc của họ không phải là thứ hạnh phúc theo tiêu chuẩn của trần thế, mà là theo tiêu chuẩn của những người có đức tin.

Trước hết chúng ta xem Thiên Chúa nói với dân Người về niềm tin như thế nào.  Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thay Chúa để nói với đồng bào của ông về sự khác biệt giữa “kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa” và “kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Đức Chúa làm chỗ nương thân”.  Ngôn sứ dùng hình ảnh cây để nói lên sự khác biệt.  Cây phải có nước thì mới phát triển được.  Vậy kẻ đặt niềm tin vào người đời giống như “cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ”.  Đúng thế, người đời có cho chúng ta hạnh phúc thì cũng chỉ là thứ hạnh phúc nhất thời.  Duy có Thiên Chúa mới có thể ban cho chúng ta hạnh phúc muôn đời.  Do đó thật thích hợp khi ngôn sứ ví kẻ tin vào Thiên Chúa giống như “cây trồng bên dòng nước”.  Nước mang các chất bổ dưỡng đưa vào rễ để chuyển lên thân cây và cành lá giúp cho cây lớn lên và sinh hoa kết quả.  Cũng thế, người đặt niềm tin vào Chúa giống như cây “đâm rễ sâu vào mạch suối trong”.  Vì Chúa là nguồn ân sủng và hạnh phúc nên họ tha hồ hút lấy nào là sức sống, nào là tiềm năng sinh hoa kết trái, nói tóm lại là tích trữ dần dần sự sống đời đời.  Quả thực, người đặt niềm tin vào Thiên Chúa chắc chắn sẽ được hạnh phúc muôn đời.

Tuy nhiên ai có thể bảo đảm với chúng ta rằng hễ tin vào Thiên Chúa thì sẽ được sống muôn đời?  Trả lời câu hỏi này, thánh Phao-lô diễn giải cho tín hữu Cô-rin-tô hiểu rằng nếu chúng ta tin vào Chúa Ki-tô, chúng ta sẽ được sống đời đời.  Tại sao?  Vì sự phục sinh của Chúa Ki-tô là dấu hiệu bảo đảm Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta hạnh phúc trường sinh:  “Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu”.  Vì sự phục sinh của Chúa Ki-tô là nền tảng cho hạnh phúc muôn đời của chúng ta, nên thánh Phao-lô mới nhấn mạnh đến việc rao giảng rằng Chúa Ki-tô đã từ cõi chết trỗi dậy.  Ngài lý luận rằng nếu Chúa Ki-tô không sống lại từ kẻ chết, thì việc rao giảng của ngài cũng như của các tông đồ là uổng công và đức tin (tức là đức tin vào Chúa Ki-tô không sống lại) của những kẻ đón nhận lời rao giảng chỉ là đức tin hão huyền mà thôi!  Nói khác đi, đức tin của chúng ta vào Chúa Ki-tô không phải là thứ đức tin “đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này”, nhưng là đức tin đặt hy vọng vào Chúa Ki-tô Phục Sinh, sự sống đời đời đích thực của chúng ta.

Tất cả chúng ta đều được kêu gọi hãy đặt niềm tin vào Thiên Chúa để được hạnh phúc đời đời.  Chúa Ki-tô cho chúng ta thấy những tình huống biểu lộ niềm tin của ta vào Thiên Chúa trong bài giảng “Bốn Mối phúc”.  Tại sao vậy?  Vì Tin Mừng Mát-thêu thì trình bày Tám Mối phúc, còn Tin Mừng Lu-ca thuật lại bài giảng của Chúa chỉ gồm bốn mối phúc và thêm vào bốn mối họa.  Giống  như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Thánh Lu-ca muốn mô tả sự khác biệt giữa những mẫu người tin vào Thiên Chúa và mẫu người tin vào người đời.  Ngài cho chúng ta thấy hiệu quả của niềm tin vào Thiên Chúa khác biệt với hiệu quả của niềm tin vào người đời.  Tin vào Thiên Chúa sinh những hiệu quả đời sau và vĩnh cửu;  còn tin vào người đời chỉ đem lại hiệu quả nhất thời và tạm bợ.  Đúng vậy, Lu-ca thường lập lại từ “bây giờ”.  Nếu bây giờ chúng ta là kẻ nghèo khó, đói khát, khóc lóc và bị bách hại vì lẽ công chính mà vẫn một lòng tin vào Thiên Chúa, thì ngày sau Thiên Chúa sẽ cho ta được giàu có của Nước Thiên Chúa, được no đầy hạnh phúc, được niềm vui và phần thưởng ở trên trời.  Đối với những kẻ đặt niềm tin vào thế gian, vào sự giàu sang họ đang có bây giờ, vào sự no nê họ đang hưởng thụ bây giờ, vào sự vui cười họ đang hả hê bây giờ và hư danh họ đang có bây giờ, thì tất cả chỉ là những gì chóng qua.  Nhưng trong tương lai đời sau, hậu quả muôn đời của niềm tin ấy sẽ là tất cả những gì ngược lại!

Sống sứ điệp Lời Chúa

Chúng ta đều là những người có đức tin, hoặc đức tin mạnh hay đức tin yếu.  Có thể chúng ta giống như các môn đệ bị Chúa Giê-su trách là kém lòng tin.  Cũng có thể chúng ta giống như người cha của đứa bé mắc bệnh động kinh, khẩn khoản xin Chúa:  “Tôi tin!  Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!” (Mc 9:24).  Nhưng quan trọng hơn cả là vấn đề chúng ta làm thế nào để sống đức tin vào Thiên Chúa và Chúa Giê-su, Con Một Người.  Chúng ta có nhiều phương thức giúp cho lòng tin của chúng ta phát triển như cầu nguyện, đọc và suy niệm Kinh Thánh, lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể.  Trung thành làm những việc đạo đức này sẽ giúp cho mối tương quan với Chúa được nồng nàn và mật thiết hơn!

Về mục lục

.

THẺ CĂN CƯỚC CỦA KI-TÔ HỮU

JM. Lam Thy

Bài Tin Mừng hôm nay (CN VI TN-C – Lc 6, 17.20-26) trình thuật về những mối phúc dành cho những kẻ tin và theo Chúa, cách riêng là những người được tuyển chọn làm Tông đồ. Họ sẽ được huấn luyện đặc biệt và ở bên cạnh Chúa Giê-su để tập việc. Hơn ai hết, họ cần phải am hiểu giáo lý của Người, để đến lượt họ sẽ phải loan truyền giáo lý ấy cho dân chúng. Giáo lý của Đức Ki-tô có những điểm đặc biệt giúp người nghe căn cứ vào đó mà làm phát triển những gì là đặc sắc nơi con người họ.

Trong bài giảng khai mạc sứ vụ của Chúa Giê-su, những điểm đặc biệt ấy được gọi là những Mối Phúc: Đó là những người nghèo khó, đang phải đói, đang phải khóc, vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Nói về những mối phúc thì không thể quên thánh sử Mát-thêu trình thuật về Tám Mối Phúc (nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, khát khao nên người công chính, xót thương người, tâm hồn trong sạch, xây dựng hoà bình, bị bách hại vì sống công chính, vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa – Mt 5, 1-12).

Theo Đức cố Giám mục Bar-tô-lô-mê-ô Nguyễn Sơn Lâm (trich trong “Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia”), phải nói rằng cả thánh Lu-ca và thánh Mát-thêu đã ghi lại toàn bộ bài giảng của Đức Giê-su qua trung gian một bản văn đã có trước bản văn của các ngài. Bản văn này ghi 4 điều phúc cho kẻ nghèo, kẻ đói, kẻ khóc, và kẻ bị bắt bớ vì Đạo Chúa. Mát-thêu và Lu-ca cũng chép lại cả 4, nhưng cả hai muốn quảng diễn thêm. Mát-thêu thì thêm vào 4 mối phúc: hiền lành, xót thương người, tâm hồn trong sạch, xây dựng hoà bình. Còn Lu-ca thì thêm vào 4 điều đáng bị lên án (khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, những kẻ bây giờ đang được no nê, đang được vui cười, được mọi người ca tụng). Để được hưởng phúc thì người tín hữu phải thật sự tránh xa những điều đã bị lên án mà trở về với 4 điều phúc thật.

Quảng diễn những mối phúc cho người tín hữu hiểu và thực hành, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã giảng trong Thánh lễ sáng ngày 6/6/2016 tại Nhà nguyện Thánh Marta. Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Các mối phúc như những “hoa tiêu” chiếu sáng trên con đường của đời sống Ki-tô hữu, như một “chương trình hành động”, như một “giấy căn cước của Ki-tô hữu”. Nếu anh chị em tự hỏi mình làm thế nào tôi có thể trở thành một Ki-tô hữu tốt, thì đây là câu trả lời của Chúa Giê-su, một câu trả lời dẫn đến một thái độ đi ngược lại não trạng con người ngày nay rất nhiều.” Cuối bài giảng, ĐTC kết luận: “Tám Mối Phúc Thật đại diện cho “một chương trình sống” chính Chúa Giê-su đã ban cho chúng ta. Tuy đơn giản nhưng rất cam go. Nếu chúng ta muốn tìm kiếm thêm, Chúa Giê-su còn chỉ cho chúng ta một điều khác đã được viết trong Tin Mừng: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25, 35-36). Với Tám Mối Phúc Thật – và nói chung, toàn bộ chương 25 sách Tin Mừng theo Thánh Mat-thêu – người ta có thể sống một đời sống Ki-tô hữu thánh thiện.” (nguồn: Vatican.net).

Sống một đời sống thánh thiện để có được “giấy căn cước Ki-tô hữu” đích thực, chính là một ước mơ hạnh phúc mà con người luôn mong ước đạt được cách viên mãn. Hạnh phúc là gì? Hạnh phúc là một trạng tháicảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí. Hạnh phúc là luôn biết cảm nhận, khám phá những điều mới mẻ từ cuộc sống; là hoài bão sáng tạo nên những giá trị mới; là thực hiện được những điều mình ấp ủ, ước mơ. Hạnh phúc là khi con người tìm ra và trân trọng những niềm vui, những giá trị giản dị từ cuộc sống. Nếu chỉ tìm hiểu về ý nghĩa hạnh phúc thì chỉ cần một động tác nhỏ (mở từ điển) là xong, nhưng để có được hạnh phúc đích thực thì chuyện không còn là đơn giản nữa.

Nói về hạnh phúc thì mỗi người một cách, mỗi người một quan niệm. Có người thì nói: “Tôi hạnh phúc vì tôi có được vợ đẹp con khôn, gia đình êm ấm”; người thì nói: “Tôi hạnh phúc vì tôi có được đầy đủ cả tiền bạc và danh vọng”; cũng có người nói: “Tôi hạnh phúc vì tôi chẳng vướng vòng danh lợi, chẳng lụy chuyện phu thê, ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch.” (“Ngày 3 bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no, Đêm 5 canh an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.” – Nguyễn Công Trứ), Có người thì cho rằng hạnh phúc là sống thụ hưởng, sống hôm nay không cần biết đến ngày mai (Jean Paul Sartre với phong trào hiện sinh “Existentialisme”), lại cũng có người cho hạnh phúc là sống thanh tịnh vô vi, không màng đến thế sự (Lão Tử với thuyết “Vô vi”  無 為 ). Quan niệm về hạnh phúc cũng đa dạng, phong phú lắm, không dễ gì tìm được một điểm chung. Đa số những quan niệm đó đều nhắm vào hiện thực cuộc sống trần thế, và chính những hiện thực cuộc sống ấy đem lại cho chủ thể “trạng thái sung sướng” trong lãnh vực tinh thần. Nói cách cụ thể hơn, cái hạnh phúc hệ tại cuộc sống trần thế có thế đụng chạm, cầm nắm được (vật chất), nhưng khi có được nó rồi thì cảm thấy mãn nguyện, sung sướng (tinh thần).

Vấn đề cần xét tới ở đây là những quy định, những điều kiện được đua ra trong những mối phúc đều là những điều kiện về tinh thần, về phương cách sống (tinh thần nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, khao khát nhân đức, thương người, trong sạch, bị bách hại), và nếu sống được như vậy thì chắc chắn sẽ được phần thưởng. Phần thưởng đó không là giấy khen, bằng khen, hay những món tiền, món quà…; mà là những phần thuởng về tinh thần, về cuộc sống mai hậu. Cho nên có thể nói rằng, để có được “trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện”, thì tiên vàn người môn đệ phải có niềm tin vào Người Thầy của mình chính là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu Độ trần gian. Nói cách khác, những mối phúc là những cách thế biểu lộ niềm tin, là những con đường sống đức tin, bởi chỉ có đức tin mới là cứu cánh tuyệt đối cho mọi phương cách chiếm hữu Nước Trời.

Sống đức tin ư? Đúng vậy! Chỉ có tin, mới thực hành được Lời Chúa dạy, nhất là những điều thiệt hại nặng nề đến bản thân (“bị sầu khổ, bị bách hại…”). Thánh Phao-lô Tông đồ đã từng nhấn mạnh: “Vậy thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện! Dựa vào luật nào mà hãnh diện? Vào việc làm chăng? Không, nhưng dựa vào lòng tin. Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy.” (Rm 3, 27-28); ”Tuy nhiên, vì biết rằng con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô, nên chúng ta cũng tin vào Đức Ki-tô Giê-su, để được nên công chính, nhờ tin vào Đức Ki-tô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy.” (Gl 2, 16).

Một điều hiển nhiên đối với Thánh Phao-lô là khi ngài chưa tin vào Đức Ki-tô thì ngài là người rất năng nổ trong việc lùng bắt những người theo Ki-tô; nhưng sau biến cố Damas, được sáng mắt (nhờ được chính Đức Giê-su Ki-tô chữa lành bệnh mù nội tâm), ngài đã tin vào Đức Ki-tô như lời ngài khẳng định: “Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 20). Tin và thể hiện bằng hành động, bằng chính cuộc sống, đến độ “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Thánh nhân đã rất nhiệt thành trong sứ vụ rao giảng Lời Chúa, làm nhân chứng sống cho Tin Mừng cứu độ, để trở nên một tông đồ kiệt xuất như một vì sao Bê-lem đem Ánh Sáng đến cho dân ngoại. Phải chăng chính Thánh Tông đồ dân ngoại đã là một mẫu gương sáng chói cho việc “sống đức tin”? Ấy cũng bởi vì “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 26).

Nói tóm lại, sống trên đời ai ai cũng mong muốn có hạnh phúc. Ai mà chẳng muốn luôn được sống trong “trạng thái sung sướng vì cảm thấy hoàn toàn đạt được ý nguyện”. Mà ý nguyện là gì, nếu không phải đó là những mong mỏi, những ao ước, những hy vọng đề ra trong cuộc sống, để con người nỗ lực vươn tới. Sẽ có một phản biện: “Thế những người chủ trương sống thanh tịnh vô vi (không làm, không hành động), hoặc chủ trương sống hôm nay không cần biết đến ngày mai (hiện sinh), họ có nỗ lực chăng?” Câu trả lời luôn luôn là có, bởi “có thực mới vực được Đạo” (có ăn thì mới làm được việc Đạo). Sống thanh tịnh vô vi, nhưng không thể vô thực vô ẩm (không ăn không uống) được, Mà muốn có đồ ăn thức uống, vẫn phải nỗ lực kiếm tìm, chớ không thể “há miệng chờ sung”. Còn những người theo thuyết hiện sinh, sống hôm nay không biết đến ngày mai, nhưng nếu giả thử không có một chút cơm áo gạo tiền, thì liệu có sống thụ hưởng được không? Vì thế, vẫn cần phải có một nỗ lực để sống và nhất là để bảo vệ chủ thuyết mình đã theo.

