CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG B
Lời Chúa: Is 61, 1-2a.10-11; 1Tx 5,16-24; Ga 1, 6-8.19-28
———
-
Loan báo niềm vui (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
- Sống Chứng Nhân (Lm Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)
- Sống Vui Sống Thật Với Chúa Và Với Chính Mình(Lm Ngọc Dũng, SDB)
-
Hướng Niềm Vui Về Nguồn Hoan Lạc Của Mầu Nhiệm Giáng Sinh (E. Thanh Hiền, OSB)
-
Trở nên bình thường (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
-
Anh em hãy vui lên trong Chúa (Jorathe Nắng Tím)
-
Làm chứng (Lm. Thái Nguyên)
-
Chúa đến như thế nào? (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
-
Trở về (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
-
Tôi là ai? (Thiên San, MTG.Thủ Đức)
-
Chứng nhân niềm vui Tin mừng (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
-
Niềm vui trọn vẹn (Lm. Xuân Hy Vọng)
-
Để được Thiên Chúa đong đầy (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
-
Người làm chứng (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
-
Âm vang hoang địa (Trầm Thiên Thu)
-
Suy niệm Lời Chúa-Chúa Nhật 3 MV_B (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
-
Có tiếng người hô trong hoang địa (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
-
Tiếng hô chuyên chở “Niềm vui đích thực” (Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
-
Tìm gặp Chúa trong vị thế của mình (Lm. Trần Bình Trọng)
-
Để Người được lớn lên (Lm. Antôn Phạm Trọng Quang, SVD)
1. Chúa hiện diện giữa chúng ta (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Chứng nhân của ánh sáng (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Để con nên hình bóng Ngài (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Anh em hãy vui lên (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Gioan Tẩy giả làm chứng (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
6. Sống trong ánh sáng Chúa (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Đong đầy tình yêu (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)
8. Khiêm nhượng (Lm. Trần Việt Hùng)
9. Đấng Messia (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
10. Làm chứng cho ánh sáng (Lm. Barnaba Lê An Phong, SDB)
11. Niềm vui đích thực phát xuất từ tâm hồn bình an (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
12. Chứng nhân trung thực (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
13. Làm chứng về ánh sáng (P.Trần Đình Phan Tiến)
14. Suy niệm Chúa Nhật 3 Mùa Vọng_B (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
15. Suy niệm Chúa Nhật III Mùa Vọng_B (Fx. Đỗ Công Minh)
16. Nhân chứng khiêm nhường (Trầm Thiên Thu)
17. Vậy ông là ai? (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
18. Làm chứng về ánh sáng. (JM. Lam Thy, ĐVD)
19. Tìm Chúa cho mình và cho người khác (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
20. Niềm vui (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
21. Niềm vui đang đến (Lm. Lu-y Nguyễn Quang Vinh)
22. Học sống trung thực với Gioan Tẩy Giả (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
23. Niềm vui của chứng nhân (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang)
24. Ánh sáng (Lm. Vũ Đình Tường)
25. Làm chứng về ánh sáng- (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
26. Vui luôn và mừng mãi (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
27. Niềm vui đích thực (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)
28. Hãy vui lên (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
29. Làm chứng về ánh sáng noi gương Gioan (Lm. Đan Vinh)
30. Suy niệm Chúa Nhật 3 Mùa Vọng_B. (Lm. Anthony Trung Thành)
31. Suy niệm Chúa Nhật III Mùa Vọng. Năm B (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
32. Vui mừng và chờ đợi (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)
33. Nhịp cầu yêu thương (Lm. Giuse Nguyễn)
34. Có người đượcChúa sai đến: Ông đến để làmchứng (Lm.Anphong NguyễnCông Minh, OFM)
35. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng_B (Lm. Antôn)
Tgm. Vũ Văn Thiên
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều chung một ý tưởng chính là diễn tả niềm vui của những ai tin vào Chúa. Niềm vui ấy lan tỏa trọn vẹn cuộc sống con người, đồng thời là động lực và sức mạnh giúp cho họ vươn lên giữa bao sóng gió của cuộc sống trần gian. Sắc màu lễ phục tím của Mùa Vọng không chỉ diễn tả sự sám hối, mà còn diễn tả niềm hy vọng. Khi chúng ta chờ đợi điều gì, chúng ta khấp khởi vui mừng vì thời gian càng trôi qua thì điều chúng ta chờ đợi càng đến gần. Chúa nhật thứ ba của Mùa Vọng là Chúa nhật của niềm vui, và chính chúng ta, các Kitô hữu được mời gọi để loan báo niềm vui tuyệt vời, đó là Chúa đang đến.
Bài đọc I diễn tả niềm vui và hứng khởi của vị Thiên Sai. Vị Thiên Sai là người được Chúa xức dầu và sai đi vào lòng thế giới. Ngài đến với muôn người, đi đến đâu là đem niềm vui và niềm hy vọng đến đó. Đấng Thiên Sai là người gieo mầm tin yêu: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân”. Dưới nhãn quan Kitô giáo, vị Thiên Sai mà ngôn sứ Isaia loan báo chính là Đức Giêsu Kitô. Trong cuộc viếng thăm quê nhà tại Nagiarét, Chúa Giêsu đã vào hội đường ngày Sabát và đọc đoạn sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta nghe hôm nay. Sau đó, trước sự ngỡ ngàng của những người đồng hương, Người tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe” (x. Lc 4,16-22). Trong suốt ba năm giảng dạy, Chúa Giêsu đã chứng minh và thực hiện những gì các ngôn sứ của Cựu ước đã loan báo. Người đến với muôn người, không loại trừ ai. Người đem cho họ niềm hy vọng vào tình thương diệu kỳ của Thiên Chúa.
Nhờ được xức dầu mà chúng ta được gọi là Kitô hữu. Nếu Chúa Giêsu đã tuyên bố tại Nagiarét: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe”, thì mỗi Kitô hữu hôm nay cũng có thể tuyên bố như vậy. Bởi lẽ, nhờ Bí tích Thanh tẩy, chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu. Nhờ được xức dầu, chúng ta được sai đi đến mọi chân trời để loan báo Tin Mừng. Mỗi Kitô hữu phải ý thức bổn phận loan báo Tin Mừng tuỳ khả năng và bậc sống của mình. Một cách cụ thể, tín hữu phải là người loan báo niềm vui. Thần Khí Chúa ngự trên chúng ta. Thần Khí là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng tác sinh và là Đấng ban cho con người niềm vui. Có sức mạnh của Thần Khí, con người không còn sợ hãi, không còn ủ dột lo buồn và bi quan thất vọng, nhưng chan chứa niềm vui vì có Chúa đồng hành với mình trên mọi nẻo đường của cuộc sống.
Mùa Vọng và Mùa Giáng sinh mời gọi các Kitô hữu nhìn nhận phẩm giá và sứ mạng của mình trong đời sống Đức tin. Họ là những người được Chúa gửi gắm sứ mạng loan báo niềm vui. Một người Kitô hữu ủ dột, buồn bã không thể diễn tả Đức tin Kitô giáo cách trọn vẹn. Thánh Phaolô nhắc các tín hữu Thessalônia phải luôn vui trong Chúa, mặc dù cuộc sống hằng ngày còn nhiều truân chuyên. Ngài cũng lưu ý họ đừng dập tắt Thần Khí, chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Một khi thành tâm lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần tự nơi sâu thẳm của tâm hồn, chúng ta sẽ biết đối nhân xử thế và biết lựa chọn những gì tốt đẹp cho cuộc đời. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng đã nhận định: “Mối nguy lớn trên thế giới hôm nay, một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng tham lam, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ” (Số 2). Để thoát khỏi tình trạng cô đơn khô cằn này, vị Chủ chăn của Giáo Hội Công giáo hoàn vũ mời gọi: “Tôi kêu mời mọi Kitô hữu ở khắp nơi, ngay lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ mới mẻ với Đức Giêsu Kitô, hay ít là mở lòng ra để cho Chúa Giêsu gặp gỡ mình; tôi xin tất cả anh chị em không ngừng làm điều này mỗi ngày. Không ai được nghĩ rằng lời mời gọi này không phải dành cho mình, vì không một ai bị loại trừ khỏi niềm vui mà Chúa Giêsu đem đến” (Số 3). Gặp gỡ Đức Giêsu để được hưởng niềm vui Người ban tặng, đó chính là thông điệp quan trọng của lễ Giáng sinh và Mùa Giáng sinh. Không tìm gặp Chúa Giêsu, cuộc sống người tín hữu sẽ trở nên khô cằn và vô nghĩa.
Một lần nữa, Tin Mừng Chúa nhật thứ ba Mùa Vọng lại nhắc đến nhân vật Gioan Tẩy giả với lời mời gọi khiêm nhường sám hối. Lời mời gọi của Gioan tẩy giả cũng đang được nhắn gửi đến với mỗi người chúng ta, nhờ đó chúng ta được hưởng niềm vui trọn vẹn. Nhân vật Gioan Tẩy giả cũng nhắc nhớ chúng ta, mỗi người hãy ra đi loan báo niềm vui mà mình đã cảm nhận khi thực hành chân lý đức tin. Biết bao người quanh ta chưa được một lần nghe nói về Chúa. Họ đang ao ước được gặp gỡ Ngài. Các tín hữu được sai lên đường đến với họ, mang cho họ tình thương, niềm vui, sự tha thứ, sự đỡ nâng và giải thoát. Niềm vui Giáng sinh phải được loan báo cho mọi người, vì đó là niềm vui cho cả toàn dân. Chân lý cứu độ phải được trình bày cho thế giới, vì Thiên Chúa muốn cứu vớt muôn loài. Chúng ta không chỉ giữ niềm vui Giáng sinh cho riêng mình, nhưng mỗi tín hữu phải là người tiếp nối sứ mạng đem tin vui ấy cho những người xung quanh. Người không cảm nhận được niềm vui thực sự của Đức tin trong tâm hồn và trong cuộc sống, không thể loan báo niềm vui cho người khác, và như thế, không thể trở thành chứng nhân của Chúa cho thời đại mình. Thánh Gioan Tẩy giả là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta: khiêm nhường, xác tín, can đảm và trung thành. Nhờ những đức tính này, chúng ta sẽ trở nên những sứ giả loan báo niềm vui.
Tuần 3 MV-B: Ga 1, 6-8.19-28
Lm Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc
Sống thật thà ngay thẳng, sống thân thiện, hài hoà với mọi người, có phải là ta đang thực thi đức công bằng trước lời răn dạy của tiền nhân không ? Được thành công, được hạnh phúc, là do ta khôn ngoan tài giỏi, hay bởi tình yêu thương của đấng bậc sinh thành chăm sóc dưỡng dục ? Vừa kinh nghiệm, vừa là truyền thống tốt đẹp người xưa nhắn gởi: không ai sống mãi trăm năm, thì xin hãy nhớ chữ tâm ở đời; không ai sống mãi muôn đời, chữ tình chữ nghĩa muôn đời còn ghi. Gioan năm xưa tại rừng sâu, ông xuất hiện trong tư cách là chứng nhân, ông không phải là sự sáng, nhưng ông quả quyết ông đến để làm chứng về sự sáng. Qua cách sống của Gioan, ít nhiều đã thu hút đám đông tìm gặp ông để thoả mãn tính hiếu kỳ, để xem ông làm chứng thế nào về sự sáng !
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê, đó là kinh nghiệm sống của bậc hiền nhân. Ở rừng sâu Gioan đã hô to, ông đã sống kham khổ, khắt khe với chính mình, để ông nghe, hiểu, Đấng đang đến và sẽ đến, ông đã làm chứng về sự sáng. Tại rừng sâu, Gioan đã tu thân tích đức, và rồi âm vang, đã đến với nhiều tâm hồn ở thành thị nông thôn, họ tìm ông xin thọ giáo. Gioan đã cho thấy một kinh nghiệm sống: tình yêu chân thật không phát xuất bởi lời nói ngọt ngào, đúng hơn là tuỳ thuộc vào việc làm tận tâm tận lực. Ngày hôm nay, chẳng ai còn thắc mắc sự sáng là gì, có cần thiết không ? Ngày hôm nay, âm thanh cuộc sống vẫn đang thôi thúc: nếu thiếu gương sáng, không ai có thể thu phục được con cháu, thiếu tình yêu chẳng ai dám hứa hẹn gì một cuộc sống ý nghĩa.
Sống chứng nhân, là hành động, là minh chứng bằng tình yêu, cho dù việc làm nhỏ bé, nhưng phải là chân thật, phát xuất từ trái tim. Gioan sống đạm bạt tại hoang địa, cùng “hiệp hành” với mọi người dọn lòng, cùng sửa chữa, và giúp đám đông tẩy rửa sám hối, chờ Đấng đang tới. Cha ông chúng ta có câu: đi một buổi chợ, học một mớ khôn. Có bao giờ chúng ta nói: đến nhà thờ, bằng niềm tin, tôi cảm nhận được Chúa yêu, và tâm hồn bình an. Sống chứng nhân, nét đẹp của niềm tin, vì nếu tình yêu chưa thấm nhập, làm sao Gioan đủ lập trường để nói: “tôi là tiếng kêu nơi hoang địa, hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo…”. Mỗi chúng ta có thể không giầu, không giỏi, không cần phải đến hoang địa tìm gặp Gioan, nhưng ai cũng có tự do đi vào sa mạc lòng mình, chứng minh niềm tin yêu Chúa sẽ đến.
Sống chứng nhân, dấu hiệu của sự sáng: “Gioan đến như chứng nhân để minh chứng về sự sáng, hầu mọi người nhờ ông mà tin”. Chính cuộc sống đơn giản tại hoang địa làm nên hình ảnh đạo hạnh, dám buông bỏ, Gioan đã thuyết phục được đám đông về sự sáng đang tới, Đấng mà muôn dân thiên hạ trông đợi. Với nhiệt huyết tông đồ, tinh thần khiêm tốn phục vụ, với niềm tin yêu, Gioan đã trở nên chứng nhân cho việc dọn đường, sửa tâm hồn chào đón Đấng đang đến. Cuộc sống như một chiếc gương, người ta chỉ nhận được kết quả tốt đẹp khi tự tin mỉm cười với nó. Cuộc sống đúng, đẹp, luôn phản ánh một sự thật: nếu chỉ hiểu biết, chưa đủ, mà ta phải đem “cái biết” áp dụng vào từng hoàn cảnh. Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, nếu chỉ nghe được tiếng hô vang hãy dọn rửa tâm hồn, còn thực tế vui buồn, sống chết, không quan tâm, quả là đáng tiếc.
Sinh ra là người dù bất toàn, ta vẫn có cơ hội để sống và sống thật ý nghĩa, đôi khi ta thành công, bình an, thu thập nhiều kiến thức, hoặc sâu thẳm nơi tâm hồn ta đang rạo rực tình Chúa tình người. Để xây dựng gia đình, giáo xứ, để anh chị em phản ánh được tình yêu của Đấng đang đến sẽ đến chính là Thầy, là Chúa và là Đấng cứu độ. Sống chứng nhân là sống tình thân ái trong Đấng đang đến sẽ đến, có thể môi trường sống của chúng ta khác nhau, hoặc sở thích, mơ ước cũng khác, ta vẫn có cơ hội để minh chứng Thiên Chúa cứu độ. Cha ông chúng ta nói: có người vừa gặp đã trở nên thân quen, có những người biết nhau lâu rồi vẫn trở nên xa lạ. Có người lần đầu tiên đến nhà thờ, họ đã thấy bình an và thực sự đã và đang là chứng nhân của tình yêu rồi.
Sống chứng nhân có phải là chấp nhận và hài lòng với những gì mình đang có không ? Người ta có chia sẻ về ngụ ngôn hai mẹ con chim như sau: để tránh giá rét mùa đông, hai mẹ con chim cõng nhau bay trên một khung trời bình an. Chim mẹ hỏi, mai này mẹ già và lúc đó con cũng có con, vậy con sẽ lo cho mẹ hay lo cho con của con ? Vâng, con sẽ chăm sóc con của con, có thể sự thật mất lòng, mẹ có buồn không ? Chim mẹ rất vui, vì nghĩ con của mình thực sự đang trưởng thành. Gioan rất vui vì tại rừng sâu, ông đã hướng dẫn, làm phép rửa thống hối, cho đám đông biết sự thật: ông không phải là Êlia, không phải là tiên tri, ông chính là tiếng kêu nơi hoang địa, người dọn đường cho Đấng đang đến. Mỗi người kitô hữu đều mang sứ mạng của Gioan, sống chứng nhân, cùng nhau sửa tâm hồn để Chúa đến, để cùng minh chứng sự sáng mà ta đã lãnh nhận.
SỐNG VUI SỐNG THẬT VỚI CHÚA VÀ VỚI CHÍNH MÌNH
Lm Ngọc Dũng, SDB
Phụng vụ hôm nay với bầu khí vui mừng được tô điểm bởi cây nến màu hồng của mùa vọng. Trong bài đọc 1, ngôn sứ Isaia nói về niềm vui của vị ngôn sứ được sai đi loan báo Tin Mừng. Niềm vui được xức dầu để trở nên người mang Tin Mừng tô điểm cho vẻ đẹp của phụng vụ hôm nay: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta” (Is 61:1-2a). Những lời trên nhắc nhở chúng ta về niềm vui được xức dầu trong ngày rửa tội để thuộc trọn về Chúa và trở nên sứ giả tình yêu của Ngài cho muôn dân. Niềm vui thuộc trọn về Chúa và của sứ giả Tin Mừng phải phản chiếu trong từng lời nói và hành động của chúng ta qua việc những ai gặp chúng ta đều cảm nhận được tình yêu, sự tha thứ và sự chữa lành của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhìn lại cuộc sống của mình, nhiều lần chúng ta xem việc thuộc trọn về Chúa và việc làm chứng nhân cho Tin Mừng là một gánh nặng. Thay vì sống niềm vui phục sinh, chúng ta lại sống mãi trong nỗi buồn và nước mắt của mùa chay. Hãy tô điểm khuôn mặt chúng ta với nụ cười tràn đầy niềm vui của những người được tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa chiếm lấy.
Bên cạnh mời gọi chúng ta sống niềm vui của những người được Thiên Chúa xức dầu hầu trở nên sứ giả của Tin Mừng, Ngôn sứ Isaia còn trình bày cho chúng ta biết niềm vui đích thật chỉ được tìm thấy nơi Thiên Chúa: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang. Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân” (Is 61:10-11). Trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ được vui mừng như những người đi dự tiệc cưới, như những người đang yêu, đang chờ đợi người yêu của mình. Thật vậy, không có gì mang lại niềm vui cho những người đang yêu cho bằng được nhìn thấy, được ở bên người yêu của mình. Niềm vui đích thật không bao giờ tàn của chúng ta chỉ được tìm thấy trong Thiên Chúa vì cuộc sống dạy chúng ta rằng tất cả những niềm vui mà thế gian này mang lại cho chúng ta chóng qua như làn gió thoảng.
Thánh Phaolô trong bài đọc 2 khuyên các tín hữu Thessalônika “hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5:16-18). Trong những lời này, Thánh Phaolô ám chỉ đến mối tương quan mật thiết giữa niềm vui và đời sống cầu nguyện. Nói cách khác, chỉ khi chúng ta có đời sống cầu nguyện thâm sâu, chúng ta mới có thể cảm nghiệm được niềm vui thật sâu kín trong tâm hồn mà dù hoàn cảnh sống có thế nào cũng không thể lấy đi niềm vui đó khỏi chúng ta. Không những thế, chính đời sống cầu nguyện sẽ giúp chúng ta nhận ra tất cả những gì xảy ra trong cuộc đời đều là hồng ân: dù vui dù buồn, dù mệt nhọc dù đau khổ, tất cả đều có mục đích làm chúng ta lớn lên trong đời sống tin yêu và tạ ơn. Bên cạnh khuyên các tín hữu Thessalônika những điều cần phải làm, Thánh Phaolô còn khuyên họ những điều cần phải tránh, đó là: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1 Tx 5:19-22). Sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần là luôn có con tim rộng mở và biết biện phân, biết chọn lựa những điều chân thiện mỹ. Cụ thể hơn, những người sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần là những người “chậm giận, giàu tình thương và lòng thành tín.”
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục trình bày cho chúng ta hình ảnh của Vị Tiền Hô: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1:6-8). Những lời trên chỉ rõ vai trò của Gioan là làm chứng về ánh sáng [Ngôi Lời]. Lời chứng của ông có mục đích rõ ràng là để mọi người tin. Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi làm chứng cho Chúa Giêsu. Mục đích lời chứng của chúng ta là làm cho người khác tin. Lời chứng này được thực hiện qua việc sống thật với chính mình như Gioan: Mình chỉ là người làm chứng, là người mang sứ điệp Tin Mừng chứ không phải là sứ điệp. Chỉ những người sống thật với ơn gọi, với căn tính của mình mới có thể trở nên nhân chứng đích thực cho Chúa Giêsu. Chúng ta thấy điều này rõ ràng trong lời chứng của Gioan. Thật vậy, lời chứng về ánh sáng của Gioan có liên quan đến sự thật về căn tính của Đấng Cứu Thế và của Vị Tiền Hô. Chúng ta có thể viết lại lời chứng của Gioan như sau:
Các tư tế và mấy thầy Lêvi: “Ông là ai?”
Gioan: “Tôi không phải là Đấng Kitô.”
Các tư tế và mấy thầy Lêvi: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không?”
Gioan: “Không phải.”
Các tư tế và mấy thầy Lêvi: “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?”
Gioan: “Không.” Các tư tế và mấy thầy Lêvi: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?”
Gioan: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói.”
Trong cuộc đối thoại trên, chúng ta thấy Gioan sống đúng với căn tính của mình, sống thật với con người của mình, không ngộ nhận mình với người khác. Điều này nhắc nhở chúng ta về khuynh hướng so sánh mình với người khác, muốn mình giống với người khác, nhất là những người may mắn hơn mình. Nhưng trong cuộc sống, Thiên Chúa tạo dựng mỗi người chúng ta là độc nhất vô nhị, không lặp lại trong vũ trụ này. Thiên Chúa yêu mỗi người chúng ta cách đặc biệt theo như mình là. Tại sao chúng ta lại cố gắng sống không thật với chính mình qua lời nói và việc làm? Sau khi làm chứng về căn tính của mình, Gioan làm chứng về công việc của mình cho họ như sau:
Mấy người thuộc phái Pharisêu: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?”
Gioan: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”
Qua những chi tiết trên, chúng ta thấy Gioan đã làm chứng cho Chúa Giêsu không chỉ bằng lời nói mà bằng chính hành động của mình. Điều đáng để chúng ta suy gẫm là việc làm chứng của Gioan xảy ra nơi Gioan làm việc: “Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa” (Ga 1:28). Chúng ta cũng được mời gọi làm chứng cho Chúa qua lời nói và hành động của mình trong mọi nơi và mọi lúc. Chúng ta chỉ làm được điều này khi chúng ta sống trong thái độ “sám hối liên tục,” đó là mỗi giây phút sống phải sống trong sự đổi mới của tâm hồn và tâm trí.
HƯỚNG NIỀM VUI VỀ NGUỒN HOAN LẠC CỦA MẦU NHIỆM GIÁNG SINH
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần III Mùa Vọng, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin cho mình: biết hướng niềm vui về chính nguồn hoan lạc của Mầu Nhiệm Giáng Sinh, để tâm hồn chúng ta được hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề.
Chúa Nhật Tuần III Mùa Vọng là Chúa Nhật Áo Hồng, Chúa Nhật Mừng Vui, với khung cảnh phụng vụ bừng sáng. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Isaia đã cho thấy niềm vui của Ítraen, khi Chúa dùng vua Kyrô để giải thoát Dân của Người. Thánh Lêô Cả, trong bài đọc hai Kinh Sách cho chúng ta thấy một niềm vui cao cả khác, đó chính là niềm vui vì Đức Kitô sẽ ngự xuống, đem ơn cứu độ cho trần gian. Đấng Cứu Độ mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta, bởi vì, toàn thể nhân loại sẽ vẫn còn bị giam cầm dưới ách nô lệ ma quỷ và cũng chẳng được hưởng gì do chiến thắng của Đấng đã khải hoàn, nếu như chiến thắng ấy đã diễn ra bên ngoài bản tính nhân loại của chúng ta.
Chúa Nhật Tuần III Mùa Vọng được gọi là Chúa Nhật Gaudete, bởi vì, “Gaudete” là từ đầu tiên của Ca Nhập Lễ, được trích từ Pl 4,4-5: Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại: Anh em hãy vui lên! Vì Chúa đã đến gần. Cũng vậy, trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ Isaia đã bày tỏ niềm vui của mình: Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang.
Bài Đáp Ca là tâm tình vui mừng hớn hở của Đức Maria qua kinh Magnificat: Nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Trong bài đọc hai, thánh Phaolô cũng kêu gọi các tín hữu Thêxalônica: Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu.
Câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay cho thấy: Tin Mừng cứu độ là một ân huệ nhưng không, Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người, kể cả những con người bé mọn, cho nên, Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Đây quả là một tin vui, một niềm vui cao cả.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Niềm vui của ông Gioan Tẩy Giả không phải là niềm vui vì được mọi người ca tụng, nể trọng: coi ông là Đấng Kitô, ông Êlia, hay một ngôn sứ nào đó. Ông đều nhất loạt chối từ những gì người ta gán ghép cho mình, ông chỉ nhận mình là người dọn đường cho Đấng, mà ông không đáng cúi xuống: cởi quai dép cho Người. Niềm vui của Gioan là niềm vui của chàng phù rể đứng bên cạnh chú rể. Ông đã biết hướng niềm vui của mình về chính nguồn hoan lạc của Mầu Nhiệm Giáng Sinh: Có một Đấng đang ở giữa các ông, mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.
Chúng ta muốn có được một tâm hồn hoàn toàn đổi mới, để họp mừng ngày cứu độ gần kề, chúng ta cũng phải biết hướng niềm vui của chúng ta về chính nguồn hoan lạc của Mầu Nhiệm Nhập Thể: Thiên Chúa đã đến cắm lều ở giữa chúng ta, mang lấy thân phận yếu hèn của chúng ta. Người đã trở nên nghèo khó, để lấy cái nghèo của mình, mà làm cho chúng ta trở nên giàu có. Thiên Chúa đã chọn con đường nhập thể, tự hủy, hóa mình ra không, để cứu độ chúng ta. Có đau khổ nào của chúng ta, mà Người đã không kinh qua; có nỗi nhục nhã nào của chúng ta, mà Người đã không hứng chịu. Do đó, chúng ta hãy can đảm lên, đừng sợ! Này Thiên Chúa chúng ta sẽ ngự đến cứu độ chúng ta, như lời Ca Hiệp Lễ mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay.
Lm. Jos DĐH.
Sống nơi trần thế, có ai ước mơ mình sẽ làm thân trâu ngựa không ? Cũng chẳng ai muốn chọn cho mình cái nghiệp làm người phu quét lá ! Có chăng, một số không ít vẫn đang mơ tưởng tôi sẽ là người nổi tiếng, hoặc là con cháu đại gia. Cha ông chúng ta có câu: thà rằng ăn bát cơm rau, còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời. Xuân Diệu thì nói: thà rằng được phút huy hoàng rồi vụt tắt, còn hơn phải lẻ loi buồn tủi suốt cả đời. Người trẻ hôm nay họ vẫn ca thán: lúc còn bé, cứ nghĩ đến thuốc là thấy đắng, lớn lên mới biết có những thứ còn đắng hơn thuốc. Vâng, mâu thuẫn ở đời, nghịch lý ở chính mình, có những lúc người ta nhẹ nhàng khiêm tốn nói rằng: hãy là người bình thường, nhưng không được tầm thường. Có những lúc lại mạnh mẽ cho rằng: phải phấn đấu để trở thành vĩ đại, nhưng đừng mơ ước là kẻ phi thường, bất thường.
“Có người được sai đến trần gian, ông không phải là sự sáng, nhưng ông ý thức ông có sứ mạng làm chứng về sự sáng”. Đúng, Gioan không màng danh lợi thú, ông nào thích thú ẩn mình nơi rừng sâu để tìm kiếm sự an toàn cho bản thân ? Tuy nhiên, ông ý thức ông chính là tiếng kêu nơi hoang địa, ông chắc chắn ơn gọi của ông là tiếng kêu sửa đường, dọn lòng, giúp đám đông gặp gỡ lòng thương xót của Đấng đến sau ông. Nếu sống cùng thời, liệu bạn có tìm đến sông Giođan không, tôi và bạn sẽ bịt tai, nhắm mắt, để khỏi phải nghe, và làm ngơ trước diễn biến của thời đại ? Nếu đức độ, tiếng tăm lừng lẫy, có khả năng hô vang khắp núi rừng, khắp thành thị như Gioan, bạn có đủ khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu nơi hoang địa, giúp mọi người chịu phép rửa thống hối ăn năn không ?
Nếu hỏi, bạn có ước muốn trở nên vĩ đại, trở nên người nổi tiếng, xem ra sẽ thu hút, và nhiều đối tượng quan tâm hơn. Hãy khiêm tốn, hãy đi sâu vào cõi lòng, hầu có thể nghe tiếng hô, tiếng gọi, cảm nhận tốt hơn và rõ ràng nhất, việc tẩy rửa tâm hồn đón chờ ngày Chúa đến. Gioan, có phải ông muốn được trở nên người bình thường không, trong khi bậc hiền tài họ tìm đến thành thị, họ hoạt động và thu hút đám đông, rồi trở nên nổi tiếng, còn ông lại tìm đến sa mạc ? Ông trả lời, ông chỉ là tiếng kêu nơi hoang địa, ông chỉ ước muốn trở nên người bình thường ư ? Ấy vậy mà đấng bậc khôn ngoan vẫn quả quyết: người có đức độ, có tâm có tầm, dù ở chốn rừng sâu vẫn được người tìm đến, kẻ vô tài, thất đức, dù ở ngay giữa phố chợ, mọi người vẫn dửng dưng !
Hãy trở nên bình thường, để không bị xem là bất thường, hãy sửa đường Chúa đi, dọn mối tơ lòng, để rồi không ai phải phân bua vì tai không nghe, mắt không thấy, tâm trí bị sự xấu lôi kéo ! Hãy trở nên bình thường, để không phải bận tâm kiếm tìm chức danh bổng lộc, nhưng là biết chuẩn bị tâm hồn đón Chúa, và sống thánh ý Chúa cách xứng hợp hơn. Nhiều người hôm nay vẫn đang nói: nổi tiếng hay tai tiếng đều đáng sợ, vì tại vạch xuất phát không có kẻ thắng thua, dù bạn có tài giỏi hoặc rất bình thường, cũng vậy thôi, điều quan trọng là điểm đến của bình an hạnh phúc nơi bạn thế nào.
Tại hoang địa hôm xưa, có phải người bình thường họ không “lăn tăn”, không thắc mắc, về đấng làm phép rửa bày tỏ lòng thống hối ; kẻ không bình thường mới đặt câu hỏi hết sức vô duyên, thế ông ai, tai sao làm phép rửa ? Hãy trở nên khiêm tốn, để bạn không cần phải lượng định yêu, ghét, không phải lý sự tại sao: nên yêu người bình thường, để bạn thấy mình được tôn trọng, còn hơn yêu một người quá nổi tiếng, để rồi nguy cơ bạn bị đánh giá là kẻ tầm thường. Hãy trở nên bình thường, bạn sẽ hiểu khiêm tốn là gì, và biết nói sự thật như Gioan: “tôi là tiếng kêu nơi hoang địa, hãy sửa cho ngay đường Chúa đi”. Yêu thật, nói thật, sống thật, trở nên sự sáng thật, trở nên nhân chứng thật cho tình yêu, bạn sẽ cảm nhận được giá trị cuộc sống: càng trưởng thành, ta càng biết thực hành cả những thứ, những việc, mình không ưa thích.
Tiếng kêu nơi hoang địa, lời vang vọng sửa đường, sửa lối, để đón Chúa vẫn thiết thực: “tôi làm phép rửa trong nước, nhưng giữa các ngươi có Đấng mà các ngươi không biết ; chính Đấng ấy có trước tôi, tôi không đáng cởi giây giầy cho Người”. Để trở nên nhỏ bé đơn sơ, trở nên một thành viên bình thường nơi gia đình giáo xứ, nơi gia đình hội thánh, mỗi người phải từ bỏ được cái tôi ích kỷ, và mặc được tinh thần của Gioan: cùng hô to, cùng sửa tâm tính, cùng làm chứng cho sự sáng. Thế gian có thể sẽ còn chê cười, nếu mỗi chứng nhân của Chúa chỉ hô to và dừng lại ở lý thuyết: có đỏ mà chẳng có thơm, như bông dâm bụt, nên cơm cháo gì ? Đám đông năm xưa rất vui vì có vị tiền hô dẫn đường chỉ lối, ông Giaon rất mừng, vì có nhiều người khao khát được cùng sám hối, được trở nên bình thường bé nhỏ trong tình yêu của Đấng đang đến, sẽ đến. Amen.
Jorathe Nắng Tím
Vì trông đợi Đấng Cứu Độ, Đấng đến để giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ của Thần Dữ, khỏi xiềng xích của tội lỗi, khỏi cảnh bị hành hạ, đàn áp bất công, khỏi tình trạng “mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé” nên Mùa Vọng là muà của niềm vui hy vọng được cứu thoát, được trả tự do, đuợc nhận lại quyền sống của con người, và quyền hưởng hạnh phúc Nước Trời của con Chúa ; vì trông mong Đấng là Nguồn Vui ơn cứu rỗi, là Nguồn mọi sự thánh thiện và ơn phúc, mà tâm hồn trông đợi trong Mùa Vọng được Thiên Chúa mặc cho áo “hồng ân cứu độ”, và choàng cho “đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang” (Is 61,10).
Như gương mẫu lý tưởng của những người đi theo Đức Giêsu, Đức Maria là người Kitô hữu đầu tiên đã sống niềm vui trông đợi Đấng Cứu Thế của Mùa Vọng, khi cất tiếng Ngợi Khen : “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới ; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,46-49).
Đức Mẹ đã sống Mùa Vọng tuyệt vời của người nữ tỳ nghèo hèn tuyệt đối tín thác vào ông chủ là Thiên Chúa, và luôn khiêm tốn, nhưng tinh tế nhận ra những điều cao cả Thiên Chúa thực hiện trên phận hèn nữ tớ của mình.
Niềm vui trông đợi Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ của Đức Maria, người Kitô hữu đầu tiên, vì Mẹ là người thứ nhất được mang Đức Kitô trong cung lòng và “sống Đức Kitô” suốt cuộc đời đã tuôn tràn xuống tâm hồn tất cả các Kitô hữu khác, đang khi họ trông đợi Đức Giêsu trở lại trong vinh quang, điều mà thánh Phaolô tông đồ không ngừng nhắn nhủ các giáo đoàn : “Anh em hãy vui mừng luôn mãi” (1 Tx 5,16).
Nhưng niềm vui của muà trông đợi Chúa Cứu Thế không là niềm vui của thế gian, niềm vui tìm kiếm từ bản năng, niềm vui bắt nguồn từ tội lỗi mà hậu qủa tất yếu của những niềm vui ấy là hủy hoại, tàn phá, tiêu diệt. Trái lại, niềm vui bắt nguồn từ Thiên Chúa, niềm vui đến từ Thánh Thần, nên hoa trái đem lại sẽ là chính Thiên Chúa, Nguồn Vui bất tận, Nguồn Mạch Bình An, Hạnh Phúc viên mãn, đời đời.
Và để niềm vui của Tin Mừng không bao giờ tàn phai, như Thánh Thần không bao giờ bị dập tắt, người Kitô hữu được Thiên Chúa mời gọi : “cầu nguyện không ngừng và tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”, bởi “đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5,17-18).
Cầu nguyện để Niềm Vui từ trái tim Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ giầu lòng thương xót chảy vào cuộc đời luôn cần lòng thương xót của chúng ta ; cầu nguyện để Niềm Vui của Thánh Thần Tình Yêu làm tràn đầy trái tim trống vắng, non nớt, yếu đuối, hay hoảng hốt, lo sợ, nghi nan, thất vọng của chúng ta trước thử thách ; cầu nguyện để Niềm Vui từ Lời Hứa của Thiên Chúa hướng dẫn và nâng đỡ hành trình trông đợi của chúng ta ; cầu nguyện để trong mọi hoàn cảnh, đời chúng ta mãi là tiếng hát Tạ Ơn, bài ca Tán Tụng, thi thơ Ngợi Khen “Đấng Tòan Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn. Lòng thương xót Người trải qua từ đời nọ đến đời kia với những ai kính sợ Người” (Lc 1,49-50), trong Niềm Vui của Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Xin Chúa ban cho mỗi người được từng ngày sống niềm vui của người môn đệ luôn tín thác trông đợi vào Lời Hứa được Thiên Chúa yêu thương, cứu độ.
Lm. Thái Nguyên
Suy niệm
Theo tâm lý chung, ai cũng có nhu cầu muốn khẳng định về chính mình để được người khác công nhận, được quí trọng, nhất là nhu cầu thể hiện bản thân (self – actualization). Đây là nhu cầu cao nhất trong năm nhu cầu cơ bản được hệ thống hóa do Abraham Maslow. Tuy nhiên, nhu cầu này có thể đi quá đà, tạo nên một sự lệch lạc nhân cách, có thể trở thành bệnh hoạn trong thế giới ảo, vì không nhận ra sự thật về chính mình cũng như những giá trị cốt lõi làm nên cuộc sống.
Cách riêng là tuổi trẻ, những người thích đánh bóng và tạo hào quang cho mình: hay thổi phồng bản thân mình, muốn nêu cao hơn những gì mình có, muốn biểu hiện hơn những gì mình là, để được mọi người nể nang và khâm phục. Tuổi trẻ sợ nhất và ghét nhất là thấy người khác coi thường mình, nên càng cương cố để thể hiện bản lãnh và đẳng cấp của mình bằng mọi giá. Nhưng càng làm thế lại càng không trung thực với lòng mình, càng trở nên giả tạo với người khác.
Nói chung, ai cũng dễ bị áp lực tâm lý do chính mình tạo nên, là sự thúc đẩy muốn thổi phồng bản thân để tìm sự công nhận của người khác. Đó là thái độ “ăn gian”, vì sợ mình không được yêu, không được đánh giá cao, nên cứ phải “trang điểm” cho mình bằng những cung cách hay những thứ bên ngoài như tài năng, bằng cấp, địa vị… thậm chí bằng cả đức độ. Dùng những thứ ngoại thân để thay thế bản thân là điều giả tạo. Sống như vậy là sống ảo. Triết học gọi đó là “vong thân”.
Hôm nay, Phúc Âm đưa ra một mẫu người dám sống trung thực với lòng mình, với Chúa và tha nhân. Đó là Gioan tẩy giả, một con người có uy thế lớn lao trước mặt mọi người. Đáng lẽ ông phải thừa cơ hội này để lãnh đạo dân Do thái, là những người đang suy tôn và ngưỡng mộ ông như một Đấng cứu thế. Ông đã không làm như thế, trái lại, còn khiêm tốn nói lên sự thật rất nhỏ bé về bản thân mình: không những không phải là Đức Kitô, không phải Êlia, cũng không phải ngôn sứ, mà chỉ là tiếng hô trong hoang địa để dọn đường cho Đấng cứu thế đến. Trước bao nhiêu tước hiệu cao quí và lòng kính trọng mà người ta dành cho ông, ông đều phủ nhận. Ông còn tự nhận mình là không đáng cởi quai dép cho Đức Giêsu.
Qua lối sống khổ hạnh, qua tính cách thẳng thắn, và qua lời chứng chân thật, Gioan cho người khác thấy được giá trị xác thực của mình chỉ là vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế. Hành động như thế, ông mất đi vị thế của mình trong lòng người khác, xem ra là điều dại dột trước mặt người đời, nhưng ông biết đó chỉ là vị thế mà dân chúng gán cho. Là người sống chân thật nên Gioan mới có thể làm chứng cho sự thật. Sự thật đã giải thoát ông khỏi định kiến của dân chúng và đưa họ đến với sự thật là Đức Giêsu. Khi Ngài xuất hiện, Gioan liền rút lui vào hậu trường. Ông biết mình phải nhỏ xuống để Đức Giêsu lớn lên. Ông nhận mình là tôi tớ để Đức Giêsu là người chủ. Ông đặt mình vào vị trí của cây đèn, để Đức Giêsu là ánh sáng. Ông cho mình là tiếng kêu để Đức Giêsu là Lời hằng sống. Ông buông xả tất cả trong bình an, và hạnh phúc vì đã hoàn thành sứ mạng làm nhân chứng.
Như Gioan, ơn gọi của mỗi người chúng ta cũng chính là chứng nhân cho Đức Kitô. Cha Teilhard de Chardin đã ví von thật sống động về cuộc người Kitô hữu như sau:“Ánh sáng xuyên qua những áng mây, người ta đoán biết là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng đoán biết được có Đức Kitô”.
Ước chi đời nhân chứng của chúng ta cũng giống như Goan Tẩy giả, dám sống hồn nhiên, đơn sơ, chân thật, nhất là dám nhỏ xuống để Đức Kitô được lớn lên trong lòng người. Ta đừng sợ phải nhỏ xuống, vì khi Đức Kitô lớn lên trong ta thì ta lại được lớn lên trong Ngài. Nhờ vậy, khuôn mặt Đức Kitô lại càng chiếu sáng trên cuộc đời của chúng ta, và qua chúng ta, niềm vui ơn cứu độ lại tràn đến mọi người.
Suy niệm
Lạy Chúa!
Tuổi trẻ hay có ảo tưởng về thần tượng,
nên muốn trở nên một nhân vật lý tưởng,
cũng vì đó mà thường sống trên mây gió,
rồi cũng mau tụ mau tan như gió mây.
Con cũng hay ảo tưởng về danh vọng,
cứ tưởng mình là người thật cao trọng,
thấy nhan sắc và tài năng mình hiếm có,
nên con hay chảnh chẹ và chém gió,
chụp hình lên mạng để “câu like”,
tự phong mình là hot girl hay hot boy,
rồi ngang nhiên bước vào showbiz,
làm một cuộc thi để “hai lúa” đổi đời,
để được ca ngợi và chói ngời danh tiếng,
đến nỗi cũng chẳng sợ làm điều tai tiếng.
Con cũng có cảm tưởng mình không đủ,
nên con rất ham mê quyền sở hữu,
vì con nghĩ càng sở hữu càng phong phú,
nhưng rồi lần hồi con mới thấy mình ngu,
vì giá trị đời con ở chỗ chính mình là,
chứ không phải ở những gì mà mình có.
Con cũng ảo tưởng mình luôn luôn đúng,
đâu ngờ rằng đầy dẫy những cái sai,
đem lại bao nhiêu điều tai hại,
mà cứ tưởng là xây đắp tương lai.
Con cũng tưởng mình là trung tâm vũ trụ,
nên thích làm cha chú và lên mặt dạy đời,
không những thế còn lắm lời đạo đức,
nhưng rồi ai cũng biết không trung thực.
Xin Chúa giúp con mau tỉnh thức,
biết nhận ra sự thật của bản thân,
để hoán cải và đổi mới tinh thần,
đừng sống theo kiểu cách của thế nhân,
nhưng sống chân thành theo thực chất,
để tìm lại bình an và thống nhất đời mình. Amen.
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Hôm nay gọi là Chúa Nhật Hồng. Giáo hội bảo chúng ta hãy vui lên vì Chúa đến rồi. Hãy ra nghênh đón Người. Nhưng Chúa đến bằng cách nào? Làm sao nhận ra Chúa ở giữa chúng ta?
Năm xưa bên dòng sông Giordan, Thánh Gioan đã từng nói: “Người đang ở giữa các ngươi” (Ga, 1,26), và ngược dòng lịch sử Tiên tri Isaia đã mô tả về hoạt động của Đấng Messia:
Người sẽ “đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. (Is 61,1)
Lời tiên báo của Isaia đã được ứng nghiệm. Và Đấng làm chủ lịch sử đã đến ở giữa dân Người, nhưng đáng tiếc : “Người đang ở giữa các ngươi, mà các ngươi không biết”.(Ga, 1,26)
Sở dĩ người Do Thái đã không nhận ra Người, vì họ tự phác họa cho mình về một Thiên Chúa theo ý họ. Một Thiên Chúa ở giữa họ có thể đánh Đông dẹp Tây! Một Thiên Chúa quyền uy đầy nghiêm khắc. Một Thiên Chúa thiết lập vương triều đầy dũng lực để đưa đất nước họ giầu sang và thịnh vượng.
