CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY_A
Lời Chúa: St 2,7-9; 3,1-7; Rm 5,12-19; Mt 4,1-11
——-
- Sức Mạnh Niềm Tin(Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)
- Trở về (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
- Cám dỗ- (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
- Vâng lời Thiên Chúa (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
- Đẩy lùi bóng tối (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
- Tỉnh thức và cầu nguyện (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
- Quỷ bỏ Người mà đi (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
- Theo Ađam hay theo Chúa Giêsu? (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
- Cám dỗ, nguy cơ và cơ may (Lm. Phêrô Nguyễn Hương)
- Sa mạc – Nơi giúp khám phá sự thật (Lm. Phêrô Trần Minh Đức)
- Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
- Ma quỷ (Lm. Giacobe Phạm Văn Phượng)
- Liên hệ (Lm. Vũ Đình Tường)
- Cám dỗ! (Lm. Bùi Quang Tuấn)
- Cám dỗ (Lm. Trần Xuân Lâm)
- Cám dỗ (Lm. Hưng Long, CRM)
- Ba cơn cám dỗ (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
- Sống mùa Chay (Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)
- Dám nói “không” (Thiên Phúc)
- Cám dỗ của ngày hôm nay (An Phong)
- Hãy cảnh giác trước cám dỗ (Jos.Vinc.Ngọc Biển)
- Thử thách và lựa chọn (G. Nguyễn Cao Luật)
- Bẫy đời (Trầm Thiên Thu)
- Chiến thắng sự xấu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
- Hãy để Chúa dẫn dắt bạn (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
- Tự do và cám dỗ (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
- Cám dỗ của ma quỷ (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
- Xin ơn Chúa giúp để chống trả Tên Cám Dỗ (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
- Chuẩn bị (Lm. Vũ Đình Tường)
- Cám dỗ lìa xa Chúa (Lm. Nguyễn Xuân Trường)
- Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật I Mùa Chay_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
- Cám dỗ! (Jorathe Nắng Tím)
- Chúa Nhật I Mùa Chay_A (Lm. Antôn)
- Cám dỗ!. (Maria Kiều, MTG.Thủ Đức)
.
1. Cám dỗ. (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên. Gp. Hải Phòng)
2. Những cơn cám dỗ (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Làm sao chiến thắng cám dỗ ? (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Sức mạnh của hồng ân Lời Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
5. Cám dỗ (Lm. Trần Việt Hùng)
6. Thử thách đức tin (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
7. Những cơn cám dỗ đời người (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
8. Không chỉ sống bằng cơm bánh (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
9. Lời Chúa là một hồng ân (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
10. Suy niệm Chúa Nhật 1 Mùa Chay_A (Lm. Anthony Trung Thành)
11. Lướt thắng cám dỗ (P.Trần Đình Phan Tiến)
12. Mưu ma chước quỷ (Trầm Thiên Thu)
13. Cám dỗ – Công hay tội ? (JM. Lam Thy, ĐVD)
14. Chống trả cơn cám dỗ (Lm. Đan Vinh)
15. Sa mạc – Tình yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
16. Chiến đấu (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)
17. Ba cơn cám dỗ (AM. Trần Bình An)
18. Mong chẳng còn gì (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
19. Thử thách tín trung trong quyền tự do lựa chọn (Lm. Uyen Nguyen)
20. Quỷ kế tinh ranh (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
21. Cám dỗ: Tổ tông và Chúa Giêsu (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
22. Chiến đấu để chiến thắng (Lm. Giuse Nguyễn)
23. Sa tan kia, xéo đi (Fx. Đỗ Công Minh)
24. Chúa Nhật 1 Mùa Chay_A (Lm. Antôn)
.
SỨC MẠNH NIỀM TIN
Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc
Đói khát, túng nghèo, khổ vì thiếu năng lực, cô đơn vì mọi người xa lánh, hoàn cảnh nào cũng đáng thương ! Có 2 điều trọng đại nhất ở đời: ngày bạn được sinh ra, và ngày nhận biết lý do bạn được sinh ra. (William Barclay). Đạo làm người, ai cũng biết nên làm việc thiện, xa tránh điều xấu, dù hoàn cảnh chẳng ai giống ai, thì tự do vẫn là cơ hội giúp ta thoát nghèo, thoát khổ, đạt tới thành công hạnh phúc. Đói cơm bánh, khát tình yêu, béo mập thừa cân, dư tiền thừa của, ở tình thế nào cũng cần tư vấn, điều chỉnh, khắc phục, để hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Có khổ đau tinh thần, có khổ đau vật chất, có chấp nhận để những túng thiếu gọt giũa, có phải cọ sát với thiện ác, mới nhận ra ta giới hạn, không thể sống đơn độc, không thể chiến đấu một mình. Hãy thử ngẫm nghĩ xem: khi thành thật với chính mình, thế giới này không ai lừa dối bạn.
Hãy thật lòng bạn sẽ thấy điều kỳ diệu, hãy tự tin bạn sẽ biết vẻ đẹp của tình người: yêu phải nói như đói phải ăn, nhiều lúc yêu nhưng kiêu không nói, để rồi phải đói vì yêu. Tại sa mạc năm xưa, Đức Giêsu nói gì về tình yêu, Đức Giêsu cho ta cảm nhận thế nào về sức mạnh của niềm tin ? Không phải là thế lực nào khác, chính vì yêu, Đức Giêsu ý thức Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa. Chính sức mạnh của niềm tin, Đức Giêsu cho thấy đói cơm bánh và đói ơn Chúa khác nhau: “người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Mang thân phận người, ai cũng phải chiến đấu với sự xấu, thế lực xấu, tên cám dỗ chỉ thắng được kẻ mê ăn uống, thiếu tình liên đới cầu nguyện, thiếu sức mạnh tình hiệp thông. Không ai sợ yêu cả, chỉ là họ sợ tác dụng phụ của tình yêu. Không ai nghĩ mình no đủ ơn Chúa, chỉ là vì họ lầm tưởng giầu tiền lắm của, khoẻ đẹp, địa vị, mới là hồng ân Chúa.
Sức mạnh niềm tin, sức mạnh tình yêu Chúa, dù không cầm nắm, không thể diễn tả được, nhưng đó là hồng ân, đang tồn tại, đang lớn mãi nơi tâm hồn những ai có Đức Kitô. Khôn ngoan, tài trí, ở đời hay nói tới là: khoẻ dùng sức yếu dùng mưu, phương thế hữu hiệu Đức Giêsu sử dụng là tin tưởng, cầu nguyện, lòng cậy trông vững vàng. Có phải người biết tín thác vào Thầy Giêsu, dồi dào tình yêu Thầy Giêsu, người ấy sẽ nhận ra: sự xấu, kẻ xấu, hoặc tên cám dỗ, không thể lôi kéo được linh hồn người có đủ sức mạnh của niềm tin. Thành quả cao quý ở chỗ: tình yêu được thể hiện bằng hành động, chiến thắng không phải là thu về được nhiều chiến lợi phẩm, mà là hiểu nhau, biết yêu thương nhau. Dù im lặng, không nói, nhưng sự xấu, kẻ xấu, luôn sợ và ngại đối đầu với sức mạnh lời cầu nguyện, tình liên đới hiệp thông.
Ba kẻ xấu mà ở đời hay nói đến là thế gian, xác thịt, ma quỷ, ba phương thế mà các nhà đạo đức từ xa xưa vẫn lưu ý là ăn chay, cầu nguyện, bác ái, nguy cơ gục ngã trước cám dỗ, cơ hội chiến thắng sự xấu đều có thật. Sức mạnh của niềm tin, nét đẹp của tình yêu, lời mời gọi theo Đức Kitô, liên đới hiệp thông với Đấng là Thầy là Chúa hết sức thiết thực. Đôi khi người ta được trang bị bằng cấp, tiền của, sức khoẻ, địa vị, nhưng cuộc sống vẫn bế tắc, khó hiểu ! Đôi khi có đủ mọi thứ bên cạnh vẫn không hết cô đơn, đôi khi hạnh phúc vỡ oà, chỉ một tác động “cần thiết”, con tim và khối óc hồi sinh thật sự. Tên cám dỗ, ơn Chúa ban, là sự thật, bước theo Thầy Giêsu, chay theo thế gian, vẫn là tự do của mỗi người. Ai cũng có quyền mơ ước hạnh phúc, ai cũng đã từng nghe “Xuân Diệu” thách thức: đố ai sống được mà không yêu…. Quan trọng là ta biết mơ ước đẹp, đặt đúng vị trí tình yêu, hầu có đủ niềm tin vào Đức Giêsu Kitô.
Truyện cười dân gian: trí khôn của ta đây, kể về anh nông dân đang cùng con trâu lớn cày ruộng, thỉnh thoảng người nông dân hô hét và vụt một roi giục trâu đi. Anh cọp đứng từ xa không hiểu tại sao trâu to như vậy mà phải tuân phục lệnh của anh nông dân nhỏ bé. Cọp nhờ trâu cho biết lý do, trâu chỉ biết trả lời: vì người có trí khôn. Cuối cùng để biết trí khôn là gì, cọp phải trả giá. Cuộc sống là một chuỗi dài những phức tạp, luẩn quẩn: cha mẹ luôn nhắc con cháu phải chăm học, chăm làm, tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa. Rồi những người con cháu đó lớn lên, vẫn những lời khuyên dạy con cháu những kinh nghiệm như thế … ! Sức mạnh niềm tin, tình yêu và ơn ban, luôn cần thiết cho những ai muốn có thành công, có hạnh phúc thật, khi đã ý thức tin tưởng, cầu nguyện và sống tình bác ái. Vì chưng con người không được no đủ về ơn Chúa, tất phải chết.
Cuộc sống xưa nay gì cũng đầy cám dỗ, không ít nguy hiểm, dù cơ hội, sức mạnh niềm tin và ơn thánh Chúa luôn dồi dào phong phú. Đức Giêsu thắng kẻ xấu, thắng cám dỗ bằng tình hiệp thông cầu nguyện, hẳn sức mạnh niềm tin và ơn ban cũng đến từ Đức Giêsu, trong Đức Giêsu. Biết bao kinh nghiệm: dù ai ngon ngọt nuông chiều cũng không nói yêu thành ghét; dù ai cầm dao doạ giết cũng không nói ghét thành yêu ! (Phùng Quán). Cầu nguyện, sống thánh ý Chúa, sống yêu thương, vẫn mãi là dịp để mỗi người cảm nhận sức mạnh niềm tin phát huy công hiệu là sự thật. Tình yêu được sánh ví như một cốc nước, nóng hay lạnh, người trong cuộc mới đủ cảm nhận. Có ăn chay, cầu nguyện, làm việc bác ái, bạn mới thấu hiểu về sức mạnh tình yêu mà bạn đang nhận được. Amen.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Nếu người lữ khách cần dừng chân để xác định phương hướng và nhìn lại chặng đường đã qua, mỗi chúng ta cũng cần phải có những điểm dừng để nhìn lại cuộc đời đang sống. Như bản nhạc cuộc đời có những dấu lặng để tăng thêm âm điệu sâu lắng, cuộc sống của chúng ta cũng phải có những giây phút thinh lặng để trở về với chính mình. Mùa Chay chính là điểm dừng chân để nhìn lại chặng đường đời đã qua. Mùa Chay cũng chính là dấu lặng trong bản nhạc cuộc đời, để giúp chúng ta suy xét những hay dở, những phải trái trong cuộc đời đầy đa đoan này. Phụng vụ của Giáo Hội đã mượn lời thánh Phaolô để gọi Mùa Chay là “mùa Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (x. 2 Cr 62b).
Bốn mươi ngày của Mùa Chay phác họa nhiều sự kiện quan trọng trong Cựu Ước. Đó là 40 ngày mưa lớn gây trận Đại hồng thủy để xóa sạch nhân loại vương tội lỗi. Đó cũng là 40 ngày ngôn sứ Elia chạy trốn trước sự săn đuổi của vua Achab và hoàng hậu Isabel, sau khi ông “đơn thương độc mã” chiến đấu với 450 tiên tri của thần Baal và 400 tiên tri của thần A-sê-ra. Ông đã chiến thắng và làm cho những tiên tri này hổ thẹn và bị giết. Mùa Chay cũng nhắc lại 40 năm dân Do Thái lữ hành về Đất hứa. Đặc biệt, 40 ngày của Mùa Chay nhắc lại 40 ngày Chúa Giêsu vào hoang địa ăn chay và cầu nguyện. Ở đó, Người chịu cám dỗ và đã chiến thắng cám dỗ.
Thực ra, Thiên Chúa thi ân và ban ơn cứu độ trong mọi nơi, mọi lúc và cho mọi người. Ơn cứu độ và phúc lành của Chúa như mưa xuống cho mọi tạo vật, như ánh mặt trời chiếu soi khắp mặt đất. Tuy vậy, Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để chúng ta đón nhận phúc lành của Chúa. Phụng vụ Mùa Chay là lời mời gọi chúng ta hãy trở về.
Trước hết là trở về với Chúa: Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: mỗi khi phạm tội là chúng ta đi lạc đường. Dù thuộc nền văn hóa hay chủng tộc nào, Thiên Chúa luôn mời gọi con người bước đi trên con đường công chính, trung thành tuân giữ những giáo huấn Ngài đã truyền dạy. Phạm tội là đi ngược lại với những gì Chúa muốn. Tội lỗi làm cho con người xa Chúa, không còn sống trong mối thân tình mật thiết với Ngài nữa. Tác giả sách Sáng Thế, trong Bài đọc I của Phụng vụ hôm nay đã viết về sự sa ngã của đôi bạn đầu tiên của nhân loại, tức là ông Ađam và bà Evà. Đây là trang sử buồn, để lại dấu ấn không phai mờ về sự phản bội của con người đối với những lệnh truyền của Chúa. Đây cũng biến cố đau thương, làm cho con người và Thiên Chúa xa nhau. Trình thuật này được đọc lên trong phụng vụ của Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay đề giúp chúng ta nhận ra thận phận hèn yếu của mình.