Người Ki-tô hữu với cuộc sống trần thế cũng không ngoại lệ, cũng phải lo cơm áo gạo tiền để mà sống trước đã, nhiên hậu mới nói đến những ý nguyện, những ước vọng tương lai được xây dựng, được hoài bão bằng một nỗ lực không ngừng. Có thể khẳng định: Sự nỗ lực ấy luôn được thúc đẩy bằng một niềm tin, bởi càng tin tưởng thì lại càng gắng sức, càng hy vọng vào hạnh phúc đích thực lại càng nỗ lực cầu nguyện và hành động, để đạt được ý nguyện. Vâng, muốn chiếm hữu được Nước Trời thì phải nỗ lực, phải không ngừng gắng sức kiến tạo cho mình một chứng minh thư “Hạnh Phúc Thật” – một THẺ CĂN CƯỚC KI-TÔ HỮU – phản ánh trung thực cuộc sống theo Hiến chương Nước Trời với một đức tin vững vàng và một nỗ lực kiên trì vươn tới. Ước được như vậy.

Ôi! “Lạy Chúa, Chúa thích ngự trong những tâm hồn ngay thẳng, xin tuôn đổ hồng ân giúp chúng con ăn ở thế nào, để trở nên đền thờ của Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN VI/TN).

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 6 TN_C

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Thường Niên năm C ca ngợi những ai đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa.

Gr 17: 5-8

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đối chiếu đời sống của kẻ gian ác với đời sống của người công chính

1Cr 15: 12, 16-20

Thánh Phao-lô nhấn mạnh đến thực tại phục sinh của thân thể Đức Ki-tô, và ý nghĩa của sự phục sinh ấy đối với người Ki-tô hữu.

Lc 6: 17, 20-26

Thánh Lu-ca đối lập các Mối Phúc với các Mối Họa.

BÀI ĐỌC I (Gr 17: 5-8)

Trong đoạn thơ ngắn, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sử dụng hai hình ảnh thiên nhiên đối nghịch nhau để mô tả hai hạng người, hạng người bị nguyền rủa và hạng người được chúc phúc:

  1. Hạng người bị nguyền rủa (17: 5-6)

Hạng người bị nguyền rủa là những kẻ gian ác đặt niềm tin tưởng vào người đời mà xa lìa Thiên Chúa. Họ được sánh ví như bụi cây cằn cỗi mọc trong hoang địa nóng cháy, nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn, chẳng bao giờ thấy được hạnh phúc.

  1. Hạng người được chúc phúc (17: 7-8)

Hạng người được chúc phúc là những người công chính đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Họ được sánh ví như cây trồng bên dòng nước, cành lá xanh tươi, trổ sinh hoa trái bốn mùa vì đâm rễ sâu vào mạch nước.

Bài Đọc I chuẩn bị Tin Mừng hôm nay theo Thánh Lu-ca trong đó Đức Giê-su loan báo bốn Mối Phúc đối lập với bốn Mối Họa.

BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 12, 16-20)

Có những người tín hữu Cô-rin-tô không tin kẻ chết sống lại. Thánh Phao-lô chứng minh rằng những người chủ trương “không có chuyện kẻ chết sống lại” thật phi lý khi vạch ra những hậu quả của sự từ chối này.

Thứ nhất, nếu không tin kẻ chết sống lại, thì lời rao giảng của Thánh Phao-lô và những thầy dạy của họ về việc Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại để chúng ta cùng được chết và sống lại với Đức Ki-tô là những lời nói láo. Thứ hai, nếu không tin kẻ chết sống lại, thì cũng sẽ từ chối những thành quả minh nhiên của niềm tin vào Đức Ki-tô sống lại qua những ân huệ dồi dào mà Thần Khí đã ban cho cộng đồng tín hữu Cô-rin-tô. Thứ ba, nếu không tin kẻ chết sống lại, thì niềm tin của những người tín hữu ở đời này thật là hão huyền và đáng thương, đồng thời các thành viên trong cộng đồng của họ đã qua đời phải bị tiêu vong.

Từ lập luận trên, thánh nhân quả quyết rằng Đức Ki-tô thật sự đã sống lại để mở đường cho những ai tin vào Ngài cũng sẽ được sống lại cùng với Ngài.

TIN MỪNG (Lc 6: 17, 20-26)

Hình ảnh Chúa Giê-su xuống núi và đến một chỗ đất bằng, tại đó dân Thiên Chúa tụ tập quanh Người gợi nhớ hình ảnh ông Mô-sê từ trên núi Xi-nai xuống mang theo sứ điệp của Thiên Chúa. Thính giả của Chúa Giê-su đại diện đầy đủ mọi thành phần Dân Thiên Chúa: nhóm Mười Hai, đông đảo môn đệ của Người và đoàn lũ dân chúng từ khắp nơi đến.

Sau khi đã thường xuyên nói Chúa Giê-su giảng dạy, cuối cùng Thánh Lu-ca sắp sửa đưa ra một trong những khuôn mẫu cô đọng nhất của công việc giảng dạy đó. Để làm điều này, Thánh Lu-ca không tham khảo sách Tin Mừng Mác-cô nữa mà tận dụng “Nguồn các lời”. Bài Diễn Từ Trên Cánh Đồng của Thánh Lu-ca phù hợp theo mức độ nào đó với Bài Diễn Từ Trên Núi, một bài trình thuật rộng lớn mà Thánh Mát-thêu ghi lại cho chúng ta từ chương 5 đến chương 7. Trong suốt sứ vụ công khai của Người ở những miền và những thành phố khác nhau của Ít-ra-en, chắc hẳn Đức Giê-su đã rao giảng những điều như vậy trong những dịp khác nhau. Khi sử dụng “Nguồn các lời” này, mỗi thánh ký, dưới ơn linh hứng của Chúa Thánh Thần, đã sẽ chọn tường thuật những lời mà các ngài cho là hữu ích nhất trong việc giảng dạy cho độc giả đương thời của các ngài: người Ki-tô hữu gốc Do thái trong trường hợp Thánh Mát-thêu, người Ki-tô hữu gốc lương dân trong trường hợp Thánh Lu-ca.

Trước khi Chúa Giê-su công bố các Mối Phúc và các Mối Họa, Thánh Lu-ca ghi nhận: “Đức Giê-su ngước mắt nhìn lên các môn đệ” (6: 20). Tại sao Thánh Lu-ca lại ghi nhận cái nhìn của Đức Giê-su như thế? Đức Giê-su là Thiên Chúa làm người để gặp con người, chứ không phải là một đạo sư truyền bá một đạo lý hay một giáo thuyết. Ánh mắt của Người, cũng chính là cái nhìn của Thiên Chúa, đang rọi xuống trên những con người đang hiện diện trước mặt Người. Nơi những con người mà Người đang đưa mắt nhìn, Đức Giê-su thấy những người con được Chúa Cha tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa; vì thế, Người mặc khải cho họ biết họ là ai và làm cách nào để sống cho xứng đáng là những người con đích thật của Chúa Cha.

  1. Cách trình bày các Mối Phúc và các Mối Họa theo Tin Mừng Lu-ca

Thánh Lu-ca đã tóm gọn Tám Mối Phúc của Thánh Mát-thêu (Mt 5: 3-12) vào trong Bốn Mối Phúc, nhưng thêm Bốn Mối Họa đối lập. Quả thật, bốn Mối Phúc của Tin Mừng Lu-ca được phát biểu cách trực tiếp và cô đọng hơn tám Mối Phúc của Tin Mừng Mát-thêu: ví dụ trong Tin Mừng Lu-ca, Mối Phúc thứ nhất phát biểu cách trực tiếp và đơn giản “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, trong khi trong Tin Mừng Mát-thêu chúng ta đọc thấy “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, rõ ràng Mối Phúc này được phát biểu cách gián tiếp và chứa đựng một lời giải thích ngắn về ý nghĩa của đức nghèo khó. Thánh Lu-ca đặt hai nhóm người và hai mẫu tình huống tương phản một cách có hệ thống.

Bốn Mối Phúc là bốn Mối Họa đảo ngược:

“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có”
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói” “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê”
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc” “Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười”
“Phúc cho anh em, khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét,

khai trừ, sĩ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa”

“Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng”

Những lý do nêu ra cũng ở thế đối lập với nhau:

“Vì Nước Thiên Chúa là của anh em” “Vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi”
“Vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng”  “Vì các ngươi sẽ phải đói”
 “Vì anh em sẽ được vui cười”  “Vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than”
 “Vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”  “Vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế”               .

Ba cặp Phúc – Họa đầu tiên được cấu trúc rất đối xứng: những kẻ nghèo khó, đang phải đói và khóc lóc ám chỉ cùng một nhóm người như nhau; những kẻ giàu có, đang được no nê và vui cười cũng vậy. Sáu từ ngữ thực tế chỉ hai loại người trong xã hội. Cặp Phúc – Họa thứ tư là cặp cuối cùng được cấu trúc hoàn toàn khác và được khai triển thành ba phần: trước hết, những thử thách phải chịu trong hiện tại: “bị oán ghét”“bị khai trừ” và “bị sỉ vả” (6: 22) đối lập với việc “được mọi người ca tụng” (6: 26); tiếp đó, lời mời gọi hãy vui mừng, không phải trong tương lai nhưng hiện nay với sự bách hại, vì được bảo đảm rằng họ sẽ nhận được phần thưởng lớn lao: ơn cứu độ và sự sống ngay giữa cơn gian nan thử thách (6: 23a-b); sau hết, người bị bách hại được đồng hóa với các ngôn sứ Cựu Ước: “Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế”. Sự kiện này thật đáng lưu ý: nếu người giàu đối lập với người nghèo, thì ở đây những người bách hại không phải đối lập với những người bị bách hại, mà là những kẻ được ca tụng, tức là bị đồng hóa với các ngôn sứ giả.

Trong bản văn đối xứng của mình, Thánh Lu-ca công bố một sự đảo ngược của các tình cảnh hiện nay vào thời cánh chung; thực ra thời cánh chung đã khởi sự rồi. Trong cặp Mối Phúc thứ hai và thứ ba, “bây giờ” và “thời sẽ đến” đối kháng với nhau rõ ràng (6: 21). Ngược lại, trong Mối Phúc thứ nhất, điều kiện của việc đảo ngược đã được hiện thực rồi: “Nước Thiên Chúa là của anh em”. Mối Phúc cuối cùng cũng tương tự như thế: “Vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”. Một sự đảo ngược giữa các tình cảnh như vậy là một đề tài được thánh Lu-ca ưa chuộng. Chúng ta đã gặp thấy cấu trúc này trong bài ca “Ngợi Khen” (1: 51-53) cũng như sau này trong một bản văn khác riêng của Thánh Lu-ca: dụ ngôn ông phú hộ và anh La-da-rô nghèo khó (16: 19-31).

  1. Nghèo khó trong khiêm tốn

Ở đây, trên môi miệng của Đức Giê-su Na-da-rét, từ ngữ “những kẻ nghèo khó”phải được hiểu ưu tiên theo chiều kích kinh tế và xã hội; thuật ngữ này chỉ những người không được bảo vệ và không có quyền lợi, bị khinh dể, họ trông chờ ơn cứu độ chỉ ở nơi một mình Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đứng ra bênh vực quyền lợi của họ, vì vậy Ngài phải nắm trọn chủ quyền (“Xin cho triều đại Chúa mau đến!”: 11: 2). Hành động giải phóng của Chúa Giê-su đã là dấu chỉ hữu hiệu cho thấy Thiên Chúa ra tay hành động. Chính nơi bản thân của Đức Giê-su và công việc của Người mà hoạt động cánh chung của Thiên Chúa và “triều đại” của Ngài được bày tỏ.

Vì vậy, dường như Thánh Lu-ca cũng không thỏa mãn hơn chúng ta trước những Mối Phúc của Chúa. Nếu vấn đề của cải được nêu rõ trong Tin Mừng Lu-ca và sách Công Vụ, chính vì giữa lòng Giáo Hội vào thời Thánh Lu-ca có những người túng thiếu và những người giàu có. Như vậy đâu là tính thời sự của Tin Mừng? Thánh Lu-ca hiểu thế nào về người nghèo khó mà Chúa Giê-su nói ở đây?

Nếu người ta tách riêng những Mối Phúc và những Mối Họa ra khỏi tác phẩm của Thánh Lu-ca, người ta sẽ phạm phải sai lầm lớn trong công việc giải thích. Trong trường hợp đó, sự đối kháng rõ rệt và được lập đi lập lại giữa “bây giờ” và “thời sẽ đến” đề xuất cuộc đảo lộn các giá trị sau này. Người nghèo sẽ được khuyến khích tự an ủi về hiện trạng khốn khó khi nghĩ đến một tương lai huy hoàng… trong lúc đó, người giàu có thể tiếp tục chè chén say sưa mà không sợ người nghèo La-da-rô tìm cách lật đổ hiện trạng của mình (x. 16: 17-31). Như vậy, Thánh Lu-ca sẽ chuốc lấy lời phê phán của Karl Marx khi triết gia này phê phán tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng.

Các Mối Phúc đòi hỏi phải được đọc dưới ánh sáng phần còn lại của sách Tin Mừng Lu-ca và sách Công Vụ Tông Đồ. Nếu Thánh Lu-ca có thể nhắc lại các Mối Phúc chính vì thánh ký diễn tả Giáo Hội lý tưởng là một cộng đoàn nơi đó “không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự điều là của chung… Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất, nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tùy theo nhu cầu” (Cv 4: 32-35). Những bản văn khác sẽ cho chúng ta thấy việc chia sẻ với người nghèo, tuy khiêm tốn hơn, phải được thực hành ngay ngày hôm nay, trong cộng đoàn Giáo Hội. Nếu không, cộng đoàn sẽ không có khả năng loan báo các Mối Phúc và chứng thực thực tại của ơn cứu độ đã khởi sự.

  1. Khó nghèo theo Tin Mừng

Ngay vào thời Thánh Âu-gút-ti-nô, có nhiều người không thể hiểu đúng người nghèo và người giàu; họ lập luận như sau: “Nước Trời thuộc về người nghèo, ông La-da-rô đói khát của cải thế giới này; mọi người giàu thì xấu xa, như ông phú hộ này”. Cách suy nghĩ này đã khiến Thánh Âu-gút-ti-nô giải thích ý nghĩa sâu xa của sự giàu có và sự nghèo khó theo tinh thần của Tin Mừng: “Hỡi người nghèo, hãy lắng nghe tôi giải thích những lời của bạn. Khi bạn tự cho mình là anh La-da-rô, một thánh nhân ung nhọt đầy mình, tôi sợ là niềm tự phụ của bạn làm cho bạn mô tả mình không đúng. Đừng khinh bỉ những người giàu đầy lòng từ bi nhân ái và khiêm hạ: hay nói một cách ngắn gọn, đừng khinh bỉ những người giàu mà nghèo. Hỡi người nghèo! Chính bạn hãy là nghèo; nghèo, có nghĩa khiêm tốn… Vì thế, hãy lắng nghe tôi. Hãy thật sự nghèo, phải là chân thành, phải là khiêm tốn; nếu bạn tự phụ về sự nghèo khổ rách rưới và mụn nhọt đầy người của bạn, nếu bạn tự phụ là mình giống như người ăn xin đó nằm ở ngưỡng cửa của người giàu, lúc đó bạn đang ghi nhận sự nghèo khổ của anh ta chứ không gì khác. Bạn hỏi, điều gì tôi nên ghi nhận? Hãy đọc Kinh Thánh rồi bạn sẽ hiểu điều tôi muốn nói. Anh La-da-rô là một người nghèo, nhưng anh được đưa vào lòng của một người giàu. Kinh Thánh viết: ‘Thế rồi người nghèo này chết và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham’. Vào đâu? Vào lòng của ông Áp-ra-ham hay, hãy để tôi nói, vào nơi mầu nhiệm ở đó ông Áp-ra-ham đang yên nghỉ. Hãy đọc… và hãy nhớ rằng ông Áp-ra-ham là một người rất giàu khi còn sống trên cõi thế này: ông giàu có tiền bạc, một gia đình rộng lớn, súc vật đầy đồng, ruộng vườn; tuy nhiên người giàu này thì nghèo, vì ông khiêm hạ. ‘Ông Áp-ra-ham tin vào Thiên Chúa và được xem là công chính’… Ông đã là trung thành, ông đã làm điều tốt, ông đã đón nhận mệnh lệnh hiến tế người con trai của ông, và ông đã không từ chối dâng hiến những gì ông đã nhận được cho Đấng từ Ngài ông đã nhận được. Ông đã được chấp nhận trong thánh nhan Thiên Chúa và phô bày trước chúng ta một mẫu gương đức tin” (Sermon 14).