Đấng Messia đã đến trong khiêm hạ nơi hang đá thành Belem. Ngài lớn lên nơi miền núi Nagiaret. Ngài sống ẩn dật trong nghề thợ mộc giữa dân nghèo. Dấu chỉ duy nhất mà Ngài đã tỏ bày về thân phận Đấng Messia chính là: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.
Cuộc đời chúng ta là một mùa vọng. Ngày nào Chúa cũng có thể đến với chúng ta. Lúc nào Chúa cũng có thể ngỏ lời cùng chúng ta. Vì vậy, hãy tỉnh thức. Vì Chúa sẽ không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một ánh mắt cảm thông. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Hãy tạ ơn Chúa qua những con người đang sống với chúng ta, đang hy sinh vì chúng ta. Hãy tạ ơn Chúa vì chúng ta luôn được sống trong tình nghĩa thằm thiết của những người thân bên cạnh chúng ta. Họ chính là hiện thân của Chúa để mang lại tình yêu thương hạnh phúc cho chúng ta.
Bên cạnh đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Đó chính là lòng bác ái, là tình yêu thương. Đây là hiệu kỳ của người ky-tô hữu, là căn tính của người môn đệ Chúa Ky-tô, vì “người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy. Đó là các con hãy thương yêu nhau”. Đặc biệt trong mùa này, mùa tình yêu, mùa của chia sẻ và trao ban. Vâng, lễ giáng sinh chính là lễ của tình yêu. Thiên Chúa mang lấy thân phận một hài nhi yếu đuối đang cần chúng ta chăm sóc. Ngài đang cần chúng ta tái diễn tình yêu của Ngài cho những người đau khổ, nghèo đói, tật nguyền. Ngài đang cần đôi tay của chúng ta để Ngài băng bó vết thương cho trần thế. Ngài đang cần đôi chân chúng ta để Ngài lại có thể ra đi đến với những ai đang thất vọng sầu khổ. Và Ngài cũng cần trái tim của chúng ta để Ngài lại có thể cảm thông, chia sẻ với những ai bất hạnh đang mang nặng gánh đau thương. Đây cũng là phương thế để chúng ta dọn đường cho Chúa đến với nhân thế hôm nay.
Xin Chúa chúc lành cho những dự định, ước mơ và công việc của chúng ta ngõ hầu người ta sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Thầy Chí Thánh Giê-su. Amen
Anna cỏ may
“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan.
Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.
Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1, 6-8).
Ông Gioan được sai đi để dọn đường cho Chúa Giêsu ngự đến. Đang lúc ông làm sứ vụ thì một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?”. Ông tuyên bố thẳng thắn rằng: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không?” Ông nói: “Không phải” – “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không”. Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?” Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói”. Đến lượt những người thuộc nhóm Pharisêu đến hỏi ông: “Vậy tại sao ông không làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” Ông trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (x. Ga 1, 19-27).
Ông Gioan đã khiêm tốn nhận mình là người không đáng cởi quai dép cho Chúa. Ông tự do sống trong thân phận là người dọn đường cho Chúa, là người phục vụ Chúa. Ông đã sống theo lời mời gọi của Thiên Chúa là ra đi dọn đường cho Chúa và làm chứng về Ánh Sáng. Ông ra đi mà không nghĩ tới điều gì khác ngoài việc Thiên Chúa phải lớn lên và mình phải nhỏ lại. Ông cũng chẳng thần tượng một ai ngoài Thiên Chúa của mình. Nhìn lại chính mình, chúng ta là người được mời gọi dọn đường cho Chúa đến, bởi chúng ta đã lãnh Bí tích Rửa tội. Theo thời gian, chúng ta đã để cho mình rơi vào muôn nẻo đường thế gian: đường danh vọng, đường tiền tài, đường tình, đường đau khổ và còn nhiều con đường khác. Những con đường đó làm ta lạc xa đường Chúa. Chúng ta mang danh là người có đạo nhưng trong lòng lại thiếu vắng Chúa. Vì vậy, trong Mùa Vọng này, chúng ta hãy dọn chính con đường chúng ta đang đi để đón Chúa đến trong tâm hồn mình. Nếu không, chúng ta sẽ phải thốt lên rằng “giá mà !”. “Giá mà” tôi cho đi thì hay biết mấy, giá mà tôi tha thứ thì tôi không khốn khổ như vậy. Thiên Chúa luôn yêu thương tất cả mọi người. Ngài luôn luôn cho chúng ta có cơ hội để trở về (x. Lc 15, 11-32). Phần chúng ta, chúng ta có dám dọn đường, có dám trở về với Thiên Chúa và với chính mình không? Điều gì đang ngăn cản chúng ta trở về? Nếu bạn không trở về được hãy kêu lên cùng Thiên Chúa, Ngài sẽ giúp bạn trở về. Ngài sẵn sàng lắng nghe tiếng bạn kêu xin. Ngài đã hứa: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì bất cứ ai xin thì sẽ nhận được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ cửa sẽ mở cho” (Mt 7,7).
Lạy Thiên Chúa, chúng con là những người con đang lầm lạc. Xin giúp chúng con biết tránh xa những thế lực của ma qủy đang vây bủa và xiết chặt chúng con. Xin cho chúng con can đảm mở miệng kêu xin lên Chúa. Nhờ ơn Chúa giúp, chúng con mau mắn dọn tâm hồn đón Chúa ngự đến. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
Thiên San
Có bao giờ ta tự hỏi: “Tôi là ai?”? Có thể, một số người cho rằng câu hỏi này chẳng có gì khó khăn. Bởi nếu tôi không biết “tôi là ai” thì còn ai biết nữa. Nhưng thật sự, đó là một câu hỏi khó. Bởi, nó buộc ta phải đi vào lòng mình, phải có sự hiểu biết sâu xa về chính mình, thường xuyên nhìn lại mình. Làm sao có thể có được sự hiểu biết ấy nếu chúng ta không sống trong tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Đàng khác, chúng ta không thể là người đích thực nếu chúng ta không có tương quan.
Gioan Tẩy Giả là người được Thiên Chúa tuyển chọn làm người dọn đường cho Chúa Cứu Thế. Ông có một sự hiểu biết sâu xa về chính mình nhờ sống trong Thánh Thần. Hiểu biết chính mình là hiểu biết về con người, sứ mạng của mình. Nhìn về Gioan Tẩy Giả, chúng ta được mời gọi ý thức về căn tính và sứ mạng của mình. Vậy, làm sao ta có được sự hiểu biết sâu xa về chính mình, làm sao để ta trả lời được câu hỏi: “Tôi là ai?” ?
Khi đến trong trần gian này, mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa trao cho một sứ mạng. Đối với những Kitô hữu, tất cả được mời gọi làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Tin Mừng kể lại, ông Gioan đến để làm chứng về ánh sáng, ông không phải là ánh sáng (x.Ga 1,7-8). Trong cuộc sống, có nhiều lúc chúng bị cám dỗ, coi mình là trung tâm, là cái dốn của vũ trụ. Sự ảo tưởng làm ta quên mất chỗ đứng của mình, quên mất mình là ai. Là người làm chứng, chúng ta chẳng có gì để huênh hoang, tự đắc. Thái độ cần có hơn cả là sự khiêm tốn. Chẳng hạn, khi công việc tông đồ thành công, chúng ta cần khiêm tốn để nhận ra chính Chúa mới là Đấng giúp ta hoàn thành, và ta chỉ là khí cụ Chúa dùng. Đừng để những lời tán dương, ca ngợi của người đời làm ta quên mất nhiệm vụ chính yếu là rao truyền tình thương, làm chứng cho Thiên Chúa, miễn sao cho “Danh Cha được cả sáng”. Khi được hỏi: “Ông là ai?, “ông nói gì về chính ông?”, Gioan Tẩy Giả đã trả lời dứt khoát: “Tôi không phải là Đấng Kitô”, “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói” (x. Ga1,20,23).
Khi sống trong Thánh Thần, chúng ta sẽ biết về chính mình rõ hơn. Đặc biệt là biết về sứ mạng Thiên Chúa dành cho ta. Ông Gioan được đầy tràn Thánh Thần ngay từ trong lòng mẹ. Chúng ta cũng được đầy tràn Thánh Thần trong ngày chịu phép Rửa tội, phép Thêm Sức. Bằng đời sống của mình, chúng ta hãy hô lên cho mọi người biết rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần, hãy dọn đường cho Chúa. Tiếng hô ấy sẽ cụ thể và rõ ràng hơn khi chính chúng ta là người tiên phong trong việc “dọn đường” cho Chúa đến. Ngay từ bây giờ, mỗi chúng ta cần tập cho mình thói quen duyệt xét lại ngày sống, nghĩa là thực hiện thường xuyên việc hồi tâm. Trong kiên trì của bản thân và nhờ ơn Chúa, chúng ta sẽ ngày càng hiểu rõ về mình, về sứ mạng ta đang thực hiện, nhất là sự hiểu biết về Thiên Chúa. Chính khi ấy, ta sẽ biết cách sống tương quan với tha nhân. Khi sống triển nở trong ơn gọi, trong việc làm chứng cho Chúa, chúng ta sẽ sống thật sự là người hơn. Câu hỏi: “Tôi là ai?” sẽ được giải đáp.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Với Chúa Nhật III Mùa Vọng, chúng ta đang tiến gần tới đại lễ Giáng Sinh. Khắp nơi đã bừng lên bầu khí Giáng Sinh với việc trang hoàng hang đá, cây thông, đèn điện nơi thành phố cũng như thôn quê. Tất cả đều diễn tả niềm vui Giáng Sinh.
Cùng với bầu khí đó, theo truyền thống, Chúa Nhật III này được gọi là Chúa Nhật của niềm vui: “Gaudate in Domino Semper – Hãy vui luôn trong Chúa.” Lời Chúa mời gọi chúng ta suy tư về chủ đề xuyên suốt các bài đọc: “Chứng nhân cho niềm vui.”
1- Tiên báo và chứng nhân niềm vui
Trong bài đọc I, trích sách tiên tri Isaia, Đấng Mêsia được miêu tả như là người được xức dầu bởi Thần Khí và được sai đi để làm chứng nhân cho niềm vui cứu độ. Nhờ việc xức dầu và sai đi này, Đấng Mêsia đến để “loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa” (Is 61,1-2). Như thế, theo lời ngôn sứ,
Đấng Mêsia là người mang niềm vui của Thiên Chúa cho nhân loại.
Tin Mừng giới thiệu Gioan Tẩy Giả là chứng nhân cho ánh sáng và niềm vui. Ánh sáng và niềm vui đó chính là Chúa Giêsu. Ông xuất hiện như một dấu hỏi lớn cho dân chúng. Người ta cứ tưởng ông là Đấng Kitô. Nhưng ông thẳng thắn trả lời: Tôi không phải là Đấng Kitô. Tôi chỉ là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người (x. Ga 1,19-28).
2- Chúa Giêsu, niềm vui đích thực
Như thế, những lời tiên báo của Isaia nay đã được ứng nghiệm. Đấng Mêsia mà dân Chúa đang mong đợi chính là Đức Giêsu, Người mang niềm vui và chính là niềm vui của Thiên Chúa. Thật vậy, Con Thiên Chúa làm người là Tin Mừng lớn nhất cho nhân loại. Người đến để giải thoát con người khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi và mang lại ơn cứu độ cho mọi người. Đó là niềm vui lớn lao nhất! Bởi thế, giáo phụ Origene quả quyết: Chúa Giêsu vừa là Tin Mừng, vừa là nội dung Tin Mừng.
Chúng ta cần suy tư xa hơn: ơn cứu độ mà chúng ta có được không phải nhờ những thành tựu khoa học, kỹ thuật, cũng không phải do của cải vật chất, hay ý thức hệ mang lại, nhưng một cách chính yếu, là do ân sủng của Thiên Chúa ban tặng qua Đức Kitô. Thế nên, Kitô giáo căn bản là “tin mừng” hay “tin vui,” dẫu một số người như Nietzche cho rằng Kitô giáo là sự cản trở niềm vui, bởi vì họ thấy trong đó một loạt những điều cấm chế và luật lệ. Trong thực tế, Kitô giáo là lời loan báo về chiến thắng của ân sủng trên tội lỗi, về sự sống trên sự chết. Và nếu Kitô giáo đòi hỏi sự hy sinh và kỷ luật của lý trí, con tim và cách hành xử, điều đó là chính đáng, bởi vì trong con người luôn có những gốc rễ ích kỷ và độc tố tội lỗi vốn làm cho chúng ta phải buồn phiền vì đánh mất niềm vui đích thực.
Như thế, Chúa Giêsu là niềm vui của nhân loại, là niềm vui của Hội Thánh và của mỗi người chúng ta. Niềm vui đó phát xuất từ trong sâu thẳm nhất của con người, mà không có gì và không ai có thể lấy đi được. Chúng ta được mời gọi chia sẻ niềm vui này với mọi người.
3- Làm sao để làm chứng cho niềm vui
Tuy nhiên, làm sao chúng ta có thể làm chứng cho Chúa chính là niềm vui? Trong bài đọc II, qua lời nhắn nhủ các tín hữu Thêxalônica (1 Tx 5,16-24), thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng trong khi đón chờ Chúa đến, chúng ta phải làm chứng cho Chúa bằng sống một cuộc đời thánh thiện và xa lánh những gì xấu xa. Thánh Tông Đồ đưa ra ba việc quan trọng cần làm: Trước hết, anh em hãy vui luôn trong Chúa, nghĩa là hãy trải nghiệm niềm vui, rồi mới có thể chia sẻ niềm vui; Thứ đến, hãy cầu nguyện không ngừng: nghĩa là để có niềm vui thực sự, phải luôn kết hợp và sống thân tình với Chúa qua đời sống cầu nguyện; Thứ ba, hãy luôn có tâm tình tạ ơn trong mọi hoàn cảnh và đừng dập tắt Thần Khí. Tức là hãy để cho Thánh Thần hướng dẫn.
Ở bài Tin Mừng, Gioan Tẩy Giả được giới thiệu như là kiểu mẫu của một chứng nhân niềm vui. Chúng ta cần học nơi ông về đời sống đơn giản, khó nghèo và khổ chế, để dám lội ngược dòng của cuộc sống đang chạy theo sự xa hoa và hưởng lạc trần thế. Gioan Tẩy Giả còn thể hiện những phẩm tính của một chứng nhân đích thực: đó là tính chân thật, khiêm tốn và can đảm khi làm chứng rằng chỉ Chúa mới mang lại cho con người niềm vui đích thực.
Vì thế, trong Mùa Vọng này, chúng ta được mời gọi hãy đến, kết hợp với Chúa để đón nhận niềm vui và mang niềm vui đó cho tha nhân, nhất là cho những ai nghèo khổ, bằng những việc làm cụ thể, như thăm viếng người bệnh tật, an ủi kẻ cô đơn không nơi nương tựa, giúp đỡ những ai đói rách, và chào hỏi những ai chúng ta gặp gỡ hằng ngày với nét mặt vui tươi trong Chúa. Đó là cách thế tốt nhất để chúng ta mừng đại lễ và chia sẻ niềm vui Con Chúa Giáng Sinh. Amen
Lm. Xuân Hy Vọng
Trong tâm tình chờ đón Chúa Giê-su giáng sinh, Mẹ giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta trút bỏ nỗi phiền muộn, vẻ mặt u ám, tâm trạng buồn tủi, và mặc lấy tâm hồn tín thác, con tim hoan hỷ, vui mừng với lòng cảm mến vô biên mà chúng ta cùng nhau dâng lên Chúa qua lời nguyện Nhập lễ “Anh chị em hãy vui luôn trong Chúa…” (Gaudete in Domino semper). Vì vậy, Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng còn được gọi là Chúa Nhật Hân Hoan (Gaudete Sunday), và chủ tế mặc áo lễ màu hồng để diễn tả niềm vui chờ đón Chúa Cứu thế.
Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta có thể thấy một điểm chung, đó là: niềm hân hoan, lòng vui sướng vì Chúa đã gần đến. Niềm hoan hỷ, vui mừng này không phải cảm xúc hay tâm trạng nhất thời, chóng qua, nhưng tiên vàn là lòng hoan lạc xuất phát từ tâm hồn bình an, tín thác, chia san mà Thiên Chúa ân ban cho chúng ta. Như lời tiên tri Xê-phô-ni-a loan báo cùng dân Is-ra-en trong bài đọc I: “Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” (Xp 3, 17-18). Tuy nhiên, trong tâm tình chờ đón, mong đợi Đấng Cứu thế, chúng ta nên hung đúc ngọn lửa của lòng hoan lạc và niềm hân hoan như thế nào?
Câu trả lời không đâu xa, mà rất gần gũi với chúng ta, đó là lời Thánh Phao-lô khuyến khích các tín hữu giáo đoàn Phi-líp-phê trong bài đọc II “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!…anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa là bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su” (Pl 4,4-7) Ông bà ta có câu: “vui không quên nhiệm vụ”. Thật chí lý, khi chúng ta vui mừng quá đỗi, chúng ta thường quên đi những gì nên làm và công việc phải làm. Do đó, để sống niềm hân hoan chờ đón Chúa giáng sinh, chúng ta nên khắc ghi trong tâm khảm của mỗi người chúng ta: lòng tín thác. Khi chúng ta đặt niềm tin vào Thiên Chúa thì chúng ta phó dâng tất cả cho Ngài trong mọi hoàn cảnh, mọi thời khắc của cuộc đời. Chẳng những cuộc sống hiện tại, mà mọi sự phía trước, những kế hoạch, dự định của chúng ta. Hơn nữa, niềm tín thác này dẫn chúng ta đến tâm tư luôn mong mỏi được kết hợp mật thiết với Chúa qua đời sống cầu nguyện. Nơi đó, ta gặp gỡ, chuyện trò, kết tình thân với Ngài. Nơi đó, ta đặt hết niềm tín thác nơi Ngài và Ngài cũng hết lòng tin tưởng chúng ta. Nơi đó, ta mong mỏi chờ đợi Ngài, và cũng chính nơi đó Ngài đang mong đợi ta vứt bỏ con người tội lỗi, những tính hư nết xấu mà quay trở về với Ngài.
Với lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa, chúng ta sẽ không còn ưu tư, sầu não, lo lắng không đâu nữa, và như vậy, chúng ta sẽ trung thành với đời sống cầu nguyện. Vì khi cầu nguyện chúng ta sẽ không còn bồn chồn, lo âu; ngược lại, khi chúng ta âu lo, não nề với vô vàn sự việc thế gian thì chúng ta sẽ không thể cầu nguyện được, tâm hồn sẽ chẳng được bình an và vui mừng! Hơn nữa, ngọn lửa của niềm hân hoan mong đợi Đấng Cứu Thế cần phải được hung đúc, cháy lên với lòng ước ao chia san với hết mọi người. Chẳng ai trong chúng ta có thể vui một mình được, mà nếu có đi chăng nữa, thì niềm vui ấy không được trọn vẹn! Những người đến gặp Gio-an Tẩy Giả ước ao được hưởng trọn niềm hân hoan mà Đấng Cứu Thế hứa ban qua lời tiên tri của ông, nên hỏi ông rằng: “Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì đây?” (Lc 3, 10). Và con thiết nghĩ, ai ai trong chúng ta cũng muốn đặt câu hỏi này với Gio-an Tiền Hô! Trong trình thuật Phúc m mà chúng ta đọc hôm nay, Gio-an Tẩy Giả trả lời rất cụ thể cho từng thành phần trong xã hội thời bấy giờ, nhưng chung quy lại là: để hưởng được niềm vui trọn vẹn, chúng ta hãy biết chia san, chu toàn bổn phận của mình với lòng mến, và lấy lòng nhân ái đối xử, giúp đỡ nhau. Sau cùng, biết khiêm hạ nhận mình là ‘người đến sau’, là ‘người dọn đàng’ như Gio-an Tiền Hô mà thôi “…tôi không xứng đáng cởi quai dép cho Người. Chính Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3, 16) Lòng khiêm tốn, khiêm nhu giúp chúng ta biết chính bản thân; giúp chúng ta sống hòa nhã, nhẫn nại, đơn sơ, chân thành, chia sẽ niềm vui với hết mọi người, đặc biệt trong gia đình, cộng đoàn, giáo xứ, nơi công sở và xã hội. Lòng khiêm nhu chân thành dẫn đưa chúng ta đến một tâm hồn biết ơn, cảm tạ. Trong tinh thần ấy, niềm hân hoan, vui mừng sẽ được hung đúc, chia san, và trở nên trọn vẹn khi ta chờ đón Chúa Giáng Sinh.
Ma-na-ra-tha! Lạy Chúa Giê-su xin hãy đến đổi mới tâm trí, cõi lòng chúng con để chúng con xứng đáng lãnh nhận niềm hoan hỷ đích thật, lòng vui mừng khôn tả mà Ngài ban xuống cho thế trần. Ước gì niềm vui sướng, hoan lạc ấy cháy lên trong con qua lòng tín thác vào Chúa, tâm hồn khiêm nhu, tấm lòng biết mở ra chia san với hết mọi người. Amen!
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Một chiếc ly đã đầy tràn thì không thể rót gì thêm vào ly đó được và chẳng ai dại dột rót rượu ngon vào đó.
Một cái thùng đầy cát thì không thể đổ thêm gạo, bắp hay bất cứ thứ gì. Cũng thế, một tâm hồn đầy kiêu căng, tự mãn, tham lam… thì không còn chỗ trống cho Thiên Chúa rót thêm ân sủng vào.
Tin mừng hôm nay mời chúng ta chiêm ngắm một nhân vật quan trọng của mùa Vọng là Gioan Tẩy giả, một con người sẵn sàng trút bỏ mọi tham vọng và hư danh, trở thành như một chiếc ly rỗng không; nhờ đó, ngài đã được Thiên Chúa rót đầy ân phúc.
Người đời bị cuốn hút bởi lợi danh và cố làm gia tăng giá trị mình bằng những lớp vỏ, lớp sơn bên ngoài.
Người đời nay tìm cách làm gia tăng giá trị của mình bằng những đồ trang sức đắt giá, bằng xe hơi sang trọng, bằng dinh thự nguy nga…
Trong khi đó, Gioan chê bỏ những “lớp vỏ” hào nhoáng của người đời. Ngài chỉ cần cào cào châu chấu trong hoang mạc làm thức ăn; chỉ cần tấm da thú thô sơ làm áo mặc.
Người đời khát khao danh vọng, muốn khoác cho mình nhiều danh hiệu cao sang; còn Gioan thì trái lại, ngài rủ bỏ hết mọi danh hiệu cao quý mà người đời gán cho ngài.
Thời bấy giờ Gioan là người tiếng tăm lỗi lạc. Có luồng dư luận cho rằng ông là Đức Ki-tô, một tước hiệu cao cả đầy vinh dự. Gioan trả lời với các tư tế và các thầy Lê-vi từ Giê-ru-sa-lem rằng ông chẳng phải là Đấng Kitô. Ngài đã không nhận vơ cho mình một danh hiệu rất cao quý.
Thế rồi có dư luận cho rằng Gioan là ngôn sứ Ê-li-a vĩ đại giáng lâm, vì theo kinh thánh thì vị ngôn sứ nầy phải đến trước để dọn đường cho Đấng Cứu Thế; Gioan cũng từ chối tước hiệu nầy. Thế là ngài lại trút bỏ thêm một vinh dự thứ hai.
Có một số khác nghĩ rằng nếu Gioan không là Đấng Kitô, không là ngôn sứ Ê-li-a, ít nữa thì ông cũng là một vị ngôn sứ cao cả nào đó. Gioan cũng từ khước luôn cả danh hiệu nầy.
Và đang khi nhiều người coi trọng phép rửa của Gioan, đã tuôn đến với ngài đông đảo, xin ngài làm phép rửa cho mình, thì Gioan khiêm tốn nói rằng phép rửa của ngài chỉ là phần chuẩn bị cho một phép rửa khác quan trọng hơn, do một Đấng rất cao cả cử hành mà ngài chẳng đáng cởi quai dép cho Đấng ấy.
Và đang khi danh tiếng của Gioan vang dội, còn Chúa Giê-su chưa được nhiều người biết đến, thì Gioan đã tự xoá mình đi, để cho Chúa Giê-su được tỏa sáng. Gioan nói: “Đức Giê-su phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi.”
Thế là Gioan đã trút bỏ hết mọi vinh dự người ta gán cho mình, chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu.
Gioan đã hạ mình xuống, nên đã được Thiên Chúa nâng lên. Gioan đã trút bỏ mọi thứ vinh quang và của cải, trở thành trần trụi rỗng không, như một chiếc bình trống rỗng, nên Thiên Chúa đã đổ đầy ân sủng cho ngài. Nhờ đó, Gioan trở nên vị ngôn sứ rất cao cả. Chính Chúa Giê-su đã xác nhận sự cao cả của Gioan. “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy giả (Mt 11, 11)
Gioan đã tự xoá mình đi nhưng ngài đã sáng bừng lên như một ngôi sao trên bầu trời Hội thánh. Gioan luôn hạ mình xuống nhưng Giáo hội vẫn hằng ngưỡng mộ ngài suốt dòng thời gian. Cuộc đời khiêm hạ của thánh nhân mãi mãi là tấm gương sáng ngời cho bao thế hệ nối tiếp.
Lạy Chúa Giê-su,
Khi tâm hồn chất chứa đầy tự mãn, kiêu căng, tham lam, ích kỷ… thì không thể đón nhận nhiều hồng ân của Chúa.
Xin thương giúp chúng con có đủ nghị lực và quyết tâm trút bỏ những thứ cặn bã đáng ghét này đi cho tâm hồn được trong sáng và rỗng không.
Nhờ đó, chúng con mới trở thành ống sáo rỗng để Chúa tấu lên những khúc hoan ca.
Nhờ đó, chúng con mới trở nên một chiếc ly, chiếc bình trống không để cho Chúa rót đầy tình yêu và ân sủng.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Làm chứng là một khái niệm và một chức năng quan trọng bậc nhất trong sách Tin mừng thứ tư, vì Tin mừng này muốn đưa chúng ta theo Chúa Giêsu Kitô vào trong lòng Thiên Chúa Cha, nơi Người vẫn ở tự đời đời, từ trước khi có trời đất, và Người đến làm người, cư ngụ giữa chúng ta trên mặt đất này, trong một giai đoạn lịch sử nhất định, để khi “bỏ thế gian mà về cùng Cha” thì đưa chúng ta vào trong lòng Chúa Cha cùng với Người…
Có một người Thiên Chúa sai đến làm chứng về Chúa Giêsu để mọi người nhờ ông mà tin rằng Chúa Giêsu quả là Đấng Thiên Chúa sai đến, đó là ông Gioan Tẩy Giả. Ông đã làm chứng bằng chính mạng sống của mình…Thượng hội đồng Do thái nghe biết có ông Gioan Tẩy Giả rao giảng và làm phép rửa ven sông Giođan nên họ đã cử phái đoàn đi điều tra về ông và công việc ông làm. Đoàn đại biểu đến gặp ông với những câu hỏi đặt sẵn giống như các mẫu giấy tờ khai báo lý lịch hiện nay… Ông trả lời rằng, ông “không phải là Đức Kitô”, ông chỉ là “tiếng người hô trong hoang địa”, sứ vụ của Gioan là “đến để làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin”. (x. Tĩnh tâm với Tin mừng Gioan. Lm Giuse Nguyễn Công Đoan SJ).
- Chứng nhân trung thực
Khởi đầu Phúc Âm, Thánh Gioan viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).Thánh Gioan là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng rất trung thực. Gioan cho biết mình chỉ là người hô dọn đường, làm phép rửa gằng nước, còn Đấng đến sau ông lại quyền thế hơn ông, ông không đáng làm tôi tớ để xách dép cho Người.
Chúa Giêsu nói về Gioan: “Ðây còn hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11, 9). Và Chúa còn nói thêm : “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11). Nhưng so với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi “không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.
Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Ðấng Cứu Thế không? Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.
Trung thực với lòng mình, nên Gioan sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái Pharisiêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo nặng lời. Gioan gọi họ là loài “rắn độc” (Mt 3,7). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh thiện (Mc 6,20). Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.
Thánh Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng thật trung thực nên ngài đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.
- Thánh Gioan sống rất đẹp
Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.
Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.
Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được đám đông, được dân chúng ngưỡng mộ, họ xem ngài như một tiên tri cao cả, nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.
Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3,30)
- Thánh Gioan chết hào hùng.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn, dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước thương dân.
Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp và hào hùng vô cùng.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.
Người theo Ðạo Hồi giáo Islam sùng kính Thánh Gioan Tiền Hô ở giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Thánh Gioan Phaolô II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.
- Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân trung thực
Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Trung Tín (1 Tx 5,24). Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao cho chúng ta những trách nhiệm lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải là chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội cón nhiều gian dối.
Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học sinh.
Người làm chứng là người sống đúng như chứng từ của mình. Gioan “đến để làm chứng về ánh sáng”. Trung thực với chứng từ này, một mặt ông cố gắng chỉ cho người ta thấy Ánh Sáng là ai, mặt khác khi có người tưởng ông là Ánh Sáng ấy thì ông thẳng thắn phủ nhận. Rồi khi Ánh Sáng xuất hiện, ông âm thầm rút lui : “Ngài phải sáng lên, còn tôi phải mờ đi”.
Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.
Ước gì khi nhìn vào đời sống chúng ta, mọi người cũng có thể nói như đã nói về Thánh Gioan Vianey “Tôi đã thấy Thiên Chúa trong một con người”.
Trầm Thiên Thu
Tiếng Vang Từ Hoang Địa Mời Sám Hối
Lời Vọng Của Chứng Nhân Tạo An Bình
Ngày xưa Thánh Gioan Tẩy Giả ví mình là “Tiếng Kêu Trong Sa Mạc.” Nghe buồn bã, lạc lõng. Tuy nhiên, nỗi buồn của ngôn sứ này không ảo não như tiếng kêu đời thường. Có lẽ vì vậy mà Chúa Nhật III Mùa Vọng có màu Tím nhưng mang sắc Hồng, bâng khuâng mong chờ nhưng vẫn hân hoan hy vọng, với biểu tượng là cây nến màu hồng.
TIẾNG VỌNG
Tiếng kêu trong sa mạc của Thánh Gioan Tẩy Giả gợi nhớ tới loài Vạc, cũng gọi là Hạc. Đó là động vật có cánh, một loài chim thuộc họ Diệc, kiếm ăn ban đêm và có tiếng kêu buồn thảm. Tiếng Vạc kêu sương nghe buồn thảm vì là tiếng lòng của kẻ lẻ bạn, đơn độc, một mình bay đi kiếm ăn ban đêm nhưng lòng vẫn thương nhớ khôn nguôi về người bạn tình phương xa. Tương tư khổ sở lắm, tiếng Vạc kêu trong đêm vắng nghe não nề lắm.
Cuộc sống có những nỗi buồn, nhưng chính nỗi buồn lại làm cho người ta khôn ngoan hơn và biết thương nhau hơn. Có truyện ngụ ngôn về bốn ngọn nến – tượng trưng cho [1] Hòa Bình, [2] Niềm Tin, [3] Tình Yêu, và [4] Hy Vọng. Thế giới hiếm khi không có chiến tranh, giữa người với người cũng vẫn thiếu sự hòa thuận, dù là những người trong cùng một gia đình. Ngọn nến Hòa Bình cứ mờ dần, chỉ còn leo lét, rồi… tắt. Cũng vậy, thế giới ngày nay đang mất dần niềm tin, cứ ngờ vựa nhau, coi tôn giáo là xa xỉ phẩm, thậm chí còn bách hại. Ngọn nến Niềm Tin cứ tắt dần, tỏa ra làn khói trắng luyến tiếc. Tương tự, người ta cũng không còn tha thiết với ngọn nến Tình Yêu nên không muốn thắp lửa yêu thương. Những người thân ruột thịt với nhau mà còn thổi tắt ngọn nến này thì gia đình không thể sáng sủa. Cả ba ngọn nến đã tắt, chỉ còn ngọn nến Hy Vọng, ánh sáng le lói, nhưng vẫn có lửa cháy. Đó là điều quan yếu.
Dù có thế nào thì cuộc sống này vẫn rất cần ngọn nến Hy Vọng. Ngọn nến này cần thiết vì chính lửa Hy Vọng (đức Cậy) sẽ đủ sức thắp sáng ba ngọn nến kia. Đó là triết lý sống của Mùa Vọng, mùa đợi trông Đấng Cứu Thế. Cần ghi nhớ và thực hành theo lời khuyên của Thánh LM Don Bosco: “Càng khốn khó thì càng phải tin cậy vào Thiên Chúa.” Trong tình trạng dịch bệnh vẫn có nhiều nguy cơ hiện nay giúp chúng ta cảm nghiệm sự cần thiết của niềm hy vọng.
Ngược lại, thất vọng dẫn tới tuyệt vọng. Tuyệt vọng là chấm hết, là cái chết ngay khi còn hít thở, là cái chết yểu trước khi chết thật.
Thiên Chúa sẽ xót thương và cứu vớt những ai biết tin cậy vào Ngài, biết khiêm tốn nhận ra mình hèn mọn. Ngôn sứ Isaia cho biết: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta.” (Is 61:1-2) Công lý phải được tôn trọng, vì có công lý thì mới có hòa bình đích thực. Thế giới sẽ hoàn toàn đổi mới nếu người ta tôn trọng công lý, nghĩa là không còn ai bị áp bức.
Khi có Thiên Chúa, cuộc sống vui mừng gia tăng bất ngờ. Ngôn sứ Isaia cho biết: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang. Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân.” (Is 61:10-11) Không có loại trang phục nào quý giá bằng “chiếc áo” Hồng Ân Cứu Độ và “áo choàng” Chính Trực Công Minh. Đó là trang phục đặc biệt của tín nhân.
Thục nữ Maria là một thụ tạo đơn nghèo và giản dị, một nữ tỳ khiêm hạ, nhưng lại trở nên một nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Nghe lời chúc mừng của Bà Chị Êlidabét về việc làm Mẹ Thiên Chúa, Cô Em Maria không thể trì hoãn niềm hạnh phúc thánh đức nên đã thốt lên tuyệt tác Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.” (Lc 1:46-50)
Công lý luôn được Thiên Chúa bảo vệ, Ngài cũng luôn có cách hành động khác biệt đối với phàm nhân: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.” (Lc 1:52-53) Rất khác thường nhưng rất tuyệt vời. Thật vậy, Thánh Phaolô xác định: “Thiên Chúa không để cho người ta nhạo báng đâu! Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy.” (Gl 6:7)
Đối với chúng ta, cuộc đời này là Mùa Vọng kéo dài, và không ai có thể biết chắc mình đang ở “tuần” thứ mấy của Mùa-Vọng-Cuộc-Đời, nhưng có lúc chúng ta cảm thấy vui như tâm tình của Chúa Nhật III Mùa Vọng này, vui vì sắp đến đích. Nhưng Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu. Anh em ĐỪNG dập tắt Thần Khí. CHỚ khinh thường ơn nói tiên tri. HÃY cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ, còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa.” (1 Tx 5:16-22) Bộ ba Đừng-Chớ-Hãy là các mệnh lệnh cần thiết.
Nếu thực sự chúng ta có thể làm như vậy thì chắc chắn được Thiên Chúa chúc lành, như mong ước của Thánh Phaolô: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó.” (1 Tx 5:23-24) Ước gì mỗi tín nhân chúng ta xứng đáng lãnh nhận ơn phúc trọn vẹn như ước nguyện đó.
LỜI CHỨNG
Một nhân vật quan trọng nào đó sắp đến một nơi nào đó, người ta có phái đoàn đi do thám trước để chuẩn bị những gì cần thiết, đặc biệt là vấn đề an ninh. Chẳng hạn tổng thống Mỹ đi đến quốc gia hoặc lãnh thổ nào cũng có những người đi trước để bảo đảm an ninh tuyệt đối.
Càng đặc biệt đối với cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu, được chuẩn bị hàng ngàn năm trước chứ không chỉ vài năm. Trước khi Ngài xuất hiện, một người được Thiên Chúa sai đi tiên phong là Gioan. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin.
Lời chứng của đại nhân Gioan Tẩy Giả được ghi lại trong Ga 1:6-8,19-28 (≈ Mt 3:1-12; Mc 1:1-8; Lc 3:1-18). Khi người Do-thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi xem ông là ai. Chính ông thẳng thắn tuyên bố: “Tôi không phải là Đấng Kitô.” Thế nhưng họ không tin, có lẽ họ thấy ông thực sự kỳ lạ, một dị nhân rất đặc biệt. Và rồi họ lại hỏi ông như thế là thế nào, có phải ông là ngôn sứ Êlia hay không. Thật phi lý, vì Gioan là Gioan, không thể là Êlia hoặc bất cứ ai khác. Ông Gioan vẫn xác nhận là không. Họ lại hỏi ông có phải là vị ngôn sứ hay không, ông dứt khoát là không.
Tại sao họ cứ lải nhải hỏi dai như đỉa vậy? Vì họ có nhiệm vụ đi dò la tin tức, kiểu tay sai, như lũ “bưng bô” ngày nay vậy, để về báo cáo với thượng cấp. Động thái của những người có ác ý đó nhắc nhở chúng ta về động thái cố chấp, rõ ràng nhãn tiền mà vẫn không chịu tin. Khốn thay, vì kẻ không tin thì nhẹ tội hơn kẻ không thèm tin.
Đám do thám cứ nài ép ông Gioan nói về chính mình, ông nói thẳng: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói.” Trong số họ có một số thuộc nhóm Biệt Phái, những kẻ chuyên thọc gậy bánh xe. Họ đặt vấn đề với ông Gioan rằng nếu ông không phải là Đấng Kitô, không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ thì tại sao lại làm phép rửa. Ông Gioan lắc đầu chán ngán cái đầu bã đậu của tụi này, ông giải thích: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”
Đối với những kẻ hợm mình như nhóm Biệt Phái thì thật thấm thía với nhận định của Alfred Einstein: “Cái gì cũng có điểm dừng, chỉ có cái ngu là không có điểm dừng.” Và cũng rất chí lý với cách phân tích của D. Granin: “Người ta thường không mắc sai lầm vì dốt mà vì tưởng mình giỏi.” Chung quy cũng chỉ tại “cái tôi” mà ra!
Ông Gioan là V.I.P., một ngôn sứ quan trọng vì là nhịp cầu nối Cựu Ước với Tân Ước, nhưng ông lại rất khiêm nhường. Điều này gợi nhớ câu nói khác của ông nói về Chúa Giêsu và chính ông: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi.” (Ga 3:30) Quả thật, đức khiêm nhường là nền tảng của tòa nhà nhân đức.
Theo Kinh Thánh, sự kiện này đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu. Thảo nào nhóm Pharisêu và Sađốc quỷ quyệt tìm cách “gài bẫy” người khác ngay tại nơi xảy ra sự kiện quan trọng. Tâm tà là tâm xà, tâm địa quỷ ma. Trong cuộc sống, có lẽ chúng ta cũng hơn một lần muốn “hạ gục” người khác bằng chiêu thức nào đó. Thế nhưng sự thật mãi mãi là sự thật, mọi chứng gian đều không thể bóp méo hoặc biến đổi sự thật, như tục ngữ nói: “Cây ngay không sợ chết đứng.”
Bất cứ ai chân chính, dù là tín nhân hay vô tín ngưỡng, thì không thể dính líu tới loại máu của loài quỷ đỏ hoặc Joe Biden. Quả thật, người Công giáo thực sự xấu hổ về ông Joe Biden, một con người không chỉ gian dối và mưu mô mà còn ủng hộ phá thai, hoàn toàn trái ngược với giáo lý Công giáo.
Lạy Thánh Phụ nhân lành, xin ban Đấng Thiên Sai để giúp chúng con biết cúi xuống trước người khác, sẵn sàng trở nên tiếng vọng giữa sa mạc cuộc đời vì Thánh Danh Đức Giêsu Kitô, sống vì sự thiện, thực thi công lý, bảo vệ chân lý và công ích. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 3 MV_B
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Mùa Vọng ngân vang lời mời gọi các tín hữu: “Hãy vui lên, Chúa sắp đến gần rồi”.
Is 61: 1-2a, 10-11
Bài Đọc I loan báo tin mừng cho những ai nghèo hèn, bất hạnh, bị giam cầm… biết rằng năm hồng ân của Chúa sắp đến rồi.
1Tx 5: 16-24
Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca hãy vui luôn mãi và không ngừng tạ ơn Chúa vì những thiên ân mà họ đã lãnh nhận được.
Ga 1: 6-8, 19-28
Tin Mừng tường thuật chứng từ của Gioan Tiền Hô, thánh nhân khẳng định rằng Đấng muôn dân mong đợi hiện đang ở giữa anh em.
BÀI ĐỌC I (Is 61: 1-2a, 10-11)
Vào Chúa Nhật II Mùa Vọng trước đó, chúng ta đã đọc lời khẩn nguyện của vị ngôn sứ thời lưu đày. Vào Chúa Nhật III Mùa Vọng hôm nay, chúng ta đọc bài thánh thi của vị ngôn sứ thời hậu lưu đày. Đây là bài Thánh Thi Chúc Tụng được cộng đoàn xướng đáp.
Bài thánh thi này được đặt vào bối cảnh vài năm sau năm 538 trước Công Nguyên, năm những đoàn người lưu đày ở Ba-by-lon lần đầu tiên được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Tác giả của bài thánh thi này là một vị ngôn sứ nặc danh sống ở giữa những người hồi hương tại Giê-ru-sa-lem. Ông thường được gọi với biệt danh là I-sai-a đệ tam thời hậu lưu đày (Is 56-66) để phân biệt với hai vị tiền nhiệm của ông là vị ngôn sứ nặc danh khác thời lưu đày được gọi với biệt danh là I-sai-a đệ nhị (Is 40-55) và ngôn sứ I-sai-a đệ nhất thời tiền lưu đày (Is 1-39).
Bài Đọc I của Chúa Nhật III Mùa Vọng trích dẫn hai phần khác nhau của bài thánh thi này (Is 61: 1-11): đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a) là phần mở, và đoạn trích thứ hai (61: 10-11) là phần kết.
- Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a)
Trong đoạn trích thứ nhất, tác giả biện minh cho sứ vụ ngôn sứ của mình:
“Thần Khí của Đức Chúa, là Chúa Thượng ngự trên tôi,
vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi” (61: 1).
Ông đã được Thần Khí Chúa xức dầu tấn phong. Đây là cuộc xức dầu tấn phong thiêng liêng bởi vì không có nghi thức xức dầu tấn phong cho các ngôn sứ. Chính Thiên Chúa đã chọn các ngôn sứ của Ngài và ủy quyền cho họ nói thay cho Ngài.
Ông có sứ mạng là “loan báo tin mừng cho những người nghèo hèn” (tác giả lấy lại diễn ngữ “tin mừng” của vị tiền nhiệm của mình là I-sai-a đệ nhị được trích trong Bài Đọc I của Chúa Nhật II Mùa Vọng trước đó). Tin Mừng này có thể được tóm lược như sau: “Phúc thay những người nghèo khổ!”, âm vang một trong những mối phúc thật của Đức Giê-su.
Những người hồi hương thật sự vỡ mộng trước thực trạng muôn vàn khó khăn trong công cuộc tái thiết quê hương. Họ là những người nghèo hèn với tấm lòng tan nát. Vị ngôn sứ gọi họ là “kẻ bị giam giữ” cho dù hiện nay họ đã được phóng thích. Qua những từ ngữ đó, ông muốn nhấn mạnh nỗi cùng cực khốn khổ của họ mà hình ảnh sau đó được giải thích rõ hơn: “công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa”, nghĩa là năm mà những người nô lệ được phóng thích, mọi nợ nần được tha bổng, đất đai được phân phối lại. “Năm hồng ân” được cử hành cứ năm mươi năm một lần. Năm Hồng Ân này thật ra khai triển “năm sa-bát”, năm được cử hành cứ bảy năm một lần (Năm Hồng Ân là năm thứ 50 của 7 x 7 = 49). Năm hồng ân biểu tượng một lý tưởng về sự công bình xã hội.
Đây là những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà Kinh Thánh gọi là “anawim”. Danh xưng “anawim” bao hàm những người nghèo khổ vật chất, nhưng khiêm hạ và tín thác vào Thiên Chúa. Đặc ngữ này mang một nét nghĩa căn bản là “còng lưng xuống”, còng lưng xuống dưới gánh nặng của sự nghèo khó, của sự nhục nhã, nhưng cũng “sấp mình xuống” vì thái độ tôn giáo của họ, tin tưởng phó thác hoàn toàn vào lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Đây là một khái niệm căn bản của Cựu Ước cũng như Tân Ước. Chính những kẻ hèn mọn này mà Đức Giê-su dành trọn niềm ưu ái cho họ. Một trăm năm sau đó, một vị ngôn sứ khác, Xô-phô-ni-a, đã tiên báo cuộc thăng tiến của những người nghèo này:
“Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ;
chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa.