Có lẽ bà Evà nghĩ rằng: ăn một trái cây có quan trọng gì! Tuy vậy, vấn đề ở đây không phải chỉ là một trái cây mà là lệnh truyền của Thiên Chúa. Con rắn là tác nhân trực tiếp của cám dỗ. Ở đây nó được trình bày giống như một con người, cũng lý luận, kích động, gieo rắc nghi ngờ. Không chỉ là thèm muốn một trái cây “ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt”, mà bà Evà còn nghi ngờ lòng tốt của Thiên Chúa. Thế ra, Ngài không tốt lành như bà nghĩ trước đây, vì Ngài sợ bà trở nên khôn ngoan biết mọi sự nên Ngài cấm bà không được đụng vào trái của cây ở giữa vườn. Một khi bà nghi ngờ Thiên Chúa, thì bà cũng phủ nhận hết những điều tốt đẹp Chúa đã làm cho hai ông bà. Sự nghi ngờ lòng tốt của Chúa là lý do dẫn đến việc bà phạm tội, tức là ăn trái cấm.
Trình thuật cám dỗ của tác giả sách Sáng thế cho chúng ta thấy sự bất hạnh của thân phận con người khi họ phạm tội. Sự bất hạnh này được diễn tả qua mâu thuẫn trái ngược giữa lời hứa của con rắn với thực trạng của ông bà sau khi phạm tội. Mắt ông bà mở ra, nhưng thay vì họ trở nên như những vị thần như con rắn hứa hẹn, thì ông bà lại thấy mình trần truồng. Một sự thật nghiệt ngã mà ông bà phải chứng kiến đó là sự bất hạnh và xấu hổ nhục nhã của ông bà sau khi phạm tội. Xấu hổ về sự trần truồng là hậu quả của tội, vì trước đó ông bà cũng trần truồng mà không xấu hổ. Điều ông bà khám phá sau khi phạm tội không phải là phẩm giá cao quý của mình như con rắn đã rủ rê, mà là sự bất hạnh, sự yếu hèn, cô độc và đáng thương.
Trở về với Chúa chính là tâm tình sám hối, nhận ra thân phận tội lỗi và yếu hèn của mình, để xin Chúa tha thứ.
Tinh thần trở về của Mùa Chay cũng là trở về với chính mình: con người bôn ba vật lộn với cuộc sống, đầy những toan tính bon chen, nhiều khi đánh mất chính mình. Họ không nhận ra mình là ai trong vũ trụ mênh mông này. Ađam và Evà đã chối bỏ thân phận thụ tạo, muốn nên ngang hàng với Thiên Chúa. Con người ngày nay đánh mất mình khi chối bỏ sự hiện hiện của Chúa trong cuộc đời và không muốn nhận mối tương quan giữa thụ tạo với Đấng Tạo Hóa. Khi đánh mất mình, con người cũng phủ nhận mối tương quan với anh chị em mình, để rồi sống ích kỷ, hận thù, bất bao dung và chia rẽ oán hờn. Mùa Chay nhắc chúng ta hãy trở về với chính mình nhận ra mình chỉ là một “đóa hoa vô thường” trong vũ trụ. Như một đóa hoa nay còn mai mất, chúng ta cần phải hướng về vĩnh cửu, bằng những cố gắng nên hoàn thiện trong đời sống hiện tại.
Sau cùng, Mùa Chay là mùa trở về với tha nhân: Con người sống trên trần gian không phải là những ốc đảo cô đơn, nhưng có liên đới với anh chị em mình. Những mâu thuẫn nảy sinh ở mọi lãnh vực khác nhau đều phát xuất từ tính ti tiện, ích kỷ và ghen tương. Trở về với tha nhân là nhận ra nơi họ những điểm tốt lành, đồng thời nhận ra nơi chính bản thân chúng ta cũng có những khuyết điểm. Trở về với tha nhân là thực thi lòng bao dung nhân hậu đối với những lầm lỗi của người khác. Thánh Phêrô đã hỏi Chúa Giêsu: “Nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? có phải bảy lần không?. Chúa trả lời: “Thày không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,21-22). Như thế, sự tha thứ không dừng lại ở những con số, nhưng là tha thứ vô điều kiện. Hơn nữa, cùng với sự tha thứ bao dung, chúng ta còn thể hiện tình yêu mến đối với người xúc phạm mình. Nếu con người biết thực thi lòng bao dung đối với nhau, thì cuộc đời này sẽ tươi đẹp biết bao, và vương quốc Đức Giêsu rao giảng sẽ được thực hiện trên trần gian này.
Để thực sự trở về với Chúa, với chính mình và với tha nhân, con người phải trải qua những chiến đầu kiên cường. Phụng vụ Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay giới thiệu với chúng ta Đức Giêsu chiến đấu chống lại những cám dỗ của ma quỷ. Tên cám dỗ, đã xuất hiện ở đầu lịch sử để cám dỗ ông Ađam và bà Evà, giờ đây lại tái xuất để cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa. Thánh Matthêu đã gọi đích danh tên cám dỗ là “quỷ”. Khi đặt ra những điều hấp dẫn gọi mời, không phải quỷ có ý thử xem Chúa có phải là Đấng Thiên Sai hay không, nhưng nó muốn phá vỡ chương trình của Thiên Chúa. Thực ra, quỷ biết rõ Chúa Giêsu là ai. Sau này nhiều lần chúng đã hô lên trước đám đông để nói về thân phận và nguồn gốc của Người. Ví dụ trường hợp được thánh Mác-cô ghi lại: khi Chúa Giêsu chữa cho người bị thần ô uế nhập tại Hội đường Caphanaum, thần ô uế đã la lớn tiếng rằng: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệu chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1-23-24). Theo trình thuật của thánh Mátthêu, ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu cùng một cách thức như nó đã cám dỗ bà Evà. Cũng vuốt ve, cũng lý luận, cũng hứa hẹn. Như chúng ta thấy, Chúa Giêsu không chịu khuất phục trước những lời ngon ngọt của ma quỷ. Người đã chiến thắng cám dỗ. Người không để cho quỷ lừa đảo bằng những “lời nói có cánh” dịu ngọt của nó.
Lịch sử không may có Ađam là nguyên nhân gây nên tội ảnh hưởng mọi thế hệ, nhưng lại may mắn vì có Chúa Giêsu. Thiên Chúa không bỏ rơi con người dưới ách của sự chết. Ngài đã có sáng kiến sai Con Một của Ngài đến trần gian để phục hồi phẩm giá của họ, dẫn họ về với tình trạng thánh thiện của thời ban đầu, thời mà Chúa hằng ngày đi dạo với con người trong làn gió hiu hiu thổi của buổi chiều hôm. Nhờ Đức Giêsu mà hôm nay, chúng ta không chỉ đi đàm đạo với Chúa, mà được Chúa nhận làm con, được Chúa nuôi dưỡng và yêu thương ấp ủ vỗ về. Thánh Phaolô, trong Bài đọc II đã khẳng định: “Tình yêu thương của Chúa mãnh liệt đến nỗi ở đâu tội lỗi lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. Thánh nhân cũng đã so sáng giữa ông Ađam ở khởi đầu lịch sử với Đức Giêsu Kitô, đấng được gọi là Ađam thứ hai, cũng là Ađam cuối cùng. Nếu Ađam thứ nhất là nguyên nhân của sự chết, thì Đức Giêsu là nguyên lý của sự sống. Nhờ Đức Giêsu và trong Đức Giêsu, mà nhân phẩm và danh dự của chúng ta được phục hồi.
Ma quỷ đã xuất hiện ở khởi đầu lịch sử để cám dỗ bà Evà. Nó cũng đã xuất hiện khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai để loan báo Tin Mừng. Ma quỷ cũng vẫn đang hiện diện trong cuộc đời để lừa lọc, gây chia rẽ và làm cho chúng ta xa cách Chúa. Vì thế, Mùa Chay là mùa chiến đấu thiêng liêng giữa ánh sáng với tối tăm, giữa thánh thiện với tội lỗi. Mùa chay cũng là mùa trở về để nối lại tình xưa nghĩa cũ với Thiên Chúa trước khi con người phạm tội, để nối lại tình huynh đệ thân thương với anh chị em mình. Nhờ thành tâm trở về, mỗi chúng ta sẽ được canh tân, hòa giải và trở nên tạo vật mới trong Đức Kitô.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Từ khi có con người, đã có cám dỗ. Hẳn ta không thể quên chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma quỷ. Dân Do Thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn được tự do. Nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ quay trở lại Ai cập để được no ấm. Nhưng có thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi thứ cám dỗ mà ta thường gặp.
+ Cơn cám dỗ thứ nhất: thoả mãn tức khắc mọi nhu cầu.
Sau khi Đức Giêsu ăn chay 40 đêm ngày. Ma quỷ đề nghị Người biến đá thành bánh mà ăn. Thật là một đề nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn thì phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu của con người thì có nhiều và có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.
+ Cơn cám dỗ thứ hai: muốn có quyền lực thống trị.
Ma quỷ biết Đức Giêsu muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên trần gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỷ là hợp lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ chịu chết. Chỉ cần quỳ xuống thờ lạy ma quỷ, vua quan dân chúng các nước sẽ răm rắp tuân theo. Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây chiến để tranh giành quyền lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về quyền lực thống trị không những không suy giảm mà còn mãnh liệt hơn.
+ Cơn cám dỗ thứ ba: tìm những điều kỳ lạ.
Muốn những chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây tháp Ba ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp diễn. Xuyên qua những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc.
Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỷ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác thịt. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ khi Người cho biết con người không chỉ có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người nâng cao phẩm giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh.
Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà đánh mất chính mình. Đức Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của ma quỷ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Người còn chỉ cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ phượng Thiên Chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.
Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng vọng. Điên cuồng đến chống lại Thiên Chúa. Dùng Thiên Chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của mình. Không đến với Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với Cha hiền. Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ. Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.
Cám dỗ của ma quỷ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xúi giục con người nô lệ cho ma quỷ. Và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên Chúa, không coi Thiên Chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc vì ma quỷ đã khéo léo học những âm mưu thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu cầu, quyền lực và uy tín.
Ngày nay, những cơn cám dỗ của ma quỷ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Đức Giêsu dùng những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và luôn sống tâm tình của người con thảo đối với Chúa.
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
Bông hồng nhỏ
Con đường dẫn đến hạnh phúc đích thật là con đường “vâng theo thánh ý Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đã bước đi trên con đường ấy và Ngài mời gọi mỗi người chúng ta can đảm bước theo Ngài. Trước những cám dỗ ngọt ngào và êm ái, chúng ta có dám khước từ để sống cho những gì cao quý hơn không?
Sau khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần. Ngài được dẫn vào hoang địa để chịu quỷ cám dỗ. Đây là thời gian rất quan trọng để Ngài ở với Chúa Cha, là thời gian thanh luyện tinh thần và thể xác. Sau thời gian ăn chay ròng rã suốt bốn mươi ngày, bấy giờ Chúa Giêsu bắt đầu thấy đói. Tên cám dỗ đã đến gần và rỉ tai: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi”. Đói khát là kinh nghiệm Chúa Giêsu đã trải qua. Ngài cảm nhận rất rõ cơn đói đang dày vò nhưng Ngài đã khước từ: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (x. Mt 4, 1-4). Cơm bánh là những thứ rất cần để nuôi sống thân xác nhưng con người đâu phải chỉ có thân xác mà còn có linh hồn. Linh hồn chúng ta cần được Lời Chúa dưỡng nuôi. Hằng ngày, linh hồn chúng ta có đón nhận nguồn lương thực tuyệt vời là Lời Chúa không? Bao lâu, chúng ta biết chăm sóc cho linh hồn mình thì chúng ta sẽ được sống trong ân sủng của Thiên Chúa. Nếu chúng ta chỉ chăm sóc và chiều chuộng thân xác, mà xao lãng việc nuôi dưỡng linh hồn thì chúng ta sẽ bị lạc đường. Chiều chuộng thân xác và thỏa mãn các đam mê dễ làm cho chúng ta cảm thấy thoải mái và sung sướng, nhưng nó lại dẫn chúng ta đến cái chết. Sống cho những gì cao quý hơn dường như thật khó khăn, bởi nó đòi buộc chúng ta phải hy sinh bản thân rất nhiều.
Thiên Chúa vẫn rất mực yêu thương chúng ta. Thế nhưng, chúng ta dễ để cho những lầm lỗi đè nặng và ngày càng lún sâu trong tội lỗi. “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4, 7). Nếu chúng ta hết lòng yêu mến Thiên Chúa thì khi gặp thử thách gian nan, lòng Tin- Cậy- Mến nơi chúng ta sẽ được tôi luyện vững vàng hơn, son sắt hơn và thắm thiết hơn. Tự cao, tự đại và tự ti mặc cảm đều là con đẻ của tính kiêu ngạo. Chỉ có lòng khiêm tốn thẳm sâu mới giúp chúng ta đến với tình yêu của Thiên Chúa. Khi ấy, chúng ta sẽ vâng lời Thiên Chúa và đi theo đường lối của Người. Chúng ta hãy bắt đầu sống tương quan tình yêu với Thiên Chúa.
Sống tương quan tình yêu với Thiên Chúa nghĩa là chúng ta biết ưu tiên cho việc thờ phượng Thiên Chúa, dám khước từ các đam mê xấu. Tình yêu Chúa nơi chúng ta ngày càng thêm mật thiết thì tình yêu thương tha nhân sẽ được diễn tả qua từng hành động cụ thể. Chỉ có tình yêu mới giúp một người mẹ thức trắng đêm để chăm sóc đứa con bệnh tật, chỉ có tình yêu chân thành mới giúp chúng ta dành cho người khác điều mà chính chúng ta cũng đang cần. Chúng ta có nhận ra một niềm hạnh phúc lớn lao là hằng ngày chúng ta được giáp mặt với Thiên Chúa nơi từng người anh chị em bên cạnh không?