Tóm lại, đức nghèo khó không cốt ở nơi điều gì đó thuần túy bên ngoài, ở nơi việc có hay không có những của cải, nhưng ở nơi điều gì đó còn sâu xa hơn, tác động đến tấm lòng và tâm hồn của một con người; nó cốt là có một thái độ khiêm tốn trước Thiên Chúa, là lòng mộ đạo, là một niềm tin tròn đầy. Nếu một người Ki-tô hữu có những đức tính này và cũng có những của cải dư đầy, người ấy phải siêu thoát khỏi sự giàu có của mình và hành xử bác ái đối với tha nhân, thì mới thật sự làm đẹp lòng Thiên Chúa. Mặt khác, nếu ai không được sung túc, không vì thế mà người ấy được công chính trước Thiên Chúa, nếu như người ấy không nỗ lực đạt được những đức tính mà đức nghèo khó đích thật đòi hỏi. “Điều nên chú ý là: không phải tự thân, sự nghèo nàn và khổ sở là hạnh phúc, nhưng chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không dính bén với trần gian để hướng lòng về Chúa. Cũng không phải tự thân, sự giàu có sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh khi chúng trói buộc lòng con người vào thế giới vật chất đời này” (“Hạt Giống Nẩy Mầm”).

Về mục lục

.

KHỔ ĐAU VÀ HẠNH PHÚC

Lm. DĐH.

Con người sẽ phải chịu trách nhiệm về những lời nói việc làm của mình, ít là trong các mối liên hệ, đó là công bằng. Mọi người có thể vô tư sống theo lý tưởng riêng của mình, nhưng không có nghĩa là được tự do muốn làm gì tuỳ ý, đó là nghịch lý ở đời. Gặp chuyện không như ý người ta buồn chán, người ta than thở, được tuyên dương khen thưởng, người ta sung sướng phấn khởi, đó không phải là chuyện lạ. Hao tốn công sức tiền của mà nhà tan, sự nghiệp đổ, đó mới là điều khó hiểu ! Không tài giỏi, không bằng cấp, nhưng mọi thành viên gia đình vui khoẻ sống hạnh phúc, những trường hợp như thế, xã hội vẫn xem đó là hiện tượng bất thường.

Có làm thì mới có ăn, có đầu tư công sức bằng mồ hôi nước mắt của mình, người ta sẽ đủ cảm nhận thế nào là giá trị của lao động, là đồng tiền bát gạo được đặt để cho thành quả ở phía trước. Đức Giêsu thu hút được đám đông bởi khả năng giảng dạy có chất, có hồn, Đức Giêsu nổi tiếng do Ngài chữa được bệnh tật xác hồn, thoáng nghe, nhiều người cho rằng sứ mạng của Đức Giêsu “quá dễ”, vì Ngài là Chúa. Nếu có đôi mắt tinh thông, người ta có thể nhìn xa trông rộng, nếu đầu óc thông thái, người ta có thể suy tư và nhận định sự việc tốt xấu, đúng sai. Nếu có đức tin người sẽ không ngạc nhiên tại sao Đức Giêsu phải qua đau khổ thập giá, rồi mới tới vinh quang phục sinh. Nếu thuộc về Đức Kitô, là môn đệ của Ngài, chúng ta sẽ không phải “lăn tăn” khi nghe Đức Giêsu nói: “phúc cho anh chị em là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của anh chị em”.

Người xưa nói rằng: đau khổ là cơ hội tốt để ta rèn luyện nhân cách và lớn lên ; vượt qua được khổ đau người ta mới mạnh mẽ trưởng thành. Bậc cha mẹ nuôi dạy và gieo trồng nơi con cháu bằng tình yêu thương, các ngài ước muốn bằng mọi cách để lại phúc đức cho con cháu, tuy nhiên các ngài vẫn khích lệ: đau khổ chính là cơ hội tốt mà mỗi người phải vượt qua. Đức Giêsu trong tư cách là Thầy, là Chúa, và là người thật, Ngài thương yêu các học trò, yêu thương cả nhân loại tội lỗi. Bằng đức tin, bằng hành động, Ngài đã nói: “phúc cho các con, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất, phỉ báng, và loại trừ các con như kẻ bất lương ; các con hãy hân hoan vui mừng, vì phần thưởng các con sẽ bội hậu trên trời”.

Tiền nhân chúng ta cũng có câu: sông có khúc, người có lúc, đại ý làm người có thăng trầm, có vui buồn, có sướng khổ, nên hãy kiên nhẫn mà sống sao cho phù hợp đạo làm người. Giáo lý nhà Phật cũng nói đến luật nhân quả báo ứng, sướng trước sẽ khổ sau, hoặc khổ đau trước sẽ hạnh phúc sau. Đức Giêsu hôm nay đã nói như thế nào về đau khổ và hạnh phúc ? Đúng là phải đủ niềm tin, người môn đệ của Ngài mới hiểu: không khi nào Thiên Chúa lại muốn con cái của Ngài phải nghèo đói, phải khóc lóc, phải bị người ta ghét bỏ ! Có chăng, những đau khổ túng thiếu mà ta gặp ở hiện tại là do ta không sống theo đường lối của thế gian, là vì ta thuộc về Chúa, vì ta tìm kiếm hạnh phúc ở trong Chúa.

Nghèo nàn, đói khát, bây giờ phải khóc lóc, bị thế gian loại trừ, chắc chắn không phải do tội lỗi của cha mẹ như người ta vẫn châm biếm: đời cha ăn mặn đời con khát nước. Đau khổ cũng không phải do ta hèn kém thua mưu yếu thế, vì trâu chậm uống nước đục ; hạnh phúc cũng không hệ tại do ta tài trí hơn người, hoặc vì “ba phải”, đúng sai đều đồng ý chịu vậy. Đức Giêsu xem những khổ đau ở hiện tại chính là cơ may cho tương lai, khi mà người ta biết đón nhận, biết cậy nhờ tình yêu Chúa để thắng vượt khó khăn. Các mối phúc và các mối hoạ đến trước hay đến sau đều đáng sợ, giầu nghèo, đói no, bị trục xuất hay được “trải thảm đón chào”, chính là quy luật chung cho những ai biết thắng mình, thắng cái tôi ích kỷ để mãi có Chúa là nguồn vui hạnh phúc. Đức Giêsu đưa ra hình ảnh đau khổ và hạnh phúc ở đời này đời sau, không có ý khích lệ tinh thần người thuộc về Chúa hay hù doạ người giầu, người no nê, người vui cười, nhưng chắc chắn Ngài muốn nói là có hạnh phúc thật ở nước trời mai sau.

Tiền nhân chúng ta khẳng định rằng: người ta không thể nói cho cùng về Thượng Đế, cũng như không thể nói đủ về người mẹ. Người ta không thể nói rõ ràng về đau khổ, cũng không bao giờ diễn tả đủ về ý nghĩa của hạnh phúc. Kitô giáo không lấy đau khổ, đói rách nghèo nàn, bị bắt bớ bị loại trừ, làm định mức hạnh phúc, nhưng trân trọng giá trị của tình yêu, ơn ban và sức mạnh nơi Đức Kitô, hầu biết sống và sống trọn vẹn niềm tin ta đang có. Nếu như thương trường và chiến trường không thích hợp với những ai rụt rè, nhút nhát, an phận. Người học trò thật của Đức Kitô, không thể là người sống lý thuyết hời hợt, sống giả nhân giả nghĩa, nhưng phải thực sự là người có tình Chúa, tình người trong các tương quan huynh đệ. Amen.

Về mục lục

.

PHÚC THẬT

Lm Vũđình Tường

Sau khi dùng thuyền của Phêrô rao giảng, Đức Kitô nói với Phêrô chèo thuyên ra biển khơi thả lưới. Phêrô mạnh dạn nói thẳng với Đức Kitô. Ngài biết đó chúng tôi vất vả suốt đêm , vào bờ tay trắng, đang giặt lưới thì gặp Ngài. Tuy nhiên vâng lời Ngài, chúng tôi cố gắng. Các ông rất đỗi kinh ngạc mẻ lưới đầy cá, hai thuyền đầy gần chìm. Mẻ lưới đầy cá, các ông rất đỗi vui mừng và khi thuyền vào bờ các ông từ bỏ tất cả đi theo Đức Kitô. Các ông trở thành những tâm hồn hạnh phúc bởi trước khi gặp Đức Kitô các ông tin tưởng của cải, vật chất mang lại hạnh phúc. Đúng thế khi lưới dính cá thì có tiếng cười, khi lưới rách, trắng tay chỉ thấy vất vả, lao nhọc mà không được gì. Sau khi gặp Đức Kitô lòng các ông dạt dào niềm vui vì thế các ông nhận ra hạnh phúc thật không phải do của cải, vật chất ban phát. Hạnh phúc thật chính là không bị của cải hành hạ, không bị vật chất lôi cuốn. Muốn thế, bỏ chúng đi và các ông đã từ bỏ chúng. Đi theo Đức Kitô các ông nghèo vật chất, giầu tinh thần và giầu tinh thần chính là hạnh phúc thật. Hạnh phúc thật có được bởi các ông từ bỏ của cải, vật chất và thay vào đó là lòng tin, lòng mến các ông dành cho Đức Kitô. Nói vắn gọn, chính Đức Kitô là nguồn hạnh phúc các ông cảm nhận và vui sống với nguồn hạnh phúc đó. Các ông từ bỏ nghề chài lưới cá, trở thành kẻ chài lưới các tâm hồn bằng cách sống, rao giảng nguồn hạnh phúc thật các ông nhận được từ Đức Kitô. Chài cá các ông cần thuyền, cần lưới; chài các linh hồn các ông cần lòng tin và niềm vui từ trong tâm hồn.

Tin theo Đức Kitô, các tông đồ trở thành tay trắng, nghèo trong xã hội các ông đang sống nhưng giầu tình thương, lòng nhân ái, giầu tình yêu Chúa và ân sủng Ngài. Các ông trở thành người hạnh phúc bởi nói theo ngôn ngữ của Andre, các ông tìm được điều các ông ước ao, tìm kiếm khi Andre lòng vui dạt dào, nói với Phêrô: ‘Chúng tôi đã gặp được Đấng Cứu Thế’ Jn 1,41. Các ông hạnh phúc bởi các ông gặp được Đấng Thánh của Thiên Chúa, Người thật sự làm con tim các ông rung động và đời sống các ông hoàn toàn thay đổi. Các ông trở thành người hạnh phúc bởi từ đây sinh hoạt cuộc sống của các ông không còn tình trạng ‘đi không lại cũng về không’ bởi có Đức Kitô cùng đồng hành, hướng dẫn và cùng sinh hoạt với các ông. Các ông trở thành con người hạnh phúc bởi phần thưởng của các ông mối mọt không cắn rỉa, trộm cắp không thể lấy Mt 6,20. Các ông thật sự hạnh phúc bởi khi hoàn tất hành trình trần thế các ông hưởng gia nghiệp Thiên Quốc. Xã hội chúng sống cho là giầu sang, quyền lực, là dấu chỉ của hạnh phúc. Họ đâu biết có của phải lo giữ của, có quyền ngày đêm lo bảo vệ quyền, nếu không sẽ mất hết. Tiền bạc, của cải mang lại nhiều lo âu, phiền muộn hơn là niềm vui, hạnh phúc. Các tông đồ chọn nghèo vật chất, giầu tinh thần, giầu lòng mến và Đức Kitô khen các ông là khôn ngoan, chọn niềm vui thật, hạnh phúc vĩnh cửu. Của cải, vật chất thực ra chúng tạo cho con người niềm vui và sự an toàn giả tạo. Tiền bạc mở được hầu như tất cả các cửa nơi trần gian, ngoại trừ của mồ. Khi bệnh tật đến, tuổi già đến, tiền bạc đi ra nhanh hơn lúc chúng đi vào và cuối cùng sổ ngân hàng cũng trống rỗng và nỗi lo đã không giảm mà còn tăng thêm. Cuối đời mới nhận biết sau bao năm vất vả, khó nhọc giờ lại trắng tay. Nhận ra điều đó ở tuổi già là quá trễ, sức không còn để tái tạo, lực không còn để gánh vác. Người ta thích của cải, nhưng của cải không thích ai. Người ta trung thành với vật chất nhưng vật chất không trung thành với ai. Ai trung tín trong Đức Kitô kẻ đó tìm được niềm vui thật, hạnh phúc thật bởi Đức Kitô luôn trung tín trong lời Ngài hứa. Việc Ngài hứa Ngài sẽ thực hiện. Con người có thể lạc đường, sai lối. Đức Kitô luôn tha thứ, yêu thương. Người nghèo khổ, đói hèn là người khôn ngoan bởi họ chọn sống trung tín với niềm tin Kitô. Họ không tin vào con người trần thế và hệ thống luật pháp của con người nhưng tin vào tình yêu Chúa, lòng nhân ái của Đức Kitô và vì thế họ là người khôn ngoan. Thiên Chúa là Đấng duy nhất họ tin tưởng. Họ không tìm khôn ngoan nơi loài người. Đức Kitô là nguồn sống, nguồn an bình họ luôn tin tưởng, cậy trông. Đó là ơn khôn ngoan. Sống khôn ngoan là sống hạnh phúc.

Về mục lục

.

KHỐN CHO KẺ CHỈ BIẾT CẬY DỰA VÀO

TIỀN BẠC VÀ NGƯỜI ĐỜI

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Những ngày giáp tết vừa qua, tại thành phố HCM hàng loạt cán bộ một thời quyền lực đã bị bắt vì liên quan đến tham nhũng các dự án ngàn tỷ. Tại Thanh Hóa một trưởng công an huyện, đại diện cho pháp luật và quyền lực xã hội, cũng bị tước quân tịch vì liên quan đến việc chạy án. Ngày 29 tháng 01, tòa án Hà Nội đưa ra xét xử năm bị cáo là cán bộ cấp cao của Bộ Công an, trong đó có “Vũ nhôm” và hai người nguyên là thứ trưởng. Họ là những con người một thời sống trên tiền bạc, quyền lực, những người này dùng tiền để mua quyền lực và chi phối quyền lực, sau đó lại dùng quyền lực để kiếm thật nhiều tiền. Có điều trớ trêu là, những con người này dư thừa tiền và quyền, nay trở thành những tên tội phạm, khi sa cơ thất thế thì quyền và tiền lại trở thành bản án cho họ. Tiền bạc và thế lực không phải là giá trị vĩnh cửu trường tồn, nó chỉ là những phần phụ thêm trong cuộc sống. Tuy nhiên, có nhiều người lại biến nó thành nền tảng, tiêu chuẩn hoặc giá trị cho cuộc đời của mình, họ mải mê tìm kiếm tiền bạc và quyền lực mà quên rằng nó không phải là những giá trị bền vững. Tiền bạc và quyền lực nay đến, mai đi, nay còn mai mất, nay trong tay mình, mai lại chuyển qua tay người khác. Vì thế, ai đặt mục tiêu cuộc đời mình trên nó, sẽ cùng chịu chung số phận với nó.