Số dân Ít-ra-en còn sót lại
sẽ không làm chuyện tàn ác bất công,
cũng không ăn gian nói dối
và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt.
Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi
mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ nữa” (Xp 3: 12-13).
- Đoạn trích thứ hai (61: 10-11)
Trong đoạn trích thứ hai, cộng đoàn xướng lên những lời hân hoan chúc tụng:
“Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Thiên Chúa,
nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao!” (61: 10a).
Lý do của những lời hoan ca này được diễn tả qua hai hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất là “trang phục”: Giê-ru-sa-lem được mặc hồng ân cứu độ, được khoắc áo choàng công chính như chàng rể chỉnh tề khăn đóng, tựa cô dâu điểm trang lộng lẫy. Hình ảnh thứ hai là “khu vườn”: Giê-ru-sa-lem được sánh ví với khu vườn được Thiên Chúa chăm sóc tận tình để “trở hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân”.
- Ý nghĩa của việc nối kết hai đoạn trích này
Khi đặt hai đoạn trích đầu và cuối bài thánh thi này bên cạnh nhau, Phụng Vụ mời gọi chúng ta gẫm suy về mối liên hệ sâu xa giữa “ơn cứu độ” mà Đấng Mê-si-a hứa ban và “vẻ đẹp lộng lẫy” của Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa nơi dân Thiên Chúa. Sách Khải Huyền lấy lại hình ảnh Giê-ru-sa-lem thiên quốc như Tân Nương được điểm trang lộng lẫy nhờ máu Con Chiên.
Cách thức tiếp cận lịch sử như vậy có thể hiểu được nhờ những đau khổ của nhóm nhỏ trung thành còn sót lại, những “người nghèo hèn” này mà nỗi khốn khổ của họ lôi kéo lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Và chính qua họ mà lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa trải dài cho đến tận cùng thế giới.
BÀI ĐỌC II (1Tx 5: 16-24)
Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Thê-xa lô-ni-ca là văn phẩm sớm nhất trong các văn phẩm Tân Ước. Bức thư này được viết vào mùa đông năm 50-51. Thánh Phao-lô thiết lập giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vào mùa hè năm 50, nhưng ngài đã phải vội vã trốn chạy khỏi thành phố khỏi cơn thịnh nộ của người Do thái tìm cách giết ngài, vì lời rao giảng của thánh nhân khiến nhiều người Ít-ra-en lẫn lương dân ăn năn trở lại.
Vì thế, thánh nhân thật sự bận lòng đến cộng đoàn non trẻ bị hăm dọa này. Sau này, cộng tác viên của ngài là ông Ti-mô-thê quay trở lại Thê-xa-lô-ni-ca và thuật lại cho thánh nhân những tin tốt lành: dù bị người Do thái đe dọa và quấy nhiễu, cộng đoàn Thê-xa-lô-ni-ca non trẻ này vẫn kiên vững trong niềm tin của mình. Thế nên, thánh Phao-lô viết bức thư này gửi đến họ với cung giọng nồng nàn chan chứa niềm hân hoan và cảm tạ. Đoạn trích thư hôm nay được định vị vào cuối thư bao gồm những lời khuyên bảo và khích lệ.
- Vui mừng, cầu nguyện và tạ ơn
Trong lời khuyên thứ nhất, Thánh nhân kêu mời ba điều quan trọng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.
Trước hết, “Anh em hãy vui mừng luôn mãi”. Thánh Phao-lô thường nhấn mạnh niềm vui Ki-tô giáo. Niềm vui là hoa quả của Thần Khí, Đấng hằng ở với người Ki-tô hữu ngay cả trong gian nan thử thách. Chính thánh nhân luôn “chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2Cr 7: 4). Niềm vui này phát xuất từ niềm xác tín là được dự phần vào vương quốc Thiên Chúa ngay từ cõi thế này.
Tiếp đó, “Hãy cầu nguyện không ngừng”. Thánh nhân hầu như luôn luôn khuyên cầu nguyện “không ngừng”, “mọi lúc”, “đêm cũng như ngày”. Chung chung, thánh nhân cầu nguyện với Chúa Cha, qua Chúa Ki-tô, nhờ Chúa Thánh Thần. Hiếm khi thánh nhân cầu nguyện trực tiếp với Chúa Ki-tô. Thánh nhân nói, chính nhờ Thần Khí mà chúng ta mới có thể thân thưa với Thiên Chúa là “Cha”.
Sau cùng, “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”. Tạ ơn là một cấu tố của lời cầu nguyện, xoay quanh lời chúc tụng. Truyền thống Do thái dành một chỗ đặc biệt cho tâm tình cảm tạ tri ân, chẳng hạn như bài ca “Chúc Tụng” (Benedictus) của cụ già Si-mê-ôn là bài ca cảm tạ tri ân (Lc 1: 68-79). Thánh Phao-lô hầu như luôn luôn bắt đầu bức thư của mình với lời chúc tụng Thiên Chúa.
- Ân ban Thần Khí
Trong lời khuyên thứ hai, thánh Phao-lô kêu mời các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Anh em chớ dập tắt Thần Khí”. Cứ để mỗi người nói lên những ân ban mà mình nhận được, ngay cả ơn ngôn sứ. Điều quan trọng là phải biết “cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy; còn tất cả những gì xấu thì lánh cho xa”.
- Ơn thánh hóa
Trong lời khuyên thứ ba, thánh Phao-lô nói lên đề tài tâm đắc của mình: ơn thánh hóa, mà sau này, thánh nhân sẽ khai triển sâu xa hơn: chúng ta được thánh hóa nhờ tác động của Thiên Chúa chứ không do nỗ lực cá nhân của mình.
Việc phân chia con người thành ba phần: thần trí, tâm hồn và thân xác, không gặp thấy bất cứ nơi nào khác trong các thư của thánh Phao-lô. Người Hy lạp cũng như người Do thái đều không quan niệm con người theo cách phân chia như thế. Ở đây, thánh Phao-lô chỉ muốn nói đến toàn diện con người. Theo thói quen của mình, thánh nhân khai triển chữ “toàn diện” đi trước và tô đậm chữ “thần trí” theo sau. Chữ “thần trí” này mang lấy ý nghĩa Ki-tô giáo: chính nhờ thần trí, con người rộng mở trước tác động của Thần Khí.
TIN MỪNG (Ga 1: 6-8, 19-28)
Tin Mừng hôm nay được trích từ hai đoạn văn khác nhau của Tin Mừng thư tư: một từ Tựa Ngôn (1: 1-18) giới thiệu “chức năng chứng nhân” của Gioan Tiền Hô (1: 6-8) và một khác từ Tuần Lễ khai mạc sứ vụ công khai của Đức Giê-su (1: 19-2: 12) trình bày “lời chứng” của Gioan Tiền Hô (1: 19-28).
- Chức năng chứng nhân của Gioan Tiền Hô (1: 6-8)
Tựa Ngôn là một bài thánh thi ca ngợi “Ngôi Lời” bị ngắt nhịp hai lần để giới thiệu Gioan Tiền Hô là chứng nhân của Đức Ki-tô (1: 6-8 và 15). Lần ngắt nhịp thứ nhất được trích dẫn ở đây như phần mở đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Trong phần mở đầu này, tác giả Tin Mừng thứ tư không đề cập đến sứ điệp của Gioan Tiền Hô cũng như ý nghĩa phép rửa của thánh nhân, nhưng tô đậm “chức năng chứng nhân” của thánh nhân:
“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan.
Ông đến để làm chứng,
và làm chứng về ánh sáng,
để mọi người nhờ ông mà tin.
Ông không phải là ánh sáng,
nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (1: 6-8).
Đối với Tin Mừng thứ tư, “chứng nhân” là chức năng quan trọng bậc nhất, như tác giả nhấn mạnh trong thư thứ nhất của mình:
“Điều chúng tôi đã nghe,
điều chúng tôi đã thấy tận mắt,
điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng,
và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống…
Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe,
chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa…” (1Ga 1: 1-4).
- Lời chứng của Gioan Tiền Hô (1: 19-28)
Sau khi giới thiệu chức năng chứng nhân của Gioan Tiền Hô, tác giả Tin Mừng thứ tư trình bày lời chứng của thánh nhân.
Thánh nhân phủ nhận tất cả những gì người ta nghĩ tưởng về ông để chỉ tập trung lời chứng của mình vào sự hiện diện của Đấng đến sau ông và hiện có mặt ở đây rồi. Ông không phải là Đấng Mê-si-a mà dân chúng đang mong đợi. Ông cũng không phải là Ê-li-a mà truyền thống truyền tụng theo đó vị ngôn sứ này được rước lên trời và sẽ trở lại trần thế để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a. Ông cũng không phải là ngôn sứ vĩ đại mà Đức Chúa hứa với ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật: “Từ giữa anh em, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng…” (Đnl 18: 18).
Sau khi đã phủ nhận tất cả những nhân vật nổi tiếng mà người ta nghĩ tưởng về mình, thánh nhân công bố sứ điệp: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Đối với thánh nhân, Chúa Giê-su phải được đón nhận như một ân huệ mầu nhiệm của Thiên Chúa mà không ai biết thân thế của Ngài. Ở đây, có thể ám chỉ đến niềm tin dân gian vào một Đấng Mê-si-a ẩn mình cho đến khi ngôn sứ Ê-li-a tái xuất hiện và chỉ cho người ta nhận ra Ngài. Thật vậy, sách Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh hơn các sách Tin Mừng khác lời loan báo về Đấng Mê-si-a hiện ở giữa họ rồi mà họ không nhận ra.
Cuối cùng, thánh nhân làm chứng về sự cao cả của Đấng đến sau ông, nhưng trổi vượt hơn ông đến mức chính ông cũng “không đáng cởi quai dép cho Ngài” (1: 27), một công việc thấp hèn dành cho người nô lệ đối với chủ của mình. Về phương diện lịch sử, Đấng ấy sinh ra sau ông và thi hành sứ vụ sau ông, nhưng về phương diện thần linh, Đấng ấy hiện hữu trước ông.
Tại sao lời chứng của Gioan Tiền Hô về Đức Ki-tô mặc lấy một tầm mức quan trọng đến như thế? Để có thể lĩnh hội được Tin Mừng thứ tư, chúng ta cần phải giải mã những ẩn ý này. Tin Mừng thứ tư vốn giàu biểu tượng nên luôn luôn hàm chứa hai nghĩa: nghĩa trực tiếp và nghĩa ẩn dụ.
- Nghĩa trực tiếp
Theo nghĩa trực tiếp, chúng ta có thể gặp thấy chìa khóa ở nơi “Tuần Lễ khai mạc sứ vụ công khai của Đức Giê-su” đối xứng với “Tuần Lễ bế mạc sứ vụ công khai của Ngài” tại thành thánh Giê-ru-sa-lem. Tuần Lễ Khai Mạc được trình bày thành bảy ngày và được phân định cách mặc nhiên hay minh nhiên qua biểu thức “Hôm sau”:
– Ngày thứ nhất: Gioan Tiền Hô làm chứng về chính mình và về Đức Ki-tô trước những chất vấn của các tư tế và các thầy Lê-vi được phái đến từ Giê-ru-sa-lem (1: 19-28).
– Ngày thứ hai: Gioan Tiền Hô làm chứng trước dân chúng về Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” và là Đấng mà Thần Khí ngự xuống vào lúc Ngài chịu phép rửa (1: 29-34).
– Ngày thứ ba: Gioan Tiền Hô làm chứng về Đức Giê-su cho hai môn đệ của mình là ông An-rê và người môn đệ khác. Hai môn đệ này liền rời bỏ thầy mình mà đi theo Đức Giê-su.
– Ngày thứ tư: Ông An-rê rủ em mình là ông Phê-rô cùng gia nhập với mình (1: 35-42).
– Ngày thứ năm: Ông Phi-líp-phê và ông Na-tha-na-en nhập đoàn với các môn đệ tiên khởi (1: 43-51).
Việc tác giả không kể ra ngày thứ sáu là có chủ ý, nhờ đó tác giả mới có thể bắt đầu dấu lạ Ca-na vào ngày thứ bảy như sau: “Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê”, trong đó các môn đệ tiên khởi đã “chứng kiến vinh quang của Ngài” và đã “tin vào Ngài”. Với diễn ngữ thời gian: “ngày thứ ba”, người Ki-tô hữu nghĩ ngay đến cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su, biến cố bày tỏ tuyệt mức vinh quang của Ngài.
Khi trình bày một tuần lễ khai mạc sứ vụ công khai của Đức Giê-su như thế, tác giả Tin Mừng thứ tư thiết lập sự đối xứng với một tuần lễ sáng tạo thế giới, qua đó thánh ký muốn nói rằng Đức Ki-tô giáng trần để thực hiện một cuộc tạo dựng mới, hay đúng hơn, một cuộc tái tạo.
- Nghĩa ẩn dụ
Lời chứng của Gioan Tiền Hô được trích dẫn trong Tin Mừng hôm nay định vị vào ngày thứ nhất trong Tuần Lễ Khai Mạc. Trong tuần lễ sáng tạo thế giới, ngày thứ nhất được đánh dấu bởi việc phân tách Ánh Sáng ra khỏi bóng tối (St 1: 3-5).
Do đó, tất cả ý nghĩa sâu xa của đoạn Tin Mừng hôm nay chính là Gioan Tiền Hô đến để làm chứng về ánh sáng. Trái lại, các tư tế và các thầy Lê-vi được cử đến và trở về Giê-ru-sa-lem mà không đón nhận phép rửa tỏ bày lòng sám hối, vì thế, không rộng mở lòng mình ra để đón nhận ánh sáng. Tuy nhiên, họ đã được loan báo cho biết: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (động từ “biết” theo văn hóa Do thái không chỉ nói lên một sự hiểu biết thuần trí tuệ nhưng đặc biệt trọn cả con tim nữa). Như vậy, giáo quyền Do thái, ngay từ đầu, vẫn đắm mình trong bóng tối. Sự kiện này sẽ chi phối cách hành xử sau cùng của họ đối với Đức Ki-tô.
Cặp tương phản giữa ánh sáng và bóng tối này hình thành nên một trong những đề tài chủ đạo của Tin Mừng thứ tư. Việc đối lập này đã được minh chứng rồi ngay trong Tựa Ngôn.
CÓ TIẾNG NGƯỜI HÔ TRONG HOANG ĐỊA
Bông hồng nhỏ
Bên bờ sông Giođan, ông Gioan đang làm phép rửa. Người ta kéo đến với ông và thú nhận hết mọi lỗi lầm. Từng đoàn người xếp hàng chờ đợi không chút mỏi mệt, họ kiên nhẫn để được thanh tẩy. Một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông Gioan về thân thế của ông. Ông cho họ biết rằng ông không phải là Đấng Kitô, không phải là Isaia và cũng không phải là ngôn sứ. Ông khẳng định: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói” (Ga 1,23). Ông tự nhận mình chỉ là một tiếng hô trong hoang địa, một tiếng hô vang lên để lôi kéo người ta trở về cùng Thiên Chúa, thúc giục họ dọn đường đón Chúa đến.
Quanh ta đầy giẫy những đam mê và nó lôi cuốn ta, kéo ta lạc xa đường lối của Thiên Chúa. Đã bao lần, ta đã “để vụt mất Chúa” giữa dòng đời. Người đã đến bên ta nhưng ta không nhận ra Người, Người lên tiếng gọi mời nhưng dường như trái tim ta không còn chỗ để Lời của Người ngự trị. Ta đã hờ hững với Lời, phớt lờ tiếng kêu van của Lời hằng ngày vẫn dội vào tâm trí ta. Đó là khi ta từ chối yêu thương một người nghèo khổ tìm đến với ta. Thay vì vui vẻ chia sẻ những gì ta có, ta lại cảm thấy bực bội vì sự quấy rầy của họ. Nhìn thấy dáng vẻ đáng thương của họ, sao ta không động lòng thương? Những thông tin về các vụ lửa đảo làm cho ta luôn đề phòng để không bị lừa. Ta thu hẹp trái tim của mình chỉ vì lo sợ cho mình. Cũng có lúc, ta kỳ kèo một hai đồng khi mua mớ rau cho bà cụ nghèo nhưng lại rất rộng rãi khi đi ăn cùng bạn bè. Ta thích tỏ ra là người hào phóng trước bạn bè. Ta chỉ mải mê tô điểm lớp son bên ngoài cho thật đẹp đẽ nhưng lại để cho mối mọt của ích kỷ tàn phá trái tim mình. Còn đâu một chỗ cho Lời vang lên trong trái tim ta? Làm sao để ta lưu tâm đến Lời?
Cuộc sống hôm nay vẫn còn đó những “tiếng người hô trong hoang địa”, kêu mời ta hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi. Đó là những chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa đang hiện diện giữa thế giới và hối thúc mỗi người hãy đón nhận Ánh Sáng. Thiên Chúa vẫn nói với ta bằng chính Lời của Người. “Lời Thiên Chúa là Lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; Lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4,12). Người cũng nói với ta qua những gương sáng đang sống bên cạnh ta. Điều quan trọng là ta có đủ khiêm tốn để nhìn nhận con người thật của mình, can đảm để cho ánh sáng của Chúa chiếu rọi vào tâm hồn; không che đậy nhưng thật lòng xưng thú hết mọi lỗi lầm với Thiên Chúa. Bước vào đời, đã bao lần ta cũng được Chúa mời gọi để trở thành một tiếng hô thôi thúc anh chị em trở về với Chúa. Đằng sau lớp son tô điểm của vẻ bề ngoài, tận sâu trong trái tim ta vẫn còn một khoảng trống rất rộng mà ta chưa bước vào. Nơi ấy, Lời đang cư ngụ và mời gọi ta lắng nghe tiếng vọng của Lời. Ta có dám bước vào lòng mình để có thể gặp gỡ Chúa, và gặp lại chính mình. Người sẽ giúp ta nhận biết chính mình. Để nhờ đó, ta cũng biết ra khỏi mình để gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân.
Lạy Chúa! “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”. Xin Chúa ban cho con niềm hy vọng được đổi mới nhờ đón nhận Ánh Sáng Tình yêu của Chúa. Để nhờ ơn Chúa giúp sức, con can đảm và khiêm tốn xưng thú hết mọi lỗi lầm. Lạy Chúa! Nếu con chưa thể trở nên một “tiếng hô” của Chúa giữa lòng đời thì xin giúp con luôn biết dâng lên Chúa giọt nước mắt của lòng thống hối ăn năn. Amen.
TIẾNG HÔ CHUYÊN CHỞ “NIỀM VUI ĐÍCH THỰC”
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Vào thế kỷ trước, trong những năm đầu của thập niên 70 (Khoảng năm 1971-1972), khi cuộc chiến tranh “Quốc-Cọng” đã leo thang tàn khốc, thì cũng là thời điểm gia tăng con số những người góa phụ, những người vợ không còn được gặp lại chồng, những chiến sĩ vĩnh viễn nằm lại trên các chiến trường đẫm máu; hoặc nếu có trở về, thì “trở về trong chiếc áo quan hoang lạnh”, như cảm nhận đau điếng một thời trong bài thơ “Kỷ vật cho em” của thi sĩ Linh Phương được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc:
… Anh trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh
Anh trở về bờ tóc em xanh
Chít khăn sô lên đầu vội vã.. Em ơi!
Và cũng bối cảnh xót xa cùng cực đó, những người góa phụ đi “đón gặp chồng”, chỉ còn một tâm trạng tan nát cõi lòng, buồn lên lai láng, như tâm sự của thi sĩ Lê Thị Ý gởi gắm nơi bài thơ “NGÀY MAI ĐI NHẬN XÁC CHỐNG”:
“Ngày mai đi nhận xác chồng
Say đi để thấy mình không là mình
Say đi cho rõ người tình
Cuồng si độ ấy hiển linh bây giờ
Cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
Như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu son…”
Chờ ai để gặp mà chỉ gặp một “người đã ra đi không bao giờ trở lại”; đón đợi “người về” mà chỉ là một “người về trong chiếc áo quan” thì còn gì để mà vui, để mà hy vọng, để mà tin yêu vui sống ! Vâng tất cả đã “nhạt mờ dấu son” và chỉ còn lại chiếc “khăn sô trên đầu vội vã” !
Có lẽ đó cũng là tâm trạng chung của dân tộc Israel khi rơi vào hoàn cảnh mất nước, lưu đày; tâm trạng của những “người tình của giao ước” bỗng dung bị “Phu quân Thiên Chúa” quay lưng chối từ, Thiên Chúa mãi đi xa để không bao giờ trở lại ! và nếu đi xa hơn nữa, trở lại “những trang đầu của sách Sáng Thế ký”, khi cửa địa đàng đóng lại, Adam-Eva buồn tủi dắt díu nhau, một mình lang thang trên con đường “gai chông sỏi đá” để không bao giờ còn gặp Thiên Chúa “chiều chiều hạ cố đến đồng hành, tâm sự, sẻ chia…”.
Vâng, một “Israel buồn là một Israel bị Thiên Chúa quay lưng chối từ” và “một nhân loại buồn” là một “nhân lọai vắng bóng Thiên Chúa”.
Sứ điệp (Lời Chúa) của Chúa Nhật 3 Mùa Vọng trong Phụng vụ Công Giáo mang đến một ý nghĩa hoàn toàn đối lập với tâm trạng trên, thái độ trên: NIỀM VUI; VUI VÌ “CHÚA ĐANG TRỞ VỀ”; VUI VÌ CHÚA ĐÃ XÓT THƯƠNG VÀ THA THỨ.
Trước hết, đó là niềm vui mà ngôn sứ Isaia muốn dành riêng cho dân tộc Israel, để hết thảy cùng “ngẩng đầu lên”, chuẩn bị một cuộc “xuất hành mới”, bước qua những “hoang tàn đổ nát, những thất vọng buồn tênh…, để bắt đầu lại trong một cuộc hành trình mới của những người được yêu, được xót thương, được tha thứ và chữa lành bởi “Đấng được xức dầu đang đến”: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày…”. Nhà ngôn sứ đặc biệt nầy không muốn dân tộc ông đắm chìm trong “nỗi buồn muôn thuở”, trong tư thế của những “thiếu phụ chít khan tang chờ chồng là những thây ma”, mà phải là những “cô dâu hạnh phúc” đón gặp Đấng “tình quân” đang trở về trong uy nghi rạng rỡ: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi, vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc…”.
Và tất cả những gì ngôn sứ Isaia loan báo, gọi mời về một “niềm vui đang đến cùng với Đấng được xức dầu”, thì gần như đã được đáp ứng hoàn toàn trong thái độ, trong tâm hồn của người thôn nữ Maria mà bài ca trước cửa nhà cô Êlizabeth đã nói lên tất cả: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Người đã nhìn đến phận hèn tớ nữ Người; thực từ đây, thiên hạ muôn đời sẽ khen tôi có phước…” (Đáp vịnh ca).
Quả thật, Mẹ Maria đã sống trọn vẹn “những nỗi khát khao mong đợi” da diết của dân tộc mình; và đã cảm nhận trọn vẹn nỗi vui ngút ngàn cái ngày “được Chúa viếng thăm”, được “Người nhìn đến” ngay trong chính bản thân mình, cuộc đời mình khi thiên sứ Gabriel truyền tin “Ngôi Lời nhập thể”: “Mừng vui lên Đấng đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng Bà”. Vâng, đây chính “điểm tựa”, là “trọng tâm” của niềm vui nơi Mẹ, cũng là của niềm vui toàn thể nhân loại: Thiên Chúa trở về, Thiên Chúa hiện diện, Thiên Chúa có mặt trong Đấng Kitô mà ngôn sứ Gioan Tẩy Giả đã không ngần ngại xác nhận: “Tôi không phải là Đấng Kitô…. giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”.
Sai lầm của nhiều người trong nhân loại, trong đó có chúng ta, những người Kitô hữu, là đã chọn sai “niềm vui đích thực”. Sau “niềm vui vỡ òa của một trận cầu chiến thắng tại Việt Nam” là những con đường đầy rác rưởi tanh hôi; sau “niềm vui đến chảy nước mắt được chiêm ngưỡng một thần tượng âm nhạc Hàn quốc” là một sự rỗng tuếch của kiến thức và trưởng thành nhân cách”; sau niềm vui tưng bừng ồn ào của những cuộc “say men” vì “chiến tích địa ốc ở Đồng Tâm”, “thương vụ thành công ở Formosa Hà Tĩnh”, “hạnh thông chức quyền ở các cơ quan”… là những tiếng than ai oán của những gia đình bị bóc lột, những nạn nhân của bất công, những phận đời bị dập vùi tăm tối….
Chính vì thế, sứ điệp “NIỀM VUI” của Mùa Vọng hôm nay, hay của cả một đời Kitô hữu, đó chính là “Niềm vui được trả giá” bằng một sự “dọn đường” nơi tiếng “hô trong hoang địa” của nhà ngôn sứ Gioan Tẩy Giả từ hai ngàn năm trước: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo”. Đó chính là sự hoán cải nội tâm, là một “bắt đầu mới” đắp xây con đường của thiện lương, công chính, yêu thương. Đó là niềm vui của cô Maria khi tuôn đổ những giọt nước mắt trên chân Chúa để trở về làm lại cuộc đời. Đó là niềm vui của các Thánh Tông Đồ từ tòa án công nghị của quan chức Do Thái bước ra: “Các ông vui mừng vì được chịu đau khổ để làm chứng cho Đức Kitô”. Đó là cái vui của Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta, khi được cận kề săn sóc những kẻ yếu đau liệt lào. Đó là niềm vui của Thánh Maximilien Kolbe khi được chết thay cho một người tù sắp bị xử tử, là niềm vui của Á Thánh Anrê Phú Yên trên đường đi đến pháp trường để “lấy tình yêu đáp trả tình yêu”…Suốt 2000 năm nay, trên mọi miền thế giới, đã có bao nhiêu con người đã hưởng ứng, đã sống niềm vui mà hôm nay chúng ta được gọi mời tiếp nối.
Ngày xưa, Gioan Tẩy Giả đã khước từ hết mọi danh hiệu: không là Kitô, không là Êlia, không là ngôn sứ; và chỉ nhận mỗi một danh xưng “tiếng người hô trong hoang địa”. Phải chăng, sứ điệp Lời Chúa Chúa Nhật 3 Mùa Vọng muốn nói với hết mọi Kitô hữu chúng ta rằng: cần gì phải là giáo hoàng, phải là giám mục, linh mục, phải là ông kia bà nọ, phải có địa vị chức quyền mới có thể loan báo tin mừng, mới có thể làm người “dọn đường cho Chúa” để nhân loại có được niềm vui.
Nó cách khác, trong “hoang địa cuộc đời hôm nay” đang rất cần “những tiếng hô của niềm tin và đức ái, của hy vọng và công chính, của tha thứ và khoan dung, của công bằng và hòa bình, của sẻ chia và phục vụ…” để niềm vui chan hòa, để chân lý ngự trị, để thế giới thắm tình huynh đệ khi nhận ra nhau là anh em của một Cha trên trời. Để có được “niềm vui thường xuyên” như thế”, Thánh Phaolô đã từng đề nghị với giáo đoàn Thêxalônica: “Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc, hãy cảm tạ Chúa. Vì đó là thánh ý Thiên Chúa về tất cả anh em trong Chúa Giêsu Kitô. Đừng dập tắt Thánh Thần; đừng khinh khi các lời tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự, điều gì tốt hãy giữ lại. Hãy tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức”.
Và như thế, mỗi người chúng ta hôm nay, ngay trước thềm của đại lễ Giáng Sinh, hãy là một “tiếng hô” như thế, tiếng hô chuyên chở một niềm vui đích thực “Chúa đã đến gần”. Amen.
TÌM GẶP CHÚA TRONG VỊ THẾ CỦA MÌNH
Lm Trần Bình Trọng
Vào thời Chúa Giêsu tại thế, người ta đã chán ngấy tình trạng xã hội suy đồi bên đất Pa-lét-tin. Đời sống những nhà lãnh đạo tôn giáo cũng như dân sự thì truỵ lạc. Còn trên bình diện chính trị thì đất nước của họ bị phân chia và bị đế quốc La mã cai trị, nên họ mong đợi Ðấng Cứu thế đến hơn bao giờ hết.
Và theo quan niệm của dân chúng, thì Đấng Cứu thế đến sẽ giải thoát họ khỏi ách nô lệ người ngoại bang, khiến cho đất nước của họ trở nên giàu mạnh, và dân tộc họ vượt lên hàng bá chủ hoàn cầu. Vì thế sứ điệp rao giảng sám hối của Gioan tiền hô để dọn đường cho Ðấng Cứu thế đến đã làm khơi dậy một niềm vui phấn khởi của dân Do thái. Sở dĩ có như vậy là vì qua bao nhiêu thế hệ, họ đã bị quyền lực ngoại bang áp đảo: dưới ách thống trị của đế quốc Ba tư, dưới ách nô lệ của người Ai cập, dưới ách đô hộ của dân Xyria và dưới ách cai trị của đế quốc La mã.
Một nhóm người, chán nản cảnh suy sụp và vô luân trong xã hội, rút lui vào sa mạc Qumran xứ Giuđê gần Biển Chết, tuyên thệ để tài sản làm của chung, sống đời cầu nguyện, chiêm niệm và học hỏi Thánh kinh. Theo suy đoán có căn cứ thì ông Gioan tiền hô thuộc nhóm người sống trong cộng đồng tu này vì khi rao giảng phép rửa thống hối, ông ta xuất hiện từ sa mạc xứ Giuđê. Như vậy nếu theo quan niệm của quần chúng về đấng cứu thế, thì ông Gioan tiền hô cũng có thể mạo nhận cho mình là đấng Cứu Thế, nhất là sứ điệp rao giảng của ông có sức lôi cuốn mãnh liệt. Tuy nhiên khi dân chúng cử một số thượng tế và các thầy Lêvi đến hỏi xem ông là ai, thì được ông trả lời: Tôi không phải là Ðấng Kitô (Ga 1:20). Hay ông là ông Êlia chăng? Tôi không phải là Elia (Ga 1:21). Vậy ông có phải là vị một ngôn sứ không? Tôi cũng không phải (Ga 1:21). Và ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường ngay thẳng cho Ðấng cứu thế đến như ngôn sứ Isaia đã loan báo (Ga 1:23).
Những người tư tế được cử đến hỏi Gioan hẳn phải biết ông Gioan không phải là nhân vật tầm thường bởi vì cha ông là Dacaria cũng là một tư tế được thấy hiện tượng lạ trong Đền thờ về ông Gioan. Thế mà ông Gioan chỉ trả lời cách trung thực và khiêm tốn như vậy. Rồi mấy người Pharisêu trong nhóm lại hỏi tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Ðấng Kitô. Gioan trả lời: Tôi làm phép rửa trong nước … Người sẽ đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1:26-27).
Tại sao dân chúng lại hỏi xem Gioan tiền hô có phải là Êlia không? Thưa lí do là thế này. Theo ngôn sứ Malakhi, thì ngôn sứ Êlia sẽ trở lại trước khi Ðấng cứu thế xuất hiện (Ml 3:23). Nhiều người đương thời Chúa Giêsu cũng tin như vậy, chẳng hạn như các kinh sư (Mt 17:10; Mc 9:11). Họ tưởng rằng Gioan là Êlia tái xuất hiện vì ông cũng bận giống như ông Êlia: Mặc áo lông lạc là, thắt lưng bằng giây da (Mc 1:6; 2V 1:8) và khi rao giảng, giọng nói của ông cũng như thét ra lửa. Khi Chúa Giêsu nói Gioan chính là Êlia (Mt 11:14; 17:12-13, Mc 9:13), Chúa muốn nói Gioan đến trong tinh thần của Êlia. Ðó chính là điều mà sứ thần của Chúa nói về Gioan tiền hô là con của ông Dacaria như sau: Cháu sẽ đi trước mặt Người, đầy thần khí và uy quyền của ngôn sứ Êlia (Lc 1:17). Và tại sao họ còn hỏi xem Gioan có phải là vị ngôn sứ không và họ ám chỉ về ngôn sứ nào? Thưa sự thể là thế này. Sách Ðệ Nhị luật có bàn đến một vị ngôn sứ sẽ xuất hiện giữa họ để giúp họ (Ðnl 18:15). Căn cứ vào đó mà họ mong đợi vị ngôn sứ đến giúp họ tham dự vào kỉ nguyên của Ðấng Thiên sai.
Theo tông đồ thánh sử Gioan, thì ông Gioan tiền hô được sai đến làm chứng về ánh sáng (Ga 1:7, 8). Ðó là ánh sáng cứu độ trần gian, ánh sáng ban sự sống và ánh sáng chân lí. Ðó là ánh sáng giải thoát đã được ngôn sứ Isaia loan báo hơn năm trăm năm về trước cho dân chúng đang bị lưu đầy bên Babylon. Bấy giờ ngôn sứ Isaia có thấy rõ được ý nghĩa trọn vẹn và thực sự của cuộc giải thoát hay không, thì không phải là điều quan trọng. Ðiều quan trọng là khi mở đọc bài sách Isaia hôm nay (Is 60:1-2) trong hội đường Nadarét, Ðấng cứu độ trần gian công bố là Người đến để hoàn tất lời tiên tri này. Còn Gioan tiền hô chỉ đến để làm chứng cho ánh sáng giảỉ thoát và cứu độ mà thôi.
Giả sử Gioan tiền hô qui công về cho mình, cũng khoe khoang, mạo nhận mình là Ðấng cứu thế, thì ông đã mất hết công nghiệp trước mặt Thiên Chúa. Theo Thánh kinh ghi lại thì Gioan tiền hô đã nhận chân được vị thế của mình trước mặt Ðấng tối cao. Ông chủ trương Ðấng Kitô phải rạng rỡ thêm, còn ông phải lu mờ dần đi (Ga 3: 30) nghĩa là Ðấng Kitô phải được vinh danh, còn ông phải lui vào bóng tối.
Bài học mà Gioan tiền hô dạy ta sửa soạn đón mừng Ðấng cứu thế đến là biết chấp nhận: chấp nhận sự thật về mình, chấp nhận vị thế, thế đứng và giới hạn của mình, không giả tạo, không qui công về cho mình cái mà mình không có, điều mà mình không làm. Hôm nay Giáo hội dùng những bài Thánh kinh chứa đựng những lời lẽ khích lệ, bảo ta hãy vui lên, vì ngày giờ cứu rỗi đã gần. Còn Gioan tiền hô thì dạy ta làm sao để tạo cho mình niềm vui chấp nhận để dọn đường đón mừng Ðấng cứu thế. Là người tín hữu ta phải học hỏi với Gioan tiền hô để nhận biết mình, chấp nhận bản thân và hoàn cảnh. Nếu không, ta có thể trở thành những người bất mãn. Thái độ bất mãn sẽ làm cản trở cho việc Chúa đến trong tâm hồn.
Vậy chỉ khi nào ta bằng lòng chấp nhận vị thế, chỗ đứng, giới hạn của mình trong tâm tình biết ơn Ðấng tạo dựng, ta sẽ có được tâm hồn ai vui, không bận tâm về mình, để có thể mở rộng tâm hồn đón mừng Ðấng Cứu thế.
Lời cầu nguyện xin cho được biết vị thế của mình:
Lạy Chúa, Chúa là Ðấng sáng tạo muôn loài muôn vật.
Xin cho con nhận thức được rằng:
Con chỉ là đất sét, còn Chúa mới là thợ gốm.
Chúa muốn con thành dụng cụ gì,
là do bàn tay tác tạo của Chúa.
Như Gioan tiền hô, không mạo nhận,
xin dạy con biết sống trung thực với lòng mình,
để con cảm nghiệm được niềm vui
đón chờ Chúa đến. Amen.
Lm. Antôn Phạm Trọng Quang
Nếu thường dùng internet, chúng ta thấy những năm gần đây xuất hiện nhiều đoạn phim ngắn, nội dung rất thực, gần với cuộc sống đời thường, vì thế người xem rất dễ cảm động và thích lấy làm thích thú. Tuy nhiên, khi người xem đang chú tâm với những tình tiết đầy cảm xúc của câu chuyện, thì đoạn phim bất ngờ kết thúc với thông tin quảng cáo, thường là cho một thương hiệu hoặc một sản phẩm gì đó.
Cũng vậy, vài năm gần đây, trong lĩnh vực giải trí của người Việt, chúng ta cũng thấy thể loại phim ngắn này cũng đã xuất hiện nhiều trên facebook, youtube và các giao diện khác. Các đoạn phim ngắn thường khai thác các tình huống rất gần gũi với cuộc sống xung quanh ta. Ví dụ khi một ai đối xử tệ với người quét rác, với người bán hàng rong, với phụ nữ, với trẻ em hay với người già…, thì đột nhiên có một “anh hùng” nào đó xuất hiện, người này lên tiếng bênh vực cho người được coi là “thấp cổ bé miệng” và tìm cách lấy lại danh dự cho họ.
Thường các tình tiết trở nên căng thẳng qua cuộc đối thoại giữa người gây ra bất công và người được coi là “anh hùng”. Người trong cuộc hỏi: “anh, hoặc cô là ai mà dám xen vào chuyện của người khá?” Kẻ anh hùng sẽ trả lời “tôi là T.K” hay “tôi là M.L.” Các bạn trẻ gọi phong cách của các đoạn phim ngắn này là những “cái kết bất ngờ”. Mục đích của phim là nhằm quảng bá tên tuổi của một ai đó và để muốn người khác theo dõi kênh cá nhân của mình chứ không chỉ đơn giản là để quảng bá về giá trị đạo đức mà họ thực hiện khi giúp đỡ người khác.
Đây là trào lưu chung mà con người thời nay đang sử dụng để giới thiệu về danh tính hay sản phẩm của chính mình. Còn chúng ta thì sao, mục đích đời sống chúng ta là gì? Những công việc của chúng ta làm hằng ngày có phải là để tìm cơ hội tôn vinh chính mình không, hay ta sống vì một mục đích cao cả nào khác? Chúng ta cùng nhau suy gẫm câu chuyện về ông Gioan Tẩy Giả, để thấy được cách xử sự của ông thật rất đặc biệt, khác hoàn toàn với những gì chúng ta đang chứng kiến trong xã hội.
Tin Mừng của Thánh Gioan Tông Đồ kể rằng, khi dân chúng thấy ông Gioan Tẩy Giả rao giảng về phép rửa sám hối thì họ rất kính phục. Sứ điệp ông rao giảng có sức hấp dẫn và lôi cuốn một cách mãnh liệt. Vì thế, các thượng tế và thầy Lêvi sai người đến hỏi xem ông là ai. Ông Gioan trả lời: “Tôi không phải là Đấng Kitô.” (Ga 1:20) Người ta hỏi ông hay ông là Êlia chăng, thì ông trả lời: “Tôi không phải là Êlia.” (Ga 1:21) Vậy ông có phải là một vị ngôn sứ không, thì ông khẳng định: “Tôi không phải.” (Ga 1:21) Rồi ông tiết lộ: “Tôi là tiếng hô trong hoang địa: Hãy sửa đường ngay thẳng cho Đấng cứu thế đến như ngôn sứ Êlia đã loan báo.” (Ga 1:23).
Đoạn hội thoại giữa ông Gioan Tẩy Giả và những người Lêvi cho chúng ta thấy ông Gioan Tẩy Giả là người rất khiêm tốn, không quy công cho chính mình và luôn tìm cách giới thiệu hình ảnh Đức Kitô cho dân chúng.
Sự khiêm nhường: Khi dân chúng thấy những lời rao giảng của ông đầy hấp dẫn, họ theo ông vào hoang địa để nghe ông giảng. Thấy vậy, ông không muốn được ca tụng vì những thành tựu của mình mà khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng hô trong hoang địa. Ông chỉ muốn nhận vai trò của ông là dọn đường cho thẳng để chuẩn bị đón Đấng Kitô sắp đến.
Không phô trương: Từ cổ tới kim, chúng ta đều thấy con người thích phô trương, luôn tìm cách đánh bóng tên tuổi của mình. Nhất là trong thời kỳ của ông Gioan tại thế, người ta chán ngấy tình trạng xã hội suy đồi ở vùng Palestine. Không chỉ có dân chúng mà các nhà lãnh đạo đất nước cũng như tôn giáo, đời sống của họ hết sức suy đồi. Vì thế, dân chúng đang chờ đợi một Đấng Messia đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ, giúp cho đất nước giàu mạnh và dân tộc được vững bền. Trong tình huống đó sứ điệp sám hối của ông Gioan đã làm dấy lên niềm hy vọng trong dân. Tuy nhiên, ông Gioan đã rất khiêm tốn, chấp nhận vị thế của mình trong vai trò làm chứng cho Đức Kitô, chứ không lạm dụng hay quy công cho chính mình, tránh xa những danh vọng mà mọi người đang muốn tôn vinh ông.
Làm chứng cho Đức Kitô: Mục đích việc ông Gioan chân nhận đúng giá trị của mình, không muốn để cho người khác chú ý đến mình là để giới thiệu về con người Đức Kitô, Ngài là Đấng cứu thế, Đấng tối cao, đấng mà muôn dân hằng mong đợi. Ông Gioan chủ trương rằng Đấng Kitô phải được lớn lên, còn ông phải bị lu mờ đi, (xem Ga 3:30) nghĩa là Đấng Kitô phải được tôn vinh, còn ông phải lùi vào bóng tối.
Thật vậy, chúng ta đang sống trong một xã hội có xu hướng tham vọng tôn thờ giá trị cá nhân. Chúng ta thấy rất rõ, ngày nay các tổ chức, các đoàn thể và đến các cá nhân, ai cũng muốn tìm cách xây dựng một lâu đài cá nhân càng kiên cố chừng nào càng tốt. Cái tôi hay giá trị cá nhân là cái mà chúng ta gọi là cái quyền mà không ai được xâm phạm. Sống trong bối cảnh môi trường xã hội đó, ít nhiều chúng ta cũng bị ảnh hưởng trong cách suy nghĩ và hành vi của mình. Vậy, câu chuyện của thánh Gioan ngày hôm nay, có giúp chúng ta phản tỉnh và học được bài học gì quý báu không?
Đối với các giáo xứ và cộng đoàn, chúng ta đang hân hoan chuẩn bị đón lễ Chúa giáng trần bằng các công trình làm hang đá đồ sộ để thu hút người về tham dự thánh lễ, thậm chí để hấp dẫn những người lương dân về tham quan và chụp hình. Tuy nhiên, đây là hình thức mang tính bề ngoài, nó sẽ qua đi một cách mau chóng. Vì thế, ngoài việc làm hang đá, giăng điện khắp đường làng khu phố, trang trí nhà thờ, chúng ta cũng nên dành nhiều sự quan tâm đến người nghèo, thăm viếng người già, những ai bệnh tật…. Hoặc khi các bạn lương dân tới viếng hoang đá, tham dự lễ, chúng ta cũng tìm cách đón tiếp và giới thiệu Chúa cho họ, để họ cũng mầu nhiệm Chúa Giêsu Giáng Sinh.
Với các vị mục tử, khi chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh, chúng ta thường bận rộn với nhiều chương trình sinh hoạt trong giáo xứ mà quên dành thời gian để cầu nguyện, giúp giáo dân chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Chúa vào trong đời sống của họ. Ước chi các mục tử chúng ta đừng quá bận rộn với những công việc chỉ mang lại tiếng thơm cho chính cá nhân chúng ta, mà cũng cần biết “lánh xa một bên, tìm nơi thanh vắng”, mà cầu nguyện, chuẩn bị bài giảng chu đáo, những nội dung có giá trị để giúp nhiều người hiểu được ý nghĩa đích thực của lễ Giáng Sinh.
Và đối với các giáo dân, mặc dầu đang trong Mùa Vọng, nhưng chúng ta đã bắt đầu lo toan việc tặng quà và dự tính tổ chức tiệc tùng cho ngày lễ Giáng Sinh. Ước mong mọi người chúng ta ý thức được rằng những việc làm này tuy cần thiết nhưng cũng không giá trị cho bằng việc dành nhiều thời gian tham dự thánh lễ, tham dự các buổi tĩnh tâm, xưng tội và cầu nguyện, để có một tâm hồn thật đơn sơ và trong sạch, để Ngôi Hai Thiên Chúa được ngự vào trong tâm hồn chúng ta.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Trong cách suy nghĩ của nhiều người, kể cả người Công giáo, Mùa Vọng chỉ được hiểu là thời gian chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Vì vậy, họ chú trọng nhiều đến việc làm hang đá, trang trí hoa đèn rực rỡ mà quên mất một điều căn bản, đó là Thiên Chúa đang hiện diện giữa cuộc đời. Ngài hiện diện giữa chúng ta và mỗi người tín hữu được trao phó trách nhiệm loan truyền sự hiện diện linh thiêng kỳ diệu ấy. Lời Chúa chúa nhật 3 Mùa Vọng nhằm nhắc nhở chúng ta điều quan trọng này.