Lạy Chúa Giêsu! Đói khát, kiêu ngạo và thờ ngẫu tượng là ba cơn cám dỗ chúng con phải trải qua. Xin Chúa đổ tràn Thánh Thần trên chúng con, để “khi sống nhờ Thần Khí thì chúng con cũng nhờ Thần Khí mà tiến bước”, nhờ thế mà chúng con sống đẹp lòng Chúa Cha. Amen.
Anna Cỏ May
Khởi đầu công cuộc cứu chuộc, Đức Giêsu đã trải qua cơn cám dỗ trong hoang địa. Những cám dỗ Đức Giêsu chịu là gì?
Sau những ngày ăn chay ròng rã bốn mươi ngày, Đức Giêsu bắt đầu thấy đói. Tận dụng thời cơ, tên cám dỗ tiến đến nói với Ngài: Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi!” (Mt 4, 3). Nó lợi dụng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng có quyền mọi sự để mồi thử Ngài. Nhận diện được lời cám dỗ của quỷ, Đức Giêsu trả lời thẳng thắn: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Thật vậy, cơm bánh là thứ nuôi thân xác mau chết, nó đi vào bụng rồi lại đi ra chứ không tồn tại mãi. Tiếp đến, quỷ đem Đức Giêsu đến thành thánh và đặt Ngài trên nóc Đền Thờ rồi nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Mt 4,6). Kiểu cám dỗ của quỷ tiến tới một bước nữa là lấy đức tin thử đức tin. Nhưng Đức Giêsu mau mắn đáp lại: “Nhưng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4,7). Quỷ lại đem Ngài lên một ngọn núi cao và chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy mà bảo rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (Mt 4,9). Quả thật, nếu người ta được cả thế gian mà lại thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì? (Mt 16,26). Vì thế, Đức Giêsu đã dứt khoát đuổi nó đi với lời khẳng định: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,10). Nó bỏ đi nhưng không bỏ cuộc. Nó quay sang cám dỗ các anh chị em của Đức Giêsu là những người thi hành lời Chúa (x. Mt 12,50).
Ngày hôm nay, quỷ cám dỗ con người với một cái tên gọi đặc thù hơn đó chính là “tự nhiên”. Chúng ta viện cớ tự nhiên để chiều theo những gì đối nghịch lại với Thiên Chúa. Tên cám dỗ không chỉ bởi những lời nói quyến rũ ngọ ngào của thế gian mà chúng còn len lỏi vào những điểm yếu, nhu cầu tự tạo cũng như những sở thích tự nhiên của con người để cám dỗ. Nó gọi mời ta bước vào mê cung và dần dần đóng của lại, khiến chúng ta không thể ra được. Vì vậy, dầu ở vị trí nào, quyền lực hay thường dân, chúng ta phải có một cuộc sống tiết độ và tỉnh thức vì ma quỷ là thù địch của chúng ta như sư tử gầm thét, rảo quanh ngày đêm tìm mồi cắn xé. Chúng ta phải đứng vững trong đức tin mới có thể chống cự được (x.1Pr 5,8-9a). Sách Gương Chúa Giêsu dạy, khi bị cám dỗ, chúng ta không nên thất vọng, nhưng phải cầu nguyện cùng Thiên Chúa một cách khẩn thiết hơn (x. Q1,đ 13) .
Lạy Chúa, chúng con đang sống trong một thế giới mù mờ, đầy bóng, đầy tiếng gào thét cùng những tiếng nói ngọt ngào lạ tại. Xin cho chúng con vững niềm tin vào tình yêu của Chúa, để chúng con nhận ra và chống trả lại được những cơn cám dỗ của ma quỷ, nhờ đó chúng con được cùng Chúa Giêsu đi về Nước Trời. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Câu hỏi:
Nếu Đức Giêsu thực sự là Thiên Chúa, tại sao Satan còn cố cám dỗ Người? Chẳng lẽ nó không biết là Thiên Chúa thì không thể phạm tội?
Trả lời:
Đúng thế, Satan biết, thế nên nó đã cố cám dỗ Người. Nếu Đức Giêsu không vượt thắng được cám dỗ, ma quỷ sẽ biết được là Người thực chẳng phải là Đấng Mêsia.
Hãy nhớ rằng, ma quỷ không phải là Thiên Chúa. Nó không toàn tri hay bất khả ngộ, nên nó không biết được mọi sự. Nó có thể sai lầm. Như thánh Tôma Aquinô diễn giải: “Nơi ma quỷ, ý muốn gian manh tách trí khôn ra khỏi sự thông tuệ của Thiên Chúa, nên đôi khi chúng phán đoán về các vật một cách tuyệt đối, theo tình trạng tự nhiên. Trong lãnh vực tự nhiên, chúng không sai lầm. Nhưng trong những điều thuộc lãnh vực siêu nhiên, chúng có thể sai lầm, thí dụ khi thấy một người đã chết, nó nghĩ là người ấy sẽ không sống lại; hay khi thấy con người Giêsu, nó đoán Ngài không phải là Thiên Chúa” (ST I:58:5). Vì thế, để xác minh Đức Giêsu là Thiên Chúa thật, ma quỷ cần phải thử. (Minh Đăng dịch từ: catholicsay.com).
Câu chuyện Đức Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ (Mt 4,1-11) được đặt trong Tin mừng Matthêu ngay sau sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả (3,13-17). Sau khi chịu phép rửa tại sông Gioađan, Đức Giêsu đã được tiếng từ trời tuyên bố là “Con Thiên Chúa”. Satan xúi Đức Giêsu lợi dụng quền năng siêu nhiên của tư cách là Con Thiên Chúa của Người để làm một phép lạ có lợi cho nó. Một cách tinh vi và nham hiểm hơn, chữ “nếu” cũng có thể có nghĩa là “Có phải ông là…”. Satan cố ý làm cho Đức Giêsu hoài nghi về lời tuyên bố lúc Người lãnh nhận phép rửa: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Nó xúi giục Đức Giêsu làm một phép lạ để “chứng minh” lời nói ấy thực sự đến từ Thiên Chúa.
Thông qua ba cơn cám dỗ, Satan chỉ có một mục đích chia rẽ Đức Giêsu với Thiên Chúa và kiểm chứng danh hiệu Con Thiên Chúa, bắt nguồn từ chính niềm tin vào Lời của Chúa Cha.
Trong hoang địa, Đức Giêsu chỉ chuyên lo sống mật thiết trọn vẹn trong tình cha con với Thiên Chúa. Trong những giờ phút linh thiêng nhất đó, quỷ dữ đã mò tới tấn công mãnh liệt để phá vỡ mối tình thắm thiết giữa Người và Thiên Chúa, như nó đã phá vỡ cuộc sống thân thiết giữa Ađam và Thiên Chúa. Qua 3 cơn cám dỗ, ta thấy Satan rất xảo quyệt.
Cám dỗ thứ nhất: Satan thách đố Đức Giêsu biến sỏi đá thành cơm bánh ăn: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy làm cho đá nầy trở thành bánh đi!”. Ý đồ của Satan là xúi Chúa Giêsu vận dụng quyền năng Thiên Chúa trao cho Ngài để phục vụ bản thân mình trước đã. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối. Ngài là Con Thiên Chúa không phải để phục vụ bản thân mình, nhưng để làm công việc Thiên Chúa trao cho Ngài. Ngài đến để phục vụ và làm theo ý Đấng đã sai Ngài.
Cám dỗ thứ hai: Satan xúi Đức Giêsu thử thách quyền năng Thiên Chúa; vận dụng quyền năng Thiên Chúa để mở một con đường tắt mà hoà thành sứ mạng; nếu Chúa Giêsu nhảy từ đỉnh cao của đền thờ Giêrusalem xuống mà an toàn thì tất nhiên mọi người sẽ theo Ngài. Đức Giêsu không theo đường tắt Satan đề nghị. “Ngài hạ mình vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chết và chết trên thập giá” để thực hiện công cuộc của Chúa Cha. Ngài mời gọi ai muốn theo Ngài thì hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình mà đi theo Ngài.
Cám dỗ thứ ba: Satan hứa sẽ trao cho Đức Giêsu mọi quyền lực và vinh quang của các vương quốc trên trần gian nầy, nếu Đức Giêsu chịu thờ lạy nó. Cái “xạo” của Satan là ở chỗ nó cho rằng nó là bá chủ mọi vương quốc trần gian và có quyền ban quyền lực và vinh quang cho Đức Giêsu. Satan muốn Đức Giêsu nhìn nhận rằng: chỉ có quyền lực và vinh quang của mọi vương quốc trên trần gian này là đáng quý. Đức Giêsu muốn được hưởng thì cứ thờ lạy là xong ngay. Để trả lời Satan, Đức Giêsu phán: “Mi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của mi, và mi chỉ phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” Đnl 6,13). Quyền lực và vinh quang trên trần gian không phải là tất cả. Chỉ có Thiên Chúa mới đáng thờ lạy, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền lực và vinh quang thật để ban cho Ngài.
Đức Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan bằng quyền năng Thánh Thần, bằng sức mạnh Lời Chúa, bằng đời sống chay tịnh cầu nguyện và luôn tín thác vào Chúa Cha.
Cả ba Phúc Âm đều đề cập đến một chi tiết rất thú vị, đó là Đức Giêsu không đi vào hoang địa một mình mà đi cùng với Chúa Thánh Thần.
– “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4,1)
– “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).
– “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-2).
Thánh Thần hướng dẫn Đức Giêsu vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Đây là một hành động hết sức khó hiểu và nghịch lý. Vì Thánh Thần sao lại có thể làm như thế cho Chúa Giêsu? Thế nhưng, cũng qua việc Đức Giêsu chịu cám dỗ, mỗi khi chúng ta bị ma quỷ cám dỗ cũng có thể nói được là “Thánh Thần đã dẫn chúng ta đến chỗ để bị cám dỗ”, để qua đó, chúng ta có thể tránh khỏi sa chước cám dỗ.
Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Đức Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Ngài đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỷ và đã chiến thắng.
Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của Satan, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Đức Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta.
Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; LGTC #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Đức Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với Các Thánh trên trời.Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chính Đức Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).
Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi. Gương của Đức Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma qủy đưa ra một chước cám dỗ thì Đức Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:
– Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)
– Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)
– Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).
“Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chời đợi thời cơ”. Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện nó sẽ quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: “Satan, hãy lui ra đàng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm”. Thời cơ quỷ chờ đợi chính là lúc Đức Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn.
Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với cái chết đang cận kề, Đức Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi “mồ hôi đổ ra như máu”. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “ Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha ” (Mt 26, 39b) ; “ Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha ” (Mt 26, 42b). Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: “Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin”. Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên “Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Dt 4,15). Đức Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.
Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn, có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Thánh Phêrô dùng một hình ảnh đáng sợ, để ám chỉ Satan. Ngài viết : “Ma quỷ là thù địch của anh em, nó như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 3,8). Với lời trên, thánh Phêrô quả quyết Satan cám dỗ chỉ để làm hại con người mà thôi. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.
Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa.
Mùa Chay là thời gian đặc biệt để ngưới tín hữu xét mình, để sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và ơn soi sáng của Chúa Thánh Linh theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mà sống đẹp lòng Thiên Chúa mỗi ngày.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Sống là chịu tác động của hoàn cảnh bên ngoài. Có những điều nâng đời sống của ta lên, và cũng có những điều khiến ta ngã qụy.
Chấp nhận làm người là chấp nhận bị cám dỗ. Cám dỗ từ bên ngoài, từ quỷ dữ, từ tha nhân… Cám dỗ từ bên trong, từ đòi hỏi của bản năng tự nhiên, của thân xác, từ sự khép kín của trí tuệ và lạnh giá của con tim.
Phận người chênh vênh vì luôn bị cám dỗ, nhưng phận người lại cao cả hào hùng vì con người có thể thắng được mọi cơn cám dỗ bằng một lựa chọn đầy tự do.
Nhìn lại ba cơn cám dỗ tiêu biểu của Đức Giêsu, ta thấy chúng có một mẫu số chung. Đó là Ngài bị lôi kéo sống cho mình, lo cho mình, xây đắp cho mình. Dù là dùng quyền năng Cha ban để biến đá thành bánh ăn cho đỡ đói. Dù là nhảy xuống từ nóc Đền thờ như một thách đố đối với Thiên Chúa yêu thương, hay như một biểu diễn ngoạn mục để thu hút quần chúng. Dù là sấp mình bái lạy Satan để được nắm mọi quyền hành trên muôn nước.
Giàu sang, quyền lực, khoái lạc vẫn là những cám dỗ muôn thuở, cho mọi người, mọi tập thể đạo đời.
Đức Giêsu đã thắng được các cơn cám dỗ.
Cơn cám dỗ lớn nhất là quay vào mình, chọn mình thay vì chọn Chúa và anh em.
Chúng ta cần nhận ra những cơn cám dỗ hiền lành, mang một lớp vỏ bên ngoài vô hại.
Một số bạn trẻ Thái Lan mơ ước có được 7 điều, tất cả đều bắt đầu bằng chữ C theo tiếng Anh: xe hơi, điện thoại di động, quần áo, máy vi tính, một căn hộ sang trọng, thẻ tín dụng, thuốc ngừa thai.
Không phải vật chất là điều xấu. Nhưng nếu con người bị ám ảnh bởi vật chất và coi đó là mục đích duy nhất của đời mình, thì cuộc sống sẽ nghèo nàn biết chừng nào!
Sống đâu phải chỉ để hưởng thụ, mà còn để hiến trao. Con người đâu phải chỉ là thân xác, mà còn là tinh thần. Cuộc sống đâu phải chỉ ở đời này, mà còn ở đời sau.
Cần tập chiến thắng cơn cám dỗ bằng cầu nguyện, hy sinh.
Hy sinh là làm chủ các giác quan và trí tưởng tượng, là khiêm tốn nhận mình yếu đuối, mỏng dòn, là dám cương quyết từ chối: “Hãy xéo đi, Satan.”
Gợi Ý Chia Sẻ
Chúng ta thường đứng trước những chọn lựa: chọn giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái chính và cái phụ; chọn cái tốt hơn giữa những cái tốt; chọn cách tốt hơn để làm một điều tốt… Có khi nào bạn bị giằng co khi phải chọn lựa không?