Tiên tri Giêrêmia cho thấy sự sự khác biệt của người cậy dựa vào Thiên Chúa với người cậy dựa vào người đời: “Khốn thay kẻ cậy dựa ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa và lòng xa rời Đức Chúa. Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa, chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ… Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Chúa, có Đức Chúa làm chốn nương thân. Người ấy như cây trồng bên suối nước, đâm rễ sâu và cành lá xanh tươi”.Qua hình ảnh rất cụ thể, Giêrêmia cho thấy, những kẻ cậy dựa vào thế lực của người đời và tiền bạc, địa vị thì giống như bụi cây trong hoang địa. Đó là những tâm hồn khô cằn gai góc, không có sức sống và không thể trổ sinh hoa trái, bởi vì nó không hút được dòng nước trong lành nuôi sống nó. Trái lại, những người cậy dựa và đặt niềm tin nơi Chúa thì giống như những cây trái xum xuê cành lá, hoa quả tốt tươi, vì rễ nó đâm sâu vào dòng nước và hút được chất dinh dưỡng từ nơi dòng suối. Những cây này cho dù có phải trải qua những mùa nắng hạn thử thách thì vẫn không khô héo vì luôn được dòng suối cung cấp nước.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy sự tương phản trong cách nhìn của Thiên Chúa và của con người. Trong khi con người tìm kiếm sự giàu có thì Chúa chúc phúc cho những người nghèo khó; Trong khi con người tìm kiếm để thỏa mãn cái ăn uống hưởng thụ, thì Chúa lại chúc phúc cho những kẻ đói; Trong khi con người lo tìm kiếm những cuộc vui thì Thiên Chúa chúc phúc cho những ai sầu khổ, than khóc; Trong khi người đời tìm kiếm danh vọng địa vị, tìm kiếm lời khen, thì Chúa Giêsu lại chúc phúc cho những kẻ đang phải khóc lóc. Khi chúc phúc cho những kẻ khó nghèo, Chúa Giêsu không cổ vũ cho một cuộc sống túng thiếu nghèo đói, cũng không ru ngủ những người kém may mắn, nhưng Ngài chúc phúc cho những người dám chọn cho mình một lối sống khác với dòng chảy cuộc đời. Những lời chúc phúc và những lời chúc dữ “khốn thay” Chúa Giêsu dùng hôm nay không nhắm đến nghĩa đen của từ ngữ, nhưng muốn nhắm đến những ý nghĩa thiêng liêng sâu xa hơn.

Người giàu có tiền bạc, quyền lực thì trở nên nô lệ cho tiền bạc vật chất, họ sẽ phải tốn công tốn sức để tìm kiếm tiền bạc và phải giành giật để có được quyền lực. Khi có rồi, lại phải lo lắng để gìn giữ bảo vệ của cải và quyền lực của mình khỏi sự chiếm đoạt của người khác. Ví dụ những người đang cầm quyền hiện nay, những người giàu có chắc gì họ đã được tự do, được ngủ ngon. Thật là dại dột cho những người đã biến tiền bạc trở thành cùng đích của cuộc đời, biến địa vị chức tước như là mục tiêu cuối cùng và là thần linh của họ.

Người nghèo khó được chúc phúc không phải vì sự nghèo khó của họ, nhưng vì những người nghèo thường không có gì để cậy dựa, không tiền bạc, không địa vị, họ chỉ biết cậy trông và đặt trọn tương lai vào Chúa. Người được chúc phúc là người có tâm hồn nghèo khó, tức là có một tâm hồn thanh thoát, không bị dính bén vào vật chất, không ham mê của cải địa vị cách mù quáng. Người nghèo khó là người khiêm nhường, biết đặt mình dưới sự quan phòng, trợ giúp của Thiên Chúa và họ dám phó thác tương lai cuộc đời cho Chúa. Lời chúc phúc hôm nay, theo Luca, Chúa nhắm trước tiên vào các tông đồ và nói với họ: Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em.Các tông đồ thực sự là những người nghèo về vật chất nhưng đã hoàn toàn tin tưởng từ bỏ tất cả để bước theo Chúa nên họ lại là những kẻ giàu có ân sủng trong tâm hồn. Vì thế, Chúa Giêsu đã chúc phúc cho họ và còn hứa ban Nước trời cho họ.

Phúc cho anh em bây giờ đang phải đói, vì Chúa sẽ cho anh em được no thỏa. Chắc chắn, Chúa không muốn những kẻ theo Chúa toàn là những người đói khổ, nhưng sự đói khát Chúa nói đến, là sự khao khát trong tâm hồn. Các tông đồ là những người đầu tiên đáp lại lời mời gọi của Chúa. Họ dám bỏ lại đằng sau cuộc sống yên ổn, công việc và gia đình để bước theo Chúa. Chắc chắn các tông đồ không phải là những người thiếu đói, nhưng các ông đang khao khát tìm kiếm điều gì đó cao quý hơn cơm bánh. Khi gặp được Thầy Giêsu, các ông tìm thấy nơi Ngài là nguồn lương thực, nguồn sức sống, nguồn hạnh phúc có thể đáp ứng được khao khát sâu thẳm trong tâm hồn, vì thế các ông đã bước theo Ngài. Những người bị chúc dữ là những kẻ bây giờ các ngươi đang được no nê, các ngươi sẽ phải đói. Những người này là những kẻ chỉ biết tìm kiếm sự thỏa mãn, hưởng thụ vật chất, chúa tể của họ là cái bụng, họ quan tâm đến cái bụng hơn là tìm kiếm Thiên Chúa. Cuộc sống và mục đích cuộc đời của họ chỉ là cơm bánh, vì thế họ biến mình trở thành những kẻ nô lệ, chỉ biết cắm đầu làm việc mà không biết cậy dựa và tìm kiếm sự trợ giúp của Thiên Chúa. Họ sẽ phải đói khát triền miên vì chắc chắn cơm bánh chỉ có thể cho con người no bụng chứ không thể giúp con người thỏa lòng và không thể đáp ứng lại khát khao hạnh phúc và bất tử nơi sâu thẳm con người.

Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. Giọt nước mắt có chung một vị mặn, nhưng lại hoàn toàn khác nhau về cảm xúc. Có người khóc vì chồng vì vợ, người khác khóc vì gia đình, vì con cái, song cũng có nhiều người khóc vì hạnh phúc sung sướng và vì biết mình được yêu thương. Chúa Giêsu chúc phúc cho những người biết khóc vì quá khứ xấu xa tội lỗi của mình trước tình yêu thương vô vàn của Chúa. Phúc cho những người vì tin theo Chúa Kitô mà phải chịu đau khổ bị bắt bớ loại trừ, vì Thiên Chúa sẽ trả lại cho họ niềm vui và hạnh phúc đời đời trong Nước của Ngài. Thánh Phaolô, các tông đồ và biết bao vị thánh cũng đã từng bị loại trừ và từng phải khóc như thế. Chúa chúc dữ cho những người bây giờ đang được vui cười, những người chỉ lo tìm kiếm sự ca tụng của người đời. Những người này chỉ biết bám víu vào những cái mau qua giả tạo của thế gian, những người sống ảo, sống hời hợt bên ngoài mà không lo vun đắp những giá trị tốt đẹp bền vững cũng không chăm lo cho đời sống thiêng liêng của linh hồn.

Lời Chúa hôm nay khiến chúng giật mình nhìn lại bản thân: Ta đang là những người được chúc phúc hay bị Thiên Chúa chúc dữ? Ta đang tìm kiếm gì trong cuộc sống trần thế này? Ta đang sống để tìm kiếm Nước trời hay là sống ảo theo dòng chảy của thế gian này? Tiền bạc, của cải là điều cần cho cuộc sống, nhưng không phải là tuyệt đối và không phải là mục tiêu đích thực của con người. Khi chúng ta đặt sai mục tiêu sống, chúng ta sẽ đi lạc đường; nếu chúng ta chỉ biết tìm kiếm và thỏa mãn những điều trước mặt và tạm bợ của thế gian này, chúng ta sẽ đánh mất hạnh phúc nước trời và phần rỗi linh hồn. Cuộc sống luôn buộc chúng ta phải chọn lựa, cuộc sống của người tín hữu lại càng đòi ta phải biết chọn lựa khôn ngoan để được Thiên Chúa chúc phúc. Xin cho chúng ta luôn tin tưởng cậy dựa vào Thiên Chúa với niềm xác tín rằng: Chỉ có Thiên Chúa mới là nguồn sức mạnh, sức sống và là nguồn hạnh phúc đích thực của chúng ta. Amen

Về mục lục

.

ĐÚNG ĐỊA CHỈ

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Kitô hữu chúng ta không xa lạ gì với kinh Tám Mối Phúc Thật. Giáo Hội lại khẳng định bát phúc chính là bản Hiến Chương Nước Trời. Thế nhưng để hiểu nội dung, ý nghĩa của tám mối phúc thì không hẳn dễ dàng. Quả thật đã có biết bao giấy mực xưa nay nói về các mối phúc ấy. Tám mối phúc như Tin Mừng thánh Matthêu tường thuật hay là chỉ có bốn mối phúc theo Tin Mừng thánh Luca? Vì sao nghèo khó, sầu khổ, khóc than, bị oán ghét, sỉ vả mà lại là có phúc? Một cuộc cách mạng về bậc thang giá trị hay là những thách thức với quan niệm của người đời xưa nay?

Không sợ sai lầm để khẳng định rằng sự khổ hay cái nghèo tự chúng không phải là mối phúc. Nhưng chính người nghèo, người đau khổ là những đối tượng được chúc phúc. Họ được chúc phúc vì họ đang còn biết mong chờ, biết hy vọng một điều gì đó tốt lành hơn đến từ trên cao. Bởi chưng họ đã như vô phương tự cứu mình và cũng chẳng còn có thể cậy dựa vào các nguồn lực ở dưới trần gian này. Và khi Đấng cứu độ đến thi ân giáng phúc, thì họ là những người biết mở rộng tâm hồn để đón nhận.

Chúng ta có thể hiểu điều này khi Chúa Giêsu sau khi chúc phúc cho những người nghèo, người bất hạnh, khốn khổ, thì Người đã báo họa những người bây giờ đang giàu có, vui cười, sung sướng, đang được mọi người ca tụng. Cái khốn của họ là ở thái độ tự thỏa mãn trong tình trạng đủ đầy sự may lành trần gian hiện có. Đã thỏa mãn thì sẽ chẳng khát khao điều gì hơn nữa. Cái khốn của họ còn thể hiện nơi việc họ đặt niềm tin cậy vào những thiện hảo chóng qua đời này, vào quyền lực của thế gian này, khi cho rằng chúng chính là hạnh phúc thật, là nguồn bảo đảm hạnh phúc thật.

Ngôn sứ Giêrêmia đã thẳng thừng: “Đức Chúa phán như sau: Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân là nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa! Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ…”(Gr 17,5-6).

Đã là hạnh phúc thật thì phải mãi mãi thường tồn. Những thực tại tốt đẹp ở trần gian này như của cải, chức quyền, bổng lộc…dù quý giá đến mấy thì cũng chỉ là những kho tàng “có thể bị ten sét, bị mối mọt đục khoét, bị mất trộm, mất cướp”(x.Mt 6,19-21). Cái hữu hạn thì không thể đem lại hạnh phúc đích thật. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi thiện hảo, là Đấng vô thủy vô chung, không hề đổi thay, mới là nguồn của hạnh phúc thật.

Bỏ hình để bắt bóng là một trong những chước cám dỗ muôn đời với con người, nhất là với những người vốn có chút của tiền, danh vọng hay quyền lực trong tay. Có thể nói nhiều luật sĩ, biệt phái, thượng tế thời Chúa Giêsu đã rơi vào chước cám dỗ này. Họ tự hào về lòng đạo đức qua việc giữ luật tỉ mỉ cách bên ngoài của mình. Họ tự cao về sự hiểu biết, về vị thế của mình trước mặt đám đông dân chúng. Họ tự mãn về của cải vật chất và chức quyền đang có trong tay. Chính vì thế khi Chúa Cứu Thế đến thì họ chối từ. Đã không tiếp nhận, họ lại còn tìm cách loại bỏ Đấng là nguồn của hạnh phúc thật.

Hạnh phúc thật sẽ đến với những ai biết đặt niềm tin cậy vào Thiên Chúa. Giêrêmia còn khẳng định: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái” (Gr 17,7-8).

Như thế khi chúc phúc cho người nghèo, người khốn khổ, bất hạnh…Chúa Giêsu xác nhận rằng họ đã biết đặt niềm tin cậy đúng địa chỉ, đó là vào chính Người, Đấng đang phán dạy họ. Tác giả Thánh Vịnh đã từng cảm nghiệm: “Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời, thì hơn tin cậy ở người trần gian…”(Tv 118,8). Vậy thử hỏi thế nào là biết đặt niềm tin cậy vào Thiên Chúa? Khi đặt niềm tin cậy vào một ai đó thì chúng ta hoàn toàn giao phó cuộc đời của mình, tương lai của mình, số phận đời đời của mình cho người ấy. Động thái giao phó đời mình được biểu hiện bằng việc đi theo bước chân người mình tin cậy và sống theo lời người ấy chỉ dạy.

Đấng mà chúng ta tự nguyện đặt niềm tin cậy, tức là gắn bó và sống theo lời Người chỉ dạy đó là Giêsu Kitô. Chúa Kitô không chỉ là người có quyền năng trong lời nói và hành động mà Người còn bảy tỏ uy quyền tối thượng của Người bằng việc chiến thắng sự chết. Mầu nhiệm Chúa Phục Sinh là nền tảng để chúng ta đặt niềm tin cậy vào Người. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em…Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15,17-19).

Đã là người thì ai cũng mong muốn và luôn kiếm tìm hạnh phúc. Tuy nhiên vẫn có nhiều người lầm tưởng tình trạng hạnh phúc là khi có đủ đầy tiện nghi vật chất, chức quyền, danh vọng hay được thỏa mãn một số nhu cầu nào đó. Cái ảo tưởng này sẽ tan vỡ, khi họ đối diện với những biến cố không may trong cuộc đời mà ít ai tránh được và nhất là khi đối diện với cái chết không ai thoát được. Hạnh phúc đích thật của con người là tình trạng được hiệp thông với Đấng đã cho con người từ hư vô được hiện hữu. Có thể nói đây là cái cảm nghiệm của các thánh nhân khi cận kề với giờ sinh ly tử biệt mà dân gian quen gọi là “sống thánh – chết lành”.

Với cái nhìn của lý trí, người ta cũng đã thoáng nhận ra những mối họa nhãn tiền trên số phận những người đặt niềm tin cậy vào những sự chóng qua đời này khi đồng thuận với nhau rằng sắc đẹp không qua khỏi làn da, vinh hoa phú quý không theo chúng ta đi vào nấm mộ lạnh. Ứớc gì với cái nhìn của đức tin, chúng ta thêm xác tín đâu là hạnh phúc thật để rồi biết đặt niềm tin cậy đúng địa chỉ.

Về mục lục

.

BỐN MỐI PHÚC VÀ BỐN MỐI HỌA

P.Trần Đình Phan Tiến

Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, tục ngữ Việt Nam có câu “ Họa vô đơn chí,phước bất trùng lai “. Câu nầy có nghĩa “họa” đến với con người nhiều hơn “phúc “, vì họa không đi một mình, mà kéo theo dây chuyền. Đó là triết lý mà cổ nhân Việt đã để lại cho chúng ta, hầu răn dạy thế hệ sau. Khi “họa “ đến thì có dây chuyền, nhưng khi “ phước “ đã qua, thì không trở lại. Vâng, đó là theo sự “đúc kết” của dân gian Việt Nam về triết lý sống, mà nhiều lúc chúng ta chứng kiến thật không sai. Và , nhiều trường hợp khi sự đau khổ, bất hạnh ập xuống cho một người, một gia đình, hay một dân tộc nhiều lần, như một chuỗi “ bất hạnh”.