Các Bài đọc trong Phụng vụ hôm nay đều diễn tả niềm vui. Tại sao chúng ta vui mừng? vì có Chúa hiện diện. Ngài xức dầu cho chúng ta và sai chúng ta vào lòng cuộc đời. Trong truyền thống Thánh Kinh, dầu thơm chỉ niềm vui, sự hoan lạc và ân sủng của Thiên Chúa. Nhờ được xức dầu trong bí tích Thanh tẩy, mỗi người tín hữu được sai lên đường để loan báo niềm vui. “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi”. Họ không lên đường đơn lẻ một mình, nhưng có Chúa Thánh Thần là sức mạnh của Thiên Chúa đi cùng. Ngôn sứ Isaia đã diễn tả niềm vui: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao” (Bài đọc I). Những lời này diễn tả một tâm hồn an vui, hạnh phúc và tràn đầy nghị lực. Có bao giờ chúng ta, với tư cách là Kitô hữu, cảm nhận được niềm vui này? Đó không phải là niềm vui trần thế, nhưng là niềm vui toát lên từ hạnh phúc nội tâm, trong sáng, tinh tuyền thánh thiện. Lễ Giáng Sinh đem lại cho chúng ta niềm vui, vì xác tín vào sự hiện diện của Chúa giữa đời. Niềm vui này phải được loan báo cho mọi người, vì đó là niềm vui cho cả toàn dân. Chân lý cứu độ phải được trình bày cho thế giới, vì Thiên Chúa muốn cứu vớt muôn loài. Chúng ta không chỉ giữ niềm vui Giáng Sinh cho riêng mình, nhưng mỗi tín hữu phải là người tiếp nối sứ mạng đem tin vui ấy cho những người xung quanh. Lễ Giáng Sinh chỉ có ý nghĩa và mang lại hiệu quả thiêng liêng, nếu mỗi chúng ta biết sống và loan báo sứ điệp hân hoan vui mừng ấy.
Chúng ta được xức dầu và sai lên đường để rao giảng tình yêu của Chúa và sự hiện diện của Ngài. Mọi cố gắng nỗ lực của đời sống tín hữu nhằm cho hình ảnh của Chúa được tỏa sáng, chứ không phải hình ảnh của chúng ta. Khi nghe thánh Gioan Tẩy giả rao giảng và kêu gọi sám hối, những người đương thời cũng tưởng rằng ông là Đấng Thiên Sai. Gioan Tẩy giả đã cương quyết khẳng định: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Ông nhận rõ sứ mạng của mình rất khiêm tốn, đó là làm cho hình ảnh của Đấng Thiên Sai nổi bật. Ông cũng sẵn sàng chấp nhận bị lu mờ trước Đấng Cứu thế: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại… Tôi không đáng cởi quai dép cho Người”.
Đây đó tại các cộng đoàn giáo xứ, vẫn tồn tại những sinh hoạt sầm uất sôi nổi chỉ mang tính trần tục hoặc bề ngoài, mà không chú ý đến việc giới thiệu hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng đang hiện diện giữa chúng ta. Gioan Tẩy giả làm phép rửa, nhưng phép rửa của ông chỉ là nghi thức sám hối và giúp cho các hối nhân nhận ra Đấng Cứu thế sẽ đến. Ông là người dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Mặc dù có rất đông dân chúng đến với mình, ông luôn tránh những ngộ nhận của họ, nên khẳng khái nhận mình chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Giới thiệu và chứng minh Chúa đang hiện diện trong cuộc đời này, cần phải có sự khiêm tốn, đi liền với một đời sống thánh thiện tốt lành. Đây là điều kiện căn bản để lời chứng của chúng ta có sức thuyết phục.
Niềm vui có Chúa hiện diện phải tác động mọi khía cạnh của đời sống chúng ta. Thánh Phaolô đã nhắn nhủ cộng đoàn Thêxalônica: “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh“. Theo lời thánh Phaolô, kể cả lúc chúng ta gặp chuyện chẳng lành, đó cũng là cơ hội để tạ ơn Chúa. Bởi lẽ trong những hoàn cảnh ấy, chúng ta được mời gọi kiên vững và chứng minh lòng trung thành của mình vào Chúa. Thực ra, người tín cần xác tín một điều: Thiên Chúa không để cho ai chịu thử thách quá sức chịu đựng. Ơn Chúa luôn đủ cho những ai thành tâm yêu mến Ngài. Ý thức sự hiện diện của Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, đồng thời chuyên tâm làm việc thiện, xa lánh những điều xấu, bất cứ dưới hình thức nào, nhất là đừng dập tắt thần khí của Chúa nơi tâm hồn chúng ta (Bài đọc II).
Cảm nhận sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời sẽ giúp chúng ta đón nhận những gì xảy đến với lăng kính đức tin. Bởi lẽ Chúa là Cha chúng ta. Ngài luôn yêu thương và chẳng bao giờ bỏ rơi những con cái của Ngài. Nhờ sự hiện diện hồng phúc của Chúa, hoa sẽ nở trong sa mạc, niềm vui sẽ tràn ngập cuộc đời, tình thương sẽ ngự trị, công chính sẽ lên ngôi.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của Đức Ki-tô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Ki-tô bằng chính cuộc đời trong sáng của ngài. Nhìn vào cuộc đời ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:
Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một “tiếng kêu trong sa mạc”. Ngài khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của ngài càng có sức thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm nhường.
Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan Baotixita còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan Baotixita chờ đón chính là Đức Giêsu Ki-tô mà ngài loan báo.
Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài đã thẳng thắn khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Đức Giêsu Ki-tô.
Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giêsu, nên ngài nói: “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người” (Ga 1,27). Nhiều môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Đức Giêsu. Khi thấy đám đông đã bỏ ngài để đi theo Đức Giêsu, ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên ngài nói: “Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3, 30).
Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.
Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến.
Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Con người thời đại nào cũng cần chứng nhân. Một đời sống chứng nhân đích thực không dừng lại ở lời nói hoa mỹ mà ở chính cung cách sống phù hợp với lời rao giảng của mình. Có ai đó nói rằng: người ta chỉ thán phục những người nói hay nhưng họ sẽ kính phục những ai thực thi điều mình nói.
Đây chính là lời chứng hùng hồn của thánh Gioan B. Ngài đã sống trọn cuộc đời thanh thoát với chốn bụi trần để tâm hồn chỉ còn một niềm vui là ra đi làm chứng cho Đấng Cứu Thế giữa dòng đời. Lời rao giảng và kèm theo cách sống thanh thoát của ngài đã khơi gợi lên cho dân chúng một niềm vui của thời đại Messia đã đến. Niềm vui đó đã khiến hàng ngàn người thay đổi đời sống bằng sám hối và canh tân.
Trên dòng sông Jourdan năm đó người ta tuôn đến rất đông không chỉ để mong được nghe Gioan rao giảng mà quan yếu được gột rửa mình trong sông Jourdan. Dòng nước sông Jourdan được gột rửa với lòng sám hối đã mang lại niềm vui hoan lạc cho tâm hồn con người.
Xem ra dòng đời hôm nay rất cần những chứng nhân của Đức Ky-tô. Một đời sống chứng nhân có thể thay đổi lòng người và mang lại niềm vui nội tại cho những người mà ta đang sống. Một đời sống chứng nhân bằng bác ái, bằng dấn thân phục vụ cho người nghèo, người bệnh tật, già nua chính là phương thức hữu hiệu để dọn đường cho Chúa đến với thế gian.
Cám ơn Chúa trong dòng đời hôm nay ta vẫn thấy thấp thoáng những chứng nhân của Đức Ky-tô đang dấn thân trong mọi môi trường. Họ chính là những con chim én đang tìm đàn để tạo nên mùa xuân tô thắm cho nhân loại. Đâu đó ta vẫn thấy những người đơn độc một mình nhặt những cái đinh đang rải rác trên quốc lộ do người xấu rải ra. Đâu đó ta vẫn thấy những người đang âm thầm đi đến phục vụ những bệnh nhân nằm thoi thóp trên giường bệnh mà thiếu người thân chăm sóc. Đâu đó ta vẫn thấy những con người tình nguyện đem ánh sáng văn hoá cho các trẻ em nông thôn vùng miền núi xa xôi. Và đâu đó ta vẫn thấy những con người đang cúi mình tắm rửa cho các bệnh nhân Sida hay các bệnh nhân tại các trại phong . . .
Tất cả những con người đó đang làm cho thế giới này đẹp hơn về tình người, ấm áp hơn tình đồng loại. Đây cũng chính là dấu chỉ về thời đại Messia mà Chúa đang mời gọi chúng ta hãy cùng với Ngài mang tình thương đến cho muôn người.
Ngày 19.11 vừa qua Đức Thánh Cha Phanxico phát động ngày vì người nghèo, với chủ đề “tình yêu không bằng môi miệng mà phải hành động cụ thể”. Và chính ngài cũng mời người nghèo vào trong quảng trường dùng cơm với ngài trong tinh thần hòa đồng yêu thương. Phải chăng Đức Thánh Cha đang mời gọi chúng ta hãy trở nên dấu chỉ cho tình yêu Chúa bằng những công việc cụ thể “chia cơm sẻ áo”? Tình thương và lòng bác ái vốn dĩ là dấu chỉ về người môn đệ Chúa Ky-tô. Vì khi ta sống tình yêu ấy là ta đang họa lại chân dung về Đấng Messia cho nhân loại hôm nay.
Đặc biệt trong mùa này, mùa tình yêu, mùa của chia sẻ và trao ban. Lễ giáng sinh cũng chính là lễ của tình yêu. Đấng Messia đã đến để mang lại niềm vui cho con người khi Ngài băng bó, chữa lành mọi tật nguyền cho dân. Khi Ngài dám chết cho người mình yêu. Chính cuộc đời của Ngài trở thành Tin mừng cho nhân thế.
Hôm nay Đấng Messia vẫn đang cần chúng ta tái diễn tình yêu của Ngài cho những người đau khổ, nghèo đói, tật nguyền. Ngài đang cần đôi tay của chúng ta để Ngài băng bó vết thương cho trần thế. Ngài đang cần đôi chân chúng ta để Ngài lại có thể ra đi đến với những ai đang thất vọng sầu khổ. Và Ngài cũng cần trái tim của chúng ta để Ngài lại có thể cảm thông, chia sẻ với những ai bất hạnh đang mang nặng gánh đau thương. Đây cũng là phương thế để chúng ta dọn đường cho Chúa đến với nhân thế hôm nay.
Xin Chúa chúc lành cho những dự định, ước mơ và công việc của chúng ta ngõ hầu muôn dân sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Thầy Chí Thánh Giê-su. Amen
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hành trình Mùa Vọng, với đích điểm là lễ Giáng Sinh. Chúa nhật thứ I, Lời Chúa mời gọi chúng ta : “Hãy tỉnh thức” (Mt 24, 44). Chúa nhật thứ II, Gioan Tẩy Giả thôi thúc chúng ta : “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” (Is 40, 3). Hai tuần trước như là tiền đường dẫn chúng ta tiếp bước với niềm vui của Chúa nhật thứ III Mùa Vọng.
“Gaudete – Hãy vui lên“ là chủ đề của Chúa nhật này. Màu sắc Phụng vụ đang màu tím chuyển sang hồng, nhằm đánh dấu một giai đoạn sám hối, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng đường đã qua với niềm vui vì những gì đã đạt được, và lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng Sinh), nên Giáo hội mời gọi con cái mình “Gaudete – Hãy vui lên“, như Isaia:“Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa, và lòng tôi hoan hỉ trong Chúa tôi” (Is 61, 10). Niềm vui thánh thiêng ấy được biểu lộ qua lời nguyện: “Lạy Chúa, xin đoái xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề” (Lời nguyện nhập lễ Cn III Mùa Vọng).
Với những lời trên làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên, dẫn chúng ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ. Làm sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa” (Is 61, 1-2). Và làm sao không thể không mừng “vì Người đã mặc cho tôi áo phần rỗi, và choàng áo công chính cho tôi, như tân lang đầu đội triều thiên, như tân nương trang sức bằng ngọc bảo. Như đất đâm chồi, như vườn nảy lộc, Chúa cũng làm phát sinh công chính và lời ca tụng trước mặt muôn dân” (Is 61, 10-11).
Nhưng đâu là lý do để con người vui mừng hân hoan? Thưa, Chúa chính là niềm vui của nhân loại. Tất cả chúng ta đều khao khát niềm vui, mỗi gia đình, mỗi dân tộc luôn cầu mong được hạnh phúc. Vui vì có Thiên Chúa ở cùng, vui vì ở gần bên Chúa, được sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi giáng trần, Chúa Giêsu đã mang đến cho con người mọi nơi, mọi thời niềm vui thiêng thánh. Nếu không có Chúa Giêsu, sẽ không có niềm vui, niệm vui ơn cứu độ.
Vào Chúa nhật trung tâm của Mùa Vọng, chúng ta được mời gọi vui lên và sống hy vọng, đồng thời trở nên sứ giả của niềm vui : “Anh em hãy vui mừng luôn. Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc hãy cảm tạ Chúa” (1Th 5,16-17). Nếu điều này trở thành lối sống của chúng ta, thì Tin Mừng có thể thấm nhập vào mọi nhà và giúp đỡ con người cũng như gia đình tái khám phá rằng thực sự có ơn cứu độ nơi Ðức Kitô. Trong Ngài, người ta có thể tìm thấy sự bình an nội tâm và trợ lực để đương đầu mỗi ngày với những trạng huống khác nhau trong cuộc sống.
Niềm vui là một đặc tính thiết yếu của đức tin. Cảm thấy được Thiên Chúa yêu thương, viếng thăm và cứu độ là động lực làm cho chúng ta vui mừng; chúng ta biết Chúa Giêsu Kitô đã xuống thế, tự hiến thân mình vì chúng ta là lý do chính để người tín hữu vui mừng. Người Kitô hữu buồn, bởi họ không nhìn thấy những điều Thiên Chúa đã làm cho họ, và vì thế, sẽ không có sự hiệp thông. Niềm vui của người Kitô hữu phát xuất từ tâm tình tạ ơn tạ ơn, nhất là vì tình yêu thương của Chúa thể hiện nơi chúng ta; mỗi Chủ nhật chúng ta làm điều đó bằng việc cử hành Thánh Lễ.
Tin Mừng trình bày cho chúng nhân vật Gioan Baotixita, tiền hô Đấng Cứu Thế. Ông là người cao trọng sinh ra bởi người nữ; nhưng khi được hỏi : Ông là ai ? Ông khiêm tốn trả lời, “Tôi không phải là Đấng Kitô…” (Jn.121); “Tôi làm phép rửa bằng nước. Nhưng giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi” (Ga 1,26-27). Chúa Giêsu là Đấng mà muôn dân trông đợi; Người là Ánh Sáng chiếu soi trần thế.
Tin Mừng không phải là một sứ điệp xa lạ, càng không phải là một mớ học thuyết giữa thế gian, nhưng là Tin Mừng nhằm thỏa mãn những khát vọng sống của con người, vì Tin Mừng nối kết Thiên Chúa với chúng ta bằng việc nhập thể làm người của Con Chúa. Tất cả các Kitô hữu đều được mời gọi để tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về đức tin đã lãnh nhận. Là môn đệ của Chúa Kitô, chúng ta được kêu gọi mang hồng ân ánh sáng, ngoài lời nói, gương lành, còn trở nên gương mẫu về đời sống đức tin.
Trong mùa vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa chúng ta và chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô với kinh nghiệm của ngài đã quả quyết : “Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình” (Le Confessioni, III, 6,11).
Chúng ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Ðức Maria, thần trí của Mẹ đã vui mừng trong Chúa là Ðấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Tiếng của Gioan Tẩy Giả vang vọng từ sa mạc hoang vu đến tận thế giới, đến với những con người thành tâm thiện chí. Tiếng của Ông nói lên niềm hy vọng bởi vì thống hối mà Ông rao giảng là trở về, là cải thiện, là làm mới cõi lòng để đón chờ Chúa đến. Tiếng hô của Ông làm cho mọi người phải suy nghĩ, thay đổi:” đồi núi phải bạt xuống cho bằng, hố sâu phải lấp cho đầy, quanh co phải uốn cho ngay thẳng “. Điều Gioan Tẩy Giả muốn nói là làm đẹp nội tâm, làm đẹp cõi lòng để Chúa ngự đến.
Vâng, Gioan Tẩy Giả chỉ là tiếng hô trong sa mạc, dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Tiếng của Ngài mang đến niềm hy vọng cho con người. Tuy nhiên, tiếng hô của Ông, niềm hy vọng Ông mang lại không phải là sự hy vọng đầu tiên.Bởi trước Ông, tiên tri Isaia đã loan truyền, công bố niềm hy vọng.Ông loan báo sự hy vọng cho con người khi được Thiên Chúa xức dầu sai Ông đi.Ông công bố sự an ủi, niềm cậy trông, băng bó những tâm hồn bị tan nát dày vò, phóng thích kẻ tù tội và giải oan cho những người bị áp bức. Ông loan truyền một Đức Chúa sẽ giải phóng mọi người khỏi ách nô lệ tội lỗi, đem lại ơn cứu độ cho con người vv…Trước Gioan Tẩy Giả, Mẹ Maria, Nữ tỳ của Thiên Chúa, được đắc sủng nơi Thiên Chúa.Mẹ đã nói lời xin vâng đem lại tràn đầy hy vọng và hạnh phúc cho loài người, cho muôn người.
Mẹ Maria, Gioan Tẩy Giả và ngôn sứ Isaia là những chứng nhân của niềm hy vọng, chứng nhân của chính Thiên Chúa. Các ngài loan báo một Đấng Cứu Thế sẽ được sinh ra bởi phép Chúa Thánh Thần. Đấng cứu độ sẽ đến giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Đấng cứu thế đến để mang lại hạnh phúc và niềm vui cho con người. Ngôi Lời sẽ làm người và cư ngụ giữa nhân loại, giữa chúng ta, Ngài là “ Emmanuen nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta “.
Gioan là người dọn đường, còn Chúa Giêsu là chủ. Gioan là đèn soi, còn Chúa Giêsu là ánh sáng. Gioan là tiếng kêu, Chúa Giêsu là Ngôi Lời vĩnh cửu, Lời hằng sống. Chúng ta mỗi người cũng là chứng nhân sống động của niềm hy vọng, của Lòng Thương Xót Chúa. Quả thật khi con người phải đối diện với những thử thách, những khó khăn, họ luôn tìm câu trả lời cho những câu hỏi được đặt ra.Tuy nhiên, tất cả những câu trả lời cho những vấn nạn của con người, không thể nào làm cho con người thỏa đáng. Chỉ có Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể làm người mới trả lời được cho những vấn nạn hốc búa của con người trong mọi thời đại.
Thực ra như Gioan Tẩy Giả, chúng ta đều là chứng nhân cho Chúa. Chúng ta làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của chúng ta.Mỗi lần chúng ta phục vụ anh em, giúp đỡ tha nhân với tất cả tấm lòng của mình. Chúng ta sống bác ái yêu thương, và tỏ lòng nhân từ với tha nhân, với người khác là chúng ta đang làm chứng cho Chúa. Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nói:” Người ngày nay không thích những chứng nhân nói, mà thích gương sống của các chứng nhân ấy “. Nói và làm phải đi đôi với nhau vì nếu chỉ nói suông, chỉ nói ngoài môi miệng mà lòng không phải thế thì con người đích thực không phải là chứng nhân chân thực. Sống chứng nhân như Mẹ Têrêsa Calcutta, như Têrêsa Hài Đồng Giêsu là làm cho các tâm hồn cuốn theo mình.
Gioan Tẩy Giả đã hoàn thành sứ mạng dọn đường cho Chúa :” Có tiếng hô trong sa mạc, hãy dọn đường cho Chúa “. Mỗi người chúng ta cũng phải trở nên chứng nhân đích thực cho Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn can đảm, hiên ngang và sẵn sàng làm chứng cho Chúa giữa muôn vàn nghịch cảnh. Xin cho chúng con luôn biết làm cho nhiều người nhận biết Chúa. Amen.
Gợi ý để chia sẻ :
1.Gioan là ai ?
2.Tại sao lại gọi Gioan là chứng nhân ?
3.Mỗi người chúng ta phải trở nên chứng nhân như thế nào ?
4.Gioan Tẩy Giả có phải là chứng nhân đầu tiên loan báo Đức Giêsu Kitô hay không ?
.
Anna Cỏ May
Trên hành trình rao giảng, ông Gioan đã thu hút mọi người từ khắp nơi đến chịu phép rửa. Điều đó khiến cho mấy thầy tư tế, thầy Lêvi cùng những người Pharisêu không khỏi tò mò. Họ muốn tìm cách tiếp cận ông. Họ cất công đi từ Giêrusalem đến gặp ông. Ông Gioan đang làm phép rửa ở sông Giođan. Họ tiến đến và hỏi “Ông là ai?” (Ga,1,19). Một câu hỏi đi thẳng vào vấn đề. Ông trả lời thẳng thắn cho họ: “Tôi không phải là Đấng Kitô” (Ga 1, 20). Không thỏa mãn trước câu trả lời ấy, họ đưa ra những câu hỏi khác. Ông điềm tĩnh trả lời cho họ từng câu một. Một bên đang nóng lòng biết được thông tin theo ý mình còn người trả lời thì thẳng thắn và không hề giấu diếm. Những người tư tế và các thầy Lêvi không mấy tin tưởng nên khó chịu nhưng vẫn nài nỉ với ông để hy vọng một câu trả lời khác để về trả lời cho những người đã cử mình đến. Ông Gioan nói về mình “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (Ga 1, 23). Dù đã trả lời như thế nhưng họ vẫn không bằng lòng liền lấy ngay việc làm của ông mà thách thức và chất vấn ông. “Vậy tại sao ông làm phép rửa nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” (Ga 1, 25). Quả là một câu hỏi hay để cho ông nói rõ về sứ mạng của mình, bắt đầu giới thiệu Chúa Giêsu cho họ biết. Ông đã tự hạ mình xuống và nâng Đấng sẽ đến sau ông. Ông chỉ là người được sai đến để làm chứng cho mọi người tin chứ ông không phải là ánh sáng. Ông đã khiến cho mọi người khâm phục bởi chính sự khiêm tốn, không một chút kiêu ngạo hay tự phụ nhưng luôn che khuất bản thân mình. Vậy ngày hôm nay, còn có chút hình bóng của ông Gioan nơi chính chúng ta không? Chắc chắn là có nhưng chính hoàn cảnh cuộc sống có quá nhiều sự dữ khiến chúng ta dần đánh mất đi hình ảnh là người đượcThiên Chúa sai phái. Chúng ta lâm vào con đường nâng mình lên trên và trước Thiên Chúa qua những câu chuyện nhỏ hàng ngày. Đôi khi, chúng ta nghĩ mình sống vì Chúa nhưng không phải. Chính những khi chúng ta ích kỷ đó là khi chúng ta làm trái ý Chúa. Chúa đã bị lu mờ đi (Ngài vốn dĩ không bị lu mờ bởi bất cứ một điều gì). Chính khi chúng ta đánh mất nét đẹp của Chúa nơi mình, chúng ta đánh mất hạnh phúc. Cơ hội vẫn còn. Chúng ta hãy bắt đầu lại, sám hối và hy sinh bằng những việc nhỏ hằng ngày.
Trong giờ chơi góc, có tiếng hét vang lên. Cô giáo vội vàng đi tới thì thấy cậu bé đang đứng vòng tay xin lỗi cô bé ngồi bên cạnh. Cô giáo không nỡ lòng nào phạt cậu bé nữa.
Lạy Chúa! Mỗi người chúng con được Chúa sai đi rao giảng. Ngài đã đặt tình yêu và niềm hy vọng nơi chúng con. Nhưng rồi chúng con đã làm gì? Vâng, Chúa biết rõ mỗi người chúng con hơn chúng con biết nhau. Nguyện xin Chúa dùng ánh sáng Ngài soi vào cõi lòng, tâm trí và trái tim chúng con. Nguyện xin Chúa giúp chúng con được thấy và sống trong ánh sáng của Ngài. Amen.
.
Bông hồng nhỏ
Quân đang mải mê chơi bắn bi ở sân nhà thì có một người lạ đến nhà. Hôm nay, bố mẹ Quân đi làm ở đồng xa, chỉ có cậu ở nhà một mình. Người lạ lên tiếng hỏi:
– Bố mẹ cháu đi đâu cả rồi?
– Cháu chào ông? Bố mẹ cháu đi làm đồng rồi ạ. Nhưng ông là ai? Ông hỏi bố mẹ cháu có việc gì cơ?
– Ông là bạn của bố cháu. Cháu đi gọi bố cháu về đây được không? Ông có việc gấp cần gặp bố cháu.
– Dạ, khoảng 10 giờ thì bố mẹ cháu đi làm về đó ạ.
– Vậy thì cháu cứ chơi tiếp đi vì bây giờ đã 10 giờ kém rồi.
Khi gặp một người lạ đến nhà mình, ta thường hỏi họ là ai, đến đây để làm gì. Hôm nay, Tin Mừng theo thánh sử Gioan đã thuật lại lời chứng của ông Gioan khi các tư tế và mấy thầy Lêvi được những người Do thái từ Giêrusalem cử đến hỏi ông. Họ đã chất vấn ông rất nhiều điều. Ông Gioan tuyên bố thẳng thắn rằng mình không phải là Đấng Kitô mà muôn dân đang mong đợi. Ông cũng không phải là ông Êlia hay là vị ngôn sứ nào cả (x. Ga 1, 19-21). “Ông nói gì về chính ông?” (Ga 1, 22b). Các tư tế và mấy thầy Lê vi đang nóng lòng biết về chính ông. “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi.” (Ga 1, 23). Đúng như lời chứng của ngôn sứ Isaia đã nói. “Ông nói gì về chính ông?”, đó cũng là câu hỏi dành cho chính ta. Ta tự hỏi lòng mình “Tôi nói gì về chính tôi?”. Ông Gioan đã nói cho các tư tế và mấy thầy Lêvi biết về sứ mạng “Tiền hô” của mình. Còn ta, ta thường nói về điều gì? Chẳng phải không ít lần, ta đã tự hào giới thiệu cho mọi người biết về tài năng ta có, thành tích ta đạt được đó sao? Nhưng những điều đó không nói gì về chính ta. Ông Gioan làm những việc làm mà bao người cảm phục ông. Ông rất nổi tiếng nhưng khi nói về chính mình, ông khiêm tốn nhận mình chỉ là một tiếng hô trong hoang địa. Một tiếng hô vang lên và người ta kéo đến với ông để ông thức tỉnh họ. Ông chỉ là người dọn đường. Ông được Thiên Chúa sai đến để làm chứng về ánh sáng. Ông ý thức rằng Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi. Ông đã ẩn mình suốt ba mươi năm, sống trong hoang địa để nhận biết tiếng nói của Thiên Chúa. Ông đã giấu mình đi trong âm thầm như thế. Ông không phải là Đấng mà muôn dân mong đợi. Có một Đấng đến sau ông, sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.
Nhìn về chính mình, ta ý thức mình là một người Kitô hữu. À phải rồi. Nói về Chúa trong ta, đó mới thật là nói về những gì thuộc về chính mình. Nhưng nói về Chúa bằng cách nào? Ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa. Ta phải là chứng nhân cho tình yêu Chúa hiện hữu nơi mình. Ta là người được Thiên Chúa sai đi để làm chứng cho Chúa.
Có một câu chuyện như sau: Một giáo lý viên đang say sưa dạy cho các học trò về đề tài “Thiên Chúa là tình yêu”. Thằng Tèo tinh nghịch chọc thằng Thắng ngồi bên cạnh. Cả hai cười rúc rích mà quên mất rằng mình đang ở trong lớp học. Giáo lý viên tức giận bước xuống cho mỗi đứa một cái tát rõ đau. “Thằng Tèo nói cho chị biết, lớp đang học bài gì? Thằng Tèo đang ú ớ chưa có câu trả lời thì chị nhìn sang Thắng, nó cũng tiu nghỉu cúi mặt xuống đất. Chị hỏi cả lớp “Cả lớp đang học bài gì?”. “Dạ, bài Thiên Chúa là tình yêu ạ.”
Nói về tình yêu Thiên Chúa hay giảng về tình yêu Thiên Chúa không phải là điều khó. Thế nhưng, thực tế để sống chứng tá cho điều ấy thật không mấy dễ dàng. Ta cũng dễ nóng nảy, thiếu kiên nhẫn với ai đó khi họ không làm ta hài lòng, khiến ta bực bội khó chịu. Chính những lúc ấy là lúc đo lường lòng mến Chúa thật sự nơi ta. Ông Gioan đã không hề tỏ ra khó chịu trước những câu hỏi mang tính cách chất vấn của những Tư tế và các thầy Lêvi. Ông kiên nhẫn trả lời cho họ từng câu. Ta đã làm gì để làm chứng cho Chúa với chức năng “ngôn sứ” ta đã lãnh nhận?
Lạy Chúa! Xin đong đầy tình yêu trong con để mỗi ngày con kiên nhẫn và hăng say làm chứng cho Chúa giữa đời. Xin dạy con biết yêu thương hết mọi người, bắt đầu từ những hành động nhỏ bé nhất. Làm chứng cho Chúa đòi hỏi con phải nỗ lực hoàn thiện bản thân, sống trong tâm tình sám hối và khiêm tốn. Xin Chúa luôn đồng hành cùng con và cho con cảm nếm niềm vui “Chúa phải lớn lên còn con phải nhỏ đi.” Amen.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Chứng nhân sự sáng được sai,
Tiền hô mở lối, đóng vai mọn hèn.
Tiếng kêu hoang địa chong đèn,
Mở đường chiếu giãi, đêm đen vào đời.
Tiên tri cao trọng rạng ngời,
Ẩn thân khiêm nhượng, gọi mời dấn thân.
Vui mừng sứ vụ bình dân,
Dọn đường sửa lối, canh tân lòng người.
Không màng danh lợi ở đời,
Xả thân phục vụ, Chúa Trời Ngôi Hai,
Ngài là ánh sáng thiên thai,
Giê-su Chí Thánh, thiên sai từ trời.
Mở lòng đón nhận Vua Trời,
Thành tâm tôn kính, sống đời khiêm nhu.
Thực hành sống đạo luyện tu,
Nêu gương nhân đức, thiên thu sáng ngời.
Thánh Gioan Tẩy Giả là một nhân chứng khiêm nhường và can đảm. Ngài là vị tiền hô. Ngài xuất hiện để loan báo và dọn đường cho Chúa. Ngài không phải là sự sáng nhưng làm chứng cho sự sáng. Ngài nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Ngài đã hoàn tất sứ mệnh của người làm chứng cho Chân Lý qua cái chết của ngài.
Sống một đời ngắn ngủi nhưng từng bước chân đã ghi dấu niềm xác tín nơi Con Chúa. Qua cuộc sống khắc khổ nơi hoang địa, ngài chuẩn bị cho chính mình một tấm lòng đơn sơ và khiêm nhường. Ngài khơi dậy sự mong chờ và lòng khao khát ơn Cứu Độ. Ngài đã chuẩn bị lòng con người, kêu gọi sửa cho ngay đường Chúa đi. Ngài đã giới thiệu Chúa cho mọi người. Đã hiến mình làm chứng cho Sự Thật.
Chấp nhận thân phận người tiền hô, ngài không tìm vinh quang cho chính mình. Giống như Gioan, chúng ta được mời gọi chia xẻ sứ mệnh rao truyền chân lý của Chúa. Hãy học nơi thánh Gioan, tìm làm vinh danh Chúa. Dẫn dắt nhiều người về với Chúa. Trong sứ mệnh rao truyền Tin Mừng hôm nay, đôi khi vì sự háo thắng, chúng ta lại muốn rao truyền và tìm vinh danh cho chính mình. Muốn người ta biết về mình nhiều hơn. Thay vì giới thiệu Chúa cho người khác, chúng ta tìm giới thiệu chính mình và sự khôn ngoan thông thái của mình. Tìm giải thích Lời Chúa theo ý của mình và uốn nắn theo những sở thích của riêng mình.
Gioan đến làm chứng cho sự sáng. Chúa chính là ánh sáng soi dọi vào đêm tối. Chúng ta hãy truyền đạt ánh sáng mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa Tội. Hãy để ánh sáng của Chúa chiếu tỏ qua cuộc sống của chúng ta. Cầu nguyện để mỗi người là chứng nhân trung thành. Chúng ta đã theo đạo, cần giữ đạo, sống đạo và thực hành đạo để xứng danh Kitô hữu.
Chúa Giêsu đã phán rằng: ‘Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’. Bước theo Chúa, chúng ta sẽ không lạc lối vì có Chúa là Đường. Mọi sự đều quy về Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu là tâm điểm để mọi người xoay quanh. Càng đến gần tâm điểm là Chúa Giêsu, chúng ta càng được sưởi ấm trong tình yêu của Ngài.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Đấng Messia không phải là…
Đoạn Tin Mừng mở đầu bằng một xác quyết phủ định: “Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Thế rồi tiếp theo đó trong chứng từ của Gio-an, chúng ta còn gặp thấy nhiều phủ định khác nữa: “Tôi không phải là đấng Ki-tô!… Ông có phải là Ê-li-a không – không phải!… Ông có phải là vị ngôn sứ chăng – không! “. Thì ra thế, lời chứng của Gio-an về đấng Thiên Sai trước hết đã khởi đầu bằng những phủ định. Đối với một số người, đặc biệt những ai tưởng mình đã hiểu biết đủ, thì đôi khi để minh xác một đối tượng là ai họ cần trước hết nói rõ Ngài không phải là ai cái đã.
Chắc chắn rất nhiều người Do Thái cùng trông đợi đấng Messia hay Ki-tô – Người Được Sức Dầu, trong số đó phải kể các thầy tư tế và Lê-vi. Giới giáo sĩ này vẫn hướng dẫn dân chúng theo những gì họ đọc được trong Sách Thánh Cựu Ước: đấng Ki-tô – Messia sẽ đến phải là môt nhân vật đầy quyền lực thống trị, cao sang tột cùng và đầy Thần Khí, tức là đầy sức mạnh của Đức Chúa Gia-vê. Để đón tiếp một vị quyền uy như thế phải có nhân vật xứng tầm Ê-li-a – người đã một mình ngăn cản vua A-háp, thách thức hoàng hậu Giê-dê-ben và tiêu diệt bọn sư sãi Ba-an trên đỉnh núi Cát Minh (I Vua 17), hoặc vị ngôn sứ tuyệt hảo tầm cỡ Mô-sê với sức mạnh giải phóng dân khỏi ách thống trị của Pha-ra-ô. Thế nhưng Gio-an đã phủ nhận toàn bộ lối suy nghĩ này khi họ muốn gán cho ông những danh hiệu đó (cho dầu chính Đức Giê-su có ám chỉ ông là Ê-li-a phải đến, có lẽ vì thái độ thẳng thắn ông lên tiếng tố cáo Hê-rô-đê loạn luân). Gio-an dứt khoát không muốn đặt mình thuận theo lối suy nghĩ đó. “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?” Ông không là đấng Ki-tô theo lối suy nghĩ của giới tư tế và Lê-vi đã đành, ông còn phủ nhận luôn vai trò tiền hô theo suy nghĩ họ có trong đầu. Ông nói rõ, quan niệm họ vốn có về đức Ki-tô – Messia sẽ không làm họ có thể nhận ra được Người, vì cụ thể Người đang ở ngay giữa họ, “Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.” Nói lên điếu đó, hầu như Gio-an yêu cầu chính các tư tế và Lê-vi phải bỏ hẳn lối suy nghĩ cũ về đấng Messia, điều kiện cần thiết để họ có thể nhận ra và đón rước Người.
Thế ra đôi lúc, nhất là đối với một hạng người nào đó, việc làm tiên quyết để đón đấng Messia không phải là từ bỏ đường tội lỗi để cải tà qui chính, mà lại là phải bỏ hẳn lối suy nghĩ cũ để khám phá ra dung mạo hay ánh sáng đích thực của Đấng phải đến. Phải chăng có một ứng dụng rất mới của sứ điệp dọn đường: “Thung lũng phải lấp cho đầy, núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3:5), cũng như lời kêu gọi “anh em hãy sám hối” (Mt 3:2); sứ điệp này chứa đựng một ý nghĩa vượt xa nội dung thuần luân lý mà nhiều người vẫn hiểu? Ánh sáng mà Hài Nhi Giê-su đem đến trần gian sẽ là một thứ ánh sáng rất khác lạ, có lẽ cho tới lúc đó rất hiếm người đã được nhìn thấy nó. Ánh sáng này chỉ dành cho các tâm hồn đơn sơ hèn mọn được thấy, các ‘A-na-wim’ (tôi tớ hèn mọn) của Gia-vê như Ma-ri-a, các mục đồng, Si-mê-on và An-na…, vì đó là ánh sáng của một ‘Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian’ (Ga 1:29). Những ai vẫn bảo thủ quan niệm cố hữu về đấng Mét-si-a quyền uy cao cả và thống trị, như quân vương Hê-rô-đê, các thượng tế và thầy thông luật, sẽ chẳng bao giờ có thể nhận ra được Ngài đâu.
Như thế, ngoài sứ điệp thống hối tội lỗi để thanh tẩy tâm hồn vẫn thường nghe nhắc nhở, Mùa Vọng còn gởi tới một sứ điệp khác cấp bách không kém: hãy duyệt lại quan niệm tôi vốn có về đấng Ki-tô, về Thiên Chúa giáng trần. Nếu tâm trí tôi vẫn thường chỉ hướng tới Thiên Chúa như đấng quyền uy cao cả, thì Hài Nhi sinh ra khó nghèo trong hang bò lừa, hoặc sẽ chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi, hoặc tôi sẽ cố biến hang bò lừa ấy thành một nơi cao sang rực rỡ. Để nhận ra được ‘Chiên Thiên Chúa’ tâm hồn tôi không những phải sạch tội, mà còn phải đơn sơ và hèn mọn, nếu không Hội Thánh sẽ nói với tôi, giống như Gio-an đã cảnh cáo các Tư Tế và Lê-vi: “có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.” Có không rất nhiều tín hữu, trong số đó có cả linh mục và tu sĩ, dọn mừng lễ Giáng Sinh rất trọng thể linh đình, nhưng khi Người đến họ lại không thể nhận ra, vì trong thâm sâu cõi lòng họ vẫn chỉ muốn thấy một Thiên Chúa quyền uy thống trị và cao sang? Có thể lắm đấy, bản thân tôi cũng đã từng là một trong số đó, nếu không sớm được giác ngộ để thay đổi tận căn quan niệm tôi có về đấng Ki-tô Cứu Thế, Người Cha từ nhân và xót thương!
Lạy Hài Nhi Giê-su giáng sinh trong hang bò lừa nghèo hèn, xin hãy liệt con vào số các người hèn mọn của Gia-vê để con có thể nhận ra khi Người đến giữa và ở với chúng con. Xin gạt hẳn khỏi tâm trí con hình ảnh một Thiên Chúa công thẳng quyền uy, và thế vào đó là một Thiên Chúa từ nhân cứu độ; và cũng xin đừng bao giờ để hình ảnh này biến mất khỏi tâm trí lòng con, một hãy làm cho nó ngày càng đậm nét hơn. Lạy Mẹ Maria, kẻ hèn mọn tuyệt vời, xin giúp con như Mẹ nhận biết Chúa Hài Nhi. A-men.
.
Lm. Barnaba Lê An Phong,
1. Có một người Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến làm nhân chứng để làm chứng cho ánh sáng. Ông không phải là ánh sáng, nhưng đã được gửi đến làm chứng về ánh sáng đó. Và đây là lời chứng của Gioan, khi người Do Thái gửi các “chuyên viên” từ Jerusalem đến hỏi ông: “Ông là ai?”. Gioan thú nhận, không phủ nhận, “Tôi không phải là Đức Kitô” – Tôi không là Đấng cứu thế, cũng không phải là nhà tiên tri. “Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn con đường của Đức Chúa, như tiên tri Isaia đã nói”.
Trước mặt ông là sa mạc hoang vu, và nơi ấy Gioan đã lắng nghe Lời Chúa. Đến với ông là mọi người thuộc nhiều tầng lớp và là những ai muốn đổi mới cuộc đời. Gioan Tẩy giả loan báo và dọn đường bằng lời nói và bằng hành động nơi cuộc sống của chính mình.
Gioan Tẩy giả bị “hạch hỏi” vì những gì mình đang làm nhân đanh Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn dùng con người – các ngôn sứ – để nói về Ngài và nhờ họ dẫn đưa nhiều người về với Thiên Chúa. Cũng vì thế, lý chứng hay nhân chứng về Thiên Chúa không phải được con người đón nhận luôn luôn. Người ta có thể chất vấn, tra hỏi và xua đuổi các chứng nhân Tin mừng.
2. Tin mừng tuần này theo Thánh Gioan cũng nói đến ánh sáng và làm chứng cho ánh sáng. Cuộc tranh đấu giữa thiện và ác, tốt và xấu, ánh sáng và bóng tối vẫn luôn diễn ra trong và ngoài bản thân mỗi chúng ta. Bây giờ chúng ta đang bão hòa với “tin xấu” và sự dửng dưng, vô cảm. Chỉ cần nghe vài thông tin là người ta có thể rơi vào tình trạng “trầm cảm”. Đây là tin chiến tranh, này là tin cuộc sống “có vấn đề” của giới trẻ; nọ là tin bạo lực vô cớ đối với phụ nữ và trẻ em, kia là tin gia đình tan nát vì muôn vàn lý do ngô nghê.
Cần chăng những tin vui và bình an được loan đi! “Tin mừng của Thiên Chúa”, đây không phải là một kiểu chơi chữ. Lời mở đầu khi đọc Lời Chúa là “Tin mừng”. Con người luôn mong đợi được nghe một điều tốt lành ở giữa rất nhiều tin tức xấu. Sự xuất hiện của tình yêu Thiên Chúa nơi Đấng an ủi và hoà giải mọi người luôn là một tin tốt lành.
3. Theo gương Gioan, chúng ta có thể là một sự hiện diện chứng tá. Cũng giống như Gioan Tẩy Giả, mục đích rao giảng của ông không phải là để thu hút sự chú ý của mọi người về phía mình và để chiếm toàn bộ thế giới cho riêng mình, nhưng là để chuẩn bị một không gian rộng lớn hơn nơi tâm hồn mọi người, và toàn bộ không gian ấy thuộc về Chúa Giêsu Kitô. Chỉ có Ngài mới là “ân sủng tràn đầy của Thiên Chúa”, và Ngài sẽ xuất hiện cho chúng ta trong tất cả vẻ huy hoàng rực rỡ, như ánh sáng rọi vào đêm tối.
Ban và tôi có thể chuẩn bị và làm sạch sẽ không gian bụi bặm của tâm hồn mình để ánh sáng của Chúa có thể rọi chiếu vào. Bạn và tôi có thể làm chứng cho Ngài trong tuần lễ này bằng lối sống chân thực và khiêm nhường được chăng? Hãy thắp lên một ngọn nến nhỏ khi bạn cầu nguyện trong tuần này, một dấu hiệu cho thấy chúng ta đang tỉnh thức. Ngọn nến thắp sáng cũng là một dấu hiệu của ánh sáng đã rọi chiếu vào chúng ta qua Bí tích Rửa tội. Trong Mùa Vọng này, bạn được mời gọi để xem lại rằng ánh sáng ấy đang trở nên mờ nhạt hay không. Hãy xin Chúa giúp bạn cảm nhận được vẻ đẹp và sự ấm áp của ánh sáng đã đốt cháy tâm hồn bạn, để bạn cũng có thể làm sinh động, chiếu sáng và sưởi ấm những người gần gũi với bạn.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến với chúng con. Vì Ngài là ánh sáng của thế giới, xin hãy chiếu sáng tâm hồn chúng con. Amen.
.