Chúa có thể gửi đến cho ta những thử thách. Nếu vượt qua được, chúng ta sẽ trưởng thành và lớn lên trong tình yêu. Bạn có khi nào vượt được một thử thách nho nhỏ hay lớn lao không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lòng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
THEO AĐAM HAY THEO CHÚA GIÊSU?
Lm Ignatiô Trần Ngà
Điều gì sẽ xảy ra nếu trái đất không đi đúng quỹ đạo mà Thiên Chúa đã vạch ra cho nó? Trong trường hợp nầy, một thảm họa lớn nhất trong lịch sử loài người và lịch sử vũ trụ sẽ xảy ra. Một trận hoả hoạn toàn cầu khủng khiếp chưa từng thấy sẽ bùng lên thiêu rụi hết mọi thứ nếu trái đất xích lại gần mặt trời hơn cự ly hiện nay, hoặc giá băng sẽ bao trùm trái đất khiến sự sống của mọi sinh vật sẽ bị huỷ diệt nếu trái đất trệch ra xa mặt trời hơn khoảng cách hiện tại.
Điều gì sẽ xảy ra nếu nước biển không tuân theo quy luật là nước phải tụ về chỗ trũng thấp? Lúc đó, Thái Bình Dương thỉnh thoảng tràn lên đến tận dãy Trường Sơn và toàn bộ phố xá ruộng vườn đều bị cào xới bình địa, mọi cư dân đang sống trên đường đi của nó trở thành lương thực cho các loài tôm cá.
Điều gì sẽ xảy ra nếu quy luật giao thông không được người tham gia giao thông tuân giữ? Lúc đó, xe cộ sẽ trở thành vũ khí huỷ diệt hàng loạt trên toàn cầu và đường sá trở thành nơi ngốn nhiều nhân mạng hơn hết thảy mọi cuộc chiến tranh.
Điều gì sẽ xảy ra nếu ngữ pháp không được người ta tôn trọng lúc giao tiếp? Khi đó, chỉ có người nói mới hiểu mình nói gì và người chung quanh không thể hiểu được điều ta nói.
Điều gì sẽ xảy ra nếu loài người không đi theo con đường mà Đấng sáng tạo đã vạch ra cho mình? Lịch sử Hội Thánh cho thấy nguyên tổ loài người đã đi trật đường Chúa… và phải lãnh lấy hậu quả là đau khổ và chết chóc.
Nói tóm lại, mọi sự đều phải vận hành theo quy luật mà Thiên Chúa đã an bài thì sự sống mới được duy trì và khi quy luật không được tôn trọng thì thảm hoạ sẽ xảy ra cho vũ trụ, cho thế giới, cho mọi loài.
Bài trích sách sáng thế được công bố trong phụng vụ hôm nay khẳng định lại chân lý nầy. Khi hai ông bà nguyên tổ đi trệch đường lối Thiên Chúa (được minh hoạ bằng việc Chúa truyền đừng ăn trái cấm mà hai ông bà bất tuân) thì hậu quả đau thương đã đến với hai ông bà và lan truyền đến toàn thể nhân loại.
Qua bài đọc thứ hai, thánh Phao-lô khẳng định lần nữa chân lý nầy: Vì một người (là Ađam) đã không đi theo đường lối Thiên Chúa mà muôn người trở thành tội nhân (Rôma 5, 19) và tội lỗi đã gây nên sự chết! (Rôma 5, 12).
Khốc liệt thay hậu quả của việc bất tuân, của việc đi lệch ra ngoài quỹ đạo!
* * *
Vì loài người đi lệch quỹ đạo của Thiên Chúa, không đi theo đường lối Thiên Chúa, nên đau khổ và sự chết là hậu quả tất nhiên đã đến với mọi người.
Để cứu vớt loài người, Thiên Chúa Cha đã cho Ngôi Hai xuống thế, trở thành một Ađam mới, sửa lại những sai lệch do Ađam cũ gây nên, hầu cứu nhân loại khỏi vòng huỷ diệt.
Cũng như Ađam cũ, Ađam mới cũng bị Sa-tan cám dỗ đi trệch đường của Thiên Chúa với hy vọng một khi ‘Đầu Tàu’ bị trật bánh thì toàn thể đoàn tàu cũng sa xuống vực sâu. Ba lần cám dỗ trong hoang địa mà Tin Mừng hôm nay thuật lại là tổng hợp của ‘trăm chiều thử thách’ (Do-thái 4, 15) mà Ađam mới là Chúa Giêsu phải đương đầu trong cuộc đời dương thế.
Nhưng khác với Ađam cũ nông nổi nghe lời Sa-tan xúi giục đi trệch đường lối Thiên Chúa, Đức Giêsu đã kiên quyết tuân theo đường lối Chúa Cha không hề sai lệch, cho dù phải chấp nhận thập giá và cái chết vô cùng đau thương (Pl 2,8). Nhờ thế, Ngài đã nắn lại những sai trật do Ađam gây ra và đã lôi kéo được nhân loại về với Thiên Chúa.
Hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải đương đầu với những cám dỗ, thử thách mà Ađam cũ cũng như Ađam mới là Chúa Giêsu đã gặp hôm xưa.
Bước theo vết chân của Ađam cũ (tức là nghe theo lời mời mọc của Sa-tan) để rồi phải lâm vào cảnh đau thương chết chóc hay kiên quyết chống cự để trung thành với đường lối của Thiên Chúa là chọn lựa mà mỗi người chúng ta phải lặp lại mỗi ngày. Bao lâu còn mang thân phận con người, bấy lâu chúng ta còn phải chịu thử thách và chiến đấu.
Đường vào thiên quốc hay lối xuống địa ngục, cửa sinh hay cửa tử đang mở ra trước mặt mọi người. Xin Chúa thương giúp chúng ta đừng mê muội đi vào cửa tử nhưng khôn ngoan sáng suốt chọn bước vào cửa sinh, theo gót Chúa Giêsu là Đấng đã vinh thắng khải hoàn.
Lm Pietro Nguyễn Hương
Với Chúa nhật I mùa Chay năm A, phụng vụ Lời Chúa hướng sự chú ý của chúng ta tới một chủ đề chính đáng suy nghĩ đó là CÁM DỖ. Chủ đề này như là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả các bài đọc. Nếu ma quỉ xuất hiện như làm một kẻ thù rất nguy hiểm của con người, thì Đức Giêsu là người chiến thắng tất cả các cám dỗ và cạm bẫy của Ma quỉ, trở thành khuôn mẫu và là Đấng cứu độ duy nhất và phổ quát của nhân loại.
Bài Đọc I từ Sách Sáng Thế (St 2,7-9. 3,1-7), kể cho chúng ta nghe lại câu chuyện sa ngã của tổ tiên chúng ta do những lời mời mọc ngọt ngào của con rắn. Adam va Eva bị cám dỗ ăn trái cấm của “cây biết lành biết dữ” (St 3,2). Họ đã sa ngã, xa rời Thiên Chúa, đánh mất sự sống và sự hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch của mọi sự thiện hảo. Câu chuyện này cũng nhắc nhở chúng ta về một sự kiện lịch sử là nhân loại ngay từ đầu đã phạm tội và không có khả năng giải phóng mình khỏi tội lỗi và sự giữ. Nhân loại cần đến ơn cứu độ, sự hoàn nguyên đến từ Thiên Chúa.
Thánh Phaolô trong thư gửi các tín hữu Rôma (Rm 5,12-19), cho chúng ta lời giải đáp về mầu nhiệm cứu độ của nhân loại mà Đức Kitô đã mang lại qua mầu nhiệm thương khó, tử nạn và phục sinh của Đức Kitô: «Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính» (Rm 5,19).
Bài Tin mừng (Mt 4,1-11) giới thiệu với chúng ta kinh nghiệm của Đức Giêsu trong sa mạc, nơi Người bị cám dỗ và chống lại Satan như thế nào.
Chúng ta hãy nhìn vào ba cơn cám dỗ của Đức Giêsu: cơn cám dỗ thứ nhất, trong lúc đói lã, Ma quỉ đề nghị Người biến những viên đá thành bánh để ăn. Đấy là cám dỗ đặc trưng về vật chất. Nhưng Đức Giêsu trả lời: «Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra» (Mt 4,4). Đức Giêsu đã từ chối cám dỗ này và sống phó thác vào Chúa Cha, vì đối với Người có một thức ăn quan trọng hơn “bánh mì” đó là Lời Chúa và thi hành theo Ý Cha.
Trong cơn cám dỗ thứ hai: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi!» (Mt 4,6). Đây là cám dỗ về lòng kiêu ngạo. Ma quỉ gợi lên sự ngờ vực, thách thức về Tình Yêu của Chúa Cha đối với Người, và để nghị Người sử dụng quền của mình để làm những cảnh ngoạn mục, tìm kiếm sự vỗ tay của đám đông. Trong câu trả lời: «Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi», Chúa Giêsu cho thấy Người là Con đích thực của Thiên Chúa, đã chọn một cách sống trong khiêm tốn, trong ẩn dật, và không cần phải bắt Thiên Chúa làm theo ý mình để biểu lộ tình yêu đối với mình. Cách đơn giản Người sống tin tưởng vào Cha.
Cuối cùng, Cám dỗ thứ ba liên quan đến sự khát khao quyền lực: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi. (Mt 4,9). Một cách công khai Ma quỉ để lộ mục đích của nó: hãy thờ lạy tôi chứ không phải Thiên Chúa, bạn sẽ có tất cả. Chúa Giêsu trả lời bằng một lối sống thực sự chỉ có tôn thờ và phục vụ một mình Thiên Chúa mà thôi.
Quả thật, cả ba cám dỗ của Đức Giêsu là “ba con đường dễ dãi để không trải qua Thập Giá” (Fulton Sheen), nhưng Đức Giêsu đã chấp nhận con đường Thập Giá, với một tình yêu và lòng phó thác hoàn toàn vào Cha. Như thế, Người đã chiến thắng và như thế qua Thập Giá, Người cứu độ chúng ta.
Cũng như Đức Giêsu, ngày hôm nay chúng ta sống trong thế giới này, một thế giới đầy cám dỗ, và cám dỗ hôm nay được mặc nhiều dáng vẽ hấp dẫn và đẹp đẽ. Đằng sau những cám dỗ là Ma quỉ, kẻ thù luôn dấu mặt. Kẻ được định nghĩa bởi Gioan như là cha đẻ của sự dối trá (Gv 8,44), một kẻ thù rất nguy hiểm không bao giờ ngủ, luôn sẵn sàng để thử thách chúng ta. Và như nhà thơ Baudelaire nói: “Sự quỉ quyệt nhất của ma quỉ là làm cho con người không tin rằng nó hiện hữu”.
Chúng ta đừng có sợ hãi vì Đức Kitô đã chiến thắng Satan để giải thoát ta khỏi Satan. Chúng ta hãy học hỏi từ Đức Giêsu, để chiến đấu với Ma quỉ bằng sức mạnh của Lời Chúa, và khí cụ của việc ăn chay, cầu nguyện và việc bác ái. Hãy học nơi Người để tĩnh thức luôn, để nói KHÔNG với từng cơn cám dỗ và nói VÂNG với Thiên Chúa. Đặc biệt là như Đức Giêsu, hãy để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời chúng ta, hãy trở nên nhảy cảm và dễ bảo với Người. Tôi xác tín rằng, nếu chúng ta bước đi trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ chiến thắng các cám dỗ, và qua những thử thách đó chúng ta sẽ trưởng thành trong Đức Tin và trong Tình Yêu với Thiên Chúa và với mọi người. Đó là tin vui và cùng với niềm vui đó chúng ta bắt đầu hành trình Mùa chay hướng về niềm vui phục sinh của Đức Kitô, Chúa Chúng ta. Amen!
SA MẠC – NƠI GIÚP KHÁM PHÁ SỰ THẬT
Lm. Phêrô Trần Minh Đức
Trong cuộc đời làm người ai ai cũng phải trải qua những giây phút khủng hoảng. Trong những lúc đó tất cả mọi chuyện to nhỏ đều trở thành một vấn nạn. Kẻ đó tìm một câu trả lời trước khi lựa chọn, quyết định cho tương lai đời mình. Giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi ấu thơ sang tuổi thành niên là một giai đoạn quan trọng trong đời người. Tuổi dậy thì chứa đầy hỗn loạn. Thân xác bỗng dưng biến đổi và phát triển khác thường. Con người bị ép buộc tham dự vào một cuộc phiêu lưu để khám phá ra mình là ai. Nhiều chuyện thần thoại đã mô tả về giai đoạn này. Dĩ nhiên, nhân vật chính luôn là một chàng trai. Anh phải từ giã mái ấm gia đình, chấp nhận mạo hiểm một mình tiến vào rừng sâu nước độc, nơi chứa đầy cạm bẫy của yêu tinh quỷ nữ! Anh ta phải vượt qua mọi thử thách từ bên trong lẫn bên ngoài. Anh ta được tôi luyện. Khi trở về, anh giống như được đầu thai làm một con người hoàn toàn mới, đủ tài trí và khả năng gánh vác những trọng trách được giao phó.
Bài Phúc âm hôm nay cũng nói về thời gian thử thách tương tự của Đức Giêsu. Ngài được Thánh Thần dẫn đưa vào hoang địa, giang sơn của quỷ dữ. Ngài ăn chay hãm mình, sống trong cô tịch, hoàn toàn không có gì để đề phòng âm mưu của kẻ xấu luôn bám sát, chờ cơ hội thuận lợi để thu thập. Thử thách làm nảy sinh một hoài nghi cơ bản: Những gì từ trước tới nay tôi cho là tốt đẹp bây giờ có vẻ vô nghĩa. Những gì tôi cho là tội lỗi xấu xa giờ đây hình như chứa đầy hứa hẹn. Khi đối diện đương đầu với dụ dỗ Đức Giêsu dần dần khám phá ra mình là ai, đâu là sứ mạng của mình. Thời gian sống trong sa mạc là giai đoạn quan trọng trong đời của Đức Giêsu. Trong thời gian này Ngài cảm nhận một cách sâu xa sự mỏng dòn trong thân phận con người. Mặc khác, Ngài đã sống mật thiết thân tình với Chúa Cha, giúp Ngài ý thức về trọng trách được Chúa Cha giao phó. Ngài trở nên chín chắn trưởng thành, có thể bước vào cuộc đời công khai, công bố Tin mừng cứu độ. Bởi vậy, sa mạc không phải chỉ là nơi chết chóc, tăm tối mà còn là nơi gặp gỡ chính Thiên Chúa.