Vâng, hôm nay, qua thánh sử Luca, Chúa Giêsu cho chúng ta một sự thật rõ ràng là :” Có bốn mối phúc, thì cũng có bốn mối họa”. Tục ngữ Việt Nam cũng có câu “ Họa phúc khôn lường”, có nghĩa là không ai có thể “ biết trước” họa , phúc của mình. Nếu mình sống có đức, mặc nhiên sẽ có phúc,nếu ngược lại chắc chắn sẽ mang họa. Nhưng, những ai bước theo Chúa Giêsu, thì Lời Chúa hôm nay giáo huấn cho chúng ta một chân lý rõ ràng vì :” Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” .

Điều sự thật nầy cho chúng ta biết “ Nước Trời không nghèo”, bởi vì, đời nầy nếu ai chịu thiếu thốn vì chân lý Tin Mừng, thì chắc chắn họ sẽ có một kho tàng trên Trời. Mối phúc thứ nhất mà Chúa Giêsu nói, đó là sự nghèo khó của thế gian. Nếu thế gian chịu nghèo, mà lên Nước Trời cũng nghèo tất , thì dại gì mà lên. Điều ấy là chân lý, vì cái nghèo không phải là cái được chúc phúc, mà là cái phần thưởng trên Nước Trời. Sống trên trần gian chấp nhận sống nghèo, vì không gian tham, trộm cướp, hà hiếp kẻ thế cô, không bóc lột, không nhận lối lộ, tham nhũng, vặn cân, sửa móc, biển lận của công, làm hàng gian, hàng giả, thêm số, bớt dấu. v.v… Đó là những thứ giàu có bất chính, thì chắc chắn không thể vào Nước Trời, nơi giàu có vĩnh cửu được.

Chúa Giêsu không chúc phúc cho sự nghèo khó, nếu lười biếng lao động, tìm sinh kế, hay ngửa miệng chờ sung rụng, mà là trong hoàn cảnh sống trên trần thế biết vì Tin Mừng Nước Trời, mặc nhiên sự hy sinh đó được đánh đổi. Thiên Chúa yêu thương loài người hết mức, thì nơi Thiên Chúa không có sự nghèo khó. Chắc chắn Nước Trời không nghèo. “ Vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Vâng, chúng ta thấy, rõ ràng đây là sự đánh đổi của Tin Mừng. Nếu ở trần gian, cùng với việc phụng thờ Thiên Chúa và lao động sinh kế cách công chính, cùng thời gian, sức khỏe Thiên Chúa ban cho, mình có thể có một thành quả lao động no đủ và dư dôi, biết chia sẻ với tha nhân và người thiếu thốn, chắc chắn, mình đang góp phầnlàm giàu trên Nước Trời.

Còn nếu tôi quá dư thừa, lại còn tham lam, sống ích kỷ, không theo đúng giá trị Lời Chúa và lương tâm ngay thẳng, chắc chắn mình sẽ nhận “ mối họa” mà Chúa Giêsu nói. Vì , mỗi mối phúc , luôn đi kèm với mối họa.

Bốn mối” Phúc , họa” thật ra là một ý nghĩa, sống trên đời nếu kinh nghiệm dân gian cho biết “ họa, phúc khôn lường”. thì Lời Chúa hôm nay phân định rõ ràng phúc, họa. Vâng, “ Phúc, họa” theo Kitô giáo không phải là mơ hồ,hoang tưởng, phù phiếm, mà là một sự mà là một sự “ trả lẽ” rạch ròi không thể lẫn lộn, như một sự công bằng không thiên vị.

Mối phúc thứ tư (câu 22-23) là một mối phúc vì Đức Giêsu, rõ ràng xuất phát từ sự công bằng , sự trả lẽ minh bạch. Nếu ai vì Người mà chịu sỉ nhục, tất nhiên phần thưởng của họ trên Nước Trời vô cùng lớn lao. Vì , nguyên lý Nước Trời là phần thưởng phạt công minh, phần thưởng lúc nào cũng bội thu, phần nhận lại lúc nào cũng nhiều hơn phần cho đi. Vì, Thiên Chúa luôn đong đầy, Người vửa đong, vừa lắc cho cân xứng, bởi vì, không ông chủ nào công bằng, và đại lượng với chúng ta bằng Thiên Chúa, Đấng vì chúng ta mà trao ban chính mình Người.

Tuy Đoạn Lời Chúa hôm nay không ngắn, nhưng thật dễ hiểu, chỉ có một triết lý, một ý nghĩa duy nhất, đó là :” Nếu các ngươi đong cho anh em mình đấu nào, thì Ta sẽ lấy chính đấu đó mà đong cho các ngươi…” (Lc 6, 38)

Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, những điều nầy có thể nói là “ công thức nên thánh”, Tin Mừng Mat-thêu, thì gọi là : ” Hiến Chương Nước Trời”. Vì, biết bao thế hệ bước theo Đức Kitô đều noi theo công thức nầy để nên thánh. Vì :” Các ngươi đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác các ngươi, nhưng , các ngươi hãy sợ Đấng có thể ném cả xác và hồn các ngươi vào lửa không hề tắt” (Mt 10, 28).

Qua đó, nếu chúng ta chịu đau khổ vì Đức Kitô, thì chúng ta sẽ được phần thưởng lớn lao vì Người. Bởi vì, không ai có thể “ đụng chạm “ đến Thiên Chúa, Vì Thiên Chúa Ngàn Trùng Chí Thánh, là Đấng Toàn Năng, Đấng Tạo Thành, vô biên, siêu nhiên vô hình, thì không thể loài thụ tạo nào có thể được “ đụng chạm” đến Ngài, chính vì chân lý nầy, mà có nhiều “ tôn giáo” vô thần là như vậy. Nhưng, Đạo Công giáo là “Đạo chung” cho mọi người không phân biệt, tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, gọi là ” Độc Thần”, ( không phải là thần độc), mà là một Thiên Chúa duy nhất. nhờ Đức Giêsu, Ngôi Vị Thiên Chúa làm Người, tức sự Hữu Hình được mặc khải, vì thế, chúng ta được “ đụng chạm” vào Thiên Chúa.  Như vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì chúng ta, Người đã chịu khổ hình để cứu độ chúng ta, vì thế, khi chúng ta chịu đau khổ là chúng ta “ được đụng chạm “ vào một Ngôi Vị Thiên Chúa Hữu Hình (làm Người) như con người. Theo đó, giá trị đau khổ của người Kitô hữu khi họ mang lấy vì Danh Người, là họ được “ tháp nhập” vào với người, lúc đó, họ được vinh dự “ đụng chạm” vào một Ngôi Vị Thiên Chúa Hữu Hình là như vậy.

Như vậy, đau khổ của người tín hữu Công giáo là một “ Hồng ân” chứ không phải “ án phạt”. Án phạt, khi họ tách rời Đức Giêsu- Kitô, nghĩa là khi họ sống mà không thực thi Lời dạy của Người.

Vâng, “sự đau khổ” của thế gian, khác với “ sự đau khổ” vì Nước Trời là Đức Giêsu – Kitô.

Lạy Chúa Giêsu ,Chúa đã dạy chúng con chịu đau khổ vì Chúa, với Chúa, thì sẽ được ở trong Chúa. Xin cho chúng con nhận thức, trung tín đáp trả, vâng theo vì Chúa và xứng đáng lãnh nhận phần thưởng muôn đời trong Nước Trời ./. Amen

Về mục lục

.

MỐI PHÚC

Lm Trầm Phúc

Chúng ta nghe Chúa chúc phúc. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào Tin Mừng, chúng ta thấy có hai lời chúc phúc. Lời chúc phúc mà chúng ta quen thuộc hơn mà chúng ta gọi là bát phúc hay là tám mối phúc thật do thánh Matthêu ghi lại. Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là những lời chúc phúc do thánh Luca ghi lại, khác về số lượng nhưng cũng cùng một nội dung. Thánh Luca còn thêm những lời than vãn đang lúc thánh Matthêu không có lời than vãn. Tại sao có những khác biệt như thế ? Vì các thánh sử viết lại những gì các ngài đã nghiên cứu tùy theo nguồn tài liệu họ có được, và các ngài cũng tùy theo người đọc, và các ngài cũng muốn nhắm đến một hướng riêng nào đó. Thánh Matthêu viết cho người Do thái, là những người hiểu biết Kinh thánh khá nhiều. Thánh Luca viết cho người Hy lạp là những người mới theo đạo.

Chúng ta biết sơ lược như thế để thấy rõ tại sao có hai tường thuật về những mối phúc của Chúa. Giờ đây chúng ta tìm hiểu ý tưởng của thánh Luca.

Những lời chúc phúc của con người chỉ là một lời nói không mang lại kết quả. Nhưng đây là những lời chúc phúc của Thiên Chúa. Nếu chúng ta thi hành đúng sẽ mang lại kết quả vì nó kèm theo những hồng ân cho người thi hành. Những lời chúc phúc là những lời hứa mà chính Thiên Chúa bảo đảm chứ không chỉ là những lời nói suông.

Chúa chúc phúc cho ai ? Không phải cho những người thành đạt, giàu có ở đời nầy mà cho những con người nghèo hèn, đói khát, những người khóc than, những người bị bách hại vì Con Người, nghĩa là những người chịu mọi thiệt thòi ở đời. Họ sẽ được hạnh phúc với Chúa. Điều nầy cho thấy lòng nhân từ của Chúa đồng thời cũng cho thấy sự công bằng của Chúa. Chúa không để ai thiệt thòi mà không bồi đắp cho họ. Sự bồi đắp nầy không nhất thiết là ngay bây giờ, trong hiện tại mà là tương lai. Nhưng trong hiện tại, nếu chúng ta tin vào Chúa, sự nghèo đói, đau khổ vì danh Chúa không là một tai họa mà là một niềm cậy trông, vì những người nghèo đói ở đây là những người dám phó thác mọi sự cho Chúa, chỉ cậy trông nơi Chúa thôi. Họ không có gì để cậy trông ở người đời. Họ không nuôi một tham vọng trần thế nào. Chúa là gia nghiệp của họ. Nước Trời là chọn Chúa làm gia nghiệp. Thánh Phanxicô Assisi là người giàu có nhất thành phố đã tự nguyện từ bỏ mọi sự để theo Chúa và ngài không ân hận, trái lại ngài trở thành con người hạnh phúc nhất đời với một cái áo duy nhất dính da. Thánh Anphongsô là một luật sự đầy tham vọng, đã từ bỏ tương lai sáng lạn và theo Chúa, chấp nhận sống một đời sống khắc khổ. Những người đó đã biết giá trị của sự nghèo khó và đã chọn Chúa làm gia nghiệp.

Ngược lại, Chúa không nương tay với những người giàu có sung túc. Ngài không chúc dữ mà đây là một cách nói của người Do thái. “ Khốn cho các ngươi là những người giàu có”. Đó là những lời than vãn chứ không là nguyền rủa hay chúc dữ. Số phận của người giàu có no nê ở đời nầy sẽ không mang lại hạnh phúc cho họ. Họ chỉ được hưởng sung sướng trong hiện tại, nhưng tương lai của họ không hứa hẹn điều gì tốt đẹp cả, đang lúc những kẻ bị thiệt thòi ở đời nầy sẽ được Chúa đoái thương. Đó mới là hạnh phúc thật và gia sản của họ không phải là tiền bạc hay của cải đời nầy mà là chính Thiên Chúa mới là hạnh phúc của họ.

Chúa không nói rõ người nghèo nào sẽ được hạnh phúc và người giàu nào sẽ bị bỏ rơi. Chúa chỉ đưa ra hai con đường để chúng ta chọn. Nếu chọn Chúa làm gia nghiệp thì sống nghèo và chấp nhận những thiệt thòi ở đời. Nếu chọn thế gian thì hậu quả là mất đi hạnh phúc đời đời.

Chúa Giêsu đến trong trần gian. Ngài đã sống nghèo, chịu bách hại để cho chúng ta thấy Ngài không cần những tiện nghi vật chất mà chỉ để vâng theo ý Chúa Cha, mưu tìm hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Hạnh phúc đó chỉ có thể tìm được nơi Chúa mà thôi. Con đường hạnh phúc chính là chấp nhận sống như Ngài, yêu thương như Ngài, nghèo khó như Ngài. Muốn như thế, chúng ta hãy đến với Ngài, nơi bàn tiệc yêu thương của NgàiạnHHHHH, ăn lấy Ngài để cùng sống với Ngài những ngày sống trần gian của chúng ta. Chính Ngài sẽ chỉ cho chúng ta biết phải làm gì.

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC THẬT!

Lm. Giuse Nguyễn

Mở điện thoại trong những ngày Tết ai cũng nhận những tin nhắn: “Năm mới Tết đến, rước hên vào nhà, quà cáp bao la, mọi nhà no đủ, vàng bạc đầy hũ, gia chủ phát tài, già trẻ gái trai, sum vầy hạnh phúc, cầu tài chúc phúc, lộc đến quanh năm, an khang thịnh vượng!” Có những lời chúc độc đáo hơn: “Chúc một năm mới vui vẻ, 12 tháng sức khoẻ, 52 tuần thành công, 365 ngày hạnh phúc, 8.760 giờ tốt lành, 525.600 phút may mắn, 31.536.000 giây như ý” ; Hay: “Đong cho đầy Hạnh Phúc, gói cho trọn Lộc Tài, giữ cho mãi an khang, thắt cho chặt phú quý , cùng chúc nhau như ý , hứng cho tròn an khang, chúc năm mới bình an, cả nhà đều sung túc.”  Đi chúc Tết nhau thì ngắn gọn, ý nghĩa: “Chúc 1 năm đầy may lành, hạnh phúc, thành công, sức khoẻ dồi dào tới tất cả mọi người.”

Tất cả những lời cầu chúc đều gói trọn ước muốn cũng như cùng đích của con người là được hạnh phúc. Lời Chúa ngày Chúa Nhật 6 Thường niên năm C cũng gởi đến chúng ta sứ điệp về hạnh phúc.

Tiên tri Giêrêmia trong bài đọc I đã nói thay lời Đức Chúa: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời” (Gr 17, 5a). Ngôn sứ quảng diễn đó là kẻ “cậy dựa vào sức của phàm nhân”, và “lòng dạ xa rời Đức Chúa”. Đó là những kẻ không cần đến Thiên Chúa. Ngược lại: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa” (Gr 17, 7a). Tiên tri ví von người đó với hình ảnh một cây xanh được trồng bên nguồn nước, rễ của nó ăn vào nguồn nước và kết quả là trổ sinh hoa trái. Nói ngắn gọn lại, hạnh phúc thật là bám vào Chúa.

Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã công bố hiến chương Nước Trời hay tám mối phúc thật. Nó chính là đường lối trong Tân ước, giống như Thập giới thưở ban sơ. Theo cách nói của người Do Thái, khi có nhiều hạng mục, thì hạng mục đầu tiên là quan trọng nhất, hoặc sẽ gói trọn những điều sau đó, hoặc những điều sau chỉ là quảng diễn là điều đầu tiên. Ví dụ trong mười điều răn thì điều răn đầu tiên là quan trọng nhất:“Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự”, những điều răn sau chỉ là quãng diễn cho việc thờ phượng một Đức Chúa Trời mà thôi. Thì cũng vậy, trong tám mối phúc, mối phúc đầu tiên là quan trọng nhất: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” (Lc 6, 20b), hay “Ai có lòng khó khăn ấy là phúc thật”. Nghèo khó ở đây phải hiểu theo ý nghĩa là không có gì khác ngoài một mình Đức Chúa. Đó là điều hạnh phúc nhất trong cuộc đời ta. Tất cả những mối phúc khác đều đặt nền tảng trên sự nghèo khó này. Ví dụ mối phúc thứ hai là hiền lành. Là một tâm hồn không bị tác động bởi những thứ xung quanh, vì họ đã có Chúa. Hung dữ là vì họ quy về mình, họ không muốn ai đụng chạm đến mình, hay nói cách khác, họ “cậy dựa vào sức của phàm nhân”.