NIỀM VUI ĐÍCH THỰC PHÁT XUẤT TỪ TÂM HỒN BÌNH AN
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Cách đây ít tuần, có một phụ nữ tâm sự: Thưa cha, cuộc sống gia đình con không hạnh phúc, con đã phải chịu đựng ông chồng vừa lười, vừa có tính gia trưởng và bạo hành. Con đã không thể chịu đựng được nữa nên đã đem con cái về nhà mẹ ruột ở. Vậy mà ông ấy vẫn đến quậy phá con, ông ấy còn tuyên bố: Mày có đi đến đâu thì cũng vẫn là vợ của tao. Con thấy cuộc sống của mình bất ổn quá, con nói ổng ly dị để cuộc sống bằng an và yên ổn làm ăn. Ông ấy nhất định không viết đơn nên con tự đưa đơn ra tòa. Tòa đã chấp nhận và xử cho hai người ly hôn, đến hay đã được hơn ba tháng. Thế nhưng, sự việc đã không như con nghĩ, ông ấy vẫn đến quậy con và tuyên bố: Tòa có xử ly hôn thì mày vẫn là vợ tao. Thế nhưng, thưa thật với cha, từ khi tòa xử đến nay, con không thấy vui, cũng không thấy tâm hồn bằng an, trái lại lương tâm áy náy, ruột gan rối bời, đầu óc hoảng loạn, có những lúc như không thở được.
Thưa quý OBACE, niềm vui đích thực phải là niềm vui phát xuất từ Thiên Chúa, nơi một tâm hồn bình an, thanh thản trước mặt Chúa và trước mặt mọi người. Bước vào tuần thứ ba mùa Vọng, màu sắc của phụng vụ và Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui lên vì Chúa đã đến gần. Chúng ta có thể vui được không? Điều gì đang làm tâm hồn ta trĩu nặng khiến ta không thể vui? Ai có thể đem đến niềm vui cho chúng ta?
Tiên tri Isaia cho biết, để có niềm vui thì cần phải có Chúa trong tâm hồn. Ông đã diễn tả niềm vui bằng những lời rất đẹp: Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Ông xác tín rằng, Chúa đã bước vào tâm hồn ông, biến đổi ông, hơn nữa, Chúa đã tín nhiệm, đã chọn và sai ông thi hành sứ mạng loan báo niềm vui cho người khác. Ông đã sẵn sàng để cho Thiên Chúa sử dụng mình: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Đức Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tâm hồn tan nát, công bố lệnh ân xá, phóng thích cho tù nhân. Vị tiên tri cũng chỉ cho thấy, để có được niềm vui đích thực cần phải để cho Thiên Chúa biến đổi: Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh. Ngài làm cho tâm hồn tôi trổ sinh những hoa trái tốt lành như đất đai làm đâm chồi nảy lộc, cây cối nảy mầm kết trái. Cách diễn tả giàu hình ảnh của Isaia nói lên việc Thiên Chúa đã biến đổi hoàn toàn con người ông và chính Chúa đem lại cho ông niềm vui.
Bài Tin Mừng giới thiệu cho chúng ta Gioan Tẩy Giả như một mẫu gương sống và cảm nhận được niềm vui phục vụ. Gioan là một ngôn sứ được sai đến với sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế, ông đã vui với sứ mạng của mình và chu toàn một cách tốt đẹp vai trò là một người dọn đường. Tin Mừng hôm nay giới thiệu sứ mạng của Gioan là để làm chứng về ánh sáng, chính ông không phải là ánh sáng. Với lời giảng thật mạnh mẽ, dứt khoát của Gioan, ông đã quy tụ được rất nhiều người đến nghe ông và xin chịu phép rửa tỏ lòng sám hối. Nhiều người thấy lối sống đơn sơ khắc khổ của ông, cùng với những lời kêu gọi sám hối: Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng, núi cao- bạt xuống, thung lũng- lấp cho đầy, đường quanh co- uốn lại cho ngay thẳng.., họ nghĩ rằng ông chính là Đấng Cứu thế. Gioan khiêm tốn nhận rằng: Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi. Gioan đã không ảo tưởng về sự thành công của mình, không để mình rơi vào cám dỗ trở thành người nổi tiếng và cũng không tìm cơ hội đánh bóng bản thân. Trái lại, Gioan đã trả lời cho những người thắc mắc về sứ mạng của ông, khi hỏi ông: Ông có phải là Đấng Kitô không, tại sao ông làm phép rửa? Gioan đã mượn lúc này để giải thích về Đấng Mesia, Đấng ấy sẽ làm phép rửa bằng Thánh Thần cho tất cả những ai tin Ngài. Còn Gioan đã nhận mình không đáng cúi xuống để cởi quai dép cho Người. Chính vì biết khiêm tốn đặt mình trước mặt Chúa, chu toàn tốt nhiệm vụ Chúa trao, Gioan đã trở thành con người ngập tràn niềm vui đơn sơ, thiêng liêng và thánh thiện.
Thánh Phaolô đã đúc kết lại và chỉ cho ta biết phải làm thế nào để có được niềm vui đích thực: Anh em hãy vui mừng luôn mãi, hãy cầu nguyện không ngừng và hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Anh em đừng dập tắt Thần Khí, chớ khinh thường những lời tiên tri. Điều gì tốt hãy giữ lấy, còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì cũng tránh cho xa. Khi thực hiện như thế, Chúa sẽ là nguồn mạch bình an trong tâm hồn, Ngài sẽ thánh hóa toàn diện con người chúng ta, để thần trí, tâm hồn và thể xác chúng ta được gìn giữ không có gì đáng trách trước mặt Chúa.
Cuộc sống chung quanh đang tạo ra rất nhiều thú vui, xã hội tạo ra nhiều tụ điểm vui chơi, nhưng con người dường như vẫn cảm thầy buồn chán. Có nhiều người phải che dấu sự bất an và đau khổ trong tâm hồn bằng sự ồn ào và nụ cười ngượng. Nhiều người gặp nhau chỉ khoe răng, hé môi, nhưng trong ánh mắt, trên nét mặt vẫn hằn sâu một nỗi buồn. Nhiều người, trong đó có những người trẻ, đang sống trong chán nản, buồn bã, vì cuộc sống đơn điệu, nhàm chán, họ cảm thấy mình cô đơn ngay trong gia đình và thấy lạc lõng ngay trong đám đông. Để tìm được niềm vui đích thức làm động lực cho cuộc sống, mỗi người cần phải mạnh dạn gỡ bỏ nguyên nhân chính gây buồn chán, đó là tình trạng lười biếng, tội lỗi. Hãy mạnh dạn làm hòa với Thiên Chúa và làm hòa lại với anh em, gỡ bỏ những gì đang cản bước chúng ta không đến được với Chúa và Chúa không đến được với ta, cũng như gỡ bỏ những vật cản, vướng mắc khiến ta không thể đến được với anh em.
Ma quỷ không thề làm điều tốt, nó chỉ có thể cám dỗ ta phạm tội và hứa sẽ đem lại niềm vui khi phạm tội. Nhưng khi đã nghe lời cám dỗ, nó chỉ có thể đem đến sự buồn chán và thất vọng. Chỉ có Chúa mới là nguồn vui và hạnh phúc đích thực. Khi có Chúa, tâm hồn ta sẽ có bình an thẳm sâu và niềm vui thánh thiện của Chúa. Khi cảm nhận được sự hiện diện yêu thương của Chúa, dù hoàn cảnh bên ngoài có thất bại hay sóng gió có thử thách vùi dập, ta vẫn cảm nhận được niềm vui và sự bình an của Chúa từ tận sâu trong tâm hồn.
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du), chúng ta chỉ có thể trở thành người đem niềm vui và bình an đến cho người khác khi trong lòng chúng ta thực sự ngập tràn niềm vui. Trái lại, khi tâm hồn chứa đầy u sầu buồn bã, chúng ta chỉ có thể đem đến cho người khác sự căng thẳng, nóng nảy, cãi vã. Vì vậy, để gia đình có được niềm vui và bình an, thì các thành viên, đặc biệt là cha mẹ, cần phải có niềm vui trong tâm hồn và trong cuộc sống. Niềm vui không đến từ các bữa nhậu, cũng không phải từ những cuộc túm tụm bạn bè bài bạc, nhưng phải là niềm vui của tâm hồn thanh thản, bình an vì sạch tội. Các cha mẹ cần tìm kiếm niềm vui vui đích thực qua việc hòa giải, gặp gỡ Chúa mỗi ngày nơi Thánh lễ, qua bí tích Thánh Thể và những giờ kinh cầu nguyện. Chúa sẽ ban cho ta một tâm hồn bình an thanh thản và niềm vui nhẹ nhàng lan tỏa trong cả ngày sống và trong gia đình.
Xã hội ngày nay đang tạo ra rất nhiều thú vui, nhiều bạn trẻ lao vào các cuộc vui như con thiêu thân lao vào ngọn đèn, đến độ thiêu rụi cả tương lai cuộc đời mình. Nhiều bạn trẻ khác để mình chìm ngập trong dòng chảy của thế giới ảo, lối sống ảo, sống vội, sống cuồng đến độ đánh mất thực tại cuộc đời. Càng lao vào những chỗ ồn ào, những thú vui và các cám dỗ của xã hội như thế, các bạn càng cảm thấy trống rỗng và buồn chán, mất ý nghĩa và mục đích sống. Mùa Vọng là dịp để mỗi bạn tìm lại ý nghĩa, mục đích và niềm vui đích thực cho cuộc sống của mình, bằng việc lấy Tin Mừng làm thước ngắm để uốn nắn lại hành động, lấy Chúa và sự phục vụ anh em làm niềm vui cho tâm hồn và dùng các việc đạo đức để cân bằng lại đời sống.
Xin Chúa cho mỗi chúng ta biết để cho Lời Chúa điều chỉnh cuộc sống của mình để mùa Vọng và Giáng Sinh này thực sự là mùa chúng ta cảm nhận được niềm vui của Chúa lan tỏa trong tâm hồn và lan tỏa đến từng lời nói và hành động của chúng ta. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề tài khá đa dạng, hướng đến những giá trị tư tưởng khác nhau. Gần như hầu hết các họa sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật Công giáo, từ Leonardo da Vinci, Titian, Caravaggio đến Rubens…đều tìm thấy trong cuộc đời của ông một chi tiết nào đó làm nguồn cảm hứng sáng tác cho mình. Riêng Caravaggio, đã vẽ đến hàng chục tác phẩm về Gioan Tẩy Giả…
Không chỉ nhiều, Gioan Tẩy Giả có lẽ cũng là vị Thánh đi vào hội họa sớm nhất. Icon thể hiện hình ảnh Thánh lâu đời nhất được tìm thấy, là icon về Gioan Tẩy Giả, được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, có nguồn gốc Palestine.
Bức tranh đã bị hư hại nhiều, không thể nhận biết hai hàng chữ viết hai bên chuyển tải thông điệp gì. Ở trên cùng, dễ nhận biết, bên trái, là hình ảnh Chúa Giêsu, và bên phải, là hình ảnh Đức Mẹ Maria.
Giữa vô số tranh vẽ Thánh Gioan Tẩy Giả, chiếm số lượng nhiều nhất, và có nhiều tác phẩm xuất sắc nhất, là ở mảng chủ đề: “Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết”.
Đây là icon thể hiện chủ đề “Thánh Gioan Tẩy Giả bị trảm quyết” được cho là lâu đời nhất được vẽ vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, thuộc truyền thống Byzantium.
Đứng chính giữa, là Thánh Gioan Tẩy Giả. Ông đang nói: “Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng”.
Phía sau là dòng sông, nơi ông thực hiện phép Rửa cho Chúa Giêsu.
Bên trái, là đầu của ông, đã bị chặt lìa, nhưng vẫn như đang hướng nhìn về phía chúng ta.
Bên phải: ở dưới là con chiên tượng trưng cho Dân Chúa như đang suy ngẫm về những gì Thánh Gioan Tẩy Giả nói trong sự tôn kính, và bên trên là cây tượng trưng cho sự sống.
Bức tranh như vậy, theo một số học giả, là sự khái quát trọn vẹn cuộc đời và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy Giả: “là nhà tiên tri cuối cùng, là người dọn đường cho sự ra đời của Chúa”. (Nguyên Hưng).
- Chứng nhân ánh sáng trung thực
Khởi đầu Phúc Âm, Thánh Gioan viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).Thánh Gioan là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng của sự trung thực.
Chúa Giêsu nói về Gioan: “Ðây còn hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11, 9). Và Chúa còn nói thêm : “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11). Nhưng so với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi “không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.
Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Ðấng Cứu Thế không? Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.
Trung thực với lòng mình, nên Gioan sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái Pharisiêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo nặng lời. Gioan gọi họ là loài “rắn độc” (Mt 3,7). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh thiện (Mc 6,20). Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.
Thánh Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng trung thực nên ngài đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.
- Thánh Gioan sống rất đẹp
Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.
Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.
Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được đám đông, được dân chúng ngưỡng mộ, họ xem ngài như một tiên tri cao cả, nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.
Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”(Ga 3,30)
- Thánh Gioan chết cũng rất đẹp, rất hào hùng.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc, nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn, dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước thương dân.
Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp và hào hùng vô cùng.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.
Người theo Ðạo Hồi giáo Islam sùng kính Thánh Gioan Tiền Hô ở giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Thánh Gioan Phaolô II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.
- Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân trung thực
Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.
Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam lại ngao ngán trước những tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian dối đầy dẫy trong xã hội như ngày hôm nay. Người dân phải chấp nhận sống chung với gian dối, tiêu cực, tệ nạn như người miền Tây, miền Trung được khuyên tập sống chung với lũ vậy.Ông Trần Quốc Thuận, văn phòng Quốc Hội Việt Nam tuyên bố: “Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lập lại nhiều lần thành ‘đạo đức’, mà cái ‘đạo đức’ đó là mất đạo đức.”. Gian dối trở thành tập quán xã hội, một bản tính thứ hai, một nền “đạo đức” của con người, như vậy thì tương lai của dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu?
Giáo sư Hoàng Tụy nhận định: Sự giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng, đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc… Trung thực thế nào được khi mà người ta hàng ngày phải sống trong một môi trường giả dối mà minh chứng rõ nhất là tiền lương công chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi ai cũng sống đàng hoàng, dư giả. (x.Báo Khuyến học & Dân trí, Thứ sáu, 28/11/2008).
Tác giả Đỗ Duy Ngọc viết bài: “Chúng ta đang ở thời đại nói láo toàn tập !”. Ông than thở: Không biết lịch sử ghi lại các triều đại phong kiến đúng sai như thế nào, cũng chẳng có cách nào để kiểm chứng. Thế nhưng, thời đại ta đang sống hoá ra toàn láo cả. Rồi lịch sử thời hiện đại sẽ viết sao đây?
Cuối bài, ông viết nghe thật buồn: Láo từ trung ương đến địa phương, láo từ tập đoàn cho đến công ty, láo từ một tổ chức cho đến cá nhân. Láo mọi ngành nghề, láo toàn xã hội. Tất cả đều bị đồng tiền sai khiến, bị danh lợi bám quanh.Hơn nữa vì sự thật bi đát quá, đành láo để khoả lấp, hi vọng sẽ an dân. Nhưng thời đại bùng nổ thông tin, dân biết hết nên chuyện láo trở thành trơ trẽn.Nghe láo quen, chúng ta lại tự láo với nhau và chuyện láo trở thành bình thường, láo để tồn tại, để phấn đấu, để thêm lợi thêm danh, và rồi láo đã trở thành một nếp sống.Trẻ con học người lớn nói láo rồi tiếp tục những thế hệ nói láo: Ở nhà trường nghe cô thày nói láo, ra đời nghe thiên hạ nói láo, về nhà lại được nghe nói láo từ cha mẹ, mở máy nghe, nhìn cũng rặt điều láo. Một nền văn hoá láo đã nẩy sinh và phát triển. Hỏi sao trẻ con không láo và tương lai lại tiếp tục láo. Nghĩ cũng buồn! Những ngày cuối tháng 10/2017 (x.baotiengdan.com).
Lm Nguyễn Hồng Giáo nhận định: Xã hội ta thì xưa nay đã quá quen với việc làm dối, nói dối, báo cáo láo đến nỗi dường như không còn coi đó là một điều xấu nữa. Chúng ta còn nhớ một khẩu hiệu được tung ra thời đầu đổi mới là “Nói thẳng, nói thật”. Có chủ trương như thế là vì có tình trạng quanh co, gian dối. Một bài thơ châm biếm đăng trên Sài Gòn Giải phóng ngày 18. 5. 1990 có nhan đề đáng để ý.
Thôi xài chữ giả
Chữ nghĩa du di chả mấy hồi
Đói không nói đói, “thiếu ăn” thôi!
Học hành “hạn chế”: y chang dốt
Báo cáo “tuy nhiên”: ắt hẳn… tồi.
“Vượt mức chỉ tiêu”? Nên bớt nửa,
“Có phần sơ sót”? Hãy nhân đôi…
Mực đen gấy trắng đòi trung thực
Chữ giả xài lâu hỏng lắm rồi. (Long Vân)
Các nhà nghiên cứu đã phân tích và nêu lên nhiều nguyên nhân của tình trạng thiếu trung thực tràn lan. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng, ta còn có thể nghĩ tới một nguyên nhân sâu xa mà hình như chưa ai đề cập tới cách thẳng thắn. Đó là liệu tình trạng này có liên quan cách nào đó chăng tới nhân sinh quan chính thức của xã hội ta hay ít nhất là tới một cách làm, cách nghĩ lâu đời đã ăn quá sâu vào trong tâm thức của giới cầm quyền và nhân dân? Tôi không dám khẳng định mà chỉ nêu câu hỏi như một “giả thuyết làm việc”, như người ta quen nói trong phạm vi nghiên cứu khoa học (hypothèse de travail)… Tôi thiển nghĩ, muốn cải tổ giáo dục theo chiều hướng trung thực, cần phải có một sự cải tổ sâu hơn về não trạng và về quan niệm đạo đức, tựu trung là về nhân sinh quan. (x. Giả dối lan tràn, tại sao? Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM).
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Trung Tín (1 Tx 5,24). Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao cho chúng ta những trách nhiệm lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải là chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội mà sự gian dối đã trở thành “đạo đức”.
Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học sinh.
Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.
.
P.Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn, Bốn sách Tin Mừng, Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng theo thánh Gioan đều có chung “ nhất lãm” về “nhân vật “ Tiền Hô” cho Đấng Cứu Thế.
Hôm nay , Chúa Nhật III Mùa Vọng cho chúng ta về một “ chứng nhân” cho Đấng Cứu Thế. Sự xuất hiện của Chúa Giêsu không phải là một sự xuất hiện “đơn điệu”, dù rằng là một sự “ tự hạ” hết sức. Nhưng, lời tiên tri loan báo từ ngàn xưa và đến thời giờ đã định, Thiên Chúa cho xuất hiện nhân vật “ làm chứng” là Gioan Tiền Hô. Một gương sống khiêm nhường, đến độ người ta tưởng lầm là Đấng Cứu Thế , tức Kitô.
Nhưng thánh Gioan Tiền Hô không “ mạo nhận “ lợi dụng cơ hội nầy để “lừa gạt”, mà ngài nói “ Tôi không phải là Đấng Kitô”. “ Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” ( c 23)
Cuộc sống khắc khổ của ngài, lời ngài rao giảng sám hối, làm phép rửa thể hiện một ngôn sứ, một ngôn sứ của thời đại mới. Tiếng tăm của ngài vang xa, đến độ các thầy Lêvi cho người đến dò hỏi trực tiếp : “ Ông là ai ?”. Có phải là Êlia, hay Đấng Kitô, ông đều trả lời : “Không”, ông rất thẳng thắn, không mạo nhận mình là “ ngôn sứ”. Nhưng, người ta hỏi : “Tại sao ông làm phép rửa”, ông trả lời: “ Tôi làm phép rửa trong nước, nhưng Đấng đến sau tôi, đang ngự giữa các ông mà các ông không biết”.
Tuy , Đấng Cứu Thế được loan báo từ ngàn xưa, nhưng đến thời gian Người xuất hiện thật âm thầm, đến độ “tầm thường”, nhưng, “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”. ( c 6-8)
Như vậy, vời ba câu mở đầu nói về Gioan Tiền Hô, với cách nói của thánh Gioan tông đồ, chúng ta thấy cách viết của thánh Gioan rất độc đáo, chỉ ba câu, nhưng nói lên được tính cánh của một con người Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế, đồng thời nói lên “đặc tính” của Đấng Cứu Thế là ” ÁNH SÁNG”. Không gì “thật” bằng ánh sáng, không gì “sáng” bằng ánh sáng, không gì “ mạnh” bằng ánh sáng, không gì “ nhanh” bằng ánh sáng và không gì “ sáng” bằng ánh sáng.
Theo đó, người làm chứng về ánh sáng, thật là một người “sáng”, và người ấy phải từ Thiên Chúa mà đến. Như vậy, sau Đấng Cứu Thế, thánh Gioan Tiền Hô cũng là một “ánh sáng”,nhưng, không phải là “ánh sáng” Cứu Thế, bởi vì, như Lời Chúa Giêsu nói: “ Không có phàm nhân nào do bởi lòng mẹ sinh ra mà cao trọng hơn Gioan Tẩy giả”, nhưng “ kẻ nhỏ nhất trong Nước trời còn cao trọng hơn ông”. Theo đó, chúng ta suy ra được Đấng Cứu Thế Giêsu- Kitô thật cao trọng dường nào.
Như vậy, vai trò Tiền Hô của Gioan Tẩy Giả, dù ngài không nhận mình là ngôn sứ, nhưng, ngài đảm nhận sứ mạng như Isaia, có thể nói Gioan Tẩy Gỉa chính là “Isaia thứ hai” cho Đấng Cứu Thế. Vì : “ Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Ngài sai tôi đến với người nghèo khó…” nói lên sứ mạng của Đấng Cứu Thế, mà Tiên Tri Isaia đã nói từ ngàn xưa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để cứu độ chúng con, và đã chọn một nhân vật “làm chứng”, để minh chứng Chúa chính là “ÁNH SÁNG” cứu độ. Xin thương ban cho những ai mong chờ ngày Chúa đến được xứng đáng gặp Người, dù là ngày tưởng nhờ Người đến lần thứ Nhất, và lần sau cùng. Amen
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG_B
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam
Tin mừng Chúa nhật III Mùa Vọng qua cuộc gặp gỡ giữa Gioan Baotixita với các thầy tư tế và các thầy Lêvi trình bày cho chúng ta một tin vui: Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ nhân loại và yêu thương đang hiện diện giữa chúng ta. Ngài đến để chiếu sáng thế gian: “Nhưng giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy đến sau tôi, nhưng có trước tôi. Tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Người”.
Gioan Tẩy Giả là người làm chứng cho Đấng Cứu Thế “Ông đến để làm chứng cho ánh sáng”. Ánh sáng đích thực là chúa Kitô. Lúc bấy giờ dân chúng mến mộ Gioan Tẩy Giả. Họ tưởng ông là Đấng Messia là ánh sáng, là một vị tiên tri. Ông đã ba lần phủ nhận: “Tôi không phải là Đấng Messia, không phải là ánh sáng”.
Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả là chứng nhân cho sự sáng thật là Đức Giêsu Kitô.
– Qua lối sống khổ hạnh, hy sinh hãm mình, lời rao giảng sám hối và qua lời chứng: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: hãy sửa cho ngay đường Chúa đi” (Ga 1, 23). Đã xác minh Gioan Tẩy Giả là Vị tiền hô của Đấng Cứu Thế, là chứng nhân của Thiên Chúa. Gioan Tẩy Giả chỉ đứng ra làm chứng, giới thiệu Đấng Cứu Thế: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Khi Đấng Messia xuất hiện, thì ngài rút lui vào bóng tối: “Người phải lớn lên, tôi phải nhỏ đi”.
– Có thể nói, Gioan Tẩy Giả là người tôi tớ, còn Đức Giêsu là ông chủ. Gioan là ngọn đèn soi. Đức Giêsu là ánh sáng. Gioan là tiếng kêu và Đức Giêsu là lời hằng sống của Thiên Chúa.
– Như Gioan Tẩy Giả, Kitô hữu phải là chứng nhân cho Đức Kitô trong cuộc sống hôm nay.
– Gioan Tẩy Giả khiêm tốn tự nhận mình là tiếng hô trong sa mạc để dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Khi thi hành bổn phận với những thành công, chúng ta phải biết quy hướng tất cả về Thiên Chúa “Tất cả vì vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn”.
– Sống chứng nhân cho Chúa bằng cuộc sống gương mẫu đạo đức: hiền lành, yêu thương, tha thứ, khiêm hạ…
– Thánh Gioan Tiền hô đã anh dũng làm chứng nhân cho ánh sáng, cho chân lý mà ngài đã phải trả giá rất mắc là chấp nhận tù đầy và bị chặt đầu. Trong xã hội hôm nay, người ta đánh mất đi ý thức về công bằng, về chân lý, Kitô hữu cũng phải can đảm dám nói lên sự thật, thà chết không thỏa hiệp với ma quỷ, với tội lỗi, với thế gian.
Mùa Vọng nhắc chúng ta dọn lại con đường tâm hồn cho Chúa đến, dọn lòng mình, dọn lòng anh em, để Chúa đến với mọi người. Một lời nói thân thiện, một việc làm bác ái, một sự hy sinh phục vụ anh em, một nụ cười thông cảm… do đức tin soi dẫn, sẽ mang lại sức sống, niềm tin cho mọi người. Đó là cách dọn lòng mình và tha nhân, đón Chúa đến một cách thiết thực và chân thành nhất.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG_B
Fx. Đỗ Công Minh
Mùa Vọng, mùa trông đợi đã trở về với nhân lọai chúng con. Tuần này đã là tuần thứ ba của mùa Vọng. Đó đây trong khuôn viên các nhà thờ đã có đèn sao nhấp nháy trên những cây thông xinh xắn. Những hang đá máng cỏ đang được dựng lên chuẩn bị cho ngày đại lễ. Trên những xóm ngõ của các xứ đạo, người người chăng đèn kết sao. Những hàng chữ MERRY CHRISTMAS bên những Ông già Noel vai đeo túi quà tươi cười vẫy chào. Không khí ngày lễ đang tràn về trên phố phường khiến mọi người có thêm niềm vui.
Lạy Chúa,
Con cũng đang chuẩn bị cho ngày đại lễ, con dọn lại nhà cửa, sắp xếp cho Chúa một chỗ nhỏ trong căn phòng khách. Nơi đó sẽ có một cây thông nhỏ, có bộ tượng be bé xinh xinh, có những dây đèn điện, những quả cầu trang trí, những dây kim tuyến đủ màu. Nhìn vào là thấy một bầu khí ấm cúng của đêm Chúa ra đời, thay cho một đêm đông giá rét ngòai đồng vắng không người qua lại, chỉ có những chú mục đồng nghèo nàn trong các căn chòi tá túc hơn 2000 năm trước đây. Con dọn chỗ đón Chúa bằng những hình thức quả có trang trọng, đẹp đẽ trong nhà của con với những thứ bên ngòai, như mọi người trên thế giới này. Như thế có đầy đủ?
Bài tin mừng hôm nay giới thiệu: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan, ông đến để làm chứng“. Ông xác định mình: “Tôi không phải là Đức Kytô“, cũng không nhận mình là Ông Êlia hay một vị Ngôn sứ. “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như Ngôn sứ Isaia đã nói“. Lời Chúa cho con nhận ra rằng chuẩn bị cho ngày lễ bằng những hình thức bên ngòai không có gì sai, nhưng quả thật là chưa đủ. Con còn phải sửa con đường tâm linh cho thẳng để Chúa đi và để con đón Chúa đến. Ông Gioan, một vị sứ giả của Thiên Chúa, ông cũng rao giảng, nhưng không phải nói về ông, đề cao mình là một Rabbi trong dân Israel, mặc dầu có rất nhiều người ngưỡng mộ. Thậm chí có nhiều người đến xin làm môn đệ. Ông chỉ nhận mình là người giới thiệu: ”Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết“.
Chúa đến trần gian này để con người được chia sẻ hạnh phúc là con Thiên Chúa. Được hưởng niềm vui Chúa trao, đó là sự bình an. Con người không còn sống trong tội lỗi, không còn tranh chấp, khinh chê lẫn nhau, áp bức nhau. Sẵn sàng coi nhau là anh em con một Cha, sẵn sàng đến với nhau, giúp nhau cùng thăng tiến. Và để có được những điều ấy con phải mở lòng đón tiếp Chúa, dọn cho Chúa một con đường đi vào nhà Linh hồn con. Con đường ấy không thể lồi lên những thói xấu, những ích kỷ. Không lõm xuống nhửng đam mê dục vọng.
Những núi đồi kiêu căng, tự mãn, coi rẻ người khác nơi con phải được bạt đi cho phẳng. Những khúc quanh dối trá, lươn lẹo của con phải được uốn nắn lại theo sự công chính và ngay thẳng. Con có dám làm những điều ấy? Con có xứng đáng là người loan báo Chúa cho những anh chị em con chưa nhận biết Người? Con có nói về Chúa, sống làm gương ngay trong gia đình, để giới thiệu Chúa cho con cái, người thân của con? Lời Chúa vẫn đang tra vấn con…
Nếu con vẫn sống như con đang sống hôm nay, và mỗi năm, mùa Vọng về, vẫn dọn nhà cửa, trang trí trong ngòai căn nhà vật chất này thôi, thì nhà con, tâm hồn con đâu có chỗ cho Người ngự vào.
Xin cho con nhân những ngày này biết dọn lòng đón Chúa vào gia đình, vào linh hồn con, biết thay đổi cách sống của mình. Bây giờ con còn tội lỗi, vấp phạm thì nhờ ơn Chúa, con sẽ đứng lên và đến với Chúa xin ơn tha thứ. Xin Chúa giúp con. Chúa ơi!
.
Trầm Thiên Thu
Khiêm nhường là nhân đức cần thiết đối với mọi người, lại càng quan trọng hơn đối với những người làm chứng về Thiên Chúa. Sống khiêm nhường không dễ, bởi vì “cái tôi” luôn muốn nổi loạn bất cứ lúc nào. “Không dễ” có nghĩa là “khó”, nhưng “khó” không có nghĩa là “không làm được” hoặc “bất lực”. Chúa Giêsu chỉ cho bí quyết sống khiêm nhường: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17:10). Đừng quan trọng hóa mình thì có thể sống khiêm nhường.
Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi? Như có lời chép: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo tin mừng!” (Rm 10:14-15). Rất lô-gích!
BÀI SAI CỦA CHÚA
Ai cũng có trách nhiệm làm chứng về Đức Giêsu Kitô theo hoàn cảnh sống của mình. Khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, được trở nên con cái của Thiên Chúa, đồng thời mỗi Kitô hữu cũng được Thiên Chúa sai đi vào giữa cuộc đời để làm nhân-chứng-sống cho Ngài. Thật vậy, điều đó được ngôn sứ Isaia khi nói thay tất cả chúng ta: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than” (Is 61:1-2).
Trọng trách đó không của riêng ai, bổn phận đó của bất cứ ai tin tưởng và mong đợi Đấng Cứu Thế. Nhưng vấn đề là Chúa không sai ai đến với người giàu sang, người quyền cao chức trọng, người ăn trên ngồi trước,… mà Ngài sai chúng ta đến với kẻ nghèo hèn, người đau khổ, tù nhân, người bị bỏ rơi, kẻ bị khinh miệt, kẻ cùng đinh,… Nhưng thực tế xã hội thường đi ngược lại, nghe “lời sai đi” kia cho xong lần, qua tai rồi thôi, sau đó có thể lại tự hành động theo ý mình. Có lẽ vậy mà người nghèo khổ và kẻ thấp cổ bé miệng vẫn không thể ngóc đầu lên được, nhân vị của họ vẫn bị chà đạp, nhân phẩm của họ vẫn bị bôi nhọ, và nhân quyền của họ vẫn bị tước đoạt! Chính ĐGH Leo XIII đã xác định trong tông thư Tân Sự (Rerum Novarum, 15-5-1891): “Sự nghèo khổ không là điều hổ thẹn” (a. 37).
Không phải đi làm theo ý mình, mà bước chân ra đi và dấn thân vào đời để hành động theo hướng dẫn của Thiên Chúa, có vậy thì chúng ta mới có thể “như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân” (Is 61:11).
Đức Mẹ là một nhân chứng sống động và khiêm nhường. Lời Kinh Magnificat (Lc 1:46-50, 53-54) của Đức Maria chứa đầy niềm hân hoan: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi”. Tuy là người cao trọng và có cuộc sống tuyệt vời, nhưng Đức Mẹ vẫn tự nhận mình là “phận nữ tỳ hèn mọn”. Đó là sự khiêm nhường đúng Thánh Ý Chúa. Thiên Chúa là Đáng toàn năng, Ngài không chỉ làm cho Đức Mẹ biết bao điều cao cả, mà hàng ngày chúng ta cũng vẫn nhận “miễn phí” từ Thiên Chúa với bao điều kỳ diệu của cuộc sống! Đơn giản nhất mà cũng quan yếu nhất là không khí, nếu không có không khí trong vài giây thì không gì sống nổi. Một hồng ân kỳ diệu hiển nhiên vẫn xảy ra từng giây phút hàng ngày, nhưng đôi khi chúng ta “làm ngơ” và thậm chí còn đòi hỏi nhiều thứ hơn nữa.
Tất cả hồng ân đều bởi Lòng Thương Xót vô hạn của Thiên Chúa, bởi vì Ngài “hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:50). Thiên Chúa là Đấng Thánh cao cả, luôn yêu chuộng sự công bình và đức khiêm nhường: “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1:53-54). Cựu Ước cũng đề cập tương tự: “Đức Chúa hạ bệ những ai quyền thế, và đặt kẻ hiền lành ngồi lên thay” (Hc 10:14). Ngôn sứ Isaia nói: “Đức Chúa các đạo binh đã quyết định điều ấy để làm nhục mọi đứa cao sang ngạo mạn và hạ bệ mọi kẻ hiển danh trên mặt đất” (Is 23:9). Và rồi chính vua Na-bu-cô-đô-nô-xo cũng phải công nhận: “Giờ đây, ta, Na-bu-cô-đô-nô-xo, ta ca ngợi, tán dương và tôn vinh Vua Trời, vì mọi việc Người làm đều chân thật, đường lối của Người vốn công minh. Người có quyền hạ bệ kẻ quen thói kiêu căng hống hách” (Đn 4:34).
Có điều quan trọng: Mặc dù hành động nhưng vẫn không được xao lãng việc cầu nguyện. Thánh Phaolô căn dặn: “Anh chị em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng” (1 Tx 5:16-17). Không chỉ tạ ơn khi thuận ý mình mà “hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh” (1 Tx 5:18), vì “đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu”. Thánh Phaolô căn dặn thêm: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ, còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1 Tx 5:21-22). Tỉnh thức, vừa hành động vừa cầu nguyện để “thần trí, tâm hồn và thân xác được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm” (1 Tx 5:23).
Với kinh nghiệm dày dạn, thánh Phaolô xác định chắc chắn với chúng ta như đinh đóng cột: “Đấng kêu gọi anh chị em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1 Tx 5:24). Ôi, thế thì trên cả tuyệt vời! Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành” (Ga 17:24). Nhưng cũng cần có điều kiện, điều kiện đó không vì lợi ích cho Chúa mà vì lợi ích cho chính chúng ta. Lợi ích đó là gì?
TRỞ THÀNH NHÂN CHỨNG
Thiên Chúa đã sai ông Gioan làm người tiền phong đến dọn đường trước khi sai Con Một Giêsu đến thế gian. Ông được gọi là tiền hô, ông không là ánh sáng nhưng ông đến để “làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1:7). Và Thiên Chúa cũng trao “bài sai” cho những ai tin nhận Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ.
Lúc đó, nhiều người Do Thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi xem ông Gioan là ai, nhưng ông nói thẳng: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ lại hỏi ông có phải là ông Êlia hay là vị ngôn sứ chăng. Ông vẫn một mực từ chối: “Không”. Họ chưa thỏa mãn nên tiếp tục hỏi, ông Gioan đành nói thật: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói” (Ga 1:23). Nhân vật quan trọng Gioan thực sự khiêm nhường khi chỉ nhận mình là “tiếng hô trong hoang địa”.
Sao kỳ vậy nhỉ? Mấy người thuộc phái Pharisêu nghe nói vậy nên nhíu mày và tròn mắt ếch: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?”. Đúng là bọn người “ma mãnh” mà lại quá chậm tiêu! Ông Gioan trả lời rành rọt: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1:27). Lại một lần nữa ông Gioan thể hiện đức khiêm nhường khi nói mình “không đáng cởi quai dép” cho Đấng đến sau ông.
Đức khiêm nhường là nền tảng mọi nhân đức, nhưng cũng là nhân đức khó thực hiện, bởi vì “cái tôi” luôn “cản mũi kỳ đà”. Ai cũng muốn được khen, vì đó là bản tính bình thường của phàm nhân. Không ai muốn bị chê, nhất là những người có chức quyền, danh vọng, địa vị, “tai mắt” trong thiên hạ,… Tự ái là yêu mình, yêu mình là điều cần, nhưng đừng yêu mình quá. Đôi khi “chiếc ghế quyền lực” còn được người ta coi trọng hơn danh dự. Thực tế xã hội đã và đang cho chúng ta thấy rõ như vậy. Đó là một “hội chứng” đáng quan ngại, ngày nay người ta thường gọi các dạng đó là “chủ nghĩa” – chủ nghĩa quyền lực, chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa 5V (vội vàng vơ vét về).
Người Việt có cách nói: “Văn mình, vợ người”. Quả thật, văn mình lúc nào cũng hay, và vợ người bao giờ cũng đẹp. Người ta luôn muốn chứng tỏ mình đúng và “bản lĩnh” của mình hơn hẳn người khác. Ai “chạm” vào quyền lợi của mình thì “có chuyện”, dù đó chỉ là “chuyện nhỏ”, không đáng chi cả. Thật vậy, chỉ nhìn thấy “ngứa mắt” mà người ta cũng sẵn sàng “xử” nhau theo “luật rừng”, và họ lý luận là “đánh cho bõ ghét” hoặc “giết cho biết tay”. Quả thật, “cái tôi” và “cục máu tự ái” luôn sẵn sàng dâng cao như sóng thần bất cứ lúc nào. Đúng là không dễ gì sống khiêm nhường đâu!
Có lẽ ít ai lại không nghe nói tới vĩ nhân Mohandas Karamchand Gandhi (2/10/1869 – 30/1/1948). Ông được dân Ấn Độ tôn là thánh nhân và gọi ông là Mahatma (Tâm hồn Vĩ đại). Ông đã từng nhận định: “NẾU các Kitô hữu SỐNG ĐÚNG như Chúa Giêsu, tôi THEO đạo ngay”. Quả thật, một câu nói khiến chúng ta cảm thấy “nhức nhối” và phải suy nghĩ thật nhiều. Thiên Chúa muốn chúng ta phải thực sự là những nhân chứng sống động và khiêm nhường mà chúng ta chưa đạt đến tiêu chuẩn mà Ngài đề ra!
Thời gian thấm thoắt thoi đưa, con đường Mùa Vọng đã bước sang chặng thứ ba (tuần III), nghĩa là đã được nửa đường. Do đó, hôm nay Giáo hội không sử dụng màu Tím mà sử dụng màu Hồng – gọi là “Chúa Nhật Hồng”, thể hiện niềm vui mừng vì sắp đến ngày Ngôi Hai giáng trần. Trong khi chờ mong, không thể ngồi “chờ sung rụng” mà phải tích cực hành động, nghĩa là chúng ta phải lên đường và vào đời…
Làm nhân chứng là trách nhiệm và bổn phận, nhưng làm nhân chứng mà không khiêm nhường thì vô ích, Chúa không cần loại nhân chứng đó!
Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài đã dựng nên chúng con để làm sáng danh Ngài, rồi Ngài lại sai chúng con vào đời để làm chứng về Tình Yêu vô biên và Lòng Thương Xót bao la của Ngài, xin ban Thánh Thần để chúng con can đảm và nhiệt tâm làm nhân chứng về Ngài, sẵn sàng dấn thân và hành động với tinh thần khiêm nhường, và luôn biết nhận mình thiếu sót để khả dĩ sửa sai theo đúng Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đấng Thiên Sai, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm. Trịnh Ngọc Danh
Có một người đến gặp Đức Phật. Hai tay cầm hai bó hoa. Đức Phật nhìn anh và nói: “ Quăng nó đi!” Anh ta sửng sốt, không hiểu vì sao Đức Phật lại bảo mình quăng những bó hoa ấy đi. Anh ta đoán có lẽ Đức Phật yêu cầu mình quăng bó hoa trong tay trái, vì đưa cho ai một cái gì đó bằng tay trái là điều được xem như không lịch sự. Thế là anh vứt bó hoa trên tay trái mình xuống đất. Nhưng Đức Phật vẫn nói: “ Quăng nó đi!” Lần này anh ném bó hoa còn lại và đứng trước mặt Đức Phật với hai bàn tay trơ trọi. Một lần nữa, Đức Phật mỉm cười và nói : “ Quăng nó đi!” Hết sức lúng túng, anh ta hỏi: “ Thưa ngài! Con còn phải quăng cái gì nữa?” Đức Phật trả lời: “ Không phải hoa, con ạ; nhưng là chính người cầm hoa.”
Thánh Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ của Đấng Thiên Sai, đã vứt bỏ cái tôi của mình, đã vứt đi những ý riêng, những tự mãn kiêu căng, những đam mê của xác thịt. Ngài sống trong hoang địa, “ mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng day da, ăn chấu chấu và uống mật ong.” Ngài nhận mình chỉ là tiếng kêu giữa sa mạc hoang vắng vì lòng nhân loại đối với Đấng Mêsia. Tiếng kêu vang lên rồi biến mất trong không gian, chẳng còn để lại dấu tích gì. Nó chỉ có tác dụng cho ai đó còn giữ lại được nó trong trí óc, con tim của mình.
Được hàng ngàn người đi theo nghe giảng và nhận phép rửa, nhưng thánh Gioan không từ đó mà sinh tự phụ đưa mình lên. Khi được hỏi đi hỏi lại nhiều lần: “ Ông là ai?” ngài đã công khai tuyên bố với dân chúng ngài không phải Đấng Kitô, cũng không phải là những bậc ngôn sứ nổi tiếng như Êlia, Giêrêmia hay là một ngôn sứ nào khác, ngài chỉ nhận mình là” tiếng người hô trong hoang địa.” Ngài khiêm tốn trung thực xác nhận với dân chúng: “ Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” Nhiệm vụ của ngài là “đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin Ông không phải là ánh sáng nhưng đến để làm chứng cho ánh sáng.” ( Ga 1:7-8). Ánh Sáng ấy là Ngôi Lời, là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa. Nếu đặt mình vào trường hợp của thánh Gioan, có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ từ đó coi mình là một nhân vật quan trọng để rồi làm lu mờ đi hình ảnh của người mình muốn làm chứng và giới thiệu.
Sau khi chết và sống lại, Đức Kitô phục sinh đã trăn trối cho các môn đệ lần cuối cùng trước khi về trời: “ Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” ( Mt 28:19-20). Các môn đệ của Đức Kitô cũng đã lần lượt ra đi. Vậy thì nhiệm vụ tiếp nối công việc làm chứng cho Chúa sẽ trao cho ai đây? Mỗi người Kitô hữu đều lãnh trách nhiệm trở nên môn đệ của Chúa Phục sinh để làm chứng cho Ánh Sáng. Chúng ta là chứng nhân Kitô hữu.
Đấng mà chúng ta phải làm chứng là Đấng đang ở giữa chúng ta mà chúng ta không biết, không thấy: “Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” ( Ga 1:10-11) Đó là lý do Chúa cần chúng ta ra đi trở thành chứng nhân để tiếp nối công việc của các tông đồ xưa kia.
Bước vào Mùa Vọng, không những chúng ta được nhắc nhớ nhiệm vụ mở đường nơi lòng mình mà còn giới thiệu, mở đường cho người khác để Chúa đến. Thiếu việc làm chứng, thì gương mặt của Đức Kitô vẫn còn bị lu mờ trong thế giới hôm nay. Con đường làm chứng hữu hiệu nhất cho Ánh Sáng là theo gương thánh Gioan sống khiêm nhường, khổ hạnh, trung thực, quên mình
Trong vai trò chứng nhân của người Kitô hữu hôm nay, chúng ta sẽ trả lời thế nào khi có người hỏi chúng ta: “ Vậy ông bà là ai?
.
JM. Lam Thy
Bài Tin Mừng hôm nay (CN III/MV-B – Ga 1, 6-8.19-28) trình thuật: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” (Ga 1, 6-8). Mới thoạt nghe Tin Mừng, tự nhiên nảy sinh thắc mắc: Bình thường khi một người làm chứng thì chỉ có thể làm chứng về một sự việc có thật xảy ra (trong đó người hay vật chứng phải là người thật, vật thật). Ánh sáng không phải là một vật thể, lại càng không phải là một người thật, mà chỉ là sự phát sáng từ một vật thể khác, vậy thì làm sao để có thể “làm chứng về ánh sáng”? Vấn đề cần phải được hiểu như thế nào?
Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia) đã giải thích về ánh sáng: “Ánh sáng là từ phổ thông dùng để chỉ các bức xạ điện từ có bước sóng nằm trong vùng quang phổ nhìn thấy được bằng mắt thường (tức là từ khoảng 400 nm đến 700 nm). Giống như mọi bức xạ điện từ, ánh sáng có thể được mô tả như những đợt sóng hạt chuyển động gọi là photon. Ánh sáng do Mặt Trời tạo ra còn được gọi là ánh nắng (hay còn gọi là ánh sáng trắng bao gồm nhiều ánh sáng đơn sắc biến thiên liên tục từ đỏ đến tím). Ánh sáng Mặt Trăng mà chúng ta thấy được gọi là ánh trăng thực tế là ánh sáng do mặt trời chiếu tới mặt trăng phản xạ đi tới mắt người. Ánh sáng do đèn tạo ra còn được gọi là ánh đèn; do các loài vật phát ra gọi là ánh sáng sinh học.”
Để hiểu được thế nào là “làm chứng về ành sáng”, cần phải hiểu Lời Chúa được các thánh sử trình thuật đều nằm trong giới hạn của “nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng” (nghĩa đen và nghĩa bóng), mà Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini” (số 27) đã giải thích: “Về phương diện này, người ta có thể nhắc tới 2 câu thơ trung cổ diễn tả mối tương quan giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh: “Littera gesta docet, quid credas allegoria, Moralis quid agas, quo tendas anagogia” (Chữ đen nói tới việc làm; ẩn dụ nói về đức tin; Luân lý nói tới hành động; loại suy nói về số phận ta).” Như vậy là thánh sử Gio-an đã dùng từ “ánh sáng” theo nghĩa “ẩn dụ” – nghĩa thiêng liêng – để chỉ về Đức Giê-su Ngôi Lời nhập thể. Ngay từ Lời mở đầu trong sách Tin Mừng, thánh nhân đã viết: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.” (Ga 1, 1-5). Đó là chưa kể chính Đức Giê-su cũng tự nhận Người chính là ánh sáng: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối.” (Ga 12, 46).
Rõ ràng thánh sử Gio-an đã giới thiệu thánh Gio-an Tẩy Giả là người “làm chứng về ánh sáng” với ngụ ý là một “chứng nhân của chân lý Cứu Độ”. Mà chân lý Cứu Độ là “điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.” (1Ga 1, 1). Lời Sự Sống ấy chính là Đức Giê-su Ki-tô mà ở phần kết luận sách Tin Mừng, thánh sử đã xác quyết: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực. Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21, 24-25). Cuối cùng, khi viết “Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” thì thánh sử Gio-an lại là một nhân chứng của “người làm chứng về ánh sáng” (thánh Gio-an Tẩy Giả).
Không những thế, Người được làm chứng (là Đức Giê-su Ki-tô) cũng làm chứng về nhân chứng độc đáo (thánh Gio-an Tẩy Giả) ấy: “tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến. Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả.” (Mt 11, 9-11); “Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ. Ông Gio-an là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian.” (Ga 5, 34-35). Quả thực, không còn một lời chứng nào sáng tỏ và thuyết phục hơn về “Chứng nhân của ánh sáng” Gio-an Bao-ti-xi-ta.
Người làm chứng phải là người có kinh nghiệm thật sự về điều mình làm chứng: hoặc thấy tận mắt sự việc, hoặc cảm nghiệm được sự việc cách thấu đáo. Người làm chứng (chủ thể) chỉ có thể làm chứng về một người khác (khách thể), chớ không ai lại làm chứng về bản thân mình. Chính Đức Giê-su đã giải thích rõ ràng: “Nếu tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. Có Đấng khác làm chứng về tôi, và tôi biết: lời người làm chứng về tôi là lời chứng thật. Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật.” (Ga 5, 31-33). Tuy được chính Đấng Ki-tô làm chứng về mình, nhưng khi bị một số Tư-tế và thầy Lê-vi vặn hỏi, thánh Gio-an Tẩy Giả vẫn một mực khẳng định ngài “không phải là Đấng Ki-tô, không phải là Ê-li-a, không phải là ngôn sứ”, mà chỉ khiêm nhường tự nhận “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (Ga 1, 23).
Không những tự nhận mình chỉ là “tiếng người hô trong hoang địa”, Thánh Gio-an Tẩy Giả còn xác quyết về Đức Ki-tô: “Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1, 27). Đức tính tuyệt đối khiêm nhường cộng với những hành vi công minh chính trực đã khiến thánh Gio-an Tiền Hô từ một người “làm chứng về ánh sáng” lại trở nên “ngọn đèn cháy sáng” (Ga 5, 35) đã toả ra các làn ánh sáng sau đây:
1- Ánh sáng của sự tự nguyện sống khổ hạnh, hãm mình ép xác: Thánh Kinh đã ghi nhận: “Cậu bé Gio-an càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân It-ra-en.” (Lc 1, 80). Hoang địa là sa mạc hoang vu, cô tịch, đầy thú dữ, thời tiết lại khắc nghiệt (ngày thì nắng cháy da, đêm thì lạnh cóng ruột). Ngay từ nhỏ, Thánh nhân đã chấp nhận sống trong hoang địa với cách ăn mặc đơn sơ, đạm bạc (“Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng” – Mc 1, 4-6), chứng tỏ ngài đã chấp nhận sống khổ hạnh để theo đuổi lý tưởng “làm chứng cho chân lý”. Vì thế, tự nơi ngài đã tỏa sáng tinh thần “làm tôi Thiên Chúa hơn là làm tôi của cải vật chất”.
2- Ánh sáng của sự công minh chính trực, sẵn sàng hy sinh “cái tôi” cho chân lý: Đức tính cương trực của thánh Gio-an Tẩy Giả đã bộc lộ ngay khi ngài bắt đầu rao giảng Tin Mừng, làm Phép Rửa cho dân chúng tại sông Gio-đan: “Thấy nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3, 7). Phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc là những phe phái quyền lực trong Do Thái giáo thời đó, vậy mà Thánh nhân cũng không chút e ngại khi nói họ là “nòi rắn độc”. Đến như vua Do Thái là Hê-rô-đê đã lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh là Phi-líp-phê, thánh nhân cũng nói thẳng: “Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!” (Mt 14, 3-12), và vì thế mới bị Hê-rô-đê trảm quyết.
3- Nhưng bao trùm lên tất cả là: Ánh sáng của sự khiêm nhu tự hạ, quên mình trong phục vụ chân lý: Thánh Gio-an Tẩy Giả đã không dám nhận mình là Đấng Ki-tô, là ngôn sứ, mà khẳng định: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (Ga 1, 23). Không những thế, ngài còn nói về Đấng mà ngài làm chứng: “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1, 27); “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi.” (Ga 3, 30). Chính đức tính khiêm nhường, quên mình đi để thi hành sứ vụ “rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” đã khiến cho “Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan.” (Mc 1, 4-5).
Tất cả những ưu điểm nổi bật nêu trên phải chăng là ân sủng của Thiên Chúa đã ban cho thánh Gio-an Tẩy Giả? Đúng là như vậy, bởi vì ngay từ khi được hình thành trong cung lòng bà Ê-li-da-bet, thiên sứ đã truyền cho ông Da-ca-ri-a đặt tên cho thánh nhân là Gio-an (Gioan hay Giokhanan tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”). Quả thực thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta đã được Thiên Chúa đoái thương, tiền định từ trước, nên ngài là một chứng nhân tuyệt hảo. Thánh nhân đã tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên; đã ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng; đã tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi dọn đường, sửa lối tâm linh con người để mừng đón Ánh Sáng Chúa Ki-tô. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.
Chúa nhật III/MV Giáo hội cho phép các chủ tế trong Thánh lễ được dùng lễ phục màu hồng và kêu gọi tín hữu “hãy vui lên” vì ngày Chúa quang lâm đã cận kề. Ấy cũng bởi vì chính “người làm chứng về ánh sáng” đã khẳng định: “Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi.” (Ga 3, 30). Người Ki-tô hữu ngày hôm nay hãy vui mừng, vì không chỉ có “người làm chứng về ánh sáng” là “ngọn đèn cháy sáng”, mà chính mình cũng được Ngôi Lời phán dạy “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 14). Hãy học theo thánh Gio-an Tiền Hô chiếu tỏa ánh sáng “khổ hạnh, trung thực, quên mình và nhất là khiêm nhường chịu lụy” của bản thân ra môi trường xung quanh (từ gia đình lan tỏa ra cộng đoàn xã hội), ngõ hầu dọn đường đón Chúa quang lâm. Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Ðấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN III/MV).
.
TÌM CHÚA CHO MÌNH VÀ CHO NGƯỜI KHÁC
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
“ Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (1,6-8.19-28):
(6) Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gio-an (7) Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. (8) Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
(19) Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy Thầy Lê-vi đến hỏi ông: “Ông là ai?” (20) Ông tuyên bố thẳng thắn: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô.” (21) Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?” Ông nói: “Không phải.” – “Ông có phải là một vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không.” (22) Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?” (23) Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” (24) Trong nhóm được cử đi có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. (25) Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?” (26) Ông Gio-an trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết (27) Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (28) Các việc đó đã xẩy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sống Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa.
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (1,6-8.19-28):
2.1 Gio-an Tiền Hô đã làm tròn trách nhiệm của mình giữa cộng đồng Do-thái thời Đức Giêsu Na-da-rét xuất hiện:
Không có vị ngôn sứ nào có trọng trách lớn lao hơn Gio-an Tiền Hô. Trọng trách đó là dọn đường cho Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a của Thiên Chúa đến với dân, là giúp người ta nhận ra Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a đã đến và đang ở giữa dân mà dân không biết, không nhận ra.
Công việc của Gio-an không hề dễ dàng: ngài phải cải chính hết điều này đến điều kia; ngài phải giải thích cặn kẽ và chỉ bảo tận tình. Thậm chí ngài phải chấp nhận cả cảnh ngục tù và cuối cùng bị chém đầu bởi nhà vua hung tàn.
2.2 Hội Thánh và mỗi Ki-tô hữu phải thi hành nhiệm vụ đuợc giao là tìm ra Đấng Mê-si-a cho mình và cho người khác giữa dòng đời.
a) Hội Thánh Công Giáo được tiếp nối công việc của Gio-an Tiền Hô nên Hội Thánh có trách nhiệm tìm ra Đấng Thiên Sai là Đức Giê-su Ki-tô và chỉ cho người ta biết Đức Giê-su Ki-tô là ai? tìm ra Người ở đâu và bằng cách nào? Nhiệm vụ nặng nề ấy được đặt trên vai Hội Thánh, mà cụ thể là trên vai các Hồng y, Giám mục, Linh mục và Tu sĩ nam nữ và Giáo Dân nam nữ.
b) Vì thế mà mọi Ki-tô hữu đều có trách nhiệm chỉ đường cho người chung quanh tìm ra Chúa Cứu Thế, đến với Người và sống với Người. Muốn làm được công việc ấy mọi Ki-tô hữu phải có mối quen biết thân tình gần gũi với Chúa Ki-tô [nemo dat quod non habet = không ai cho cái mình không có]. Đôi khi phải hy sinh, chịu thiệt thòi và từ bỏ nhiều thứ kể cả mạng sống mình như Gio-an Tiền Hô.
III. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (1,6-8.19-28):
3.1 Tôi đã tìm ra Chúa hay đúng hơn là tôi đã đón nhận Chúa trong Hội Thánh. Cả cuộc đời tôi hơn 70 năm tôi không ngừng đi tìm Chúa. Tôi tìm ra Chúa trong các giờ cầu nguyện và các giờ đọc, tỉm hiểu, giảng giải Thánh Kinh. Tôi cũng tìm ra Chúa khi gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi với những người khát khao tìm kiếm Chúa và sống Phúc Âm. Tôi còn tìm ra Chúa trong đời sống gia đình, hiệp hội và giáo xứ.
3.2 Tôi đã và đang giúp một số người tìm ra Chúa khi tôi chia sẻ những tìm kiếm, suy niệm và thực hành Lời Chúa qua các bài Sống Lời Chúa hôm nay và các bài Suy Niệm Phúc Âm Chúa Nhật hàng tuần mà tôi gửi cho rất nhiều người. Tôi đã và đang giúp một số người tìm ra Chúa trong các buổi học Thánh Kinh Một Trăm Tuần và Tìm Hiểu Công Đồng Va-ti-can II. Thật ra những việc ấy không đáng là gì, nhưng có, dù ít, vẫn còn hơn không, đúng không nào?
IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (1,6-8.19-28):
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã, đang và sẽ đến với con. Con mong đợi Chúa. Nói là con đi tìm Chúa thì chỉ đúng một phần vì thật ra là Chúa đi tìm con nhiều hơn, liên lỷ hơn, vô vị lợi hơn.
Con hết sức ước ao được tìm thấy Chúa, được gặp gỡ Chúa, được sống với Chúa. Con cũng hết sức khát khao giúp được nhiều người tìm thấy Chúa, gặp được Chúa và sống với Chúa. Được như thế là con hạnh phúc lắm rồi! Con ngợi khen cảm tạ Chúa Hài Nhi.
.
Lm. Jos. DĐH.
Con người thời đại no cũng bị chi phối bởi niềm vui vật chất và tinh thần, cho dù điều kiện, cơ hội, đến với mỗi người rất khác nhau, người ta vẫn muốn tìm kiếm và sở hữu chúng. Chẳng phải tự nhiên mà người xưa viết nên câu thành ngữ: vui một đêm thành tiên, phiền một đêm thành cú. Thành tiên, thành cú, thành người hữu ích, có danh có phận, đều là một quá trình biến đổi. Với cái nhìn bi quan, người ta chỉ thấy một thế giới có quá nhiều bất ổn: kinh tế chính trị, mâu thuẫn chiến tranh, thiên tai bão lũ, bạo lực gia đình, xã hội bế tắc ! Lạc quan một chút, thì bất đồng quan điểm, khổ đau, túng thiếu, là quá trình phát triển, niềm thao thức sâu thẳm nơi mỗi người, đang tác động hoà hợp với thế giới tự nhiên làm nên sự bình an niềm vui.
Hậu thế sẽ nghĩ gì khi mà chúng ta biết đâu là niềm vui mà chúng ta không nói, không chia sẻ, hiểu bình an hạnh phúc chỉ đến sau quá trình được biến đổi, mà chúng ta không sống, không hợp tác ? Phụng vụ tuần 2 mùa vọng mời gọi “hãy vui lên”, vui lên vì tình yêu, vì Đấng Em-ma-nu-el đang đến, mỗi người hãy lắng nghe để hiểu, để biết thực hành, hầu xác tín hơn thế nào là “niềm vui ơn cứu độ”. Bóng dáng cuộc đời mỗi người sẽ tỏ hiện rõ ràng như đứng trước tấm gương: mỉm cười, tấm gương sẽ tương phản một niềm vui xuất hiện, nhăn nhó bất an, sẽ cho lại sự giận giữ, bực tức mà thôi.
Vì sao có một số đông từ Giê-ru-sa-lem tìm đến Gioan, cả một số người thuộc nhóm biệt phái cũng được sai đến hoang địa, và họ chỉ muốn biết ông Gioan có phải là Đấng Kitô không ? Sau khi được nhìn xem, chăm chú nghe, Vị Tiền hô giảng giải phải chuẩn bị tâm hồn, chịu phép rửa sám hối, ít ra đám đông hôm đó cũng được Gioan giải toả thắc mắc: Đấng cứu thế đang ở giữa các ngươi. Gioan rất vui vì ông ý thức mình được là tiếng kêu trong sa mạc, là người dọn đường, là người chuẩn bị tâm hồn cho những ai khao khát niềm vui cứu độ. Niềm vui mà Gioan đã loan báo là niềm vui tinh thần, niềm vui từ nay thế giới sẽ được Đấng tẩy rửa bằng Thánh Thần, Đấng giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết.
Có ba điều khi mà chúng đi qua, người ta không thể lấy lại được, đó là lời nói, thời giờ và cơ hội. Kitô giáo thì lưu ý sống và thực hành: đức tin, đức cậy và đức ái là dấu chỉ người thuộc về Đức Kitô, Ngài sẽ liên kết chúng ta nên một trong tình yêu bền vững đến muôn đời. Lời hô hoán của Gioan, thời giờ để chuẩn bị tâm hồn, hoặc cơ hội để sám hối đón nhận niềm vui cứu độ, chính là quá trình sống tự do chọn lựa. Ngày hôm nay, người ta tìm gặp quân sư để giải gỡ những khó khăn phức tạp, người ta có thể tìm thấy người tài đức như Gioan, nhưng để nhận ra niềm vui cứu độ, ai cũng phải bày tỏ lòng sám hối và gặp gỡ Đấng Kitô.
Niềm vui của Gioan là xác tín Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần đã đến, niềm vui của đám đông năm xưa là nghe, hiểu và sám hối để lãnh nhận ơn cứu độ, và niềm vui của mỗi chúng ta hôm nay là hãy tin Chúa đang hiện diện nơi anh chị em mình. Niềm vui của Gioan, niềm vui của đám đông, hay niềm vui của chúng ta, tuy có khác nhau về hoàn cảnh địa lý, nhưng tất cả đều phải có Đức Kitô làm trung tâm thì niềm vui mới trọn vẹn. Gioan không nhận mình là tiên tri, là nhà đạo đức, ông quả quyết ông chỉ là tiếng hô, là người dọn đường cho Đấng cứu thế, đó phải là niềm vui của cộng đồng nhân loại, vì Đấng Kitô cao cả Thiên Chúa ban đã đến là sự thật.
Cha ông chúng ta cho rằng, có ba thứ quý nhất trên đời, đó là sự tự tin, tình bạn và tình yêu, vì cuộc sống thiếu quảng đại tha thứ, là cuộc sống ích kỷ, tù túng, vô nghĩa. Vì vậy, nếu thiếu niềm tin, thiếu tình yêu, Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần, sẽ mãi mãi là một bí ẩn, dù Vị Tiền hô có tài giỏi, có khả năng thu hút, niềm vui ơn cứu độ cũng chỉ nằm trên lý thuyết mà thôi. Ngày hôm nay, bằng mắt thường ai cũng nhìn thấy đèn nhấp nháy ở hang đá Mừng Chúa Giáng Sinh. Bằng đầu óc thông thái, người ta có khả năng thu được nhiều lợi nhuận vật chất. Nếu khiêm tốn, biết lắng nghe, người ta sẽ hiểu niềm vui cứu độ là có Chúa ngự thật nơi anh chị em của mình.
Cha ông chúng ta có câu: ăn lúc đói, nói lúc say, Gioan thì không say bao giờ, nhưng ông có khả năng nói, và thu hút dân chúng tự nguyện đến xin thống hối xin ông làm phép rửa. Chúng ta ngày nay có thể nói rất hay về tình yêu, chưng chắc gì đã hiểu thế nào là hạnh phúc. Mọi người có thể nói mặt trời mọc ở hướng đông, nhưng đâu dễ dàng hiểu vạn vật vũ trụ này đều có liên hệ và phát xuất tình yêu của Thiên Chúa. Hy vọng mỗi chúng ta dù là linh mục tu sĩ, là ông trùm, là công nhân, là người quét lá, lau chùi nhà thờ, chúng ta vẫn vui vẻ chu toàn phận vụ vì tình yêu, vì có Chúa hiện diện, là vì ơn gọi thật cao quý của mình. Amen.
.
Lm Lu-y Nguyễn Quang Vinh
Phụng vụ Chúa nhật thứ ba mùa Vọng ghi đậm nét vui tươi. Tiên tri Isaia sống trước Chúa Cứu Thế sáu trăm năm, loan báo tin mừng hồi hương cho dân đang bị lưu đày ở Babylon:
“Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa … Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ cứu độ” (x. Bài Đọc 1. Is 61, 1-2a.10-11). Đây là niềm vui giải phóng, niềm vui hồi hương.
Tin vui cứu độ được Đức Maria cảm nghiệm cụ thể khi lời sấm của ngôn sứ Isaia trở thành hiện thực nơi cung lòng Mẹ, khi Mẹ thưa với sứ thần truyền tin “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”(Lc 1,38) và Mẹ diễn tả niềm vui sung mãn đó trong Kinh Linh Hồn Tôi Ngợi Khen Chúa (Kinh Magnificat). Mẹ lên tiếng ca tụng Thiên Chúa đã đoái thương thân phận mọn hèn của Mẹ, niềm vui cá nhân của riêng Mẹ được tuyển chọn làm mẹ Thiên Chúa; và niềm vui của cộng đồng Do thái được cứu độ theo như Lời Chúa đã hứa từ ngàn xưa. Niềm vui hoàn vũ nầy này vọng lại trong thư thánh Phaolô gửi cho tín hữu Thêxalônica đang chờ mong Chúa Cứu Thế trở lại: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng” (x. Bài Đọc 2. 1Tx 5, 16-24). “Vì đã có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng” (x. Bài Tin Mừng. Ga 1, 6-8.19-28), làm chứng cho niềm vui cứu độ đã xuất hiện trên trần gian, đó là Chúa Giêsu. Đây là khởi đầu niềm vui Chúa Cứu Thế thực hiện bằng con đường nhập thể và nhập thế đi vào giữa nhân loại. Niềm vui Thiên Chúa làm người, định cư giữa nhân loại, để nhân loại biết đường về trời.
Niềm vui cảm nghiệm mình được Thiên Chúa cứu chuộc được tiên báo qua nụ cười của bà Sara, vợ ông Ápraham, khi được báo tin con đầu lòng Ixáac sẽ ra đời, cho đến sự nhảy mừng của thánh Gioan khi còn trong lòng bà Isave. Tất cả cho thấy niềm vui của buổi phụng vụ hôm nay như tô đậm nét sự hân hoan mà bà Isave cảm nghiệm khi đứa con thân yêu nhảy lên trong dạ mẹ, niềm sung sướng tràn trề của vị tiên tri cuối cùng Cựu Ước gặp được Chúa Cứu Thế thời Tân Ước. Niềm vui vỡ bờ hoành tráng hoàn vũ.
Niềm vui vĩ đại đòi cung cách diễn tả hòanh tráng. Tiền hô hậu ủng là phong cách nhân lọai của bất cứ đại vương nào khi hạ cố thăm thần dân của mình. Sự long trọng của người tiền hô càng làm sáng tỏ uy quyền cao cả của nhân vật chính yếu đến sau. Đây là cung cách của vị tiền hô: Lối sống tu rừng khắc khổ và đơn sơ, cách ăn mặc kỳ dị và mộc mạc, lời rao giảng nghiêm khắc và cứng rắn của vị tiền hô Gioan gây thắc mắc cho những người thời bấy giờ đến phỏng vấn ông. Tuy nhiên đứng trước niềm vui to lớn này vị tiền hô xóa mình đi. Ông khiêm hạ thẳng thắn khẳng định mình không phải là Đấng Kitô, không phải là Êlia, không phải là ngôn sứ mà truyền thống Do thái mong đợi. Ông khẳng định mình là tiếng kêu trong sa mạc, có sứ mạng dọn đường tâm linh, chỉnh đốn tâm đạo cho ngay thẳng để đón tiếp một nhân vật cao trọng âm thầm đang đến một cách bí bí ẩn: “ Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người đến sau tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho người” (x. Bài Tin Mừng).
Con người bí ẩn đó là Chúa Giêsu, mà cho đến hôm nay, đối với các Kitô hữu, Người vẫn còn y nguyên là một mầu nhiệm cực lớn, đòi liên tục khám phá trong đời sống. Tất cả những gì diễn tả về Người đều là mầu nhiệm đòi khám phá, sự hiện hữu của Người, quyền năng vô biên của Người, tình yêu cứu chuộc của Người đối với nhân loại, sự đồng hóa của Người nơi anh em hèn mọn, cả đến sự chết và sự phục sinh vinh hiển của Người đều là bí ẩn đòi khám phá không ngừng trong cuộc sống.
Thật vậy mỗi ngày người Kitô phải liên tục khám phá niềm vui trong gặp gỡ tha nhân để phát hiện con người bí ẩn đó, vì “Ngài ở giữa các ông mà các ông không biết”. Không những khám phá niềm vui mà thôi, người Kitô hữu còn phải là tiền hô cho Chúa Cứu Thế nữa, sống vui tươi xây dựng xã hội trần thế, bởi vì Kitô hữu là người mang tin vui đến cho mọi người. Tuy nhiên Người mang tin vui mà chính mình không vui là phi lý, là phản tác dụng, là phản bội sứ điệp loan báo Tin mừng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết khám phá con người bí ẩn mà thánh Gioan nói đến: “Ngài ở giữa anh em mà anh em không biết”, con người đó có thể là láng giềng khó tánh, là người đồng nghiệp gặp họan nạn, là bệnh nhân cần giúp đỡ, là người xa Chúa lâu ngày cần trở lại. Amen.
.
HỌC SỐNG TRUNG THỰC VỚI GIOAN TẨY GIẢ
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Ai cũng muốn tôn mình lên
Sống ở đời, ai cũng muốn tôn mình lên, ai cũng muốn nổi bật, muốn đứng lên “bệ cao”, để cho người khác nhận thấy mình cao lớn hơn, vĩ đại hơn, vinh quang hơn con người thật sự của mình.
Cầu thủ thì muốn nổi bật bằng những đường banh điêu luyện; Ca sĩ thì muốn nổi bật bằng lời ca tiếng hát làm rung động tâm hồn người nghe; Một số thanh niên muốn nổi bật bằng cách sắm những siêu xe đắt giá…
Nói chung, người ta đua nhau tìm kiếm và cố đứng trên những “bệ cao” đủ loại để tỏ cho người khác thấy mình có giá trị và đáng được trọng nể. Đối với người nầy, “bệ cao” có thể là những món trang sức xa hoa đắt giá; đối với người kia, “bệ cao” có thể là những biệt thự xa hoa, sang trọng … Và để có được những thứ “bệ cao” nầy, nhiều người sẵn sàng bán rẻ lương tâm, phẩm giá, danh dự của mình hoặc làm thiệt hại nặng nề cho người khác.
Ông Gioan tẩy giả, một mẫu người rất trung thực
Trong khi đó, Gioan tẩy giả từ khước mọi thứ “bệ cao”. Thay vì vui sống chốn phồn hoa đô hội thì ông lại thu mình vào nơi hoang địa khô cằn; Thay vì ăn mặc lụa là gấm vóc như các người quyền quý thì ông lại khoác bộ da thú lên người làm áo che thân; Thay vì ngày ngày thưởng thức cao lương mỹ vị thì ông chấp nhận ăn uống đạm bạc qua ngày bằng những thứ cào cào, châu chấu…
Gioan tẩy giả luôn luôn trung thực, trung thực với chính mình và với mọi người, có sao nói vậy và không cần bất cứ một thứ “bệ cao” nào để tôn mình lên.
Thời bấy giờ, danh tiếng của Gioan đang lên. Có luồng dư luận cho rằng ông là Đức Ki-tô; Có những người khác tưởng lầm ông là ngôn sứ Ê-li-a vĩ đại giáng thế; Có người nghĩ rằng với tầm cỡ của ông, ít ra ông phải là một vị ngôn sứ cao cả nào đó…
Thế mà khi những người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử các thầy tư tế và Lê-vi đến hỏi cho biết ông là ai, ông không nhận vơ cho mình những danh hiệu cao đẹp mà người đương thời gán cho ông như là đấng Ki-tô, là ngôn sứ Ê-li-a… Ông thẳng thắn xác nhận: “Tôi không phải là đấng Kitô, tôi không phải là ngôn sứ Ê-li-a, tôi cũng chẳng phải là một ngôn sứ nào cả” (Gioan 1, 19-20).
Vậy họ hỏi ông: “Vậy ông là ai? Ông hãy trả lời cho chúng tôi biết ông là ai để chúng tôi còn phải tâu trình lại cho người người đã sai chúng tôi đến đây.” Bị ép quá, Gioan mới trả lời rằng: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa.” Đó là một phát biểu rất trung thực và cũng rất khiêm tốn về bản thân mình (Gioan 1, 22-23).
Bấy giờ, đang khi nhiều người nghĩ rằng phép rửa của Gioan thiêng lắm, quan trọng lắm nên đổ xô đến cùng ông và nhận phép rửa bởi tay ông, thì chính Gioan lại cho rằng phép rửa ông cử hành chỉ là phần chuẩn bị cho một phép rửa khác quan trọng hơn, do một Đấng cao cả sẽ đến cử hành. Ông nói: “Tôi đây chỉ làm phép rửa bằng nước. Nhưng có một đấng đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Ngài sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” (Gioan 1, 26-27). Người ấy sẽ rửa các ông trong Thánh Thần.
Như thế, khiêm nhường và trung thực là hai đức tính nổi bật của Gioan đáng cho chúng ta học hỏi và noi theo.
Lạy Chúa Giê-su, xin cho con biết học với thánh Gioan tẩy giả để sống trung thực với mình và nhất là đừng cố tìm cho mình những thứ “bệ cao” phù phiếm đến nỗi phải bán rẻ danh dự, lương tâm.
Xin cho con hiểu rằng muốn trở nên cao cả thực sự, thì không phải là tìm cách đứng lên những chiếc “bệ” thật cao nhưng là trau dồi các nhân đức và đào luyện cho mình có những phẩm chất cao đẹp.
.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Có câu chuyện kể rằng, một nhóm tông đồ trẻ thuộc nhiều quốc tịch đang bàn nhau làm thế nào để phổ biến Tin Mừng cách rộng rãi, hiệu quả nhất. Có người bảo dùng đài phát thanh, truyền hình và internet, có người bảo dùng báo chí. v.v. Một cô gái Châu Phi lên tiếng: “Ở xứ chúng tôi, khi muốn loan báo Tin Mừng tới một nơi nào thì chúng tôi gởi đến đấy một gia đình Kitô hữu tốt để gia đình này sống giữa những người khác”.
Thưa anh chị em, câu chuyện trên đây cũng diễn tả cho chúng ta thấy được mẫu gương sáng chói của các ngôn sứ đã được Chúa sai đến qua các trình thuật hôm nay. Trước hết, khuôn mặt sáng chói của Isaia. Sau khi thay mặt toàn dân kêu van Thiên Chúa dủ lòng thương đến cứu giúp dân Chúa, trong giờ phút khó khăn hiện tại bị lưu đày ở Babylon suốt 70 năm, Isaia đã xuất hiện rao truyền sứ điệp cứu rỗi: “Hỡi dân ta, hãy an tâm, thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá”. Ông còn xác tín rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi: vì Chúa đã xức dầu cho tôi; Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ bị lưu đày, phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. Thời nô lệ của Israel đã chấm dứt và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, nghĩa là trong năm toàn xá này, mọi nô lệ được phóng thích, mọi của cải ruộng đất bị cầm cố hoặc bán đi sẽ được trả lại, mọi người được hoàn toàn nghỉ ngơi trong năm đó. Isaia được Thiên Chúa tuyển chọn, xức dầu và sai đi công bố hồng ân cứu độ của Thiên Chúa cho muôn dân. Công bố hồng ân này quả là một tin vui, tin mừng cứu độ mà Isaia phải thốt lên: “Tôi hớn hở vui mừng trong Chúa”.
Tuy nhiên, tin vui, tin mừng này mới chỉ là hình ảnh, công bố một tin vui trọn vẹn và lớn lao đã được tiếp nối nơi khuôn mặt sáng chói của Gioan Tẩy Giả, và được thực hiện nơi Chúa Kitô. Gioan Tẩy Giả đã xác tín vào ơn giải thoát từ Chúa Kitô nên ông đã vui mừng làm chứng về Người: “Tôi không phải là Đấng Kitô, không phải là Elia, cũng không là một đấng tiên tri”. Ông dõng dạc tuyên bố: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo”. Ông còn nhấn mạnh thêm: “Giữa giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết. Đấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Đấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”. Gioan Tẩy Giả quả thật đã làm chứng cho Chúa Kitô; ‘ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng cho ánh sáng’. Cụm từ “làm chứng” được dùng đến bốn lần cho thấy lẽ sống của Gioan là làm chứng. Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông ý thức mình không phải là ánh sáng mà chỉ là ngọn đèn giúp mọi người tin vào ánh sáng thật là Chúa Kitô.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Gioan Tẩy Giả là một mẫu gương của Mùa Vọng đã được Chúa sai đến cho chúng ta, vì ông đã dọn đường cho Chúa đến bằng lời rao giảng, và bằng đời sống khổ hạnh. Chúng ta hãy chiêm ngắm và học hỏi đời sống dấn thân phục vụ của Gioan cho chương trình của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được mời gọi làm chứng cho Chúa không chỉ bằng lời nói, mà còn làm bằng chứng cả cuộc sống của mình. Biết vận dụng mọi tài năng, hoàn cảnh để loan truyền niềm vui của tin mừng cứu độ như lời khuyên của Thánh Phaolô: “anh em hãy vui mừng luôn. Hãy cầu nguyện không ngừng. Trong mọi việc, hãy cảm tạ Chúa. Vì đó là thánh ý Thiên Chúa về tất cả anh em trong Chúa Giêsu Kitô”. Gioan Tẩy Giả đã sống một cuộc đời có ý nghĩa, hoàn thành sứ mạng của mình trong ánh sáng chân lý.
Nguyện xin ánh sáng tình yêu của Chúa Kitô chiếu giải vào tâm hồn chúng ta, để tâm hồn chúng ta tràn ngập niềm vui cứu độ và trở nên chứng nhân của ánh sáng. Amen.
.
Lm Vũdình Tường
Để làm chứng cho sự thất người đó cần phải thành tâm nếu không thì khó mà biết lờikhai đó là sự thật hay do tưởng tượng mà ra. Sự thật rất cần thiết cho người chánh án bởi người chánh án cần đến sự thật đ63 đưa ra bản án chính xác. Thiếu chất chính xác này sẽ gây thiệt hại cho người khác. Để bảo toàn lời khai là sự thật quan toà thường bắt các nhân chứng thề trước toà là họ nói sự thật, hoàn toàn thật, và đó là điều quan toà có thể đòi hỏi nơi các nhân chứng.
Thánh Gioan Tẩy Giả đến trong thế gian với sứ mạng làm chứng cho sự thật. Thánh nhân tuyên bố công khai, rõ ràng Ngài đến thế gian để làm chứng về sự thật. Làm chứng cho sự thật là bước đầu trong việc rao giảng Tin Mừng của Thánh Gioan. Nhiệm vụ kế tiếp quan trọng hơn nhiều và đó là nhiệm vụ chính yếu của Ngài đó rao giảng và làm chứng về Ánh Sáng. Như thế nhiệm vụ của Thánh Gioan là rao giảng về Ánh Sáng và làm chứng về Ánh Sáng. Khi không có đủ bằng chứng toà án thường cho mời nhân chứng đến với hy vọng có thêm bằng chứng chính xác giúp cho việc kết án công bằng hơn. Nhân chứng chỉ có thể nói những điều họ nghe biết hoặc nhìn thấy và đó là điều họ có thể làm. Thánh Gioan tuyên bố Ngài có hai nhiệm vụ, một là nói sự thật về Ánh Sáng và hai là làm chứng về Ánh Sáng. Ánh sáng dù nhỏ mấy chăng nữa cũng có khả năng soi sáng màn đêm u tối. Khi toả sáng ánh sáng còn tạo nhiệt sưởi ấm chung quanh ánh sáng và làm cho ánh sáng lan toả rộng hơn. Người ta có thể che dấu sự thật hay chỉ nói về một phần sự thật. Rất khó để che dấu một phần ánh sáng bởi che sáng đã vậy còn phải che cả sức nóng nhiệt toả ra. Ánh sáng mang lại niềm vui cho mắt nhìn và làm cho con tim rạo rực niềm vui vì thế khi cắm trại người ta thích ngồi quanh lửa trại tạm quyên cảnh tịch mịch của màn đêm và hướng tâm trí vào lửa trại. Lửa thường không xâm chiếm lửa khác nhưng lửa thiêu rụi, làm sạch dơ bẩn, những gì trên đường lửa đi.
Thánh Gioan dùng hình ảnh ánh lửa để nói về Ánh Sáng thật là chính Đức Kitô, Người là sự thật và là ÁnhSáng thật. Khi Ánh Sáng thật và sự thật đi chung sẽ không có gì ngăn cản, che dấu được bởi chính Ánh Sáng làm sáng tỏ sự thật. Vì thế nơi đâu có Ánh Sáng thật thì sự thật được tỏ lộ. Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng thánh Gioan kêu gọi sửa đường lối cho Đức Kitô và Chúa Nhật này thánh Gioan tuyên bố Ngài nói về sự thật và làm chứng về Ánh Sáng. Những ai thành tâm đón nhận Ánh Sáng Sự Thật s4 nhìn thấy chân trời mới, sức sống mới bùng lên trong tâm hồn họ và dẫn họ tiến thêm bước nữa để nhận ra Đức Kitô là Ánh Sáng Sụ Thật, Đấng Cứu Độ và soi sáng trần gian. Những ai từ chối tin vào lời rao giảng của Gioan họ đi ngược lại lịch sử tìm về tiên đoán nơi các tiên tri. Nhóm lãnh đạo Đền Thờ sai các Tư Tế và các thầy Lê Vi đến chất vấn Gioan xem Ngài là ai bởi có người cho rằng ông là tiên tri Elijah tái sinh. Kẻ khác lại nói ông là Đức Kitô hay một trong các tiên tri tái sinh. Gioan không nhận bất cứ danh xưng nào ngoài việc tái xác định ông là
Tiếng kêu trong hoang địa, dọn đường cho Đấng Cứu Thế Jn 1,23
Không đáp ứng điều họ mong muốn họ lại chất vấn Gioan tại sao ông lại làm phép rửa và Gioan cho họ biết
Phép rửa do Ngài ban trong nước nhưng có Đấng ở giữa các ông mà các ông không nhận ra, không biết, tôi không xứng cởi giây dầy cho Ngài Jn 1,26-27
Học từ thánh Gioan làm chứng và rao giảng về Ánh Sáng Sự Thật là Đức Kitô. Để làm được việc đó có hiệu quả cần làm trong tinh thần cầu nguyện, mừng vui và lắng nghe hướng dẫn của Thán Thàn Chúa luôn cùng đồng hành với ta.
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).
Ánh sáng là gì? Một câu hỏi không dễ dàng trả lời. Ánh sáng ở đâu? Dường như người ta hơi khó khăn khi muốn trực tiếp chỉ cho kẻ khác thấy ánh sáng, mặc dù ai cũng công nhận là có ánh sáng. Vì trong thực tế người ta chỉ thấy vật này, người kia, cảnh nọ nhờ có ánh sáng. Trái lại, khi hỏi bóng tối ở đâu thì người ta dễ hình dung ngay là khi ta mở mắt mà không thấy gì cả, chỉ thấy một màu đen bao trùm không gian trước mặt.
Không kể các vật phát sáng như mặt trời, bóng đèn điện…, người ta biết có ánh sáng nhờ thấy các sự vật mà đúng hơn nhờ các sự vật phản chiếu ánh sáng. Như thế nhờ có ánh sáng mà các sự vật (cũng như con người) xuất hiện như chúng là. Và ngược lại khi các sự vật được thấy như chúng là thì người ta nhận biết có ánh sáng. Chúng ta có thể kết luận rằng ánh sáng là cái làm cho con người, sự vật được nhìn thấy, nghĩa là hiện hữu như chính mình.
Gioan được sai đến để làm chứng về ánh sáng. Chúng ta dễ dàng tin nhận ánh sáng ở đây chính là Đức Kitô. Chúa Kitô là ánh sáng, Ngài đến thế gian để soi sáng cho mọi vật mọi loài, nhất là cho con người thấy mình là ai trong các mối tương quan. Chúa Kitô cũng chính là ánh sáng soi dẫn con người bước đi trên chính lộ. Như thế Ánh sáng đến thế gian là để cho con người biết mình là ai và phải sống như thế nào cho đúng với ý Đấng Sáng Tạo đã dựng nên nó từ thuở ban đầu.
Gioan đã làm chứng cho ánh sáng là làm chứng cho Đức Kitô qua việc tự biết mình là ai và đã sống đúng phận vụ của mình. Dù được dân chúng tín nhiệm và tuôn đến đông đảo, dù được nhiều người, thuộc nhiều thành phần xã hội kính trọng và nghe lời khuyên bảo, Gioan đã thẳng thắn tuyên bố rằng ngài không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là Êlia hay một ngôn sứ nào đó mà chỉ là người dọn đường cho Đấng Thiên Sai. Ngài ý thức phận vụ của Ngài là làm phép rửa bằng nước để kêu gọi sự sám hối còn Đấng Thiên Sai mới thanh tẩy dân bằng Thánh Thần, nghĩa là Đấng Thiên Sai mới là Người thông ban ơn lành. Đấng Thiên Sai là Đấng được Thánh Thần “xức dầu, sai đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo khó, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân…” (Is 61,1).
Phận vụ của người dọn đường là làm cho con đường nên ngay thẳng và sạch đẹp. Khi đã hoàn tất công việc thì người dọn đường phải rút lui để cho Đấng phải đến, bước đi. Gioan nhìn nhận mình chỉ là phù rể, hân hoan thấy ngày của tân lang bừng sáng (x.Ga 3,29), thậm chí không đáng cởi dây giày cho tân lang (x.Ga 1,27). Và Đức Kitô cần lớn lên còn Ngài, Gioan thì phải nhỏ lại (x.Ga 3,30). Hiện diện và sống như mình là, đồng thời vuông tròn sứ mệnh đã lãnh nhận là cách thế minh chứng về ánh sáng.
Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng thế gian lại không thích ánh sáng, không đón nhận ánh sáng (x.Ga 1,11). Quả thật, một khi đã vương phải vòng tội luỵ thì con người thích ẩn mình đi (x.St 3,10). Ánh sáng làm con người thật của chúng ta bị phơi bày và chúng ta sẽ bị trách cứ, bị tố cáo, bị xét xử, nếu chúng ta lỗi lầm, phạm tội. Tuy nhiên đây chính là tiền đề của sự hối cải, ăn năn. Làm sao chúng ta có thể ăn năn, hối cải nếu tiên vàn chúng ta không nhận ra con người thật của mình, không nhận ra tội lỗi mà mình đã phạm?
Đối với những người khiêm nhu, muốn vươn lên, thoát khỏi ách nô lệ thần dữ, nô lệ tội lỗi thì việc ánh sáng đến là một hồng ân vô bờ, là một tin vui khôn xiết. Trái lại với những người cao ngạo, cố chấp, thì ánh sáng đến sẽ trở thành lời tuyên cáo dứt khoát và rõ ràng. Vì họ cố chấp hoặc kiêu ngạo chối từ ánh sáng, nên họ mãi vẫn chìm ngập trong bóng tối tội lỗi. “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39).
Là Kitô hữu, chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô là ánh sáng thế gian. Cũng như Gioan Tẩy giả, chúng ta có bổn phận làm chứng về ánh sáng. Việc trang trí đèn hoa, máng cỏ, cây thông, việc tổ chức lễ lạc linh đình…vào dịp kỷ niệm mừng ngày Chúa Giáng Sinh quả là một việc nên làm và đáng làm. Tuy nhiên, để làm chứng về ánh sáng chỉ bằng những việc ấy mà thôi thì chưa đủ và hầu chắc sẽ ít hữu hiệu. Không gì hơn, noi gương vị Tiền Hô, hãy sống thật cái căn tính và ơn gọi của mình. Bà con lương dân, anh em khác đạo và cả anh em vô thần sẽ có cơ may nhận ra ánh sáng khi chúng ta hiện diện, sống như là những người Kitô hữu, những người đang có Chúa Kitô trong mình. Đồng thời chúng ta cần vuông tròn giới lệnh căn bản và cũng là sứ vụ nền tảng mà Chúa Kitô đã trao ban đó là “yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta” (x.Ga 15,12).
Giáng Sinh sắp lại về, mỗi người chúng ta đã, đang và sẽ làm gì đây để cho người anh chị em xóm giềng, lân cận, nhận ra Chúa Kitô là ánh sáng trần gian, là ánh sáng chân lý, ánh sáng cứu độ? Không dám ước mơ có nhiều người, chỉ cần có một người, nhờ tôi mà tin Chúa Giêsu Kitô chính là ánh sáng chân lý, nhờ tôi mà đón nhận ánh sáng cứu độ, thì tôi đang sống Mùa Vọng đượm đầy ý nghĩa.
.
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Anh em làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su” (1Thes 5,16-18).