Trong sa mạc Đức Giêsu hiểu thấu những yếu đuối cơ bản của con người. Cám dỗ đầu tiên nhắm vào sự đói khát. Có đầy đủ của ăn là một nhu cầu căn bản của cuộc sống con người. Thân xác đòi hỏi quyền lợi của nó và sẽ trở nên kiệt quệ nếu như nhu cầu này bị cự tuyệt, không được đáp ứng. Dĩ nhiên chúng ta ăn để sống, nhưng chúng ta sống không phải chỉ để ăn, để uống. Do đó, con người giống như bị bà nhập khi nghĩ rằng, ý nghĩa của cuộc sống con người chỉ đặt trên cơ bản của vật chất và sự hưởng thụ. Con người chia sẻ những nhu cầu thuộc thân xác với tất cả mọi sinh vật khác, nhưng khát vọng của con người còn trổi vượt hơn, đi ra ngoài giới hạn này. Chính vì thế chúng ta có thể nói rằng, nhu cầu lớn nhất của con người thuộc về đời sống tâm linh: „Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”. Đời sống con người không phải là một cuộc sống no say nhưng là một cuộc đời sung mãn về mọi mặt.
Thử thách thứ hai nhắm vào khát vọng quyền lực. Bởi vì muốn chứng tỏ quyền lực của mình, bảo đảm chỗ đứng của mình, kẻ ấy ra sức tìm cách hạ bệ kẻ khác, ra sức chèn ép, trèo lên đầu lên cổ người khác và nếu cần sẵn sàng bước qua xác chết! Tranh đấu quyền lực là chuyện xảy ra như cơm bữa từ trong gia đình đến ngoài xã hội, đặc biệt trong môi trường chính trị và kinh doanh,… Đức Giêsu không đầu hàng dụ dỗ. Ngài sẵn sàng từ bỏ quyền thế và bạo lực. Ngài chọn con đường yêu thương vô vị lợi.
Dụ dỗ thứ ba nhằm chối bỏ Thiên Chúa là Đấng sáng tạo càn khôn. Đặc biệt con người ngày nay nghĩ rằng, mình có thể đạt được tất cả mà không cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa. Tất cả đều dựa vào khả năng của bản thân. Ngày Chúa nhật không đi lễ nhà thờ chẳng thấy mình mất mát gì! Nhìn nhận giới hạn của mình, nhìn nhận thân phận thụ tạo của mình là một điều không dễ dàng. Thiên Chúa đòi hỏi con người tin vào Ngài, mặc dầu không ai có thể chứng minh và nhìn thấy Thiên Chúa.
Mùa chay chính là một lời mời gọi sáng tạo một mảnh sa mạc trong cuộc đời mình, mời gọi xa rời cảnh huyên náo, bon chen, xô bồ để có thể gặp gỡ Thiên Chúa, lắng nghe tiếng Ngài trong cô tịch. Bởi vì sa mạc, đối với Đức Giêsu cũng như mỗi người chúng ta, là nơi giúp khám phá sự thật, nơi chúng ta có thể đối diện với chính mình để nhận biết mình là ai và Thiên Chúa muốn gì nơi tôi.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Chúa nhật I Mùa chay hướng chúng ta về mầu nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu. Và Chúa nhật này cũng đưa chúng ta đến một khung cảnh, đến một sự việc bất ngờ và kỳ diệu. Chúa Giêsu, Ngôi Hai xuống thế làm người, ngày hôm nay đã bị ma quỷ cám dỗ. Thực tế, đây là một mầu nhiệm bởi vì ma quỷ làm sao dám đối diện với Vua Trời Đất cao cả…
Quả thực, Chúa Giêsu “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2, 6-9). Như thế, ngoại trừ tội lỗi, Chúa Giêsu đã nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria và đã làm người. Nên, Ngài là con người giống chúng ta trong mọi sự. Chúa Giêsu đã phải đối đầu với cám dỗ và Ngài đã chống trả dứt khoát. Trái ngược với Ông bà nguyên tổ: Ađam và Evà. Hai Ông bà nguyên tổ trong vườn địa đàng đã bị con rắn là ma quỷ cám dỗ, nhưng nguyên tổ đã sa ngã vì bất trung với Thiên Chúa. Còn Chúa Giêsu khi sửa soạn sứ vụ công khai của Ngài, Ngài đã đi vào nơi hoang địa để đương đầu với ma quỷ trong những cám dỗ chết người, nhưng Ngài đã một mực trung thành với thánh ý của Thiên Chúa Cha và ý chí ấy đã đưa Ngài từ Sa mạc hoang vu, tới dòng sông Giorđăng, từ Giêrusalem đến vườn Cây Dầu, nơi đây, ma quỷ còn thử thách Ngài nặng nề hơn nữa, cám dỗ Ngài bỏ sứ mạng cứu thế của Ngài. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lúc nào cũng đầy Thánh Thần và Ngài đã luôn chiến thắng những cám dỗ do ma quỷ bầy ra để kéo Ngài ra khỏi Thiên ý của Chúa Cha. Ngày Lễ Lá, chúng ta thấy Chúa Giêsu thốt lên trong vườn Cây Dầu khi Ngài đang hấp hối: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cất chén đắng này khỏi con”. Nhưng, Chúa Giêsu luôn kiên nhẫn, luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha trong lời cầu nguyện. Chính vì thế, Ngài luôn nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Ngài luôn hết mình tuân phục Thánh ý của Thiên Chúa cha: “Nhưng xin theo ý Cha, đừng theo ý của Con”.
Chúa Giêsu đã luôn đi theo con đường của Thiên Chúa Cha. Đó là con đường cứu độ, con đường tình yêu. Chúa Giêsu đã đi từ đau khổ, chết tới phục sinh. Đó là Mầu nhiệm Vượt Qua. Đó là cuộc đau khổ hồng phúc của Chúa Giêsu. Bởi vì, Ngài đi qua thống khổ, bị kết án tử hình, bị treo trên Thập giá, bị táng trong mồ và sau ba ngày, Ngài đã sống lại khải hoàn. Đây là mầu nhiệm vì nó được giấu kín trong sự khôn ngoan khôn lường của Thiên Chúa Cha.
Ba cám dỗ về của ăn, tiền tài vật chất, danh vọng là ba cám dỗ đã làm cho biết bao người ngã gục trước nanh vuốt đen tối của ma quỷ. Chúa Giêsu đã anh dũng chiến thắng tội lỗi, cám dỗ và sự chết. Ngài đã đi từ cõi chết đến cõi sống, đi từ bóng tối tới ánh sáng trường sinh, vĩnh cửu.
Chúa Giêsu đã chết và đã vinh thắng sự chết, khải hoàn sống lại vinh quang. Ngài đã chết cho chúng ta được sống, Ngài đã gánh tội của chúng ta không như tội nhân mà là Đấng giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi. Mầu nhiệm phục sinh là chân lý hướng dẫn người Kitô hữu trong suốt cả cuộc hành trình đức tin dưới thế. Đặc biệt, Mùa chay ba phương thế: ăn chay, cầu nguyện, bố thí là ba phương cách truyền thống giúp người Kitô hữu kết hiệp với Chúa Giêsu và giúp người Kitô hữu hợp nhất với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, với lễ Vượt Qua của mỗi người chúng ta để rồi chúng ta có thể thốt lên: ” Xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời “.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết phó thác vào sự quan phòng của Chúa và ban cho chúng con sức mạnh của Chúa Thánh Thần để chúng con vững mạnh trong đức tin mà chiến thắng mọi cạm bẫy của ma quỷ. Amen.
Lm. Giacôbê Phạm văn Phượng
Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng công khai, Chúa Giêsu vào hoang địa ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày. Sau đó ma quỷ đến cám dỗ Chúa về ba thứ: miếng ăn, kiêu ngạo và danh vọng.
CÁM DỖ VỀ MIẾNG ĂN: Biết Chúa trong suốt bốn mươi đêm ngày không ăn uống gì, chắc hẳn phải đói lắm, ma quỷ khôn khéo lợi dụng cái đói bụng để cám dỗ Chúa. Chúng đưa ra một hòn đá và bảo Chúa hãy truyền cho nó biến thành bánh mà ăn. Tại sao ma quỷ không đem ngay bánh tới để cám dỗ mà lại dụ dỗ Chúa làm phép lạ cho đá hóa thành bánh? Điều đó cho chúng ta biết ma quỷ không cám dỗ Chúa về sự mê ăn uống, bởi vì một người ăn chay trường được thì không phải là người mê ăn, một tấm bánh có gì đáng mê ăn, hơn nữa, một người đói cần ăn, không có gì là xấu, cho nên, ở đây ma quỷ muốn cám dỗ Chúa dùng sai khả năng, sai mục đích, dùng uy quyền vô lý, ma quỷ muốn Chúa biểu diễn một phép lạ không có lý do chính đáng. Nếu Chúa làm phép lạ thì Chúa không còn uy quyền trên ma quỷ nữa, vì đã vâng phục chúng. Nếu Chúa làm phép lạ thì chứng tỏ Chúa không còn tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa Cha nữa. Nếu Chúa làm phép lạ thì mắc mưu ma quỷ, nghĩa là chúng bảo Chúa hãy sử dụng quyền phép mà giải quyết việc đói bụng. Nhưng chúng thất bại hoàn toàn, Chúa không chê cơm bánh, Chúa cũng không làm phép lạ, Chúa đã dùng sức mạnh của chính lời Chúa trong Kinh Thánh để chiến thắng cám dỗ. Chúa bảo cho ma quỷ biết: ” Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”.
CÁM DỖ VỀ KIÊU NGẠO: Ma quỷ đưa Chúa lên nóc đền thờ Giêrusalem và xúi bẩy Chúa nhảy xuống. Nếu Chúa nhảy xuống thì thật là một hành động ngoạn mục, giả như bị chết hay bị thương thì càng tốt, còn nếu không hề hấn gì như lời Thiên Chúa nói là Thiên Chúa sẽ ra lệnh cho thiên thần đỡ nâng, thì Chúa sẽ được mọi người ở dưới vỗ tay tung hô ca tụng và được biết đến như một người Thiên Chúa sai đến. Như vậy, khi xúi giục Chúa nhảy xuống là ma quỷ đã khích động lòng kiêu ngạo vốn thường có nơi mỗi người. Quả thực, ma quỷ muốn Chúa kiêu ngạo như chúng. Tính kiêu ngạo thường ẩn núp dưới hai hình thức: là tôn trọng mình cách vô lối và muốn mọi người khác phải đề cao mình. Ma quỷ là cha thần kiêu ngạo, chúng đem kiêu ngạo vào mọi lãnh vực, đó là điểm rắc rối của cuộc đời. Biết bao người đã là nạn nhân của lòng tự ái, lòng háo danh, tự hào tự phụ về tài năng, sắc đẹp và cả nhân đức nữa. Nhưng một lần nữa Chúa Giêsu lại chiến thắng ma quỷ và bảo cho chúng biết qua lời Kinh Thánh: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”, nghĩa là đừng đòi hỏi Thiên Chúa làm phép lạ vô ích.
CÁM DỖ VỀ DANH VỌNG: Ma quỷ lại đưa Chúa lên núi cao, chỉ cho Chúa thấy khắp bàn dân thiên hạ, thấy mọi vinh quang phú quý uy quyền, rồi hứa biếu Chúa tất cả nếu bằng lòng uốn gối quỳ thờ lạy chúng. Thờ lạy tức là vâng phục, là đầu hàng. Lời dụ dỗ của ma quỷ rất hấp dẫn, vì dân Do Thái lúc bấy giờ đang trông đợi một Đấng Mêsia trần thế, một anh hùng, một vị cứu tinh đến giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc. Vì thế, ma quỷ xúi Chúa thờ lạy chúng đi là được ngồi ngay vào ghế đó. Cờ đến tay rồi, còn chờ gì nữa không cầm mà phất lên. Nhưng Chúa Giêsu đã từ chối bằng câu Kinh Thánh: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
Sự kiện cám dỗ này dạy chúng ta nhiều điều, chúng ta hãy nhớ ba điều sau đây:
Thứ nhất, là con người, chúng ta có rất nhiều nhu cầu, nhưng vấn đề là phải biết: đâu là nhu cầu chính yếu đâu là nhu cầu phụ thuộc. Kinh Thánh cho biết chỉ có hai thứ nhu cầu mà thôi: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Nhu cầu vật chất là cơm ăn, áo mặc, nhà cửa, nhu cầu tinh thần là sự sống vĩnh cửu, con người phải có hai nhu cầu đó mới sống được. Chúa đã dạy: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời”. Nghĩa là trong khi lao động để tìm kiếm những nhu cầu vật chất chúng ta đừng quên tìm kiếm những nhu cầu tinh thần trước hết.
Thứ hai, chúng ta cần phải cảnh giác trước những gì là hình thức hào nhoáng bên ngoài. Nhiều người dễ bị lầm, đến khi nhận ra thì đã quá muộn và đụng phải một thực tế phũ phàng. Vì thế, đừng để cho vẻ hào ngoáng bên ngoài cám dỗ. Những ai chạy theo vẻ bên ngoài thì sẽ chỉ gặp cái vỏ bên ngoài. Cái thực chất mới đáng theo đuổi. Thực chất nằm ở trong những gì giá trị lâu dài chứ không nằm trong những gì hào nhoáng nhất thời.