Như vậy hạnh phúc thật là bám víu vào Chúa cho thật chặt, còn những thứ khác chỉ là thêm vào cuộc đời cho có, cho vui. Những thứ thêm vào đó như một bức tranh mà chính Thiên Chúa là họa sĩ. Vì vậy có bức màu mè, có bức đơn sơ, có bức trừu tượng không thể hiểu được… nó là việc của Thiên Chúa.

Người đời hay đặt hạnh phúc vào những giá trị khác mà lời Chúa đã cảnh báo cho chúng ta:

Sức lực phàm nhân. Họ tự hào vì chính mình làm được điều này điều nọ, nhưng sau cùng: “3 tấc đất mới thật là nhà”.

Tiền bạc, vật chất cũng là cám dỗ hạnh phúc ảo cho con người. PAUL GETTY là ông chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Khu đất ông ở rộng bốn mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng tỷ mỹ kim. Thế mà mỗi ngày ông đều phải thức dậy làm việc từ lúc ba giờ sáng. Chung quanh ông lúc nào cũng có tới mười cảnh sát bảo vệ. Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm cú điện thoại và những lời đe dọa ám sát… Ông đã phải thốt lên rằng: “Tôi là người chẳng bao giờ biết đến hạnh phúc!”.

Đam mê bất chính, dục vọng vô độ giết chết hạnh phúc thật của con người. Câu chuyện của chàng ca sĩ nổi tiếng Justin Bieber là một bài học cho chúng ta, nhất là các bạn trẻ. Nổi tiếng quá sớm, khi mới 13 tuổi. Anh chia sẻ: “Khi mới 13 tuổi tôi đã thành công. Đối với tôi, thật là khó khăn để tách các sự việc, giữa những gì tôi làm và tôi là ai. Tôi cần thì giờ để biết tôi là ai, những gì tôi muốn làm trong đời và các quan hệ của tôi với người khác, nhất là tôi muốn biết tôi đích thực là người như thế nào… những vấn đề này đã đánh mất hết ý nghĩa của nó khi mình bị chìm đắm trong thế giới kinh doanh và âm nhạc.” Vì lẽ đó mà anh lâm vào nạn nghiện ngập ma túy, vào thuốc tâm thần và vào tình dục. Mọi thứ dường như mất hết khi anh sa vào con đường nghiện ngập và tình dục, nhưng may mắn khi anh tìm được bạn gái là người tin Chúa. Nhờ sự động viên của cô và gia đình, cũng như sự hướng dẫn của, đồng hành của Giáo hội mà anh đã thoát được con đường tồi tệ đó, anh đã chia sẻ: “Tôi muốn phó thác hết cho Chúa”. Nghèo khó là như vậy: bám víu vào một mình Chúa. Và đó là hạnh phúc cho một chàng ca sĩ nổi tiếng khắp thế giới.

Đến lượt chúng ta, sau khi đã được nghe chia sẻ về hạnh phúc thật là bám víu vào Chúa, chắc hẳn nhiều người trong chúng ta cũng phân vân đôi chút trong tâm hồn. Hãy cầu nguyện xin Chúa cho chúng ta can đảm để tìm kiếm hạnh phúc thật. Trong mọi sự đời ta phải có Chúa. Vì vậy dù bận rộn đến mức nào, quyết tâm không bỏ lễ ngày Chúa Nhật ; hằng ngày phải có giờ cầu nguyện với Chúa, ít là mỗi buổi tối trước khi đi ngủ ; trong công việc từ nay không tin tưởng vào các thế lực khác mà tin tưởng vào một mình Chúa để cố gắng thể hiện niềm tin một cách mãnh liệt hơn ; khi sắp xếp được thời gian , đến với Chúa hằng ngày trong các Thánh lễ ; yêu thương, chia sẻ với những người nghèo khổ xung quanh…

Với những gia đình gặp khó khăn hãy xác quyết rằng hạnh phúc thật là khi bám víu vào Chúa để dù hoàn cảnh có như thế nào cũng không bao giờ buông tay ra với Chúa. Giáo hội chắc chắn sẽ đồng hành với họ trong sự cầu nguyện, động viên, khích lệ, tạo điều kiện để dễ dàng thờ phượng Chúa…

Lạy Mẹ Maria, xin cầu cho chúng con biết bắt chước Mẹ để sống trong hạnh phúc thật là trọn tình vẹn nghĩa với Chúa. Xin đừng để chúng con sa vào những hạnh phúc ảo mà mất đi hạnh phúc đích thật.

Về mục lục

.

CHIẾC TRÂM CÀI TÓC VÀ TIẾNG CHUÔNG TRỪ TÀ

Lm. Giuse Trương Đình Hiền

Nếu Chúa Nhật trước, Lời Chúa mời gọi chúng ta lên đường thực thi sứ mệnh tông đồ với lời mòi gọi của chính Chúa Giêsu : “Anh em sẽ là những tay chài lưới người”. Thì hôm nay, Lời Chúa muốn đưa chúng ta đi vào “trường huấn luyện” của Tin Mừng để những người tông đồ nắm bắt bài học cơ bản đầu tiên : SỐNG TỰA NƯƠNG VÀO CHÚA – SỐNG KHÓ NGHÈO, như lời hiệu triệu lúc khởi đầu của Ca Nhập Lễ : “Xin Chúa trở thành núi đá cho con trú ẩn, trở thành chiến lũy kiên cố để cứu độ con.”(Tv 30, 3-4)

Mà đâu phải chỉ Chúa Nhật hôm nay chúng ta mới tìm thấy sứ điệp Lời Chúa mang nội dung “Khó Nghèo” ! Người ta bảo rằng : Nội dung xuyên suốt của Kinh Thánh, cuốn sách ghi lại lịch sử thánh, lịch sử của “Dân Giao ước”, chủ yếu được trình bày như “cuốn nhật ký” ghi chép những kinh nghiệm và bài ca của “những người nghèo” của Gia-vê, những người chọn Chúa làm điểm tựa, làm gia nghiệp cho cuộc đời; mà đó lại là những kẻ được Chúa chọn gọi để trao cho những sứ mệnh cao cả, vĩ đại…và thường phải đối mặt để rồi “hạ gục” những kẻ quyền lực, giàu sang, uy thế…

Ngay từ những trang Cựu Ước, chúng ta đã tìm thấy những khuôn mặt “nghèo điển hình” như thế :
– Mô-sê, một “đứa con hoang” bị săn đuổi, tên “chăn cừu bất đắc dĩ” trong hoang mạc Ma-đi-an, đã ngẫng cao đầu trước Pha-ra-ô, hoàng đế uy quyền lẫm liệt Ai Cập và đã trở thành “Nhà Giải Phóng” vĩ đại của mọi thời ! (Xh 12, 29-32).
– Đa-vít, “đứa em út chăn chiên nhỏ con”, chỉ với chiếc ná và vài viên đá cuội, đã hạ gục tên dũng sĩ Go-li-át to lớn “trang bị tận răng” và rồi trở thành “Tổ Phụ của Đấng Mêsia”. (1Sm 17, 32-51).
– Ê-li-a, nhà ngôn sứ cô độc, cả một đời lao đao lận đận trước sự truy đuổi đầy thủ đoạn và quyền uy của hoàng hậu I-dê-ven và vua A-kháp, đã trở thành “tấm khiên che bất bại” trong cuộc chiến bảo vệ niềm tin cho dân Chúa. (1V 19, 1-8).
– Giu-đi-tha, người goá phụ “liểu yếu đào tơ”, vì sự sống còn của dân Chúa, đã chém đầu viên đại tướng Ho-lô-phec-nê oai hùng bách chiến bách thắng. (Gđt 13, 1-10).
– Hoàng hậu Ét-te với người cậu ruột Móoc-đô-khai, những người mang thân phận lưu đầy và đang chuẩn bị bước tới đoạn đầu đài, chỉ còn lại thứ vũ khí duy nhất là niềm tin yêu phó thác, chay tịnh, nguyện cầu… đã hạ gục tên đại thần ác độc Ha-man. (Et 5-7)…

Trong khi đó, nếu lật lại từng trang Tân ước chúng ta sẽ gặp thấy :
– Giu-se, Ma-ri-a, Hài nhi Giê-su, một gia đình nghèo nàn chân chất, đã từng phải trốn chạy trước chủ trương tàn độc của bạo vương Hê-rô-đê, kẻ giàu có quyền uy nhưng lại run sợ trước một hài nhi bé bỏng, đến độ đã ra tay tàn sát các trẻ em ở Bê-lem…!
– Gioan Tẩy giả, vị ngôn sứ “bản lề” của “hai Giao ước”, đã chấp nhận mất đầu để bảo vệ cương thường đạo lý khi can đảm đối đầu với những kẻ băng hoại đầy thế lực, uy quyền như Hê-rô-đi-a-đê, Hê-rô-đê.
– Nhóm Mười Hai Tông đồ, phần đông dốt nát, dân giả, qui tụ với nhau chung quanh một người nghèo kiết xác đến đổi “không có viên đá gối đầu”, và luôn bị dè bỉu, khinh khi bởi giai cấp tư tế, biệt phái …
– Và nhất là Đấng Cứu Thế Giê-su : Một em bé sinh trong hang lừa, máng cỏ, lớn lên trong xưởng thợ, thường xuất hiện giữa những người tội lỗi, bị xem thường là “con bác phó mộc”, bị gán cho là kẻ phá hoại… và cuối cùng bị kết án tử hình giữa những tội nhân…

Riêng Chúa Nhật hôm nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra nội dung và những cách diễn đạt thâm thuý về “cái nghèo đáng trân trọng”, là dáng đứng của niềm tin yêu phó thác đó ngay trong trích đoạn sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a vừa được công bố :

“Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối,…mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi…”

Hình ảnh “người nghèo như cây lá xanh tươi”, thanh thản tự tại vươn lên giữa trời và đất làm chúng ta liên tưởng đến cái phong cách “Hàn nho phong vị phú” của người quân tử phương đông trong ngôn ngữ của nhà thơ Nguyễn Công Trứ :

“Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ…”

Đó cũng là quan niệm về cái nghèo, cái khổ đầy thi vị qua hình ảnh “những đường tơ của mạng nhện” hay “những ánh lập loè của đom đóm” nơi “Tài tử đa cùng phú” của thi gia một thuở lừng danh Ca Bá Quát :

“Túi thanh bạch ngược xuôi miền khách địa, trăm nghìn đường chỉ nhện dệt thưa mau;
Đèn toan hàn thức nhắp mái nam song, dăm ba ngọn lửa huỳnh khêu nho nhỏ…”

Đó cũng là “cái nghèo” đượm một chút “sang chảnh đầy thanh cao” của một Nguyễn Bĩnh Khiêm, có mẹ thiên nhiên bao bọc, đủ đầy để sẵn sàng xem “công danh phú quý” chỉ là “giấc chiêm bao” :

“…Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao.”

Trong khi đó, nhà “thi sĩ vĩ đại của người nghèo”, tác giả của bài kinh bất hủ “KINH HOÀ BÌNH”, đã sống mãi với thời gian qua hơn tám thập kỷ, Thánh Phanxicô Assisi (1181-1226), không những là chứng nhân tiêu biểu của Đức Khó Nghèo Kitô giáo, của Tin Mừng Bát Phúc, mà còn là người đã trân trọng “đính hôn cuộc đời với cô Khó Nghèo”, một ý tưởng, một nhân đức, một quan niệm sống… được ngài nhân cách hoá như một ngôi vị : CÔ NGHÈO (LADY POVERTY)

Tuy nhiên, để cảm nhận thật sự “chân lý của nghèo khó”, và đón nhận như một sự khôn ngoan, một hạnh phúc, một chọn lựa cho cuộc đời, thì chúng ta phải trở lại những lời dạy độc đáo của Tin Mừng, phải tìm đến chính “người nghèo vĩ đại nhất của nhân loại” đó chính là Đức Giêsu-Kitô, là Đấng đã tự đồng hoá mình với muôn vạn người “bé mọn” khác trong nhân loại được Thiên Chúa nhìn đến, đoái thương, mạc khải :

“Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn”.(Mt 11, 25).

Đặc biệt, với ngòi bút của một “thầy thuốc và nhà văn”, Thánh Luca quả đã cho chúng ta cảm nhận được một “Thiên Chúa của người nghèo”, một Thượng Đế hoá thân kẻ nghèo, một Đấng Cứu Thế thuộc hàng dân giả để giải thoát và bênh vực những “kẻ nghèo” qua chính ngôi vị Giêsu Na-da-rét, như nhận xét của nhà chú giải Kinh Thánh Noel Quesson :

“Đức Giêsu là Đấng “Mêsia của người nghèo”. Chính Người đã sống khó nghèo ; nhiều lần Người đã cho thấy Người thích hướng về phía nào”. Dĩ nhiên, Người đã hiệp thông trong thân xác và trong cảm thức con người với điều kiện khắc nghiệt của những ai thiếu thốn. Khi chia sẻ thân phận của họ từ lúc nằm trong máng cỏ cho đến lúc bị đóng đinh, “không có một viên đá để kê đầu!”, Người đã cảm thấy một trái tim huynh đệ đang đập vì họ. Là Đấng Mêsia của người nghèo bị Do Thái giáo của giới trí thức Giêrusalem khinh bỉ, Đức Giêsu đã đau khổ như những “người phận nhỏ” và “cùng với họ” bị những “người có của” lăng nhục, khinh khi. Ôi ! sự khinh miệt đáng sợ ấy thường là vô thức đối với sự nghèo khó từ phía những kẻ no nê và cười ngạo nghễ. Vậy Đức Giêsu hứa hẹn gì với những người nghèo ấy ?

Nước Thiên Chúa là của anh em… Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng… anh em sẽ được vui cười…”

Cách riêng trong trích đoạn Tin Mừng hôm nay, một đoạn văn quan trọng của thánh sử Luca, “đoạn mở đầu” trong loạt “BÀI GIẢNG TRÊN CÁNH ĐỒNG” với 4 mối phúc và 4 mối hoạ, cũng nhằm quy chiếu vào “trọng tâm của đức khó nghèo Tin Mừng” theo nghĩa : chọn khó nghèo, tin tưởng vào Chúa luôn là một bảo đảm cho hạnh phúc hiện tại và vĩnh hằng. Trái lại, nếu chọn sự giàu có thế gian, đặt niềm tin vào chính mình, khước từ Thiên Chúa, sẽ tự giam hảm mình trong nỗi bất hạnh triền miên. (Xem thêm bài chú giải của Noel Quesson)

Thánh sử Luca đã lặp đi lặp lại nội dung ý nghĩa nầy trong Tin Mừng của Ngài, như chúng ta thấy nơi dụ ngôn người ngheo Ladarô (Lc 16,19-31), nhất là nơi bài ca Magnificat :

“Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng…” (Lc 1,51-53).

Đứng trước một trào lưu xã hội “thượng tôn vật chất”, thực dụng và hưởng thụ tiện nghi, những lời công báo “Phúc-Hoạ” hôm nay quả thật cần thiết. Bởi chưng, con người muôn nơi muôn thuở vẫn còn đó nguyên cơn cám dỗ “trái cấm” nơi vườn địa đàng, hay cơn cám dỗ “bánh mì, sự giàu có thế gian và vinh quang trần tục” nơi hoang mạc !

Trong lãnh vực đức tin, mục vụ, Giáo Hội, được mệnh danh là “Đoàn chiên nhỏ”, đâu đã thoát hẳn những cơn bệnh “thế tục hoá” của những “ông phú hộ”, của “chàng trai giàu có”: muốn nhà thờ mình, cộng đoàn mình, Hội Dòng mình, gia đình mình…phải to lớn khang trang, phải huy hoàng hoành tráng, phải hiện đại hợp thời…và bao nhiêu cái phải để “chẳng khác gì thế gian”.