Hôm nay là Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng, còn gọi là Chúa Nhật Hồng, vì hôm nay Chủ Tế có thể mặc áo lễ màu hồng. Màu hồng là màu của vui mừng, màu của hạnh phúc. Có vui mừng thì mới có hạnh phúc và có hạnh phúc thì mới vui mừng. Vui mừng và hạnh phúc thì ai mà chẳng mơ, ai mà chẳng muốn. Người ta mơ, người ta muốn vui mừng mãi, hạnh phúc mãi mãi mà. Làm sao ta có được điều này ? Muốn có được điều này ta phải “Cầu nguyện không ngừng”. Cầu nguyện không ngừng là sao ?
Chẳng lẽ suốt ngày ta ngồi ở nhà hay phải đến nhà thờ đọc kinh sao ? Chắc là không rồi. Cầu nguyện có nghĩa là ta hướng lòng lên Chúa màca ngợi, thờ lạy, cảm tạ và xin ơn. Cầu nguyện Ki-tô giáo có 4 việc là Ca ngợi, Thờ lạy, Cảm tạ và Xin ơn.
Mỗi khi ta ca ngợi Chúa là ta đang cầu nguyện. Mỗi khi ta thờ lạy Chúa là ta đang cầu nguyện. Mỗi khi ta cảm tạ Chúa là ta đang cầu nguyện. Mỗi khi ta xin ơn là ta đang cầu nguyện. Thường thì ta làm việc thừ 4 này nhiều hơn. Nghĩa là ta xin ơn rất nhiều; ta xin hết ơn này đến ơn khác, mà đôi khi lãng quên 3 việc kia.
Nhiều khi ta xin được ơn thì ta vui mừng lắm, đến tạ ơn rối rít, nhưng khi không được gì thì ta buồn và chẳng có ca ngợi hay thờ lạy Chúa nữa. Vì Chúa không linh, Chúa không thương. Quả thật đó là tâm lý bình thường của con người. Thế nhưng là người con của Chúa, là người tín hữu Ki-tô, ta phải vượt xa tâm lý bình thường đó. Vì Chúa là Đấng luôn yêu thương và biết rõ những gì ta cần. Và nhất là Chúa luôn muốn ta vui mừng và hạnh phúc.
Thế nhưng ta không nên mang lấy tâm lý bình thường của con người, coi Chúa như “Ông Thần” phải làm theo ý ta, phải chiều theo ý ta; xin gì là Chúa phải ban, phải cho. Làm như thế có khác chi ta là CHÚA của Chúa chứ không phải Chúa là CHÚA của ta. Ta mà làm như thế thì ta vừa hỗn lại vừa láo với Chúa.
Hỗn vì là con mà ta muốn làm CHÚA của Chúa; láo vì ta bắt Chúa phải theo ý của ta. Cho nên khi cầu nguyện, ta phải để ý và chú ý đến cách cầu nguyện của ta, để ta nên người con hiếu thảo của Chúa. Chúa không dựng ta là kẻ “ăn xin”; cũng không muốn ta là kẻ bất hiếu. Chúa chỉ muốn ta vui mừng luôn và hạnh phúc mãi thôi.
Người tin Chúa là người luôn thốt ra những lời cầu nguyện. Đó gọi là cầu nguyện bằng miệng.Ta dùng miệng để đọc kinh, để hát khi tham dự Thánh Lễ hay lần hạt.
Người mến Chúa là người mãi có tâm tình cầu nguyện. Đó gọi là cầu nguyện bằng tâm. Khi ta suy Lời Chúa và gẫm sự đời.
Người cậy Chúa là người luôn có những hành động cầu nguyện. Đó là cầu nguyện bằng hành động.
Có thể nói người tín hữu Ki-tô là con người của cầu nguyện. Nói mạnh hơn nữa, ơn gọi của người tín hữu Ki-tô là cầu nguyện. “Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự xuống trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, phóng thích cho những tù nhân, công bố Năm hồng ân của Đức Chúa”(x.Is 61,1). Do đó, cầu nguyện phải là việc chuyên biệt của ta. Mọi lời nói, việc làm và suy nghĩ của ta phải mang tính cầu nguyện. Nghĩa là phải mang tính ca ngợi, thờ lạy, tạ ơn và xin ơn.
Ngoài việc ta đọc kinh, ca hát để ca ngợi và thờ lạy Chúa trong Phụng vụ ra, ta có thể ca ngợi Chúa những khi ta nhìn thấy được vẻ đẹp của một bông hoa; những cử đẹp; những việc làm đẹp; những con người đẹp, những người thuộc “phái đẹp” mà thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, đẹp quá !!!
Ta cũng có thể thờ lạy Chúa những khi nhìn thấy những cảnh hùng vĩ của thiên nhiên, nơi đó bàn tay con người không thể làm được, và thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, tuyệt quá !!! Không có Chúa thì làm gì có những cảnh hùng vĩ đó. Con xin hết lòng thán phục và thờ lạy Chúa.
Ta cũng có thể tạ ơn Chúa những khi suy Lời Chúa và gẫm sự đời. Vì khi suy niệm Lời Chúa ta nhận được sự khôn ngoan, ta nhận được ánh sáng, nhận được sức mạnh từ Chúa. Khi ta gẫm sự đời thì thật đúng y chang như lời Chúa nói, để rồi từ đó ta nhận ra chân lý đích thực, để ta có thể sống trong vui mừng và hạnh phúc.
Ta cũng có thể dùng chính những hành động mà cầu nguyện nữa. Nào là ăn, uống; nào là ngủ, nghỉ; nào là làm việc, đi chơi. Ta ăn cảm thấy ngon; uống cảm thấy đã; ta nghỉ cảm thấy thư thái; ngủ cảm thấy thèm; ta làm việc cảm thấy khoan khoái; đi chơi ta cảm thấy sảng khoái, vv…… Tất cả những việc đó không là động lực để ta cầu nguyện; không là động lực ta ca ngợi, ta thờ lạy, ta tạ ơn Chúa sao ?
Người có lòng tin, lòng cậy và lòng mến thì chính những việc đó cũng đã là những lời cầu nguyện rồi. Tức là ăn là cầu nguyện; uống là cầu nguyện, chứ không phải “phàm ăn, tục uống”; nghỉ là cầu nguyện; ngủ là cầu nguyện; làm việc là cầu nguyện, đi chơi là cầu nguyện.
Rồi trong những hoàn cảnh của cuộc sống, ta cũng có thể cầu nguyện. Những khi ta gặp được những điều tốt lành, được thành công hay có được được những kết quả tốt hoặc ta khỏe mạnh ta dâng lời cảm tạ Chúa. Những khi gặp phải điều xui, thất bại hay hoạn nạn hoặc bệnh tật, ta hãy kêu xin Chúa cứu giúp.
Ta cũng không chỉ cầu nguyện cho bản thân mà còn cầu nguyện cho thế giới, cho xã hội, cho Giáo Hội. Ta cầu cho ông bà, cha mẹ hay bạn bè. Ta cầu cho người nghèo, người bệnh, người khốn khổ. Ta cầu cho người sống cũng như người chết,
……..
Lúc nào ta cũng cầu nguyện được, lúc vui lúc buồn; lúc thành công; lúc thất bại và ở đâu ta cũng cầu nguyện được, dù là ở nhà thờ hay tư gia; ở nơi làm việc cũng như trên xe; trong phòng riêng cũng như đi ra ngoài, vì Chúa ở khắp mọi nơi.
Nhờ có tâm tình cầu nguyện như thế mà ta luôn có niềm vui và hạnh phúc. Niềm vui và hạnh phúc đó đến từ Chúa: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ tôi hớn hở biết bao” (x. Is 61,10). Tôi mà không ca ngợi, không thờ lạy Chúa thì tôi sẽ không có niềm vui. Tôi mà không có tạ ơn và cầu xin thì tôi sẽ không có hạnh phúc.
Vậy ta hãy có tâm tình cầu nguyện, để ta có thể cầu nguyện không ngừng. Ta cầu nguyện bằng miệng, bằng tâm và bằng hành động. Ta luôn ca ngợi, thờ lạy, cảm tạ và xin ơn trong mọi hoàn cảnh, ta sẽ trở thành con người của cầu nguyện, sẽ con hiếu thảo của Chúa và chắc chắn ta sẽ luôn vui mừng, bình an và hạnh phúc mãi. Ta sẽ vui luôn và mừng mãi !
.
Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta đã đi được ¾ chặng đường của Mùa Vọng. Nếu xét về mặt thời gian, đây là thời điểm gần kề đại lễ Giáng Sinh. Vì thế, giống như người nông phu, gần đến mùa thu hoạch, ông ta vui mừng thế nào, thì với tinh thần phụng vụ, Chúa Nhật này, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta hãy vui lên, vì Chúa sắp đến rồi.
Tuy nhiên, niềm vui của chúng ta hoàn toàn khác với niềm vui mà con người và xã hội thời nay mừng lễ Giáng Sinh. Vậy đâu là điểm khác biệt giữa các niềm vui này? Và đâu là niềm vui đích thực của người Kitô hữu mỗi khi đại lễ Giáng Sinh về?
- Niềm vui của con người và xã hội
Trong những ngày này, cứ đi ra các thành phố lớn, chúng ta sẽ thấy tràn ngập không khí mừng lễ Giáng Sinh. Những điểm vui chơi với nhiều loại hình mọc lên như nấm, từ ăn uống đến ca nhạc, múa nhảy. Những đèn sao lấp lánh rực sáng cả vùng trời. Ngay cả những quán Karaoke, quán bar hay café đèn mờ đông khách đến lạ thường….
Ở những nơi thôn quê nghèo, góc này, chỗ kia cũng có những cuộc nhậu đơn sơ giản dị với vài ba ly rượu nhắm với con cá, con gà hay mấy thứ trái cây quen thuộc….
Đấy là biểu hiện niềm vui của những người hưởng thụ. Bên cạnh đó, niềm vui còn đến từ một thành phần không nhỏ, đó là giới kinh doanh. Họ coi đây là thời điểm thuận lợi cho việc buôn bán kiếm lời. Vì thế, họ không ngừng đầu tư cho mùa vụ làm ăn “hot” này.
Còn nơi các xứ đạo, điện đèn và các công tác trang trí cũng đang đần đi vào giai đoạn hoàn thiện.
Trước những thực trạng trên, chúng ta thấy đây đó cũng có những niềm vui thánh thiện được biểu lộ cách thiết thực ra bên ngoài. Tuy nhiên, những người như vậy có lẽ đếm trên đầu ngón tay! Còn lại, đa số là niềm vui nhất thời, tạm bợ khi coi lễ Giáng Sinh như là một lễ hội thuần túy để biểu dương sự giàu có chốn ăn chơi trác táng, hay nhân cơ hội này để moi tiền cách bất chính nơi những “con thiêu thân” ham muốn của lạ?
Chính vì thế, chúng ta không lạ gì khi thấy sau những cuộc vui chơi, ăn uống, nhậu nhẹt, biết bao người đã không khỏi vươn vai thở dài ngao ngán vì mệt nhọc và trống rỗng, bởi vì: “uống chén tiêu sầu càng sầu thêm!”.
Tại sao vậy? Thưa bởi vì chỉ có Chúa mới là nguồn cội và cùng đích của con người. Gặp được, sống với và ở trong Thiên Chúa thì con người mới được an vui hạnh phúc. Nếu không, con người sẽ mãi mãi cô đơn ngay giữa lòng thành phố hay chốn đông người!
- Niềm vui của người có Chúa
Phụng vụ Lời Chúa và tinh thần của Chúa Nhật 3 Mùa Vọng hôm nay mời gọi chúng ta hãy cảm nghiệm và sống niềm vui thực sự trong Thiên Chúa. Một niềm vui phát xuất từ nơi tâm hồn chứ không chỉ bề ngoài. Một niềm vui mang tính chủ đạo của cuộc đời chứ không chỉ là thứ niềm vui ký sinh, tạm bợ, phù phiếm….
Khởi đi từ bài đọc 1, tiên tri Isaia đã làm toát lên hình ảnh một vị Thiên Chúa đến để giải thoát con người cách toàn diện từ thể xác lẫn tinh thần.
Thể xác thì được chữa lành bênh tật. Tinh thần thì được giải thoát khỏi nô lệ của tội lỗi.
Còn gì vui mừng, sung sướng và hạnh phúc cho bằng khi con người được Thiên Chúa ghé thăm phận nghèo hèn, băng bó những tâm hồn đau thương dập nát, giải phóng cho kẻ bị giam cầm, tuyên bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Đây phải là niềm vui vượt lên trên mọi niềm vui khác, bởi vì niềm vui này là của chính Chúa trao tặng và mang tính cứu chuộc.
Sang bài đọc 2, thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu là những người con tinh thần của chính ngài sinh ra rằng: “Hãy cầu nguyện không ngừng”; “Ðừng dập tắt Thánh Thần”; “Để thần trí, linh hồn và thể xác anh em được gìn giữ toàn vẹn trong ngày Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta ngự đến” (x. 1 Tx 5, 16-24). Như vậy, thánh nhân muốn khẳng định rằng: con người chỉ đạt được niềm vui thực sự khi tâm hồn của chính mỗi người có Chúa. Nói cách khác, chỉ có khi nào ngụp lặn trong Chúa, lúc đó niềm vui đích thực mới hiện hữu ở trong cuộc đời.
Nếu không có đời sống cầu nguyện thâm sâu thực sự, con người sẽ bị chạy đua với những niềm vui hời hợt, bên ngoài, vì: không có chiều sâu, không mục đích, không lý tưởng.
Sang bài Tin Mừng, tác giả làm toát lên sứ vụ của Gioan qua câu hỏi của các Tư tế và Lêvi. Họ hỏi ông: “Ông có phải là Êlia hay tiên tri nào đó?”; “Ông có phải là Đấng Kitô?”. Gioan đã không chắp cánh cho sự ngộ nhận này của dân chúng. Ngược lại, ông đã giúp cho dân chúng sờ chạm được cội nguồn của niềm vui khi đích thân giới thiệu về Đức Giêsu chính là người sẽ mang lại cho nhân loại niềm vui cứu độ mà bấy lâu nay họ chưa biết. Vì thế, Ngài nói: “Giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết. Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người” (x. Ga 1, 26-27)
Khi mạc khải như thế, Gioan đã hoàn toàn hướng sự kính trọng và yêu mến của mọi người dành cho mình về Đức Giêsu. Vì thế, nơi Gioan, niềm vui của ông là chu toàn sứ vụ trong vai trò là người dọn đường. Niềm vui ấy, ông muốn truyền lan sang cho những ai đang nghe ông cũng đạt được, đó là niềm vui khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế.
Với Gioan thì để có được niềm vui thực sự trong tâm hồn, người tín hữu phải là người đón nhận được tình thương và nhận ra tình thương của Thiên Chúa trên cuộc đời của mình.
Một trong những chìa khóa để được hưởng và nhận ra tình thương của Thiên Chúa, đó là đời sống kết hiệp với Thiên Chúa trong cầu nguyện.
- Sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta trong khi chuẩn bị đón mừng Chúa Giáng Sinh bằng những việc bề ngoài như trang trí đèn sao, hang đá, chuẩn bị những bài thánh ca…, mỗi người cũng cần nhìn lại công việc cấp thiết của đời sống nội tâm nơi sâu thẳm tâm hồn mình.
Chúng ta không thể đón mừng đại lễ Giáng Sinh với một tâm hồn trống rỗng, hay như những người chỉ biết làm theo hiệu ứng đám đông! Vì thế, bao lâu, chúng ta lầm tưởng và chạy đua với nó, thì bấy lâu chúng ta sẽ giống như những con ve sầu của thời vụ, tức là chỉ biết kêu la có mùa, hết mùa là nó chết và đi vào hư vô.
Mang trong mình đặc tính là người Kitô hữu, người có đức tin, chúng ta phải mừng lễ Giáng Sinh một cách khác.
Cái khác của người tín hữu, đó là tinh thần mừng lễ.
Vì thế, một trong những cách thiết thực nhất mà các bài đọc chúng ta vừa nghe đã vạch ra, để giúp mỗi người đạt được niềm vui đích thực và trọn vẹn, đó là:
Trước tiên, cần xác định thật rõ rằng: chỉ có Chúa là mục đích, lý tưởng, lẽ sống của mình. Chỉ có Chúa mới làm cho con người được thỏa mãn. Chỉ có Chúa mới lấp đầy lỗ hổng trong tâm hồn của chúng ta. Ngoài Chúa ra, không có ai có thể mang lại cho chúng ta niềm vui cứu độ.
Thứ đến, cần có một đời sống nội tâm sâu xa qua việc cầu nguyện, để cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa qua biến cố Giáng Sinh, đồng thời cũng biết cảm nghiệm bàn tay nhân từ, xót thương của Thiên Chúa trên và trong chính cuộc đời của mình.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang chuẩn bị đón mừng kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh làm người. Xin Chúa ban cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để đón Chúa ngự đến với chúng con, ngõ hầu chúng con được an vui và hạnh phúc đích thực. Amen.
.
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Theo truyền thống dân tộc Do Thái, năm đại xá của Đức Chúa, là năm đại phúc cho người nghèo, cho người bị tù đầy. Năm đó, có nợ ai bao nhiêu, cũng được xóa; có đang bị ở tù, cũng được trả tự do. Đức Yêsu là Đấng đến để công bố năm toàn xá cho toàn thể nhân loại. Vì thế, hãy vui lên, hỡi nhân trần.
1. Tin Mừng Cho Người Nghèo Con người sống trên trần gian này cảm nghiệm bao nhiêu nỗi khổ: nỗi khổ vật chất và tinh thần. Ai càng coi trọng tiền bạc và vật chất, càng cảm thấy khổ nhiều. Tuy nhiên, đôi khi người nghèo không cảm thấy khổ, mà những người đặt nặng giá trị vật chất lại cho rằng họ khổ.
Người nghèo cũng có niềm vui riêng của họ, trời xanh, khí mát trong lành, đất trời đẹp tuyệt vời và vô tận. Tuy vậy, nếu người nghèo không thanh thoát vượt lên được cái bình thường, thì cái nghèo, và đặc biệt là tình trạng bần cùng, ảnh hưởng thê thảm trên con người. Nàng Kiều bán mình chuộc cha cũng là một thí dụ. Và từ cái khổ này dẫn tới cái khổ khác; đến độ người ta thấy “đời là bể khổ.” Nghèo, tù, tội, là những điều gây cho bao người đau khổ dằn vặt.
Hôm nay, tin mừng đã được công bố: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Đức Chúa đã xức dầu cho tôi. Ngài sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn tan vỡ, loan báo ơn giải thoát cho những kẻ bị bắt, tự do cho kẻ tù đày, và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.” Chính Thiên Chúa giải phóng con người, cho con người tìm được sự giải phóng, tự do, niềm vui và hạnh phúc.
2. Đấng Đến Sau Tôi Cái nghèo vẫn còn tiếp tục. Cái nghèo như gắn chặt với cuộc đời của một số người như hình với bóng. Con người vẫn khổ, vẫn miệt mài đi tìm miếng cơm manh áo. Những người đã có miếng cơm áo thì lại muốn có nhiều hơn nữa. Con người vẫn không thoát khỏi cảnh khổ. Nỗi khổ do nghèo vật chất dường như giúp con người thấy nỗi khổ của nghèo tinh thần. Dường như khổ vật chất không làm con người khổ, mà nghèo tinh thần làm con người khổ.
Yoan Tẩy Giả sống đơn sơ trong cảnh nghèo. Ngài như một lời chứng cho nỗi khổ vì nghèo tinh thần, vì không thấy được ánh sáng sự thật, chứ không phải vì nghèo vật chất. Hơn nữa, Yoan Tẩy Giả còn làm chứng cho một Đấng khác nữa: “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng Đấng đó sẽ làm phép rửa cho anh em với Thánh Thần và lửa.” Đấng đó là Đấng mà mọi người phải mong chờ, cho dù lúc đó người ta và cả Yoan Tẩy Giả cũng chưa biết người đó là ai.
Đức Yêsu như tất cả mọi người đã sống cái nghèo đến tận cùng: sinh trong hang chiên cừu, ăn uống mặc như người nghèo, làm nghề của những người nghèo, ngay cả khi đi rao giảng vẫn nghèo, có lúc đi tìm trái vả ăn cho đỡ đói cũng không có (Mt.21, 18-19). Tuy vậy, Đức Yêsu là người làm trọn lời tiên tri trong sách Isaya, Ngài công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Ngài tới để làm cho người mù được thấy, người tù được trả tự do, băng bó những tâm hồn tan vỡ. Đức Yêsu mang lại cho người ta thấu hiểu sự thật, và sự thật sẽ giải phóng con người khỏi mọi phiền não, tù tội ràng buộc tinh thần. Ngài giúp con người vươn lên, vươn lên tới Thiên Chúa là đỉnh bình an hạnh phúc. Hãy vui lên vì với Đức Yêsu, chúng ta biết con đường giải thoát và hạnh phúc đích thực.
3. Hãy Vui Mọi Lúc Như một người đã được giải phóng, thánh Phaolô viết cho dân thành Thessalônica: “hãy vui hạnh phúc mọi lúc.” Một người rao giảng tin mừng Đức Yêsu phục sinh, luôn bị phản đối, rượt đuổi và bắt bớ, mà khuyên người ta hãy sống vui và hạnh phúc được sao? Nếu đúng, người đó phải sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.
Tại sao Phaolô lại được như vậy? Vì Ngài đã đạt đạo, đã chọn Thiên Chúa trên hết, đã chấp nhận Đức Yêsu như lý tưởng và Chúa của mình. Ngài đã thấy được trần gian chóng qua, chỉ có thực tại bền vững là chính Thiên Chúa, và cũng là bình an và hạnh phúc của Ngài. Với quan niệm sống và chọn lựa như vậy, Ngài sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.
Chỉ khi nào con người chọn Thiên Chúa trên hết, phó thác tất cả cho Thiên Chúa, thì con người mới sống chấp nhận thực tại và thanh thản trước mọi biến cố và nghịch cảnh. Thiên Chúa đang thực hiện việc giải phóng con người qua Đức Yêsu, qua việc cho con người thấy cách sống giúp con người bình an hạnh phúc. Cách sống đó chính là cách sống của Đức Yêsu. Đức Yêsu cũng không được miễn trừ khỏi bao cám dỗ, nhưng Ngài đã vượt qua và vẫn trông cậy vào Thiên Chúa ngay cả khi không thấy dấu chỉ cho thấy như vậy. Biến cố Đức Yêsu kêu trời “lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” là một bằng chứng. Ngay cả như vậy, chúng ta tin rằng, Ngài vẫn bình an và phó thác.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- “Hãy bình an hạnh phúc mọi lúc.” Liệu điều này có thể xảy ra không?
- Làm sao để có thể bình an hạnh phúc trong mọi nơi mọi lúc?
- Bạn có thể gặp được Đức Yêsu không? Xin đưa lý lẽ cho câu trả lời của bạn?
.
LÀM CHỨNG VỀ ÁNH SÁNG NOI GƯƠNG GIOAN
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Ga 1,6-8.19-28:
(c 6) Có một người được Chúa sai đến, tên là Gio-an. (c 7-8) Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. (c 19) Và đây là lời chứng của ông Gio-an: Khi người Do Thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: “Ông là ai?”. (c 20) Ông tuyên bố thẳng thắn. Ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô”. (c 21) Họ lại bảo ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?” Ông nói: “Không phải”. -“Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không”. (c 22) Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?”. (c 23) Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. (c 24) Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. (c 25) Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép Rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?”. (c 26) Ông Gio-an trả lời: “Tôi đây làm phép Rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. (c 27) Người sẽ đến sau tôi, và tôi không xứng đáng cởi quai dép cho Người”. (c 28) Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép Rửa.
- Ý CHÍNH:
Gio-an Tẩy Giả có sứ mạng đến trước dọn đường cho Đấng Ki-tô Cứu Thế. Ông đã thi hành sứ mạng bằng việc làm chứng cho Đấng Ki-tô là ánh sáng như sau: Ông không phải là Đấng Ki-tô mà chỉ là “Tiếng kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường đón Đức Chúa sắp đến” như I-sai-a đã tuyên sấm. Gio-an dọn đường cho Đấng Thiên Sai bằng lời nói và việc làm: Ông kêu gọi mọi người hãy ăn năn sám hối để dọn lòng đón Đấng Thiên Sai. Sám hối bằng việc ăn năn thú tội và chịu phép rửa dìm mình trong nước sông Gio-đan. Gio-an làm chứng về Đấng Thiên Sai là Đấng đã đến và đang ở giữa mọi người và ông không đáng làm đầy tớ cởi quai dép cho Người.
- CHÚ THÍCH:
– C 6: + Gio-an: Là con trai của hai ông bà Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét đã thụ thai cách lạ lùng nhờ quyền năng Thiên Chúa (x. Lc 1,59-60). Tên Gio-an có nghĩa là “Chúa ban ơn”. Tên này do sứ thần Chúa đã truyền lệnh cho ông Da-ca-ri-a trong đền thờ (x. Lc 1,13). Ngoài tên gọi Gio-an, ông còn có hai biệt danh là Tiền Hô và Tẩy Giả. Tiền hô là người “đi trước dọn đường cho Đấng Ki-tô” (x. Lc 1,17); Tẩy Giả là người “làm phép Rửa cho những người đang mong chờ ơn cứu chuộc Ít-ra-en” (x. Lc 3,3).
– C 20-23): + Ê-li-a: Theo sách Ma-la-ki-a (3,1-2) và Gíao Sĩ (48,10-11) thì Ê-li-a sẽ trở lại trước khi Đấng Thiên Sai xuất hiện. Gio-an Tẩy Giả không nhận mình là Ê-li-a theo nghĩa đen này. Điều này không trái ngược với lời Đức Giê-su khẳng định: “Gio-an chính là Ê-li-a, đấng phải đến trước” (x. Mt 11,14). Gio-an xuất hiện trong tinh thần của Ê-li-a, chứ không phải là chính con người Ê-li-a bằng xương bằng thịt. + Ngôn sứ: Thực ra, Gio-an cũng là một ngôn sứ của Thiên Chúa (x. Đnl 18,15). Nhưng ông không phải là ngôn sứ như Mô-sê mà sách Đệ Nhị Luật đã nói đến. + “Thế ông là ai…?”: Gio-an Tẩy Giả đã trả lời ông chỉ là người Tiền Hô, đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai.
– C 24-27: + “Vậy tại sao ông làm phép rửa…?”: Gio-an trả lời rằng: Ông chỉ làm phép rửa để thanh tẩy người ta bằng nước, chuẩn bị chờ đón Đấng Ki-tô sắp đến. Còn Đức Ki-tô mới làm phép rửa thanh tẩy cho người ta trong Thánh Thần. Người là Đấng quyền năng mà Gio-an không xứng đáng làm tôi tớ hầu hạ cởi quai dép cho Người.
- CÂU HỎI: 1) Gio-an trong Tin mừng hôm nay là ai? Tên Gio-an nghĩa là gì và ai đã đặt tên này cho ông? 2) Đức Giê-su đã khẳng định “Gio-an chính là Ê-li-a, đấng phải đến trước” (x Mt 11,14). Vậy tại sao chính Gio-an lại nói mình không phải là Ê-li-a hay ngôn sứ? 3) Gio-an tự xưng là gì và lý do ông làm phép rửa cho dân chúng?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin”(Ga 1,6).
- CÂU CHUYỆN:
1) CON NGƯỜI CHỈ VUI THỰC SỰ KHI CÓ THIÊN CHÚA TÌNH YÊU TRONG TÂM HỒN:
Tại một thành phố kia có một nghệ sĩ hài nổi tiếng. Người nào dù đang buồn đến đâu, khó tính đến mấy nếu được xem nghệ sĩ biểu diễn thì thế nào cũng phải bật cười.
Cũng trong thành phố ấy có một bác sĩ tâm lý nổi tiếng chữa được mọi thứ tâm bệnh. Ngày nọ có một người đàn ông lớn tuổi, vẻ mặt buồn rầu đến xin bác sĩ tâm lý tư vấn. Ông ta nói: “Thưa bác sĩ, tôi là một con người bất hạnh. Cuộc đời tôi đầy những sự chán chường. Bác sĩ có cách nào làm cho tôi vui lên được không?”
Bác sĩ tâm lý liền hỏi: “Thế ông có bị túng thiếu về tiền bạc không?”
Ông ta đáp: “Thú thật, tôi là người thành đạt và khá giầu có”.
Nhà tâm lý lại hỏi tiếp: “Thế còn gia đình vợ con thì sao?”
Ông ta gật đầu thừa nhận: “Tôi có một người vợ vừa đẹp người lại vừa đẹp nết và có mấy đứa con ngoan ngoãn dễ thương”.
Sau khi hỏi để biết thêm một số điều khác, viên bác sĩ tâm lý đã đề nghị cho ông ta một giải pháp: Tôi nghĩ ông nên đến xem các buổi biểu diễn của một nghệ sĩ hài danh tiếng ngay trong thành phố. Chắc chắn ông sẽ cảm thấy cười vui thỏa thích và sẽ không còn buồn nữa.
Nhưng viên bác sĩ lại rất ngạc nhiên khi nghe thân chủ của mình nói: “Thưa bác sĩ, xin cám ơn bác sĩ. Nhưng… tôi chính là nghệ sĩ hài nổi tiếng trong thành phố mà bác sĩ vừa nói đó!”
Câu chuyện nghe có vẻ nghịch lý, nhưng thực tế đúng như vậy. Một người có biệt tài chọc cười người khác lại là nạn nhân của sự buồn chán. Mặc dù ông ta sở hữu mọi thứ ưu điểm mà mọi người đều mong ước, nhưng do trong lòng không có nguồn vui thì làm sao có thể cảm thấy vui thực sự được ? Niềm vui đích thực chỉ đến từ nơi « Thiên Chúa là Tình yêu. Ai yêu thương thực sự thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy ». Chỉ những ai trong lòng chứa đầy tình yêu vị tha nhân ái mới cảm thấy bình an và vui tươi thực sự.
2) GƯƠNG SÁNG CAN ĐẢM TRUNG THỰC CỦA THÁNH GIO-AN PHAO-LÔ II:
-Trong thời gian chuẩn bị mở Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi mọi thành phần trong Hội thánh phải thành tâm sám hối. Vào tháng 05 năm 1995, tại nước cộng hòa Xéc (Tchèque), ngài đã nêu gương can đảm và trung thực khi công khai đại diện Hội thánh Công Giáo nhận lỗi như sau: “Hôm nay tôi, Giáo Hoàng của Giáo Hội Rôma, nhân danh tất cả những người Công giáo, tôi xin lỗi về những lầm lỗi đã gây ra cho người không Công giáo trong lịch sử sóng gió của các dân tộc ấy”.
– Thực vậy, trong lịch sử gần 2000 năm, do lỗi của một số các chủ chăn, Hội thánh ít nhiều đã phạm phải một số lỗi lầm cần phải trung thực nhìn nhận và quyết tâm sám hối như sau:
+ Hội thánh cũng có một phần trách nhiệm trong sự phân rẽ nội bộ thành bốn tôn giáo Ki-tô như: Công giáo, Chính thống, Tin lành và Anh giáo.
+ Thời kỳ trung cổ Hội thánh đã có lần buộc phải phát động thánh chiến để giải phóng Đất Thánh đã bị người Hồi giáo xâm chiếm trước đó. Do cuộc thánh chiến này mà đã có rất nhiều người của hai bên bị thương vong.
+ Thời kỳ Trung cổ, Hội thánh có toà án “Qui Tà” để xét xử và ra những bản án nặng nề như kết án hỏa thiêu một số người hành nghề phù thủy và những người dị giáo chống lại Hội thánh.
+ Về phạm vi khoa học, Hội thánh có lần đã lập tòa án tôn giáo kết án oan sai cho một nhà khoa học vô tội là Ga-li-lê-ô…
Qua việc công khai thừa nhận những sai sót của Hội Thánh trong quá khứ, Đức Thánh Cha muốn cho thấy quyết tâm canh tân Hội thánh công giáo để giúp Hội Thánh bước vào thiên niên kỷ thứ ba với một tinh thần mới theo sát Tin Mừng của Chúa Giê-su hơn và phù hợp với giai đoạn mới của lịch sử nhân loại hơn.
– Trong những ngày Mùa Vọng này, noi gương Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì cụ thể để chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh, chờ đón Chúa Cứu Thế đến trong giờ chết mỗi người cũng như đến chung trong ngày cùng tận của thế giới?
3) HÃY THẮP LÊN ÁNH SÁNG TIN YÊU CHO THA NHÂN:
Một ngày kia mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã đi thăm một ông lão nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng tồi tệ, đồ đạc ngổn ngang bụi bặm. Căn phòng không cửa sổ và tối tăm vì không một bóng đèn. Mẹ Tê-rê-sa liền bắt tay vào việc thu dọn đồ đạc. Ông lão kia nói to: “Xin cứ để yên cho tôi”. Nhưng mẹ vẫn tiếp tục làm công việc quét dọn. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp sạch sẽ, mẹ Tê-rê-sa đã tìm thấy một chiếc đèn dầu nằm trong một góc phòng. Chiếc đèn bám đầy bụi bặm, chứng tỏ đã lâu ngày không có ai đụng đến. Mẹ liền lau chùi chiếc đen sạch sẽ rồi hỏi: “Lâu nay ông đã không thắp đèn phải không ?”. Ông ta đáp: “Thắp đèn làm chi ? Nào có ai thèm đến thăm tôi đâu ? và tôi cũng chswngr cần phải tiếp xúc nói chuyện với ai”. Mẹ lại hỏi: “Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên nếu có các nữ tu của tôi đến thăm ông không?”. Ông đáp: “Vâng, nếu tôi nghe có tiếng người đến thì tôi sẽ thắp đèn lên”.
Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của mẹ Tê-rê-sa được cử đến thăm ông lão và thu dọn giúp đỡ cho ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy như sau: “Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng của tôi rồi. Nhưng xin chị làm ơn về nói với bà bề trên rằng: Ngọn đèn mà bà đã thắp lên trong ngày đầu đến thăm tôi, đến nay vẫn không ngừng cháy sáng”.
Hãy thắp lên Ánh sáng Tình Yêu Thiên Chúa – Ánh sáng Chúa Kitô – Ánh sáng Lời Chúa – Ánh sáng của Giới luật yêu thương.
4) GƯƠNG SÁNG BÁC ÁI TỪ NHỮNG VIỆC NHỎ:
Linh mục Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Có gia đình kia đi nghỉ hè một thời gian dài tại bờ biển. Ngày nọ, mấy đứa con đang nô đùa, xây những lâu đài bằng cát trên bãi biển, thì có một bà lão xuất hiện. Tóc bà rối bời trong gió, áo quần nhàu nát rách rưới. Bà vừa lẩm bẩm, vừa cúi nhặt những vật gì đó trên mặt cát bỏ vào trong giỏ.
Cha mẹ lũ nhỏ liền gọi chúng lại dặn hãy tránh xa mụ đàn bà đó. Khi đi ngang qua, bà lão nghèo khổ đã mỉm cười với họ, nhưng mọi người làm như không xem thấy bà.
Nhiều tuần lễ sau, cả gia đình mới được người biết chuyện kể: Đã từ lâu, bà lão này đã tự nguyện đi làm công việc lượm các mảnh thủy tinh và rác rến rơi trên bãi biển, để bọn trẻ khỏi bị đứt chân.
Bà lão chính là hiện thân của Đức Giê-su Cứu Thế mà người ta không nhận biết, như ông Gio-an Tẩy Giả đã nói với các đầu mục Do thái từ Giê-ru-sa-lem tới như sau: “Giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết” (Ga 1,26). Đây cũng là lời mời gọi chúng ta noi gương bà lão này.
5) HÀNH ĐỘNG TỐT CÓ SỨC THUYẾT PHỤC HƠN LỜI NÓI HAY:
Một vị linh mục đã thuật lại về chuyến đi du lịch của ông tại Trung quốc cách đây ít năm. Trong thời gian đi du lịch đó đây, ông đã gặp và trao đổi với đôi vợ chồng già đều là bác sĩ. Họ đã học chung với nhau ở Đại học Y khoa, quen nhau, rồi yêu nhau và quyết định cưới nhau. Bà vợ là người công giáo, còn ông chồng không theo đạo nào. Đã nhiều lần bà vợ cố thuyết phục chồng theo đạo Công giáo, nhưng ông không quan tâm. Có lẽ vì chưa thấy đạo công giáo có gì tốt hơn các đạo khác.
Rồi đến thời kỳ tại Trung Quốc diễn ra những biến cố chính trị lớn lao, cùng với một số nhà trí thức khác, người chồng bác sĩ đã bị gọi động viên nhập ngũ phục vụ trong quân đội. Sự xa cách đã gây ra nhiều khó khăn cho người vợ ở nhà. Hằng ngày chị vừa phải phục vụ khám chữa bệnh tại bệnh viện, rồi đêm về lại phải chăm sóc cho đứa con trai nhỏ dại nhờ ông bà trông coi ban ngày. Ngoài nỗi cô đơn, chị vợ còn bị các đoàn thể trong cơ quan hối thúc li dị chồng và bỏ đạo công giáo, để có điều kiện thăng quan tiến chức. Nhưng chị chỉ giữ thái độ im lặng. Mỗi ngày, sau khi từ bệnh viện về nhà, hai mẹ con đều đọc kinh tối chung trước khi nghỉ đêm, để xin Chúa giúp sớm đoàn tụ với chồng.
Vào cuối thập niên 1970, ông chồng mãn hạn phục vụ quân đội được trở về nhà. Nhận được tin nhắn, hai mẹ con từ sáng sớm đã ra sân ga đón đoàn tàu trở về. Nhưng hai mẹ con lại là gia đình duy nhất ra đón người thân, vì hầu hết các phụ nữ khác do không chịu đựng được cảnh chia ly lâu ngày nên đã li dị và tái hôn. Trước tấm lòng yêu thương chung thủy của vợ, ông chồng rất cảm động và sau đó đã tình nguyện học giáo lý để chịu phép rửa tội trong đạo công giáo. Ông đã cảm nghiệm được giá trị của đức tin qua hành động chung thủy của bà vợ thân yêu. Đó chính là bằng chứng hùng hồn cho thấy giá trị của đức tin công giáo trước mặt anh em lương dân.
- THẢO LUẬN: Mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để chiếu sáng tin yêu mừng Chúa Giáng Sinh cho người nghèo khổ cô đơn gần nhà, để làm chứng cho ánh sáng Tình Yêu của Thiên Chúa cho những người bất hạnh trong Mùa Giáng Sinh năm nay?
- SUY NIỆM:
1) MÙA VỌNG LÀ THỜI GIAN CHUẨN BỊ TÂM HỒN ĐÓN MỪNG CHÚA ĐẾN:
Trong phụng vụ Chúa nhật thứ nhất Mủa Vọng, Tin mừng Mat-thêu đã ghi lại Lời Chúa mời gọi mọi người tỉnh thức và cầu nguyện: “Anh em hãy canh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24, 42). Sang đến Chúa nhật thứ II, tiếng hô của ngôn sứ I-sai-a trong hoang địa ngày xưa đã được Gio-an Tẩy Giả thực hiện qua lời rao giảng: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa. Sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mt 3,3). Hôm nay trong phụng vụ Chúa Nhật thứ III chuyển sang màu hồng, thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu chúng ta “Hãy vui lên, vì Chúa đã gần đến” (1 Tx 5,16). Tin Mừng Gio-an cũng giới thiệu cho chúng ta một mẫu gương chứng nhân của ánh sáng là Gio-an Tẩy Giả: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đã đến để làm chứng, để chứng thực về sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng là người làm chứng cho sự sáng”. Gio-an đã dùng lời nói, việc làm và cả cái chết của mình để làm chứng cho ánh sáng Sự Thật là Đấng Ki-tô.
2) PHẢI CHUẨN BỊ ĐÓN CHÚA ĐẾN BẰNG CÁCH NÀO ?
– Phải đón chờ Chúa đến trong niềm vui: Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu Thes-sa-lo-ni-ca như sau: ”Anh em hãy vui mừng luôn mãi” (1 Tx 5,16). Khi Đấng Cứu thế đến, Người không chỉ chữa lành những đau đớn bệnh tật thể xác, mà còn chữa lành những căn bệnh tâm hồn và lấp đầy những khát vọng buồn chán trong lòng mỗi chúng ta như lời tuyên sấm của I-sai-a: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19).
Trong những ngày này, mỗi người chúng ta cần thể hiện niềm vui chờ đón Chúa đến bằng việc năng đến nhà thờ dự lễ và tham dự các sinh hoạt đạo đức như tĩnh tâm Mùa Vọng để ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
– Hãy vui luôn trong Chúa: Thánh Phao-lô cũng khuyên các tín hữu như sau: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em ! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần đến” (Pl 4,4-5).
Trong những ngày này, mỗi người chúng ta cũng phải năng dâng lời ca tụng tình thương cứu độ của Chúa khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại… vì “Tất cả đều là hồng ân”. Khi gặp phải những tai nạn trái ý, chúng ta hãy luôn ý thức rằng: “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng” và “qua cơn bĩ cực tới hồi thái lai”, vì « Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành ». Do đó chúng ta đừng bao giờ thất vọng dù gặp phải bất cứ hoàn cảnh nào, vì luôn tin có Chúa cùng đồng hành và sẽ ban ơn nâng đỡ chúng ta vượt mọi khó khăn.
– Hãy gặp gỡ Chúa là niềm vui: Thai nhi Gio-an mới được sáu tháng tuổi trong dạ mẹ cũng đã nhảy mừng khi gặp được thai nhi Cứu Thế Giê-su như bà Ê-li-sa-bét đã nói với Đức Ma-ri-a: « Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng » (Lc 1,44). Đức Giê-su chính là niềm vui của Thiên Chúa. Từ cung lòng Chúa Cha, Người đến trần gian đem tin vui cho nhân loại, giải thoát họ khỏi mọi nỗi đau khổ do tội lỗi và sự chết gây ra. Khi Chúa giáng sinh trong hang đá Bê-lem, các thiên thần đã hân hoan ca hát rằng : « Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương » (Lc 2,14).
Nếu chúng ta có gặp thất bại cũng đừng vội chán nản, nhưng hãy chạy đến với Chúa là niềm vui. Hãy cầu nguyện để chia sẻ mọi nỗi lo toan cho Chúa. Người sẽ lắng nghe và ban ơn giúp chúng ta tìm thấy niềm vui trong tâm hồn. Người sẽ biến đổi cuộc đời của chúng ta nên tốt và nhờ đó chúng ta sẽ tìm thấy bình an trong tâm hồn.
– Hãy chia sẻ niềm vui cho tha nhân cách cụ thể : Trong những ngày Mùa Vọng này, chúng ta hãy đón nhận Chúa Giê-su là nguồn vui bất tận, và đem chia sẻ niềm vui của Chúa đến cho tha nhân như lời bài hát của nhạc sĩ Se-bas-ti-an Bach: “Lạy Chúa Giê-su. Xin cho niềm vui trong con luôn tồn tại, để con có thể đem niềm vui ấy cho tha nhân”.
Vậy mỗi người chúng ta sẽ làm gì để chia sẻ niềm vui Giáng Sinh cho những người thân trong gia đình, những người nghèo khổ bệnh tật và cô đơn gần bên? Để thắp lên ánh sáng tin yêu của Thiên Chúa cho những ai đang bị bất hạnh để họ có được niềm vui trong Mùa Giáng Sinh sắp tới ? J. Bas-quin cũng nói: “Sống chứng nhân không phải là chạy đuổi theo các tâm hồn, mà là sống thế nào để các tâm hồn phải yêu mến chạy theo chúng ta”.
- LỜI CẦU:
– Lạy Chúa GiÊ-su. Chúng con đang sống trong những ngày Mùa Vọng, là thời gian chờ đón Chúa tái lâm kiến tạo một “Trời Mới Đất Mới”. Trong những ngày này, xin cho chúng con biết noi gương Gio-an Tẩy Giả: chuẩn bị đón Chúa đến bằng các việc hy sinh hãm mình biểu lộ tâm tình sám hối của chúng con, bằng những lời động viên giúp vợ chồng, con cái, bạn bè… sống tốt lành đạo đức hơn. Nhất là xin cho chúng con trở thành ánh sáng chiếu soi, khí cụ bình an của Chúa, luôn sống tin yêu phó thác vào Chúa quan phòng và sẵn sàng khiêm nhường phục vụ tha nhân, để nên dấu chỉ giúp người đời nhận biết tin theo Chúa.