Thứ ba, là con cái Chúa, mặc nhiên chúng ta trở thành mục tiêu tấn công của ma quỷ. Ma quỷ rất tinh quái và xảo quyệt, thánh Phaolô gọi chúng là một kẻ thù hiểm độc, một nhà chiến lược đầy tội ác, chúng dùng mọi cách để cám dỗ chúng ta. Vì thế, chúng ta phải đứng về phe Chúa, phải nương nhờ vào sức mạnh của Chúa mà chiến đấu, nếu không chúng ta sẽ dễ dàng bị thất bại. Nương nhờ vào Chúa bằng cách chăm chỉ cầu nguyện, ăn chay, sống chân thật, ngay thẳng, đọc Kinh Thánh và dùng Lời Chúa để chiến thắng cám dỗ như Chúa đã làm gương.
Lm. Vũ Đình Tường
Chương đầu sách Sáng Thế Ký tường thuật sự việc Chúa tạo dựng con người phỏng theo hình ảnh Chúa. Trình thuật cho biết từ nguyên thuỷ Chúa lấy bùn đất tạo nên con người và thở hơi vào lỗ mũi ban Thần Khí Chúa cho con người. Nhờ Thần Khí đó mà con người có sự sống.
Nguyên việc sáng tạo cũng đủ cho biết con người có quan hệ rất mật thiết với vũ trụ do Chúa tạo dựng. Đây là lí do chính giải thích tại sao con người lại có khuynh hướng yêu mến, quyến luyến trần thế.
Nguyên do
Ngoài ra, thân xác con người bởi đất mà ra. Con người nhận biết mình là bụi tro và sau cuộc đời khổ ải này sẽ trở về bụi tro. Nói cách khác thân xác con người là một phần của vũ trụ do Chúa tạo thành. Yêu thích vật chất, của cải thế gian chính là yêu thích cái cội nguồn thân xác trần thế của chính mình.
Chúa phán cho nhân loại con người hãy làm chủ chim trời, cá biển và những sinh vật trên mặt đất. Con người thi hành giáo huấn tích cực đến độ cạnh tranh, tranh nhau làm chủ và ngay cả tàn sát nhau để được quyền làm chủ trên đất, biển và không gian. Thực ra con người được mời gọi làm quản gia, chứ không phải là chủ gia. Nhiệm vụ của quản gia là bảo quản, coi sóc, bảo vệ, canh tác và hưởng thành quả của lao tác. Đòi làm chủ vượt quá quyền hạn của quản gia. Mầm mống của phản loạn chống lại chủ nhân vũ trụ, chống lại Đấng sáng tạo ra vũ trụ. Mình Chúa làm chủ tất cả. Mọi người đều là quản gia, công nhân của vườn nho Chúa.
Con người nhận biết của cải, vật chất trần thế rất thực tiễn. Hữu dụng cho cuộc sống và thoả mãn những nhu cầu con người. Chính những gì trái đất cung cấp làm con cho người trở nên thèm khát và muốn chiếm đoạt, chiều theo lòng ham muốn của cải.
Đam mê
Khuynh hướng đam mê của cải, chức tước tác động mãnh liệt cho một số thành phần vì họ khát khao có chúng. Với họ bao nhiêu vật chất cũng chưa vừa, sống bao lâu cũng chưa đủ. Vì ham của cải, vật chất trần thế nên họ chối bỏ Đấng sáng tạo vũ trụ. Đơn giản nhất là chối bỏ Ngài hiện hữu, để thay Ngài làm chủ vũ trụ. Từ đó họ tự do xưng mình là chủ mọi loài, kể cả sự sống. Tự trao trong tay quyền ban phát sự sống cho người khác. Để ai sống người đó sống, bắt ai chết người đó chết. Quả là lộng quyền, lộng ngôn. Ngày nào đó họ cũng chết, không cứu được mình. Phúc Âm vạch rõ ma quỉ cầm đầu kẻ lộng quyền, lộng ngôn khi nó hứa cho Đức Kitô vinh quang phú quí trần thế. Nó không có gì để cho ngoại trừ gian dối, lừa gạt. Chính lừa gạt, gian dối này mà nó hứa cho cả những gì nó không có. Điều ngạc nhiên là có người tin lời hứa hão huyền. Sẵn sàng gây chiến với anh em. Dùng thủ đoạn đối xử với nhau. Thủ đoạn đi chung với chém giết, thủ tiêu, khai trừ. Chết chóc, khổ đau, goá bụa, con côi, phát sinh từ lòng tham, từ đam mê làm chủ sinh ra.
Vũ trụ do Chúa tạo dựng là nơi con người sống và là nơi cung cấp nguồn thực phẩm cho thân xác. Vì thế con người cố gắng làm chủ càng nhiều của cải càng tự tin. Họ tin vật chất bảo vệ sự sống vì nó nuôi và làm đẹp thân xác. Chúa trao quyền cho con người làm chủ chim trời cá biển và mọi sinh vật trong mặt đất. Lời chúc phúc này chung cho mọi người, không riêng cho một cá nhân, tập thể nào. Mọi cố gắng tranh giành cho riêng mình, tập thể mình đều sai. Tranh chấp, bất hoà và tàn sát lẫn nhau vì của cải, vật chất; danh vọng, chức tước vì thiếu ơn Chúa và sa vào cạm bẫy, chước cám dỗ của satan.
Cám dỗ
Ma quỉ biết rõ lịch sử hình thành nhân loại ra sao. Bởi đất mà ra nên chúng dùng miếng ăn, hoa mầu ruộng đất và vinh quang phú quí trần thế cám dỗ con người. Cả ba chước cám dỗ đều có chung mục đích là lo cho thân xác: thực phẩm nuôi thân, mong nổi tiếng và lắm vàng, nhiều bạc. Vừa có tiếng vừa có miếng quả là một thách đố lớn. Tiếng và miếng đều đến từ môi miệng. Ma quỉ dậy con người quên đi con tim và nhắm vào hầu bao và bao tử. Chúng cố tình làm ngơ sự sống Chúa ban cho con người vì mục đích chúng là bóp nghẹt sự sống trường sinh.
Đức Kitô
Đức Kitô nhắc cho ma quỉ biết ngoài phần thân xác ra Chúa còn in dấu ấn tình yêu Ngài vào trong con tim ta. Nhờ dấu ấn tình yêu này mà con người có sự sống. Khi tạo dựng con người bằng bùn đất. Bùn đất đó chưa có sự sống. Sự sống chỉ xuất hiện khi Chúa thở hơi vào hình bụi đất đó. Từ đó bụi đất có sự sống do Chúa ban. Vì thế đừng quá lo lắng cho thân xác bụi đất mà hãy chú trọng vào sự sống trường sinh, cõi lòng con người. Đức Kitô nhắc con người ta sống không chỉ bởi cơm bánh mà còn do lời Chúa nữa. Cơm bánh cần cho thân xác; Lời Chúa cần cho tâm linh. Cơm bánh nuôi thân xác; Lời Chúa nuôi tâm linh.
Ngôn ngữ của môi miệng không mang lại sự sống; ngôn ngữ của con tim nối kết tình Chúa, tình người. Thiếu ngôn ngữ của con tim mọi sự sẽ trở về hư vô. Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, khi qua đời thân xác cũng sẽ trở về nguồn gốc của chúng là bụi tro. Sự sống trường sinh đến từ Chúa sẽ trở về với Chúa. Vì phát xuất từ Chúa nên tâm linh ví như cành cần thường xuyên liên kết với thân là Chúa để nhận sự sống, được thánh hoá hầu sống mạnh khoẻ, tinh tuyền.
Đức Kitô xua đuổi ma quỉ và nhắc cho chúng biết Thiên Chúa có quyền bắt chúng phải tùng phục Ngài. Ngài nhắc con người cần để ý, lưu tâm đến phần tâm linh nhiều hơn vì đó là sự sống trường sinh. Thần khí đó không bao giờ chết. Một là sống thảnh thơi trong tình yêu Chúa. Hai là lạc xa tình yêu Chúa. Bị lạc nó sống trong đau khổ, khắc khoải, nửa sống nửa chết, vì nó luôn muốn tìm về cội nguồn mà không được.
Lm. Bùi Quang Tuấn
“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Có qua cám dỗ mới biết được ai là người thánh thiện, ai là kẻ đê hèn. Waterstone có viết: “Đầu hàng cám dỗ là hành động của thú tính, chiến thắng nó mới là con người”.
Cám dỗ chưa phải là xấu. Nó có thể giúp người ta trở nên tốt hơn. Cám dỗ không phải là tội. Nó sẽ giúp thấy rõ hơn sự thánh thiện nơi một con người. Cám dỗ cũng không phải là hình phạt, song nó sẽ là triều thiên vinh quang cho những ai chiến thắng (W. Barclay).
Bị cám dỗ cũng có nghĩa là đứng trước một lựa chọn: tốt hay xấu, chiến đấu hay đầu hàng, theo ý Chúa hay thuận ý Satan.
Bậc anh hùng là người nếm chiến thắng và cái giá phải trả cho cuộc chiến. Chẳng ai trao huy chương cho kẻ bỏ cuộc, nhưng là con người đã can đảm chống lại kẻ thù.
Trong cuộc sống, chẳng ai tránh được cám dỗ. Chính Đức Giêsu còn bị cám dỗ, tức phải làm những cuộc chọn lựa và quyết định trong đời, huống hồ là tôi. Nơi con người, ai cũng có các động lực vị kỷ, thiển cận, ngại khó, thích nhàn, thúc đẩy một chọn lựa sai lạc mà kết quả là nỗi niềm bất hạnh. Adong và Evà đã nếm mùi xấu hổ, khổ đau, và chết chóc vì đã chọn lựa sai lầm. Bởi chọn theo ma quỷ, chống lại luật Chúa, tôn thờ cái tôi mà thương đau đã lan tràn đến khắp nhân loại.
Thế nhưng, “nếu bởi sự sa ngã của một người mà nhiều người phải chết… và do sự bất tuân của một người mà nhiều người bị liệt hàng tội nhân, thì cũng nhờ sự vâng phục của một người (Đức Giêsu Kitô) mà nhiều người sẽ được liệt hàng công chính” (Rm 5:12-19).
Chính Đức Giêsu, qua các cơn cám dỗ trong sa mạc, đã khẳng định nguồn ơn cứu thoát cho nhân loại bằng việc lấy chính Lời Chúa làm ánh sáng soi dẫn đường đi, lấy việc tùng phục thánh ý Thiên Chúa để thánh hóa con người trở nên “người” hơn, và lấy việc tôn thờ Thiên Chúa trên mọi tạo vật như giá trị tuyệt đối và hạnh phúc chân thực của cuộc đời.
Mỗi một ngày sống trên trần gian, tôi sẽ phải không ngừng chọn lựa. Một chọn lựa ngay chính sẽ giúp cho việc chọn lựa ngay chính kế tiếp của tôi dễ dàng hơn. Trái lại, một sự nhu nhược đầu hàng cũng dễ kéo theo những đầu hàng nhu nhược tiếp theo. Và rồi tôi sẽ khó tránh khỏi tình trạng “cây xiêu bên nào sẽ đổ về bên đó”.
Không phải là “thánh” nghĩa là không bị cám dỗ tấn công. Đức Giêsu là Đấng Thánh, ấy thế mà Ngài cũng phải trải qua kinh nghiệm của xung khắc giữa sự lành và sự ác. Thư Do thái ghi nhận rõ ràng: “Không phải Ngài là người không thể cảm thông với nỗi yếu hèn của chúng ta, song là Đấng đã dãi dầu bao cơn thử thách, đủ điều như chúng ta” (Dt 4:15). Và thái độ chọn lựa của Ngài đã làm nên hy vọng lớn lao cho con người mong manh của tôi. Ấy là “nếu tôi cùng chết với Ngài, tôi sẽ cùng Ngài phục sinh; nếu tôi chịu khổ với Ngài, tôi sẽ cùng Ngài thống trị” (1 Tim 2: 11-12).
Đứng trước những lời mời gọi ngọt ngào của thế gian và bao hấp lực quay cuồng của xác thịt, sự từ khước hay vượt thoát nào cũng hàm ngậm một cân lượng khổ đau, nếu không nói là “chết” trong lòng ít nhiều. Bất cứ sự thắng vượt gian dối, điêu ngoa, dục tình, tức giận, ích kỷ, kiêu căng, hay ươn lười nào cũng đòi hỏi một cuộc chiến gay go, lắm khi phải rướm máu con tim chứ chẳng chơi.
Thế nhưng, cần phải chiến đấu để có thể chiến thắng! Cho dù thử thách và cám dỗ nặng nề đến đâu tôi vẫn xác tín như Thánh Phaolô: “Thiên Chúa trung tín sẽ không để con người bị cám dỗ quá sức. Trái lại, cùng với cám dỗ Ngài sẽ chừa cho lối thoát để có thể chịu đựng nổi” (1 Cor 10:13).
Sự “chịu đựng” đến khi chiến thắng chỉ có thể đạt tới nhờ liên kết chân thành với Thiên Chúa. Không gì tạo nên gắn bó cho bằng cầu nguyện. Chính nhờ cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã có sức mạnh chịu đựng và chiến thắng tên Cám Dỗ ngay từ phút đầu.
Bước vào hành trình mùa Chay, tôi được kêu mời tu chỉnh lại đời sống cầu nguyện, để nhờ đó sức mạnh của Đức Kitô luôn ở trong tôi, giúp tôi can đảm chọn lựa những gì thuộc về Thiên Chúa, vững bước vượt bao chông gai trong đời, tiến đến đích cùng của bình an và hạnh phúc chân thật.
Lm Trần Xuân Lãm
Thánh sử Matthêô, một người Do- thái, nhắm trước hết vào các độc giả Do-thái, ông muốn nhắc nhở: dân Do Thái đã sa chước cám dỗ khi họ sống trong hoang địa 40 năm trường, còn Chúa Giêsu đã chiến thắng các cám dỗ của ma quỷ, sau khi ăn chay 40 ngày nơi rừng vắng.