Dĩ nhiên, khi chọn cái “PHÚC” của Tin Mừng cũng có nghĩa chọn “Con đường thập giá”, chọn phương án “tự huỷ” để chiếm hữu “NƯỚC THIÊN CHÚA”, để đạt được niềm hạnh phúc “PHỤC SINH”. Sự phục sinh của Đức Kitô chính là đích điểm của sự chọn lựa “khó nghèo thập giá”; đó chính là chân lý đã được Thánh Phaolô cùng với cộng đoàn tín hữu Côrintô xác tín và tuyên xưng ngay từ những buổi đầu khai sinh Giáo Hội mà chúng ta vừa nghe lại trong Bài đọc 2 : “Đức Kitô từ cõi chết sống lại là hoa quả đầu mùa của những người đã yên giấc”.

Tóm lại, sứ điệp Lời Chúa của Chúa Nhật 6 thường niên hôm nay gọi mời cộng đoàn tín hữu chúng ta một lần nữa quy tụ xung quanh Đức Kitô để lắng nghe Lời dạy quan trọng của Ngài về con đường Phúc Thật của Tin Mừng. Mà không chỉ lắng nghe, điều quan trọng hơn đó là dấn thân chọn lựa và sống hết mình con đường khó nghèo của Phúc âm, con đường quyết chọn đứng về phía Thiên Chúa, tin tưởng và phó thác cho Ngài toàn thể vận mệnh và nhịp bước trong đời ; một sự tin tưởng-phó thác của những “bước chân Đa-vít” khi đối diện với gã khổng lồ “Go-li-át” (1 Sm 17,40-51), của tấm lòng “Bà Goá” sẵn sàng cho đi những “đồng xu cuối cùng” (Mc 12,41-44).

Trong cuộc chiến đấu với những thần tượng Mammon của thời đại hôm nay, với những tên khổng lồ Go-li-át của “sự giàu có thế tục”, tấm áo da cừu và những viên đá sỏi của Đa-vít vẫn còn nguyên giá trị; đặc biệt hơn, đó là những con đường mà “Vị Hậu Duệ của Đa-vít” đã chỉ ra hôm nay : những con đường Phúc Thật của Tin Mừng.

Con đường đó, mối phúc thật đó, nếu được diễn tả lại bằng ngôn ngữ của Nhà Phật, thì đó chính “CHIẾC TRÂM CÀI TÓC CỦA LỘC NƯƠNG” đã làm nên “TIẾNG CHUÔNG TRỪ TÀ CỦA CHÙA TẾ VŨ”

Về mục lục

.

PHÚC HỌA

Lm. Thái Sơn

Có một vị quốc vương, khi ra ngoài đi săn không may bị đứt mất một ngón tay, mới hỏi vị đại thần thân cận nên làm thế nào? Đại thần nói với giọng lạc quan, nhẹ nhõm: “Đây là việc tốt!”.

Quốc vương nghe vậy giận lắm, trách ông hí hửng khi thấy người khác gặp nạn, vì thế ra lệnh nhốt ông vào đại lao chờ ngày xét xử.

Một năm sau, quốc vương lại ra ngoài đi săn, đến khu rừng xa hẻo lánh bị thổ dân bắt sống, trói vào đàn tế, chuẩn bị làm vật tế thần.

Thầy phù thủy đột nhiên phát hiện quốc vương khuyết mất một ngón tay, cho rằng đây là vật tế không hoàn chỉnh, bèn thả quốc vương ra, thay vào đó bắt viên đại thần tùy tùng làm vật hiến tế.

Trong niềm vui thoát nạn, quốc vương nghĩ tới viên đại thần vui vẻ từng nói rằng mất ngón tay là việc tốt, liền ra lệnh thả ông, và xin lỗi vì đã vô cớ bắt ông chịu nạn một năm trong ngục tối.

Vị đại thần này vẫn lạc quan nói: “Cái họa một năm ngồi tù cũng là việc tốt”. Nhà vua còn đang thác mắc với câu nói trên, vị đại thần nói tiếp: “Nếu như tôi không ngồi tù, thì thử nghĩ vị đại thần theo người đi săn mà bị lên đàn hiến tế kia sẽ là ai?” (Sưu tầm).

Thưa các bạn!

Phải chăng, câu chuyện về vị quốc vương bị khuyết một ngón tay là một thông điệp giúp ta hiểu phần nào về mối hiểm nguy là “họa” sẽ chuyển hóa thành cơ may là “phúc”?

Thiết tưởng, cuộc sống như một dòng chảy bất tận và biến đổi không ngừng. Đâu ai biết được ngày mai ra sao? Chuyện tưởng là xấu mà lại có thể dẫn tới kết quả tốt, và chuyện cho là tốt đẹp có thể dẫn tới hậu quả xấu.

Tin Mừng Chúa Nhật 6 Thường Niên C, thánh Luca mô tả Đức Giêsu từ trên núi xuống thấy đoàn lũ dân chúng đến từ khắp nơi liền dạy họ về bốn mối phúc và bốn tai họa.

Bốn mối phúc cho anh em là những người nghèo khó, người đói khát, người khóc than và người bị ngược đãi, vì Nước Thiên Chúa là của họ (Lc 6,20-23).

Bốn tai họa cho các ngươi là những kẻ giàu có, kẻ no nê, kẻ vui cười và kẻ được ca tụng, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi (Lc 6,24-26).

Thưa các bạn!

Có lẽ, Đức Giêsu không cổ võ, khích lệ hay động viên phải trở nên nghèo khó, đói khát, khóc lóc và bị ngược đãi. Nhưng Ngài đứng về phía họ để bảo vệ, nâng đỡ và an ủi. Vì thế, họ được chúc phúc.

Có lẽ, Đức Giêsu không chỉ trích hay trách móc kẻ giàu có, no nê, vui cười và được ca tụng. Nhưng Ngài lên án họ về thái độ dửng dưng hay hững hờ trước những bất công hay đau khổ của người khác.

Có lẽ, dụ ngôn ông nhà giàu và Lazaro nghèo khó là bài học tiêu biểu (Lc 16,19-31). Tình cảnh hai người khác nhau hoàn toàn, và kết quả cũng khác nhau hoàn toàn, chỉ vì không biết xót thương người bất hạnh.

Có lẽ, thái độ cần thiết của “bạn & tôi” là giữ được tâm thái bình thản trước nghịch cảnh, biết chấp nhận nó, không than vãn, nhưng lạc quan hơn, hầu có thể tin tưởng vào Chúa trước vui buồn sướng khổ.

Có lẽ, thái độ quan trọng của “bạn & tôi” là có được tâm tình phó thác vào Chúa trước khổ đau, biết nhẫn nại và khiêm tốn, biết hy sinh và từ bỏ, hầu có thể đến với Chúa mọi nơi mọi lúc trong cuộc đời.

Ước gì, Lời Chúa hôm nay soi sáng và thúc đẩy “bạn & tôi” biết lắng nghe, suy gẫm và thực hành trong đời sống, hầu có thể biến “họa” thành “phúc”. Amen

Về mục lục

.

HẠNH PHÚC CHO NGƯỜI HY SINH VÌ CHÚA

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

“Bần cùng sinh đạo tặc.” Quả đúng như vậy, có một số người trở thành đạo tặc vì đời sống của họ quá bần cùng, như người ta thường nói: “Đói ăn vụng, túng làm liều.” Như thế thì bần cùng, đói khát là tai hoạ cho con người và xã hội chứ đâu có mang lại hạnh phúc.

Thế mà Chúa Giê-su lại nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em.” Tại sao?

Nếu đọc kỹ câu đầu của bài Tin mừng này (Lc 6,20), chúng ta thấy thánh sử Lu-ca viết như sau: Bấy giờ, “Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó…”

Khi tuyên bố những lời này, Chúa Giê-su vừa ngước mắt nhìn các môn đệ vừa nói. Vậy thì đây là những lời Chúa Giê-su nói trực tiếp với các môn đệ. Các môn đệ là đối tượng của những lời chúc phúc này.

Tại sao?

Vì trước đây, trong số các môn đệ của Chúa Giê-su có người làm nghề chài lưới, có thuyền có ghe, có thu nhập hằng ngày ổn định, có người làm nghề thu thuế kiếm bộn bạc… Thế rồi, khi lên đường theo Chúa, các ngài đã bỏ hết thuyền bè, nhà cửa, công việc làm ăn… nên bây giờ các ngài trở thành những người nghèo khó… Nghèo khó vì từ bỏ mọi sự để đi loan báo Tin mừng như thế thì mới là người có phúc, chứ không phải bất cứ ai nghèo khó là có phúc.

Rồi Chúa Giê-su nói tiếp với các môn đệ:

“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.”

Với nghề chài lưới trên biển hồ nhiều tôm cá hoặc nghề thu thuế như Lê-vi đã làm… các môn đệ chưa biết đói khát là gì. Vậy mà từ ngày theo Chúa Giê-su, lang bạt từ làng quê lên phố thị, từ bờ biển đến nơi hoang địa… các ngài phải chịu đói khát; thậm chí có ngày đi qua đồng lúa, các ông đã bứt những gié lúa vò xát trong tay rồi ăn để dằn cơn đói… Đói khát vì ra đi xây dựng Nước Trời như các môn đệ ắt phải được đền đáp và sẽ được thỏa chí toại lòng vì niềm vui tận hiến, vì hạnh phúc đời đời.

Và Chúa Giê-su tiếp lời với các môn đệ:

“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc vì anh em sẽ được vui cười.”

Trước đây các môn đệ sống hạnh phúc với cha mẹ, vợ con trong mái ấm gia đình, nay theo Chúa là Đấng không có chỗ tựa đầu, lang bạt rày đây mai đó, có lần bị đuổi khéo ra khỏi khu dân cư (Mt 8,34), có lúc đi ngang qua vùng Sa-ma-ri-a bị dân làng tẩy chay không tiếp đón, rồi sau nầy các ngài bị bắt bớ, tù đày, bị giết hại… khiến các ngài phải khóc thầm… Khóc vì chịu khổ nạn vì Nước Trời như thế thì thật là diễm phúc và mai đây sẽ được vui cười.

Và điều phúc thứ tư:

“Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”

Các môn đệ luôn kề vai sát cánh với Chúa Giê-su, đồng lao cộng khổ với Chúa và vì Ngài mà bị người đời “oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa”, cùng chịu khổ nạn với Chúa Giê-su, thì chắc chắn sẽ được vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Chính vì thế mà Chúa Giê-su nói: “Anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cũng nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta muốn được hưởng những mối phúc mà Ngài công bố thì phải chấp nhận “nghèo khó” vì Tin mừng, chịu “đói” vì chia sẻ cơm áo cho nhau, chịu buồn phiền “khóc lóc” vì đạo Chúa, chịu “oán ghét, khai trừ, sỉ vả” vì Nước Trời.

Nước Trời không phải là lô độc đắc dành cho người may mắn trong các cuộc xổ số. Phải trả giá cao mới đạt được Nước Trời như lời Chúa Giê-su phán:  “Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, Nước Trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được” (Mt 11,12).

Lạy Chúa Giê-su,

Xin dạy chúng con nhớ rằng: Của cải đời này chỉ là phù du, mau tan biến đi như sương, như khói, chỉ có hạnh phúc thiên đàng mới vĩnh viễn thiên thu.

Xin giúp chúng con biết phấn đấu đạt cho được Nước Trời dù phải hy sinh thời giờ, công sức, tiền bạc và chấp nhận gian lao khó nhọc… để phục vụ anh chị em chung quanh, nhờ đó chúng con  đạt được những mối phúc mà Chúa công bố trong Tin mừng hôm nay.

Về mục lục

.

PHẦN THƯỞNG ANH EM SẼ BỘI HẬU TRÊN TRỜI

Fx Đỗ Công Minh

Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ VI thường niên được các nhà chú giải Thánh Kinh đặt là “ Hiến chương nước trời”, có nghĩa là một văn bản qui định cho những ai tin  vào nước Thiên Chúa, hiểu được nơi mình sẽ đến và điều kiện để vào.

Tin mừng của Chúa kể là khó hiểu với con người. Trong lúc xã hội hiện nay mọi người đang chạy đua làm giàu, người người đều trọng vọng những người có tiền của, danh vọng, địa vị. Chúa lại làm ngược lại là chúc: “ phúc cho những ai  có tâm hồn nghèo khó”, và những người biết sống liên đới  với những người đói khổ, bất hạnh. Trong lúc mọi người tìm đến sự an nhàn, vinh thân phì gia, hưởng thụ, trong ấm ngòai êm, thì Chúa lại chúc: “ Phúc cho anh em là những người phải khóc lóc “. Không phải đôi điều chúc phúc mà là tám điều phúc thật, dành cho những người hiền lành, đơn sơ, chất phác; những ai khát khao nên người công chính. Chúa còn chúc phúc cho những ai xót thương người, những ai có tâm hồn trong sạch, những ai xây dựng hòa bình. Và nhất là những ai “ Vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng anh em, và loại trừ tên anh em như kẻ bất lương “

              Lạy Chúa,

Hẳn là Chúa không muốn để con người phải túng đói, nghèo hèn. Chúa cũng chẳng muốn một người nào trong chúng con bị người khác xỉ vả, bị bách hại. Nhưng Chúa chúc phúc cho họ vì  trong cuộc sống trần thế này, những người như thế cần được sự thương yêu, hỗ trợ. Họ trông mong được sự chở che, giúp đỡ hầu thoát cơn hoạn nạn. Chính vì vậy, khi đã nhận biết Chúa, họ đặt trọn niềm tin vào sự giải thoát, vào ơn cứu độ của Người. Chúa yêu thương họ vì chính Chúa là tình yêu. Chúa chúc phúc cho họ vì họ luôn hướng đến quê trời, nơi đó, họ tin rằng họ sẽ được hưởng phúc thật. Họ tin vào Chúa là Đấng đầy lòng xót thương .

Trong chúng con đây, cuộc sống nhiều người chưa đến nỗi lâm vào cảnh túng thiếu, khốn cùng, cũng chưa gặp lao đao vất vả quá sức. Chúng con xin cảm tạ Chúa. Chúng con cũng mong muốn đón nhận được những lời chúc phúc của Chúa, nhưng bằng cách nào? Phải chăng đó là con phải sống chia sẻ, biết ủi an, nâng đỡ những anh chị em còn khó khăn, đang gặp nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Những người bị áp bức, bị lọai trừ trong xã hội. Biết sống tiết độ, công bằng, yêu thương đùm bọc lẫn nhau.  Đó chính là chúng con đang trở thành những người khó nghèo trước mặt Chúa.

Xin cho mỗi người chúng con luôn biết sống liên đới với  mọi người, nhất là những người đang cần đến sự giúp đỡ. Dám can đảm đứng về phía chân lý, sự thật, sự công bằng. Không thỏa hiệp với những điều xấu, không sa vào những cám dỗ tội lỗi và cùng giúp nhau vươn lên hòan thiện, để mai này lời Chúa hứa: “Ngày ấy anh em hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng anh em  sẽ  bội hậu trên trời” sẽ được thực hiện. AMEN .

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_C

Lm. Antôn

Qua những phương tiện truyền thồng như mạng internet, báo chí và truyền hình chúng ta nghe rất nhiều sự kiện chính quyền Cộng sản Việt Nam phá nhà, cướp đất, đánh đập và đàn áp dân chúng. Chúng ta còn thấy có những người dám hành hung, giết người để cướp của, những người gian dối tìm mọi cách để lừa gạt và chiếm đoạt tiền bạc, nhà cửa và đất đai xảy ra khắp nơi trong mọi xã hội. Chúng ta thấy có những vụ xung đột, biểu tình chống đối đòi hỏi quyền lợi đang xảy ra tại nhiều quốc gia trên thế giới. Chúng ta thấy có những vụ lừa đảo thương mại và những sự tranh dành về quyền lực chính trị đang xảy ra tại quốc gia Hoa kỳ này. Phe và đảng Cộng hòa của Tổng thống Trump đang cố gắng xây dựng và tái thiết quốc gia hùng mạnh lại.  Còn phía đảng Dân chủ thì dùng mọi mưu kế để phá để dành lại quyền lực chính trị cá nhân và cho đảng mình. Chúng ta thấy các quốc gia, các đảng chính trị, các phe nhóm về ý thức hệ, kinh tế, chính trị, xã hội và đoàn thể kết hợp lại với nhau để tranh dành thế lực, quyền lợi, và nếu không còn lợi lộc gì thì trong nháy mắt họ phản lại, quay lưng trở mặt chống đối và đổ tội cho nhau.  Những sự kiện trên đây đang xảy ra mọi nơi trên thế giới.