– LạY CHÚA. Khi xưa Mẹ Ma-ri-a đã sống bác ái, trong tinh thần xin vâng và phục vụ. Mẹ đã mở cửa lòng đón nhận Ngôi Lời Nhập Thể qua lời thưa “Xin Vâng” với sứ thần. Mẹ đã đem Chúa đến thăm viếng gia đình Gia-ca-ri-a để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho các thành viên trong gia đình này. Xin Chúa giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón Chúa đến với chúng con trong Đêm Giáng Sinh. Xin giúp chúng con chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa bằng một lối sống đạo đức thực sự, thể hiện qua thái độ vị tha, quảng đại chia sẻ và khiêm nhường phục vụ tha nhân. Nhờ đó, người đời sẽ nhận biết tin theo Chúa để cũng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG_B.
Lm. Anthony Trung Thành
Một trong những nhân vật được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong phụng vụ Mùa vọng, đó là Thánh Gioan Tẩy Giả. Sở dĩ Ngài được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong phụng vụ Mùa vọng như vậy, bởi vì Ngài có sứ mạng Tiền hô, là người đi trước để làm chứng và dọn đường cho Chúa Cứu Thế ngự đến.
Tin mừng Chúa nhật tuần trước nhắc lại lời kêu gọi của Ngài về việc hô hào dân chúng dọn đường cho Chúa ngự đến. Lời mời gọi của Ngài đã thu hút sự đáp trả của rất nhiều thành phần trong xã hội Do thái thời bấy giờ. Tin mừng cho biết, người ta tuôn đến với Ngài rất đông. Họ thán phục về đời sống khắc khổ của Ngài. Họ chấp nhận giáo huấn của Ngài. Rồi họ thắc mắc về bản thân Ngài?Vì thế, Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết:Các vị tư tế, các thầy Lêvi và các Biệt phái lần lượt đặt ra những câu hỏivà mong muốn Ngài trả lời: Ông là ai? Ông có phải là Êlia không? Ông có phải là tiên tri không? Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không phải là Êlia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa? (x. Ga 1, 19-25).
Thánh Gioan Tẩy Giả không úp mở, Ngài đã trả lời một cách thẳng thắn và rõ ràng các câu hỏi mà họ đặt ra:
Với câu hỏi của các vị Tư tế và các thầy Lêvi, Ngài trả lời rằng:Tôi không phải là Đấng Kitô.Tôi không phải là Êlia.Tôi cũng không phải là một tiên tri nào khác.Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo(x. Ga 1, 19-25).
Với câu hỏi của các Biệt phái,Ngài trả lời rằng :“Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.27 Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.”(Ga 1,26-27).
Các câu trả lời của Thánh Gioan Tẩy Giả cũng rất ăn hợp với lời mở đầu trong bài Tin mừng hôm nay của Thánh sử Gioan: “Có một người được Thiên Chúa sai đến,tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.”(Ga 1,6-8).
Như vậy, qua lời chứng của Thánh Gioan Tông đồ và của chính bản thân Thánh Gioan Tẩy Giả cho chúng ta biết, Ngài không phải là tiên tri Êlia hay một tiên tri nào khác. Ngài càng không phải là Đấng Kitô mà chỉ là người làm chứng về ánh sáng và là người dọn đường cho Đức Giêsu Kitô ngự đến.
- Thánh Gioan Tẩy Giả là người làm chứng cho Đức Giêsu
Đức Giêsulà Ngôi Lời :“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.”(Ga1,9). Đức Giêsu cũng chính là ánh sáng của trần gian, chính Ngài đã tuyên bố : “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.”(Ga 8,12). Vì thế, Thánh Gioan làm chứng về ánh sáng, tức là làm chứng về Đức Giêsu. Ngài làm chứng về Đức Giêsu như thế nào ? Khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, Thánh Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu cho dân chúng rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” (x. Ga 1,29-30).Ngài còn cho biết : “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.”(Ga 1,32).Khi được Gioan giới thiệu, dân chúng đến với Chúa Giêsu thay vì đến với Gioan (Ga 3,26). Gioancòn giới thiệu Chúa Giêsu cho hai môn đệ của mình, và họ đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu (Ga 1,35-42).
Thánh Gioan Tẩy Giả còn làm chứng cho sự thật. Vì sự thật, Ngài đã tố cáo tội loạn luân của vua Hêrôđê nên bị Hêrôđê ra lệnh chặt đầu Ngài (x. Mc 6,21-29).Đức Giêsu là sự thật. Ngài đã từng khẳng định rằng : “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.”(Ga 14,6). Như vậy, Thánh Gioan Tẩy Giả làm chứng cho sự thật thì cũng làm chứng cho Đức Giêsu.
Tóm lại, Thánh Gioan Tẩy Giả là người làm chứng cho ánh sáng, cho sự thật tức là làm chứng cho Đức Giêsu.
- Người Kitô hữu có sứ mạng làm chứng cho Đức Giêsu
Qua bí tích Rửa tội, chúng ta được mời gọi làm chứng cho Đức Giêsu. Cũng như Gioan Tẩy Giả, chúng ta có thểlàm chứng cho Đức Giêsu bằnglời nói và bằng chứng tá đời sống: Kêu gọi mọi thành phần trong xã hội thực hành việc sám hối; bênh vực cho công lý và sự thật; sống công bằng bác ái yêu thương,…Để làm chứng cho sự sáng, chúng ta phải sống trong sự sáng. Nhờ đó, chúng ta có thể giới thiệu Chúa cho anh chị em mình.
Để sứ mạng làm chứng của chúng ta đem lại hiệu quả tốt, cần sự soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Bài đọc I, tiên tri Isaia đã tiên báo về vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong sứ mạng của Đức Giêsu : “Thần khí của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của ĐỨC CHÚA, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than.” (Is 61, 1-2). Chúa Thánh Thần cũng đóng vai trò quan trong trong sứ mạng của các tín hữu qua mọi thời đại. Vì thế, trong bài đọc II hôm nay, thánh Phaolô lưu ý các tín hữu Thessalonica và cũng là lưu ý chúng ta rằng :“đừng dập tắt Thần Khí”.“Dập tắt Thần Khí”có thể được hiểu là không nghe theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Đó là nhiều khiThánh Thần thúc giục, nhắc nhở nhưng bị sự ươn lười hay khô khan nơi con người dập tắt đi. Chúng ta không được “Dập tắt Thần Khí”, nhất là trong việc làm chứng cho Chúa.Đức Giêsu đã từng nói : “Khi người ta điệu anh em đi nộp, thì anh em đừng lo trước phải nói gì, nhưng trong giờ đó, Thiên Chúa cho anh em biết điều gì, thì hãy nói điều ấy: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần nói.”(Mc 13,11).Khi rao giảng Tin mừng và xây dựng Hội thánh, các Tông Đồ cũng luôn khẳng định rằng: “Thánh Thần và chúng tôi làm chứng” (Cv 5, 32). Cho nên, hãy để Thánh Thần hoạt động trong chúng ta, hãy lắng nghe tiếng thục giục của Ngài, nhất là những khi chúng ta làm chứng cho Đức Kitô. Nhờ đó, mọi hoạt động làm chứng của chúng ta sẽ đem lại nhiều hiệu quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết chu toàn bổn phận làm chứng cho Chúa như Thánh Gioan Tẩy Giả. Xin cho chúng con đừng dập tắt Thánh Thần; đừng khinh khi các lời tiên tri, nhưng hãy nghiệm xét mọi sự, điều gì tốt hãy giữ lại. Hãy tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức.Xin chính Thiên Chúa bình an thánh hoá chúng con toàn diện, để thần trí, linh hồn và thể xác chúng con được gìn giữ toàn vẹn trong ngày Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta ngự đến (x. 1 Tx 5, 19-23).Amen.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG. NĂM B
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6)
Phái đoàn đến phóng vấn Gioan Tẩy Giả hôm nay gồm hai nhóm.
Nhóm thứ nhất có các thầy tư tế và người Lêvi. Họ chú ý đến Gioan Tẩy Giả là điều tự nhiên, vì ông là con của Giacaria, mà Giacaria là thầy tư tế (Lv l,5).
Trong Do Thái giáo, chức vụ tư tế là do cha truyền con nối. Người nào không phải là hậu duệ của Aaron, thì không có gì làm cho người ấy trở thành thầy tư tế được.
Còn nếu người ấy là con cháu của Aaron thì đương nhiên sẽ trở thành tư tế. Do đó dưới con mắt của các nhà cầm quyền, Gioan Tẩy Giả quả là một thầy tư tế, và tự nhiên các thầy tư tế phải tìm hiểu xem tại sao lại có một thầy tư tế hành động bất thường như vậy.
* Nhóm thứ hai gồm những người đại diện cho giới Biệt phái. Rất có thể là sau lưng họ còn có Toà án Tối Cao.
Một trong những nhiệm vụ của Tòa án Tối Cao là phải đối phó với những ai bị nghi ngờ là tiên tri giả. Gioan Tẩy Giả là một nhà truyền đạo được dân chúng mến chuộng và theo rất đông. Có lẽ Tòa án Tối cao thấy họ có trách nhiệm phải tra xét xem ông có phải là tiên tri giả hay không. Gioan Tẩy Giả đã không theo đúng cung cách bình thường của một thầy tư tế và ông cũng không theo đúng phong thái của một nhà giảng đạo. Chính vì thế mà các nhà chức trách tôn giáo thời đó bó buộc phải nhìn ông với cặp mắt nghi kỵ. Đó cũng là một điều hết sức tự nhiên.
1. Họ hỏi ông có phải là Đấng Messia không? Tại sao họ lại hỏi ông như thế?
Thưa vì dân Do Thái đã trông chờ Đấng Messia từ rất lâu. Thậm chí cho đến lúc đó người ta cũng vẫn còn đang trông chờ. Bất cứ một dân tộc nào đang bị đô hộ cũng trông mong được giải phóng như thế. Dân Do Thái tin rằng họ là tuyển dân của Chúa Giavê nên họ không nghi ngờ gì về việc chẳng chóng thì chày Thiên Chúa sẽ can thiệp để cứu dân Ngài. Họ trông chờ một Đấng Messia sẽ đem hòa bình đến cho cả thế giới. Cho nên khi họ hỏi Gioan Tẩy Giả xem ông có phải là một Đấng Messia hay không thì đó là một điều rất hợp lý.
Gioan bác bỏ hoàn toàn việc tung hô đó: “Tôi không phải là Đấng Messia.”
- Họ hỏi ông có phải là Êlia không?
Dân Do Thái tin rằng trước khi Đấng Messia giáng lâm, Êlia sẽ trở lại để loan báo trước và chuẩn bị cho thế gian tiếp rước Ngài. Đặc biệt Êlia sẽ đến để dàn xếp mọi bất hoà. Ngài sẽ phân định những gì và những ai là thanh sạch hay không thanh sạch. Ngài sẽ phân chia đâu là người Do Thái, đâu là người ngoại bang. Ngài sẽ đem lại đoàn kết, hoà thuận cho các gia đình từng xa lạ với nhau.
Họ tin tưởng điều đó mạnh đến nỗi luật xưa của người Do thái nói rằng nếu có gì về tiền bạc hay của cải còn đang tranh chấp, hoặc bất cứ tài sản nào còn bị xem là vô chủ thì đều phải đợi “cho tới khi nào Êlia đến”. Niềm tin rằng Êlia phải đến trước Đấng Messia bắt nguồn từ Malakia 4,5. Người ta còn tin rằng chính Êlia sẽ xức dầu cho Đấng Messia làm vua cũng như tất cá các vua đã được xức dầu.
Gioan Tẩy Giả cũng phủ nhận tất cả những vinh dự đó.
- Họ hỏi ông có phải là nhà tiên tri được hứa ban và mọi người trông đợi không?
Căn cứ vào lời bảo đảm của lãnh tụ Môisê với dân trong sách Thứ Luật 18,15: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh (em), Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh (em); anh em hãy nghe vị ấy”.
Đó là lời hứa mà dân Do Thái sẽ không bao giờ quên. Họ chờ đợi sự xuất hiện của một nhân vật sẽ là tiên tri vĩ đại nhất và trông mong nhân vật ấy như là nhà “tiên tri lý tưởng”. Có nhiều người còn nghĩ rằng cả Isaia và nhất là Giêrêmia cũng sẽ trở lại lúc Đấng Messìa đến.
Nhưng lại một lần nữa Gioan Tẩy Giả không thừa nhận vinh quang là của mình.
Vậy họ hỏi ông là ai?
Ông nói mình chỉ là tiếng nói khuyến giục mọi người dọn đường cho Nhà Vua. Ý ông muốn nhắc lại một lời trong Isaia 40,3 mà tất cả các Tin Mừng đều trích dẫn câu này để ám chỉ Gioan Tẩy Giả. Ý niệm ẩn tàng trong câu ấy là: “Đường đi bên Đông phương, mặt đường gồ ghề và thường chỉ là những lối mòn. Khi một vị vua sắp đến thăm một tỉnh, hoặc khi nhà chinh phục sắp kéo quân đi qua lãnh thổ của mình thì đường xá phải được san bằng, dọn thẳng và thu xếp lại cho có trật tự.” Điều mà Gioan Tẩy Giả muốn nói với mọi người là: “Ta chẳng là ai cả, ta chỉ là tiếng kêu, kêu gọi các người hãy chuẩn bị sẵn sàng đợi nhà vua đến”. Ông muốn nhắc lại rằng: “Hãy tự sửa soạn đi! Nhà vua đã lên đường rồi đó”. Ông muốn mọi người hãy quên ông đi để chỉ thấy Nhà Vua mà thôi.
Tới đây chúng ta có thể dừng lại. Thử hỏi chúng ta có thể tìm được bài học nào cho chúng ta trong hoàn cảnh hôm nay hay không? Có rất nhiều bài học nhưng tôi xin được nói tới sự trung thực nơi con người của Gioan.
Trước hết là sự trung thực trong lời nói: Rất trung thực khi nói về chính mình, không dám nhận những vinh quang mà người đời gán cho.
Thứ đến là trung thực với lòng mình. Chính vì muốn trung thực với lòng mình nên ngài đã vui lòng chấp nhận một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối.
Và cuối cùng là trung thực trong những phán đoán về người khác. Ngài đã không sợ khi phải thẳng thắn khuyên vua Hêrôđê không đựơc phép lấy vợ của anh mình. Vì sự sự trung thực này mà Ngài đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân của mình.
Đức Cha Tiamer Toth trong một cuốn sách viết cho giới trẻ có tựa đề là “Chí khí người thanh niên” có nói đến một tấm gương mà ngài ước mong các bạn trẻ hãy nhìn vào đó mà bắt chước. Truyện như thế này: Regulus là một tướng của Lamã bị quân Carthage bắt làm tù binh. Sau một thời gian mệt mỏi vì chiến tranh, người Carthage muốn cầu hòa với người Lamã. Người mà thành Carthage chọn để dứng đầu phái đoàn lại chính tướng Regulus. Trước khi lên đường dân Carthage bắt Regulus phải thề: nếu sứ mạng cầu hòa của họ bị thất bại thì Regulus phải trở về nhà tù trở lại. Regulus đã thề.
Chúng ta có thể tưởng tượng được sự xúc động của tướng Regulus khi về tới La Mã, thành phố quê hương yêu quý của ông như thế nào không! Rất vui mừng nhưng cũng đầy khó khăn. Regulus sẽ phải hành động làm sao đây?
Với tất cả tài lợi khẩu, ông yêu cầu thượng nghị viện cứ tiếp tục chiến tranh; nghị viện yêu cầu ông ở lại La Mã, viện cớ rằng: lời thề vì cưỡng bách không có giá trị. Nhưng ông trả lời:
“Các ngài có muốn để tôi mất danh dự không? Tôi thừa biết rằng những khổ hình và giờ chết đang đợi tôi khi tôi trở lại. Nhưng những cái ấy không thấm thía vào đâu khi so sánh với sự ô nhục của một hành động bất lương với sự tổn thương của tâm hồn do một lời nói dối. Đành rằng tôi sẽ lại là tù binh của dân Cathage nhưng ít ra tôi vẫn giữ được chí khí của tôi mà dân La Mã sẵn có với sự trong sạch của nó. Tôi đã thề hứa sẽ trở về với họ thì tôi giữ lời hứa cho đến cùng. Vì thế các ngài hãy phó mặc mạng sống tôi cho các Thần Thánh”.
Và Regulus đã trở về Cathage, ở đấy tướng công đã chết giữa những cực hình khủng khiếp.
Đó là chí khí và lòng quả cảm của một người công dân Lamã!
Gioan cũng đã sống như vậy và Chúa Giêsu Chúa của chúng ta chắc cũng muốn cho chúng ta sống như thế. Amen.
.
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
Mùa Vọng là mùa tìm đọc và suy gẫm Thánh Kinh và lời các tiên tri trước khi Chúa Giáng Sinh giúp chúng ta chú tâm nhìn vào một viễn tượng và đào sâu lòng ước mong của chúng ta về đấng Thiên Sai.
GIOAN TIỀN HÔ LÀ AI?
Trong bài Tin Mừng Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy hình ảnh Gioan Tiền Hô lại một lần nữa xuất hiện trên diễn đàn lịch sử ơn cứu độ. Toàn thể sứ mệnh của Gioan là chuẩn bị cho đấng Thiên Sai đến. Khi thời điểm đến, Gioan dẫn các đệ tử của ngài đi gặp đức Giesu và cho họ biết Người là đấng Thiên Sai, Ánh Sáng Thật và là Chiên Thiên Chúa, đấng tha thứ tội trần gian. Chính Gioan thì không phải là ánh sáng. Ông đến để chứng minh cho Ánh Sáng. Ông không coi trọng hình ảnh của ông. Ông đến để cho Ánh Sáng chiếu tỏa trên ông.
Gioan coi mình không bằng tên nô lệ của chúa Giesu. “Giữa các ông có một người mà các ông không biết. Người đó đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi giây giày cho Người” (Ga 1:26-27). Khi các đệ tử của Gioan đến gặp đức Giesu thì quá ngỡ ngàng về ý nghĩa phép rửa của Người ở sông Jordan. Thấy vậy Gioan nói cho các ông ấy thật rõ ràng: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban”. Gioan lại nói thêm “Tôi chỉ là bạn của chú rể, tôi phải lu mờ đi để cho Chủ nổi bật lên trên (Ga 3:27-30). Người làm phép thanh tẩy đã xác định nhân tính của mình với tất cả những giới hạn của nó.
CẢNH BẤT NGỜ
Một trong những cảnh nhức nhối nhất của Tin Mừng Luca là Gioan Tiền Hô bị tiểu vương Herod bắt bỏ tù vì đã khiển trách vua phạm tội loạn luân, lấy em dâu là Herodias làm vợ (Mt 4:12; Mc 1:14; Lc 3:19). Cảm thấy cô đơn, và quá chán nản lại gần đến cuối đời, Gioan Tiền Hô lớn tiếng kêu lên như một vị tiên tri vĩ đại nhất:“Thầy có thực sự là đấng phải đến không?”(Lc 7:19). Có lẽ Gioan chờ mong một vị cách mạng xã hội đến để đem lại một vương quốc huy hoàng đầy thế giá, không phải đến với những kẻ nghèo khó, què quặt, mù lòa, cô đơn và tội lỗi. Nhưng Chúa Kito thì đến một cách đặc biệt và bất ngờ chẳng giống ai ở giữa những kẻ bần cùng khốn khổ.
Đức Giesu yêu cầu Gioan nhìn kỹ mọi sinh hoạt chung quanh, để ý đến những việc đã xẩy ra trong dân chúng. Người mù nhìn thấy, người què đi được….Yếu đau bệnh tật được chữa lành, kẻ điếc nghe được. Tin Mừng bây giờ được loan truyền cho người nghèo khó. Đó là những điều rất kỳ lạ, một an ủi đáng kể cho tất cả chúng ta. Chúng ta sẽ chẳng ngạc nhiên nếu tự hỏi: “Người Kito hữu có thực sự xứng đáng như vậy không?” “Đức Giesu có thực sự là đáp số cho tất cả mọi thói hư tật xấu, nỗi buồn phiền của nhân loại và của chính chúng ta không?”
Đám đông đến với Gioan và hỏi ngài “Chúng tôi phải làm gì đây?” Gioan chẳng khuyên ai từ bỏ thế gian nơi họ đang sống, nhưng ngài biểu họ, “Nếu ai có hai áo thì hãy cho kẻ không có gì cả một cái. Những ai dư giả đồ ăn thức uống thì hãy chia bớt cho những kẻ đói khát. Người thu thuế thì đừng thu thêm quá số chỉ định. Lính tráng thì đừng dùng bạo lực hoặc cáo gian để cướp bóc bất cứ ai. Hãy bằng lòng với đồng lương của mình. Vậy mọi người phải làm gì để sửa soạn đón đấng Thiên Sai? Hãy quảng đại, công bằng, lương thiện, tri ân và đầy lòng trắc ẩn yêu thương (Lc 3:10-14).
ĐÔI LỜI KẾT: CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?
Cuộc sống và sứ mệnh của Gioan Tiền Hô là cho chúng ta biết chúng ta cần phải có đấng cứu thế đến cứu chuộc chúng ta. Để được như vậy, chúng ta cần phải làm và sống tất cả những gì mà thánh nhân kêu gọi chúng ta phải thi hành trong Ánh Sáng. Chúng ta là những Kito hữu can đảm, sống lời ngôn sứ và làm chứng nhân thế nào cho Anh Sáng, đấng đã đến thế gian? Phải chăng chúng ta đã thường không nhận ra được một người ở giữa chúng ta là Ánh Sáng Thực sự sao?
Chớ gì Thánh Gioan Tiền Hô ban cho chúng ta sức mạnh và can đảm để chúng ta có thể đem Ánh Sáng đến cho tha nhân, lòng quảng đại và tài trí để vui mừng và chời đợi như thánh Phao lo viết trong thư gửi tin hữu Thessalonico: “Hãy luôn luôn vui mừng và cầu nguyện liên lỷ”(1Tx 5:16-17). Chúng ta có thể đảo ngược lời khuyên đó thành: “Hãy cầu nguyện liên lỷ để chúng ta có thể luôn luôn vui mừng.”
Trong lúc nguyện cầu, chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy tất cả những ưu tư và hy vọng của chúng ta tụ đọng lại nơi Thiên Chúa thành chính tình yêu và sự khôn ngoan của người, cách xếp đặt của người dưới chân chúng ta và ban cho chúng ta đầy đủ mọi sự tràn đầy sức sống và ánh sáng.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Chủ đề Chúa Nhật III mùa Vọng là niềm vui. Niềm vui từ bên ngoài khi chủ tế mặc lễ phục màu hồng, ca đoàn được sử dụng phong cầm và các nhạc cụ khác; cửa hàng, siêu thị và những khu vui chơi đã hoàn tất phần trang trí: hang đá, cây thông, đèn màu…; nhà thờ nhộn nhịp để tập dợt các tiết mục văn nghệ… Niềm vui bên trong khi đã có một số người thống hối ăn năn, dọn tâm hồn, đi xưng tội để mừng lễ Giáng sinh; các em thiếu nhi ở một vài nơi tích cực dự lễ để thực hiện chương trình “cọng rơm dâng Chúa Hài Đồng”; một số cá nhân và đoàn thể quan tâm vận động quyên góp để chia sẻ với người nghèo, thăm viếng bệnh nhân, giúp đỡ người khó khăn… Thế cho nên mầu nhiệm Giáng sinh đã thực sự đem đến niềm vui cho nhân loại. Niềm vui đó chính là nhịp cầu của yêu thương.
Nhịp cầu này được khởi sự từ ý định của Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Isaia:“Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa” (Is 61, 1). Hơn 700 năm sau, chính Đức Giêsu tại Nazaret trong Lc 4, 18-19 đã mượn lời này để nói về sứ mạng của Ngài. Sau khi đọc đoạn sách tiên tri Isaia này, Ngài đã nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời tiên tri tai các ngươi vừa nghe”. Vì vậy, Đức Giêsu là nhịp cầu yêu thương của Thiên Chúa Cha.
Cùng thời với Đức Giêsu, cũng có một nhân vật được nhiều người biết đến và lầm tưởng ông là Êlia, hay một vị ngôn sứ nào đó, thậm chí là Đấng Kitô nữa… Nhưng ông biết rõ và chấp nhận sự thật nơi bản thân của mình. Ông biết mình là ai và làm gì: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa” (Ga 1, 23) ; “Ông đến để làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1, 7). Như vậy Gioan ý thức rất rõ mình chỉ là nhịp cầu chứ không phải bến đậu; mình chỉ là người chỉ đường chứ không phải điểm đến. Biết rõ sự thật nơi bản thân của ông, biết rõ sứ mạng của ông và hoàn thành sứ mạng đó đã đem đến cho Gioan một niềm vui trọn vẹn. Qua phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được niềm vui từ những nhịp cầu nối yêu thương.
Cuộc đời của mỗi người chỉ tìm được ý nghĩa thực sự khi về tới bến yêu thương và dẫn người khác cùng về. Thiên Chúa là tình yêu. Ngài là cội nguồn của yêu đương. Ngôi Lời Nhập Thể chính là tình yêu giáng sinh để trở thành “đường, sự thật, và sự sống”, để những ai bước đi theo Ngài là sống trong tình yêu và cũng là đang tìm về với nguồn của yêu thương.
Trong sứ điệp ngày thế giới người nghèo được cử hành vào Chúa Nhật 33 thường niên, Đức Thánh Cha cho biết ngài thiết lập Ngày Thế giới người nghèo khi bế mạc Năm Thánh Đặc biệt về Lòng Thương Xót, để “trong toàn thế giới, các cộng đoàn Kitô ngày càng trở nên dấu chỉ cụ thể và rõ ràng về tình yêu thương của Chúa Kitô đối với những người rốt cùng và túng thiếu nhất”.
Thế cho nên khi chúng ta biết quan tâm đến người nghèo là chúng ta đang có một tình yêu. Chính tình yêu đó trở thành nhịp cầu để nối con người với Thiên Chúa giống như Đức Giêsu Kitô.
Giáo phận Cần Thơ sống mùa vọng 2017 trong tinh thần tiếp tục quan tâm đến những người nghèo, vì hình ảnh Hài Nhi Giêsu là đại diện cho những người nghèo nhất. Do đó, Đức Giám mục Giáo phận muốn mỗi Kitô hữu chúng ta trở thành một nhịp cầu cho những người nghèo tìm được chút hơi ấm của tình yêu.
Nếu Gioan Tẩy Giả tìm kiếm vinh quang cho mình thì chắc chắn người thời đó không biết Đấng Cứu Thế là ai. Thì cũng vậy, nếu con người cứ bo bo giữ của, cứ gom góp, cứ tích trữ, cứ quy về mình thì tình yêu sẽ không thực sự được tỏ hiện nơi cuộc đời của họ. Giá trị của con người là ở chỗ biết cho đi. Chính vì muốn gom góp, muốn tích trữ nên dẫn đến hậu quả là người ta không lo thờ phượng Chúa và sẵn sàng làm những việc sai trái. Khi người ta còn nghĩ đến tình yêu, còn nghĩ đến người nghèo, thì cuộc sống sẽ rất dễ chịu và cuộc đời rất tốt đẹp.
Có nhiều cách để trở thành nhịp cầu yêu thương. Xung quanh chúng ta còn rất nhiều những người nghèo, những người bệnh tật, chỉ cần một lần viếng thăm, một lời thăm hỏi là họ rất vui. Có những gia đình chỉ còn những người già yếu bệnh tật không làm gì được, nếu chúng ta dành chút thời giờ, lâu lâu đến “tổng vệ sinh”, sắp xếp nhà cửa lại cho ngăn nắp; hoặc cho họ chút thức ăn, chút quà bánh. Quỹ bác ái cho người nghèo là cách đóng góp tốt nhất, vì nhiều khi có năm ba ngàn không biết làm gì, bỏ vào quỹ đó để góp gió thành bão. Quỹ bác ái cho người nghèo cũng là cách để nhắc nhở chúng ta trở thành nhịp cầu yêu thương. Vì vậy những ai có trách nhiệm đi quyên góp cứ mạnh dạn lên đường, vì chúng ta làm một việc rất cao cả. Những ai thấy người khác đi xin tiền cho người nghèo, nếu có thì cho, không có thì thôi chứ đừng có thái độ và những lời nói khó chịu, vì họ làm một việc cao cả hơn chúng ta.
Mùa Vọng không phải là thời gian chờ đợi cách thụ động, nhưng là thời gian rất tốt để chúng ta trở thành nhịp cầu của yêu thương. Hãy tận dụng tuần lễ cuối cùng của mùa Vọng để tìm niềm vui sâu thẳm cho chính mình và đem đến niềm vui cho người khác bằng cách quan tâm và giúp đỡ những người nghèo.
Lạy Chúa, xin cho con trở thành nhịp cầu yêu thương để đem Chúa đến cho người khác, và đem người khác về với Chúa.
.
ÔNG ĐẾN ĐỂ LÀM CHỨNG
Lm. Anphong Nguyễn Công Minh
Vào cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, tức quãng năm 1959, ai cũng công nhận câu gán ghép của Đức Athenagoras, Thượng Phụ chính thống giáo Constantinople là chí lý, là rất đạt, là cực kỳ hay, khi vị thượng phụ này gán một câu Phúc Âm thời xưa để ghép cho một người thời nay, là vị giáo hoàng của Giáo Hội Công Giáo Roma: “Có một người được Chúa sai đến, tên là Gioan” : Đây là câu Phúc âm chúng ta vừa nghe, được Đức Thượng Phụ Athenagoras Đông Phương ghép cho Đức Gioan 23, một Giáo Hoàng Roma Tây Phương.
Câu ghép này rất ý vị vì Đức Roncalli khi lên ngôi Giáo hoàng, lấy hiệu là Gioan (chứ nếu lấy Piô, Phaolô, Benedicto, thì sao gán ghép được); và câu ghép này thật chí lý vì quả Đức Gioan 23, nay đã được phong thánh, là người “được Chúa sai đến” thật, một vị đến làm đảo lộn, canh tân lại bộ mặt của Hội thánh, để Hội Thánh không tì ố, không vết nhăn, mặc dầu đức Gioan lúc đó đã ngót nghét 80 tuổi, khuôn mặt đã nhiều nếp gấp, khoé mắt nhiều dấu chân chim, nhưng đúng là người được Chúa sai đến, đến để làm chứng cho con người thế kỷ 20 và 21 này.
Hôm nay ta chỉ mở đề với thánh Gioan 23 để vào đề với thánh Gioan Tẩy giả. Đề tài bài suy niệm Tin Mừng hôm nay là : Gioan, Kẻ Làm Chứng. “Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng.”
Vậy làm chứng là gì và làm chứng cái gì ? Đó là 2 điểm ta sẽ trả lời.
1. Làm chứng là gì ?
– Từ Điển tiếng Việt cho ta biết: Làm chứng là đứng ra xác nhận những gì mình đã thấy, đã nghe… Td : Làm chứng một tai nạn giao thông ; hai người làm chứng trong Hôn phối nghe và thấy rằng đôi bạn đã bày tỏ sự ưng thuận.
Người làm chứng thì không phải là đương sự. Như hai người làm chứng trong Hôn phối phải khác hai người ưng thuận lấy nhau. Ra toà, người làm chứng không thể là bị cáo hay nguyên đơn. Cũng vậy, Gioan được Chúa sai đến để làm chứng, thì cũng là để làm chứng về một điều gì, về một ai đó chứ không phải để làm chứng chính mình. Nếu có phải nói về mình là cũng chỉ nhằm làm chứng về người kia, như Gioan nói thẳng: tôi không phải là Êlia, không phải Kitô, không phải Ngôn sứ người ta trông đợi… “Tôi chỉ là tiếng kêu…” Gioan nói vậy để làm chứng cho những người đến dò hỏi Gioan, là hãy đi tìm Đấng Kitô nơi người khác đi.
– Nghĩa thứ hai của làm chứng mới đáng giá. Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan, ông đến để làm chứng. Phải mở chính nguyên bản Sách Thánh Hilạp xem tác giả Tin Mừng dùng chữ gì để khi nói đến làm chứng ? Thưa : từ Marturios, cũng “từ” này còn có nghĩa tử đạo. Làm chứng tương đương với tử vì đạo, chết vì nghĩa. Kinh các thánh tử đạo : Lạy các thánh tử đạo là chứng nhân anh dũng của Đức Kitô. Tiếng Anh, người tử vì Đạo là Martyr. Do đó, làm chứng không chỉ có nghĩa trả lời “có,” “không.” Tôi thấy cái này, tôi nghe cái kia, đưa ra bằng chứng, thế là xong, mà còn là bảo đảm cho điều mình làm chứng đi đến kết cuộc, dẫu có phải chết. Từ ngữ Việt phần nào nói được điều đó: LÀM chứng (chứ không phải “nói chứng,” “giơ chứng” : có một tích cực chứ không thụ động. Từ Hi lạp thì nói rõ : làm chứng là chết vì nghĩa. Quả Gioan đã chết vì làm chứng.
2. Làm chứng cho cái gì ?
Bài Tin Mừng trả lời rõ ràng cho chúng ta: “Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan, ông đến để làm chứng. Và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” Chỉ một câu ngắn mà đã có ba chữ “ánh sáng.”
Ánh sáng rất cần để thấy. Mắt không mù, nhưng không có ánh sáng thì cũng không thấy gì. Như trong đêm tối, đêm ba mươi, không có một tí ánh sáng gì, ta mở mắt mà đâu có thấy, phải vận dụng đôi tay sờ soạng dò đường.
Gioan đến là để làm chứng cho Ánh Sáng. Người Do Thái mở mắt mà nhìn không ra. “Ở giữa các ông có một vị mà các ông không biết”… “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dép cho Người.” Sau này chính Chúa Giêsu đã gọi Gioan Tẩy Gỉả là chiếc đèn (Ga 5,33-36). Đêm mà không có lửa thì không có ánh sáng, Ánh sáng dùng đèn như một phương thế để chiếu soi. ĐGH Gioan 23 khi trả lời cho câu hỏi của một phóng viên rằng ĐGH chờ đợi gì ở Công đồng Vatican này (ta nên nhớ ĐGH Gioan 23 là vị có sáng kiến triệu tập CĐ Vaticano 2). Bằng một hành động tượng trưng, đức Gioan đi về phía cửa sổ vừa mở ra vừa nói : “Chờ đợi gì ư ? Một chút gió.” Mở cửa thì gió thổi vào được : Gió là Thần Khí. Mở cửa thì ánh sáng mới vào được. Ánh sáng là Đức Kitô.
Khi tiếp vị đại sứ, ĐGH Gioan (người được Chúa sai đến) nói : Phải rũ hết bụi đế quốc đã chồng chất lên toà thánh Phêrô kể từ thời vua Constantin ! Bụi phủ nhiều làm sao ánh sáng lọt vào. Phải phủi bụi đi thì mới thấy rõ ràng được. ĐGH Gioan cũng nói về Giáo Hội, sau bao thế kỷ bị phủ lên mình một lớp bụi dày: bụi cơ cấu, bụi tuyệt thông, bụi tiên báo sự dữ và tai họa… Hãy phủi đi thì anh em ly khai sẽ về, thế giới người đời sẽ tới với Giáo Hội. Hãy phủi, hãy cất những màn che để Ánh sáng Chúa Kitô lọt vào.
Có một người được Chúa sai đến, tên là Gioan, ông tới để làm chứng và làm chứng cho ánh sáng.
Người có tên là Gioan: chính là Gioan Tẩy giả; và người có tên là Gioan là thánh Gioan 23 giáo hoàng. Cả hai đều muốn làm chứng cho ánh sáng.
Người có tên là Gioan còn là mỗi chúng ta. Khi lãnh nhận 2 bí tích Thánh tẩy và Thêm sức là chúng ta được Chúa sai đến. Trong bí tích Thánh tẩy, ta cầm nến trong tay. Trong bí tích Thêm sức, nến cũng ở trong tay ta. Điều đó muốn nói chúng ta hãy là ánh sáng, và chúng ta hãy để Ánh Sáng là Chúa Kitô đậu vào chiếu soi. Phải làm sao đích thực ta là bạn hữu của Kitô, bởi ta là Kitô hữu.
Ánh nến có 2 công dụng : sưởi ấm nhờ sức nóng và chiếu soi nhờ ánh sáng. Hãy an ủi sưởi ấm người cùng cực, đói khổ, rét mướt… Và hãy toả sáng đức tin bằng cách sống Đạo của mình trong niềm vui không ngơi (CN III Gaudete, hãy vui lên, màu hồng). ĐGH Phanxicô với tông huấn Niềm Vui Tin Mừng nhắc mãi điểm này. ĐGM giáo phận Nhatrang thì có sẵn mấy cái gương trong phòng, để soi gương và nở nụ cười với mình để đem vui cho người. Có lần đang mỉm cười trong gương, thì có cha muốn gặp. Mở cửa ra, linh mục đó nói ngay : hôm nay con xin điều này chắc thế nào cũng được, vì thấy đức cha đang mỉm cười.
Ánh nến có 2 công dụng : sưởi ấm nhờ sức nóng và chiếu soi nhờ ánh sáng. Cả 2 việc đó đều nhắm làm chứng cho Ánh Sáng. Chúng ta xin Đấng là Ánh sáng giúp chúng ta. Và chúng ta tuyên xưng Đấng là “Ánh sáng bởi Ánh sáng” trong kinh Tin Kính đây.
.
Lm. Antôn
Chúa nhật thứ 3 mùa Vọng hôm nay được gọi là Chúa nhật vui mừng vì các bài Kinh thánh cũng như đáp ca hôm nay đều diễn tả niềm vui và muốn chúng ta cảm nghiệm được sự vui mừng này. Nhưng thế nào là vui? Vui là gì và tại sao chúng ta vui mừng?
Theo kinh nghiệm thông thường trong cuộc sống, vui là khi một ước vọng được toại nguyện như đi phỏng vấn đậu, hay đi khám bệnh bác sĩ cho biết không có bệnh gì. Vui là khi thành công trong một nỗ lực hoặc một dự tính như thi bằng lái đậu; hay khi quyền lợi bị tước đoạt mà nay được phục hồi như khi được chính phủ chấp nhận trợ cấp bảo hiểm y tế; và vui nhất là khi ta được gặp lại những người thân yêu sau một thời gian xa vắng.
Nhưng để thánh hóa niềm vui hay có “niềm vui thánh” thì chúng ta phải đi vào như những bài Kinh thánh để có thể hiểu rõ hơn và cảm nghiệm được. Chúng ta thấy trong bài đọc một, ngôn sứ I-sa-i-a tuyên bố với những người Do thái đang bị lưu đày nô lệ khổ cực ở Ba-bi-lon biết thời gian lưu đày đã sắp chấm dứt. Đây là tin vui mừng to lớn. Tất cả mọi người đều mong ước được giải thoát khỏi cảnh lầm than được tự do, nhưng đây không phải là thời điểm thuận tiện, vì họ đã quen thuộc với cuộc sống 50 năm lưu đầy và nô lệ. Họ đã có công việc làm và nhà cửa. Tất cả những gì của họ ở quê hương xưa như nhà cửa thậm chí đền thờ đã bị người Ba-bi-lon phá thành bình địa, còn gì nữa đâu vì vậy trở về làm gì nữa! Thật vậy, ngôn sứ đứng trước một sự thách thức lớn lao trong sứ vụ mang Chúa đến và kêu gọi họ trở về quê hương. Ngôn sứ phải giúp họ có một niềm xác tín vào Chúa, Người sẽ thực hiện những điều tốt đẹp hơn cho họ thì họ mới cảm nghiệm được niềm hy vọng và vui mừng trở về quê hương. “Niềm vui thánh” là niềm vui trở thành sứ giả mang hy vọng và ơn sủng của Chúa đến cho người khác, và là niềm vui xác tín vào thánh ý Chúa.
Chúng ta thấy Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, có nhiều lý do để lo lắng và buồn khổ. Chỉ trong một giây phút trở thành người mẹ. Người chồng tương lai sắp sửa từ bỏ cuộc hứa hôn và chỉ trong vòng mấy tháng nữa cha mẹ, thân nhân, bà con họ hàng sẽ biết rõ có con mà không có chồng hay ngoại hôn. Vào xã hội thời đó người đàn bà mang thai, có con mà không có chồng thì làm sao có thể tự sống được, nhưng như chúng ta biết sau khi được truyền tin, Đức Maria liền đi viếng bà Elizabet và đã thốt lên những lời vui mừng như thế nào: “Linh hồn tôi nhảy mừng trong Chúa.” Chúng ta vừa nghe câu đó trong đáp ca. Đức Maria tin những điều Chúa hứa sẽ được thực hiện, nên Mẹ đã vui mừng xin
vâng theo thánh ý Chúa, và nhất là từ giây phút ân sủng đó Mẹ có Chúa ở cùng. “Niềm vui thánh” là niềm vui tin vào lời Chúa hứa sẽ được thực hiện trong đời sống chúng ta nếu chúng ta biết xin vâng sống thánh ý Chúa, và là niềm vui có sự hiện diện của Chúa trong đời sống. Trong mùa Vọng này, chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, nếu chúng ta luôn xác tín vào lời Chúa thì Chúa sẽ thực hiện những việc lạ lùng và trọng đại trong cuộc sống.
Như chúng ta biết, thánh Phao-lô có một sứ vụ rao giảng Tin mừng thật khó khăn nhiều chông gai và sóng gió, bị chống đối và thù hằn. Trong thư gởi người Corinthian, ngài cho chúng ta biết ngài bị đánh đập, bị bắt và bị giam cầm, không ăn không ngủ, bị đắm tàu lạnh và đói khát, bị đe dọa và hành hung, nhưng ngài viết trong cùng một lá thư rằng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi, và hãy cầu nguyện luôn. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.” Chúng ta có thể hỏi tại sao ngài vui mừng trong những hoàn cảnh đó? Thưa vì “Đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô.” “Niềm vui thánh” là niềm vui tín thác vào thánh ý Chúa. Hay nói cách khác, nếu thánh ý Chúa muốn thì Người sẽ ban ơn và giúp chúng ta thực hiện thánh ý Chúa. Nếu chúng ta tin Thiên Chúa đã thực hiện những điều lạ lùng, và vì yêu thương Người sẽ thực hiện những điều đó cho chúng ta thì chúng ta phải vui mừng và luôn hy vọng.
Ông bà anh chị em thân mến. Những bài Kinh thánh hôm nay cho chúng ta biết về “niềm vui thánh”, đó là nhận ra được thánh ý Chúa, cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong đời sống và trở thành sứ giả niềm vui của Chúa. Ngôn sứ I-sa-i-a, Đức Maria, Thánh Phao-lô và Gio-an Tẩy giả đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong đời sống và đã can đảm ra đi chia sẻ niềm vui của mình với người khác, giúp người khác cũng nhận ra sự hiện diện của Chúa. Còn về phần chúng ta thì sao? Tất cả chúng ta đã nhận lãnh Chúa Thánh Thần và cũng được Chúa trao ban cho sứ mệnh mang niềm vui Tin mừng và tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Những công việc mà Gioan tiền hô đã làm thì đó cũng là sứ mệnh của chúng ta. Chúng ta đã được xức dầu để mang tình yêu, niềm vui hy vọng và ánh sáng của Chúa đến những ai đang sống trong nguội lạnh và lầm lạc, đem niềm an ủi đến những người sầu khổ, đến những tâm hồn đau thương và lưu đày. Nhưng chúng ta cũng phải ý thức mọi cố gắng và hy sinh của chúng ta là nhằm cho hình ảnh của Chúa được tỏa sáng, chứ không phải hình ảnh của chúng ta. Khi nghe Gio-an Tẩy giả rao giảng và kêu gọi sám hối, những người đương thời cũng tưởng rằng ông là Đấng Thiên Sai. Gioan Tẩy giả đã cương quyết khẳng định: “Tôi không phải là Đấng Kitô.” Ông nhận rõ sứ mạng của mình rất khiêm tốn, đó là làm cho hình ảnh của Đấng Thiên Sai nổi bật.
Vậy, chúng ta phải sống như thế nào, để thứ nhất, người khác nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời sống chúng ta? Và thứ hai, chúng ta phải làm sao để đưa niềm vui đến cho người khác? Xin Thiên Chúa giúp chúng ta cảm nghiệm được niềm “vui mừng thánh”, nhận ra được sự hiện diện và tình yêu của Chúa trong đời sống, trở nên ánh sáng và sứ giả của Tin mừng, can đảm trở thành những chứng nhân và nhiệt thành đem tình yêu, hy vọng, vui mừng và bình an của Chúa đến những người chung quanh, cũng như hướng dẫn họ đến với Chúa Kitô. Xin Chúa ban nhiều ơn lành xuống cho mỗi người chúng ta.
.