Có tất cả 3 cám dỗ nặng nề:
1- Cám dỗ cơm bánh hay vật chất: Trong hoang địa, dân Do thái kêu ca vì thiếu tiện nghi và lương thực. Chúa cho manna để nuôi họ. Nhưng họ nhàm chán thứ bánh họ ăn hằng ngày. Lương thực nói đây tượng trưng nhu cầu vật chất chúng ta muốn hưởng thụ. Trong cơn cám dỗ vật chất, Chúa Giêsu đã trưng lời sách Đệ nhị luật: “Người ta sống không chỉ bởi bánh, nhưng bởi lời từ miệng Thiên Chúa”. Mặc dù Chúa Giêsu cảm thấy đói, nhưng sự đói khát nghe lời Thiên Chúa còn quan trọng hơn là nhu cầu về cơm bánh. Ngài hơn hẳn dân Do thái xưa, Ngài tìm ý Thiên Chúa hơn là tìm sự thỏa mãn cho riêng Ngài.
2- Cám dỗ về sự thử thánh quyền năng Thiên Chúa: Dân Do thái luôn yêu cầu Chúa ban những dấu lạ điềm thiêng, nhưng Chúa từ chối vì họ không thực tâm tin vào Ngài, mà đơn thuần chỉ để thách thức Chúa. Hôm nay, khi ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu gieo mình xuống khỏi đền thờ, Ngài đã trả lời bằng cách trưng dẫn sách đệ nhị luật: “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa”. Những gì dân Do Thái khiêu khích Thiên Chúa nơi hoang địa, nơi đây ta thấy Chúa Giêsu đã chẳng hề làm.
3- Cám dỗ hạ mình thờ lạy ma quỷ: Xưa dân Do thái đã tạc tượng bò vàng và thờ lạy nó. Ngày nay, ngẫu tượng hay bò vàng chính là tiền tài, danh vọng, thú vui, vật chất, tiện nghi, sắc dục đem chúng ta xa lìa Chúa và dẫn ta đến chỗ thỏa hiệp, phạm tội. Chúa Giêsu chẳng màng bất cứ điều gì ma quỷ trưng dẫn, kể cả vương quốc nó muốn dâng tặng Ngài. Ngài đã chẳng cúi đầu thờ lạy nó, trái lại Ngài dõng dạc tuyên bố: “Ngươi chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa” (Đnl 6:13).
Thánh Mat-thê-ô chỉ ra rằng, trong khi dân Do thái đã ngã thua cám dỗ trong sa mạc, thì trái lại, Chúa Giêsu đã chẳng hề sa ngã. Bởi đó, Chúa Giêsu, là dân Is-diên mới, là con thật của Thiên Chúa, là thừa kế chính truyền của vương quốc Thiên Chúa. Những ai theo gương Ngài, sẽ vượt qua cám dỗ trong cuộc đời, và trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa.
Lm Hưng Long
Trong một câu chuyện thân mật giữa một tu sĩ già 70 tuổi và một tu sĩ trẻ, tu sĩ trẻ tâm sự: “Ở cái tuổi của tôi, cơn cám dỗ tôi cảm thấy phải chiến đấu dữ dằn nhất là làm sao giữ được tâm hồn trong sạch. Không hiểu tới tuổi nào thì cám dỗ mới chịu tha!” Vị tu sĩ già cười và tếu táo nói: “Tuổi 70”. Thế rồi vào một ngày nọ khi hai tu sĩ đang coi TV giải trí, bất thình lình hình ảnh hai anh chị yêu nhau thân mật hiện lên. Đêm về hai tu sĩ chứng kiến cảnh chiến đấu trằn trọc của vị tu sĩ già: “Không được! Không được! Tội lỗi! Tội lỗi! Xin Chúa thương xót con!”. Sáng hôm sau, tu sĩ gia gặp tu sĩ trẻ và nói: “Bạn còn nhớ những gì tôi nói với bạn hôm nao về vấn đề cám dỗ không? Về cái tuổi không còn bị cám dỗ nữa đó? Tôi lầm rồi. Đúng ra là 71 tuổi chứ không phải là 70”.
Câu chuyện cho thấy cám dỗ thử thách là một kinh nghiệm lâu dài trong suốt cuộc đời tại thế. Cám dỗ đến với mọi người bất kể tuổi tác, nam nữ, hay cấp bậc văn hoá. Cám dỗ đến với mỗi người cách khác nhau, tùy theo tính tình, hoàn cảnh sống, và khả năng của mỗi người. Cám dỗ chỉ kết thúc khi ta nhắm mắt lìa đời.
Thiên Chúa cho phép cám dỗ xảy ra như phương thế giúp chúng ta chứng tỏ tình yêu đối với Ngài, lớn lên trong nhân đức, và trưởng thành hơn. Thánh Phaolô cho biết Thiên Chúa không để cho chúng ta bị cám dỗ quá sức mình, ám chỉ là Thiên Chúa cho phép cám dỗ xảy ra trong giới hạn của chúng ta. Vì thế cám dỗ không phải là tội. Chúng ta tin chắc rằng những cám dỗ chúng ta gặp hàng ngày cũng nằm trong ý định của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Trong bài Phúc âm hôm nay, thánh Matthêô trình bày cho chúng ta hình ảnh Chúa Giêsu bị ma quỉ cám dỗ trước khi Người bắt đầu sứ mạng công khai rao giảng Tin mừng. Trong ba cơn cám dỗ ma quỉ xúi giục Ngài: thứ nhất hãy biến đá thành bánh, thứ hai hãy thi hành quyền bính trên dân chúng, và thứ ba hãy cứu mình khỏi phải chết.
Trong cơn cám dỗ thứ nhất ma quỷ đề nghị với Chúa là Ngài có thể chiếm được sự kính trọng và biết ơn của dân chúng bằng việc đáp ứng nhu cầu vật chất của họ. Chúa đã chống lại chước cám dỗ bằng việc nhìn nhận là trong cuộc sống còn nhiều cái quan trọng hơn thỏa mãn giác quan. Chỉ có của ăn vật chất không thì chưa đủ.
Trong cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ đề nghị với Chúa là Ngài có thể biểu diễn quyền lực phi thường để làm cho dân chúng kinh ngạc và do đó có thể thu hút lôi kéo họ. Chúa Giêsu đã thẳng thắn khẳng định là Ngài không muốn dùng quyền phép để ép dân chúng theo ý Ngài. Thứ quyền bính đó là thứ quyền bính của ma quỷ, chỉ trói buộc dân chúng. Chúa Giêsu muốn tình yêu của con người được tự do dâng hiến. Ngài mời gọi họ trở nên con cái Chúa chứ không muốn ép họ.
Trong cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ cám dỗ Ngài tránh né con đường thánh giá đau khổ đưa tới cái chết thê thảm. Chúa Giêsu đã từ chối con đường vinh quang thế tục và chấp nhận con đường thánh giá đau khổ. Chính con đường phục vụ và đau khổ thập giá đã chiến thắng sự chết và dẫn tới sự phục sinh vinh quang.
Chúa Giêsu bị cám dỗ trong mọi lãnh vực như chúng ta, nhưng Ngài đã không phạm tội. Ngài được đầy tràn Thánh Thần, Đấng đã nâng đỡ Ngài qua cơn cám dỗ và giúp Ngài chiến thắng thần dữ. Ngài dựa trên Lời Chúa như một vũ khí vũng chắc để đối phó với tất cả những cám dỗ thử thách. Ngài thật là gương mẫu cao cả đáng cho chúng ta noi theo trong việc đối phó với mọi chước cám dỗ.
Mùa Chay là cơ hội tốt giúp chúng ta sống gần Chúa và tiến tới sự đầy tràn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu chấp nhận của an và sức mạnh của Thiên Chúa và can đảm từ chối đường lối của ma quỷ, từ chối của ăn và quyền lực nọ trao tặng. Chúng ta hãy tin tưởng Thiên Chúa sẽ nâng đỡ chúng ta trong tất cả những gian nan thử thách.
Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Mỗi năm Mùa Chay về, Giáo hội cho chúng ta nghe lại câu chuyện Đức Giêsu trước khi bước vào đời sống công khai rao giảng Tin mừng, Ngài được Thánh Thần thúc đẩy đi vào trong hoang địa ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày. Trong thời gian này, ma quỷ đến cám dỗ Chúa về của cải vật chất, quyền hành thống trị và danh vọng trần thế.
Trước hết, ăn uống là nhu cầu thiết yếu của con người. Sau những ngày chay tịnh, Đức Giêsu cảm thấy đói. Ma quỷ đến đúng lúc và đề nghị thật hợp lý: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy biến những hòn đá này thành bánh mà ăn”.
Chống trả cơn cám dỗ này, Đức Giêsu cho thấy sứ mạng của Ngài đến trần gian không phải để lo nhu cầu vật chất cho riêng mình, nhưng Ngài đem đến cho nhân loại một sức sống mới đến từ Thiên Chúa. Đó là: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Thua keo này, bày keo khác. Ma quỷ đem Đức Giêsu lên núi cao, chỉ cho Ngài thấy các nước thiên hạ và nói: “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc trần thế, nếu ông sấp mình bái lạy tôi, thì tất cả thuộc về ông”.
Đây là cơn cám dỗ về sự ham mê quyền hành thống trị. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng nắm giữ mọi quyền lực trên trời dưới đất. Vậy mà ma quỷ ngạo mạn dám cho là của nó và hứa cho Chúa tất cả vinh hoa lợi lộc ở thế gian.
Phần đông nhân loại thích giành vinh dự và quyền lực muốn thống trị người khác, muốn người khác phải nghe theo mình. Vì thế, họ có thể làm bất cứ điều gì để đạt được chức quyền đó, kể cả việc gian dối, lật lọng và bái lạy ma quỷ. Chống lại cám dỗ này, Đức Giêsu quả quyết với ma quỷ: “Đã có lời chép: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và chỉ thờ lạy một mình Người mà thôi”.
Cuối cùng, ma quỉ đưa Đức Giêsu lên nóc cao đền thờ Giêrusalem với lời thách thức: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy gieo mình xuống đi”. Và nó còn dùng lời Kinh Thánh để thúc đẩy Chúa: “Thiên Chúa sẽ truyền cho các thiên thần gìn giữ bạn, các vị ấy sẽ tay đỡ tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá”.
Cơn cám dỗ cuối cùng này, ma quỉ muốn Đức Giêsu tìm kiếm danh vọng trần thế, nài ép Thiên Chúa làm phép lạ chiều theo ý mình, để thực hiện những màn biểu diễn ngoạn mục thu hút ánh nhìn người khác.
Nhưng Đức Giêsu quyết tâm chống trả cơn cám dỗ này như lời truyền lệnh: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Vì những ai tin theo Chúa là phó thác mọi sự trong bàn tay quan phòng của Ngài, chứ không đòi Chúa phải làm theo ý riêng mình.
Anh chị em thân mến,
Ba cơn cám dỗ của Đức Giêsu năm xưa cũng là ba cơn cám dỗ của nhân loại ngày nay. Trong Mùa Chay thánh, Giáo hội mời gọi chúng ta đi vào hoang địa cuộc với Đức Giêsu, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Bởi vì ma quỷ không hiện hình dữ tợn để cám dỗ chúng ta, nhưng nó cám dỗ chúng ta một cách tinh vi hơn.
Vào hoang địa cuộc đời, nghĩa là đừng quá bận tâm vào của cải vật chất, nhưng hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước. Ngày nay, nhiều người không tìm kiếm lương thực tinh thần, lương thực Lời Chúa, mà chỉ lo cơm áo, gạo tiền, nên bỏ qua những bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với nhau.
Vào hoang địa cuộc đời, nghĩa là sống âm thầm khiêm tốn phục vụ theo gương Đức Giêsu, chứ đừng dùng quyền hành mà thống trị người khác, muốn dìm người khác xuống để mình được nổi lên, muốn lôi kéo sự chú ý về mình, cho mình là người tài giỏi, tự hào về khả năng của mình.
Vào hoang địa cuộc đời lắng đọng tâm hồn, để phân biệt đâu là thánh ý Chúa, đâu là mưu mô của ma quỷ. Bởi vì, các cám dỗ ngày nay ma quỷ không cám dỗ chúng ta bỏ Chúa, cũng không cám dỗ chúng ta lao vào ăn chơi trác táng ngay, mà nó cám dỗ từ những cái nhỏ đi đến cái lớn. Có khi cám dỗ chúng ta qua lời thách thức, rủ rê của bạn bè, qua những lối sống buông thả, dễ dãi.
Xin Chúa giúp chúng ta tích cực sống tinh thần sám hối của Mùa Chay với tâm tình trở về. Chắc chắn với sức riêng mình, chúng ta không thể chiến thắng được ma quỷ, nhưng cậy nhờ ơn Chúa và Lời của Ngài là sức mạnh thiêng liêng nâng đỡ chúng ta. Xin Chúa gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ, nếu có lần nào yếu đuối vấp ngã, chúng ta can đảm đứng lên bước đến tòa cáo giải làm mới lại cuộc đời. Amen.
Lm Giuse Vũ Thái Hòa
Từ ngày thứ Tư lễ Tro vừa qua, chúng ta bước vào Mùa Chay để chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh. Mùa Chay kéo dài 40 ngày, tương ứng vời 40 ngày cầu nguyện và chay tịnh của Đức Giêsu trong sa mạc trước khi Người bắt đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng. Tại đây, Người chịu quỷ cám dỗ ba lần: hóa đá thành bánh, làm phép lạ phi thường, cho mình là vua thiên hạ.
Dân Do thái mong chờ Đấng Mêsia thực hiện những điều đó. Họ muốn Người cung cấp cho họ mọi nhu cầu vật chất, làm những điều kỳ diệu và bành trướng quyền thế của Người trên khắp địa cầu. Nhưng Đức Giêsu không làm như thế. Người chỉ thi hành ý muốn của Thiên Chúa Cha.