Thế thì đối với người dân chúng ta thì làm sao có thể sống bình an, hạnh phúc, và biết tin vào ai và biết cậy vào ai trong thế giới và xã hội chỉ biết chú trọng vào quyền lực chính trị, kinh tế, tiền bạc và khinh dể, coi thường công lý, công bằng, nhân phẩm và các quyền tự do căn bản của con người này!

Các bài đọc Kinh thánh hôm nay cho chúng ta một lời giải đáp. Trước hết, chúng ta phải tự nhận rằng sức lực, khả năng và thời gian của con người chúng ta có giới hạn. Có người giàu có, quyền quý và thế lực nào mà lại không đến lúc phải bó tay và phải chết đâu!  Chúng ta biết con người tự bản tính thường hay ích kỷ hẹp hòi và ham danh lợi, thấy quyền lực, tiền bạc và của cải, thì thường quên những điều cao đẹp khác.  Do đó tin và cậy dựa vào con người quả thật là thái độ khờ dại.  Khi con người chúng ta tự cao, tự cậy dựa vào mình sống ích kỷ, từ chối và khép kín lại với Thiên Chúa và tha nhân, thì sẽ từ từ khô cằn và chết đi, nó giống như cây mọc trong hoang địa khô cằn và chết héo như lời tiên tri Giêrêmia nói trong bài đọc 1 mà chúng ta vừa nghe.  Những lời tiên tri tố cáo dân Is-ra-el thời xưa, cũng còn rất là thời sự, thực tế đối với con người sống trong thế giới và xã hội ngày nay, là một thời điểm chú trọng và chủ trương lấy con người làm thước đo mọi sự, nhưng lòng người thì làm sao mà đo được.  Cho nên, câu nói: không gì xấu xa bằng lòng người cũng chưa hẳn là quá đáng.

Ca dao tực ngữ đã nói:

“Sông sâu còn có thể dò.

Lòng người nham hiểm ai đo cho tường.”

Hay:

“Lòng người thăm thẳm mù khơi,

Không bờ không bến biết nơi nào dò.” 

Thứ đến, sống ở đời ai trong chúng ta cũng mong ước và cầu xin được an bình và hạnh phúc.  Mỗi dịp đầu năm mới, chúng ta thường chúc nhau hạnh phúc. Thế nhưng có những câu hỏi để chúng ta là những Ki-tô hữu suy niệm: “Ai mới là người thật hạnh phúc?”, “Phải sống thế nào để được hạnh phúc?”,  “Hạnh phúc đích thực là thế nào?”, và “Phải tìm hạnh phúc ở đâu?”

Trước hết, chúng ta thấy tiên tri Giê-rê-mi-a cảnh báo rằng: “Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa. Họ như cây cỏ trong hoang địa, không cảm thấy khi được hạnh phúc.”   Vì thế, chúng ta được kêu gọi phó thác và cậy trông nơi Thiên Chúa, là nguồn hạnh phúc đích thực, chớ tìm hạnh phúc và cậy dựa vào sức mạnh của tiền bạc, vật chất và khả năng của con người mau tàn lụi và hay hư nát.  Tiên tri Giê-ri-mi-a quả quyết: “Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ.”

Sau hết, chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa tạo dựng con người chúng ta để chúng ta sống hạnh phúc ở đời này và nhất đời sau ở Nước Trời. Thế nhưng, hình như ở đời này hạnh phúc thì ít mà đau khổ thì nhiều; và có thứ chúng ta tưởng là hạnh phúc nhưng thực ra lại là bất hạnh.  Hôm nay Chúa Giê-su chỉ dạy chúng ta biết thế nào là hạnh phúc thật, và làm thế nào để có được hạnh phúc thật ấy. Thật vậy, Tin mừng hôm nay có bốn lời chúc phúc cho những kẻ nghèo đói, khóc than, bị oán ghét, khai trừ, sỉ nhục, kèm theo bốn lời chúc dữ cho những người giàu có, no nê, vui cười, được mọi người ca tụng. Đó là hai thái độ và cách sống mà Chúa Giê-su, vì yêu thương và nhân từ, muốn cho chúng ta biết để chúng ta quyết định và chọn lựa.  Điều quan trọng mà chúng ta phải chú ý là: không phải tự sự nghèo khổ là hạnh phúc, thực ra chúng mang lại hạnh phúc vì chúng giúp người ta không bị nô lệ cho tiền bạc, để biết hướng lòng cậy trông, phó thác và tôn thờ Chúa, chân thành và can đảm sống lời Người dạy. Cũng không phải tự sự giàu có, sung sướng là xấu, nhưng chúng có thể trở thành nguồn bất hạnh và khó vào Nước Trời khi chúng trói buộc cuộc sống con người chúng ta vào tiền bạc và vật chất đời này. Khi chúng ta bị nô lệ, có những hành động gian dối, sống ích kỷ, thờ ơ bổn phận gia đình và đức tin. Chúa không cấm chúng ta có tiền bạc hay giàu có một cách chân chính và ngay thẳng, vì đó là ơn Chúa, là nhu yếu cần thiết và là những điều kiện để hoạt động trong cuộc sống hằng ngày. Nếu chúng ta xử dụng tiền bạc, vật chất một cách khôn ngoan, biết “đầu tư” và đừng bị nô lệ cho tiền bạc, thì sẽ mang lại hạnh phúc đời này và đời sau.

Chúng ta biết trong cuộc sống hiện tại, mỗi người phải vất vả và bận rộn với công việc để kiếm tiền để có những nhu cầu cần thiết cho cá nhân và gia đình. Nhưng Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về những sự giới hạn và yếu đuối của con người, và kêu gọi chúng ta hãy chú ý đến đời sống tinh thần, đời sống đức tin, đặt niềm cậy trông và sự quan phòng vào Thiên Chúa là Cha yêu thương và nhân từ.  Chúa ban cho chúng ta những ơn lành, điều kiện và chỉ dạy chúng ta con đường và phương cách để được bình an và hạnh phúc đời này và đời sau trên Nước Trời.  Vì vậy, dù sống trong hoàn cảnh nào chúng ta cố gắng sống lời Chúa chỉ dạy, chú tâm đến đời sống đức tin, biết đầu tư những ơn lành Chúa ban qua đời sống bác ái, quảng đại, biết chia sẻ, đóng góp và hy sinh phục vụ để xây dựng giáo xứ và làm sáng danh Chúa.

Về mục lục

.

TIN VÀO THIÊN CHÚA LÀ PHÚC-KHÔN;

TIN VÀO CON NGƯỜI LÀ HỌA-DẠI

Lm. Bosco Dương Trung Tín

  “Phúc thay người đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Đức Chúa làm chỗ nương thân” (Gr 17,7).

  Vấn đề được đặt ra là tin vào Thiên Chúa hay tin vào con người, điều nào tốt hơn ? Trước hết ta hãy so sánh Thiên Chúa với con người.

  Thiên Chúa thì không thay đổi; con người thì hay đổi thay.

Thiên Chúa thì trước sau như một, từ đời này qua đời khác. Còn con người lòng dạ hay thay đổi; có thể quay 180 độ. Mới là bạn, là thân thiết đó; thế mà đã trở thành thù địch rồi. Khi nghèo khó là anh em; nhưng có tiền, có của lại tráo trở, đâm ra địch thù. Người ta có nói:

“Dò sông, dò biển dễ dò,

Nào ai lấy thước mà đo lòng người” mà.

  Thiên Chúa tốt lành và thánh thiện; còn con người thì xấu xa và độc ác.

  Thiên Chúa luôn luôn tốt lành và thánh thiện, vì Ngài luôn làm những điều tốt lành cho con người. Còn con người thì luôn thủ đoạn, ích kỷ, chỉ lo  cho riêng mình; sẵn sàng ra tay làm hại bất kỳ ai đụng đến miếng cơm, manh áo hay đụng đến quyền lợi của mình.

Chúa Giê-su nói với người thanh niên rằng: “Chỉ có một Đấng tốt lành” (x. Mt 19,17). Thật là đúng khi Đức Giê-su nói như vậy. Đấng tốt lành là Thiên Chúa, còn con người, chẳng có ai là tốt lành cả, theo đúng nghĩa đen của từ “tốt lành”.

“Tốt lành” nghĩa là không bao giờ làm điều xấu. Thiên Chúa chắc chắn không bao giờ là điều xấu, mọi việc Chúa làm đều tốt lành. Khi tạo dựng vũ trụ và vạn vật, “Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp” (x. St 1, 19; 12; 18; 21; 25, 31) . “Thánh thiện” thì khỏi phải nói, có ai thánh thiện bằng Thiên Chúa, Đấng ba lần THÁNH.

Còn con người, đành rằng có người tốt; sở dĩ họ tốt là vì họ noi gương Chúa; họ thực thi thánh ý của, Chúa nên họ trở nên người tốt, nhưng họ không thể không làm một điều xấu trong đời. Có được bao nhiêu người tốt trên thế gian này ? Chắc là không có nhiều. Thực tế cho thấy, vì quyền lợi; vì danh vọng; vì đồng tiền mà con người bất chấp mọi thủ đoạn; làm bao điều xấu xa và độc ác.

  Thiên Chúa thì yêu thương, tha thứ; còn con người thì ghen ghét, thù hận.

  Thiên Chúa luôn yêu thương và tha thứ cho con người. Bất cứ khi nào lầm lỗi, mà con người hết lòng ăn năn, sám hối; xin Chúa thứ tha thì Chúa sẽ tha thứ và không bao giờ nhớ lại. Dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” đã nói lên điều này.

  Còn con người, khó mà tha thứ; thương thì tha, ghét thì để bụng, thù hận; trả đũa, trả thù. Ghen ghét thì giỏi, chứ tha thứ thì ….dở.

  Thiên Chúa thì giàu lòng TỪ ÁI; còn con người thì giầu lòng TỰ ÁI.

  Thiên Chúa và con người khác nhau cái “dấu”. Thiên Chúa thì là “dấu huyền”; còn con người là “dấu nặng”. Cái “TÔI” của con người to lắm, lớn lắm. Bởi vì to và lớn nên mới “nặng”, thành ra giầu lòng “TỰ ÁI”. Còn cái “TÔI” của Thiên Chúa thì nhỏ xíu, nên “nhẹ như lông hồng”; đầy lòng từ bi.

  Thiên Chúa thì vững mạnh, trường tồn; còn con người thì yếu đuối, giới hạn.

  Con người có sống giỏi lắm cũng trên dưới 100 năm mà thôi. To con tốt tướng thế; mạnh khỏe thế; thế mà chỉ một con gió thoáng qua, ăn không ngon, ngủ không yên; tay chân nhấc không nổi. Một cơn bệnh ung thư, với mấy lần xạ trị, chỉ còn da bọc xương. Quyền thế, hét ra lửa thế, mà bây giờ chỉ là một nhúm tro tàn. Còn Thiên Chúa, mãi mãi trường tồn.

  Thiên Chúa là TẠO VẬT; còn con người là VẬT TẠO.

Nghĩa là Thiên Chúa là Đấng sáng tạo vạn vật; còn con người là loài thụ tạo, do Chúa dựng nên. Con người chỉ là cái rìu, cái cưa; là bình gốm; còn Thiên Chúa là Thợ Rừng, người cầm rìu, cầm cưa; là Thợ Gốm. Con người chỉ là đồ vật trong tay Thiên Chúa mà thôi. Thiên Chúa là CHỦ; con người là người làm công.

  Thiên Chúa thì luôn CHO ĐI cách “nhưng không”; còn con người thì luôn LẤY LẠI cách “không nhưng”.

  Thiên Chúa thì luôn CHO ĐI cách “nhưng không”, nghĩa là cho đi cách miễn phí; còn con người thì luôn LẤY LẠI cách “không nhưng”, nghĩa là lấy lại cách “không không”. Cái gì cũng vơ về cho mình; mình không làm, không bỏ sức ra, cũng muốn hưởng, cũng muốn có cho bằng được. Nên sẵn sàng đi ăn trộm, ăn cắp; đi hớt tay trên của người khác.

So sánh giữa Thiên Chúa và con người với 7 điều trên đây, ta nên chọn tin ai và chọn ai làm nơi nương tựa ? Có phải tin vào Thiên Chúa và tìm nương tựa nơi Người là tốt nhất, là chắc ăn hơn sao !!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!!

 Bây giờ ta hãy xem, người tin vào Chúa là người thế nào ?

  “Người đó như cây trồng bên dòng nước; đâm rễ sâu vào mạch suối trong. Mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì; lá trên cành vẫn cứ xanh tươi; gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại và không ngừng trổ sinh hoa trái” (x. Gr 17,8).

  Nơi nào có nước, cây cối sẽ xanh tươi. Cũng vậy, người tin vào Chúa sẽ luôn sống trong ân sủng Chúa, sẽ luôn an bình và hạnh phúc. Họ có Chúa làm nơi nương thân, họ không sợ gì cả, dù đời họ có gặp những khó khăn; dù cho họ có bị người này người kia oán ghét, khai trừ và xóa tên, họ vẫn không ngừng an vui và sinh nhiều hoa trái là những việc lành phúc đức. họ không thù ghét ai; cũng không làm hại gì ai, không lừa dối ai.

  Còn người không tin vào Chúa sẽ là người thế nào ?

  “Người đó như bụi cây trong hoang địa, chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ; hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy, trong vùng đất mặn không một bóng người” (x. Gr 17,6).

  Trong hoang địa thì không có nước, cây sẽ khô héo. Cũng vậy, người không tin vào Chúa hay xa Chúa cũng sẽ khô héo và khôn cằn như vậy. Họ luôn lo lắng và lo sợ; họ có an bình hay hạnh phúc thì chỉ là nhất thời thôi. Họ có giàu có, thì đó chỉ là phần an ủi của họ ở đời này. Họ có đầy đủ mọi sự, nhưng có ngày họ sẽ phải thiếu thốn. Họ có được vui cười, nhưng có ngày họ sẽ phải khóc. Họ được ca tụng đấy, nhưng đó chỉ là những lời ở đầu môi chót lưỡi mà thôi.

  Đối với con người, vì có tiền và có quyền, nên được người ta theo. Nhưng quyền có ngày cũng hết, vì đâu có ai làm tổng thống, làm thủ tướng hết đời đâu. Tiền thì có bao nhiêu cũng không đủ, nên luôn thiếu và có ngày cũng hết. Bởi đó mà ai tin theo người đời, tin theo con người thật là dại.

  Đối với Thiên Chúa, Ngài có dư đầy ân sủng và bình an. Ân sủng thì Ngài ban cho những ai tin và xin, đủ cho ta sống. Bình an của Thiên Chúa là mãi mãi, ở trong tâm hồn con người, làm cho ta an bình và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh. Sự bình an này cần thiết và quan trọng trong cuộc sống con người. Bởi đó, ai tin và theo Thiên Chúa là người khôn. Có Chúa là có tất cả, không còn thiếu thốn gì.

  Vậy ta hãy tin và theo Thiên Chúa hơn là tin theo người đời, để ta luôn được bình an và hạnh phúc. Ta hãy nhớ đến hình ảnh của cây mọc bên dòng suối, cây xanh tươi và sinh hoa trái thế nào thì người tin vào Chúa cũng sẽ như vậy. Nhờ đó, mà ta nhận ra cái phúc của ta là được tin vào Chúa và nương tựa nơi Ngài. Đúng làTin vào Chúa là PHÚC và KHÔN. Tin vào người đời là HỌA và DẠI.

Về mục lục

.