Trong hoang địa cũng như nhiều lần khác mà Tin Mừng đã kể lại, Đức Giêsu chống trả những cơn cám dỗ. Thí dụ: sau khi Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Người làm vua, nhưng Người lánh mặt, lên núi một mình (Ga 6:15); nhưng người Pharisêu muốn Người cho một dấu lạ từ trời (Mt 16:1); Người bị cám dỗ không đi Giêrusalem vì biết sẽ phải chịu nhiều đau khổ và bị giết. Chính ông Phêrô ngăn cản Người thực hiện điều đó và bị Người khiển trách: “Sa tan, lui lại đàng sau Thầy!” (Mt 16: 21-23). Tại vườn Ghếsêmani, Đức Giêsu bị cám dỗ nặng nề: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con…” (Mt 26:39). Và trên thập giá, Người bị nhục mạ: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Ít-ra-en! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập giá đi, thì chúng ta tin hắn liền!” (Mt 27:42)
Đức Giêsu đã thật sự bị cám dỗ, nhưng Người luôn trung thành với Chúa Cha và với sứ vụ mà Cha Người giao phó. Vào đầu Mùa Chay, Tin Mừng muốn chúng ta noi theo Đức Giêsu chống trả và chiến thắng những cơn cám dỗ này:
1/ Cám dỗ về cơm bánh hằng ngày hoặc cám dỗ về nhu cầu vật chất.
Con người cần phải ăn uống và cần phải có những nhu cầu vật chất tối thiểu để sống. Điều đó rất tốt. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống dựa vào những nhu cầu vật chất của thân xác mà thôi. Nhiều khi chúng ta lo kiếm ăn đến nỗi không còn nghĩa đến việc tìm kiếm những giá trị tinh thần và đạo đức nữa, không còn giờ để đọc kinh, cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, ngay cả việc tham dự thánh lễ Chúa nhật!
Trong mùa Chay này, chúng ta hãy suy gẫm Lời Chúa: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”.
2/ Cám dỗ về sự thành công.
Thành công trong cuộc sống là một điều rất tốt và phải làm. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ chỉ sống để thành công, muốn thành công với bất cứ giá nào, mặc dầu phải làm những chuyện không tốt như lừa dối, chà đạp người khác…; thành công để vênh vang, tự đắc, để giữ thể diện và thỏa mãn tự ái của mình.
Ngay ngày đầu của Mùa Chay, Đức Giêsu mời gọi: “Khi làm việc lành phúc đức, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy… đừng cho tay trái biết việc tay phải làm… Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn giả hình… Thiên Chúa thấu suốt những gì kín đáo” (Mt 6:1-6)
3/ Cám dỗ về quyền hành hoặc tham vọng thống trị.
Mỗi người trong chúng ta đều có một trách nhiệm, một quyền hành nào đó mặc dù là khiêm tốn. Có quyền hành, có trách nhiệm là để phục vụ và bênh vực công lý. Nhưng chúng ta thường bị cám dỗ là lẫn lộn giữa quyền hành và lòng tham vọng thống trị. Nếu những nhà lãnh đạo các quốc gia đều có tinh thần phục vụ dân chúng, thì bộ mặt thế giới sẽ khác hẳn!
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy kiểm điểm lại tinh thần trách nhiệm và phục vụ của mình trong gia đình, trong nhóm, trong cộng đoàn…
Những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu chịu trong sa mạc cũng là những cơn cám dỗ của mỗi người chúng ta về vật chất, hào nhoáng bên ngoài và quyền hành. Đức Giêsu đã chiến thắng. Người cũng muốn chúng ta tham dự vào chiến thắng của Người bằng cách bước theo đường của Người và noi gương Người. Đó là mục đích của mùa Chay.
Kính chúc ông bà và anh chị em sống Mùa chay thánh thiện và đón nhận nhiều hồng ân của Chúa.
Thiên Phúc
Đời Tam quốc, Quan Văn Trường bị thất thủ thảm bại ở Hạ Bì. Thân đơn nhất mã, phò hai người chị dâu (tức vợ của Lưu Bị) qua nương tựa nhà Tào Tháo. Đêm đến, Tào Tháo cho ba người ngủ chung một phòng, dụng tâm là muốn cho chị em loạn luân, chúa tôi phải thất lễ.
Quan Văn Trường một dạ thẳng ngay không để tà tâm vật dụng quyến rũ, tay cầm đuốc, tay cầm sách Xuân Thu đọc đến sáng.
Mọi người thấy vậy khen Văn Trường là người chính trực. Từ đó danh từ “Nguọn đuốc Văn Trường” được dùng để ám chỉ những kẻ ngay thẳng, không để vật dục quyến rũ lòng mình.
***
Những con người anh dũng lướt thắng cám dỗ như Quan Văn Trường quả là hiếm. Càng hiếm hơn nữa, những con người không để cho vật dục quyến rũ. Vì người ta đã quen lối sống dễ dãi, thích hưởng thụ, ham khoái lạc. Cho nên, tâm trí họ lúc nào cũng là là mặt đất, không đủ sức bật để vượt qua những cám dỗ thử thách, mà vươn lên những ý tưởng cao thượng, những ý nghĩ thánh thiêng.
Dù thế nào đi nữa, cám dỗ vẫn là số phận của con người. Đối với người Kitô hữu, cám dỗ càng đeo đuổi họ như hình với bóng, nó chỉ buông tha khi họ đã đi hết cuộc hành trình trần gian. Tuy nhiên, thành công hay thất bại cũng tùy thuộc họ chiến thắng hay đầu hàng các cơn cám dỗ. Số phận đời đời cũng sẽ căn cứ vào việc họ đã vượt qua cơn thử thách hay buông xuôi bỏ cuộc
Cuộc đời Đức Giêsu không thiếu những cơn cám dỗ, có lúc nhất thời, có khi dai dẳng. Những cơn cám dỗ ấy hoặc đến từ ma quỷ, hoặc từ người ta, hay có khi lại ngay trong bản thân Người.
Tin mừng hôm nay thuật lại các cơn cám dỗ từ ma quỷ: Chúng dụ dỗ Ngưòi biến thành bánh mà ăn, vì Người đã ăn chay ròng rã bốn mươi đếm ngày. Chúng khiêu khích Người hãy gieo mình xuống từ nóc cao đền thờ. Chúng hứa cho Người vinh hoa lợi lộc các nước, nếu Người sấp mình bái lạy chúng. Cuối cùng, Đức Giêsu đã oanh liệt chiến thắng các cơn cám dỗ ấy, nhờ trưng dẫn các câu Kinh Thánh. Thật vậy, cám dỗ nào cũng bị Người đánh bại bởi các lời Kinh thánh.
Kinh thánh chính là khiên thuẫn cho người tín hữu trong mọi cơn cám dỗ. Một khi Lời Chúa đã thấm nhiễm vào con tim, khối óc, và toát ra trong các hành vi người tín hữu, trhì không một cơn cám dỗ nào mà họ không thể vượt qua, không một thử thách nào mà họ không lướt thắng.
Cám dỗ nào cũng dẫn chúng ta đến một chọn lựa. Hoặc là chọn Thánh ý Chúa hoặc là chọn chính mình. Người không có Lời Chúa hướng dẫn, thường hay chọn mình lắm: họ chọn danh vọng cho mình, giàu sang cho mình, khoái lạc cho mình. Khi “cái tôi” đã đầy ứ trong lòng thì Thiên Chúa phải đội nón ra đi.
Đức Giêsu đã không thể thắng các cơn cám dỗ, nếu Người chỉ qui hướng về mình. Người sẽ thua ma quỷ nếu Người tìm vinh danh mình khi hóa đá thành bánh, Người sẽ bị sập bẫy Satan khi nhảy xuống từ nóc cao đền thờ để được khen ngợi tung hô. Người sẽ thất bại thảm thương khi quỳ lạy ma quỷ để được vinh hoa thế gian. Nhưng không, không bao giờ Người làm thế, vì tinh thần chủ đạo của Người, vũ khí sắc bén của Người chính là: “Thánh Ý Chúa”. Người suy nghĩ, nói năng, hành động bất cứ điều gì cũng là để theo Thánh Ý Cha. Chính trong cơn cám dỗ khốc liệt nhất của Người trước cái chết, Người cũng chỉ thốt lên: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà theo ý Cha” (Mt 26,39).
Muốn vâng theo ý Cha, cần phải cầu nguyện và ăn chay, hy sinh và hãm mình. Trước khi chịu ma quỷ cám dỗ, Đức Giêsu đã chẳng ăn chay, cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày đó sao?
Mùa chay là mùa dọn mình để chiến đấu với các cơn cám dỗ. Cám dỗ từ ma quỷ, từ nơi người khác, và nhất là từ ngay chính bản thân. Có bao nhiêu giác quan là có bấy nhiêu cửa ngõ cho cám dỗ đi vào.
Nếu so sánh vũ khí để chiến đấu với cơn cám dỗ là “cung và tên” thì “cung” chính là lòng khiêm tốn nhận mình yếu hèn cầu nhờ ơn Chúa, và “tên” chính là ý chí cương quyết nói “Không” trước cơn thử thách. Trong các kế sách để thắng cám dỗ chỉ có duy nhất một diệu kế. Đó là kế “Đào vi thượng sách”.
Dù bầu trời đen mênh mông bao trùm địâ cầu, thì trong một bờ đá nào đó, canh hoa mảnhmai vẫn hồn nhiêu nơ trong đêm khuya. Canh hoa mỏng manh là thê mà sao dũng mạnh hơn tâm hồn chúng ta nhiều quá! nếu hoa lá là ngôn sứ của thiên Chúa, thì sứ điệp của chúng là: Hãy mềm mại để cho Lời Chúa đưa chúng ta vượt qua đêm mưa bão của cám dỗ, thử thách. Và ngày mai trời lại sáng.
***
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có những kinh nghiệm của những sa ngã tồi tệ. Sa ngã này chưa vực dậy được, thì sa ngã khác lại vùi dập chúng con xuống.
Xin cứu giúp chúng con và ban cho chúng con tình thần kiên vững của Đức Kitô, luôn sống theo Lời Chúa và tuan theo Thánh ý Người. Amen.
An Phong
Lời Chúa hôm nay đưa chúng ta về nguồn cội của thân phận con người: tội lỗi. Nguyên tổ Adong, Evà đã sa chước cám dỗ của Satan, và tội lỗi đã đột nhập vào thế gian. Chính đó là nguyên nhân của biết bao khốn cực trong cuộc sống nhân loại: “Chỉ vì một người, tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (bài đọc 2).
Nhưng Lời Chúa hôm nay không dừng lại ở vấn đề tội lỗi, mà muốn trình bày cho chúng ta biết Ơn Cứu độ trong Đức Giêsu Kitô… “… nhờ một người thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa cho trở nên công chính, nghĩa là được sống” (Bài đọc 2).
Đây là một lời khẳng định có liên quan đến tất cả nhân loại: tất cả mọi người đều bị chi phối dưới quyền lực của tội lỗi; chỉ có một con đường giải thoát dành cho con người, đó là Ơn Cứu độ trong Đức Giêsu Kitô.
Con đường mà cả nhân loại đã đi và đã thất bại, thì nay chính Đức Giêsu đã đi lại con đường đó, con đường làm người, chấp nhận mọi tội lụy của con người; và Ngài đã chiến thắng cám dỗ của Satan.
Cám dỗ ngày hôm nay cũng vẫn còn đầy dẫy: đó là những cám dỗ của nẻo đường Satan, cám dỗ muốn theo cách thức của Satan để giải quyết cuộc đời mình, cám dỗ tìm niềm vui và sự thành đạt cuộc đời trong lạc thú, quyền lực và của cải.
Người kitô hữu chỉ có thể chiến thắng Satan khi hiệp thông vào cuộc chiến thắng của Đức Giêsu; nhờ tin vào sự hướng dẫn của Lời Chúa, trông cậy nơi quyền năng của Ngài, và hết lòng yêu mến phụng thờ Ngài: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”.
“Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa là Chúa của ngươi”. (Chúa Giêsu muốn nhắc nhủ người bị cám dỗ những lời này)
Hỡi con nhỏ của Cha
Cha ở đây, Cha đâu có bỏ con
Sao con kém tin thế!
Con đã quá tự phụ!
Con vẫn còn tin cậy ở con!
Nếu con muốn lướt thắng tất cả các chước cám dỗ,
Mà không sa ngã, không suy nhược,
Con phải ý thức rằng con chưa đủ vững mạnh,
Con phải để mình được dẫn dắt
như một trẻ nhỏ, hỡi con nhỏ của Cha!
…
Con phải rất bé nhỏ, hoàn toàn bé nhỏ
Vì Cha chỉ yêu thương những trẻ nhỏ.
Michel Quoist
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Chúng ta đã cùng với toàn thể Giáo Hội bước vào Mùa Chay Thánh hôm thứ Tư lễ Tro vừa qua. Khởi đầu Mùa Chay Thánh với việc xức tro. Cử chỉ bỏ chút tro lên đầu và vị chủ sự mời gọi: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”, Giáo Hội muốn mời gọi con cái của mình khiêm tốn và ý thức thân phận con người chẳng là gì cả, chỉ là bụi tro mà thôi.
Hôm nay, với Chúa Nhật I Mùa Chay, bài Tin Mừng thánh Mátthêu trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu vào hoang địa ăn chay và sau đó bị Ma Quỷ cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng.
Qua đó, Giáo Hội muốn nhắc cho con cái của mình là: hãy sám hối để bắt đầu bước vào hành trình tập luyện và chiến đấu thiêng liêng. Trong hành trình ấy, mẫu gương của Đức Giêsu trong sa mạc hôm nay được hiện lên như một động lực, điểm tựa cho mỗi chúng ta.
- Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu
Khi đón nhận thánh ý Thiên Chúa Cha qua việc vâng lời tuyệt đối khi nhập thể và nhập thế, Đức Giêsu đã trở nên Cứu Chúa của nhân loại. Vì thế, khởi đầu cuộc sống công khai, Ngài đã vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày, để tìm thánh ý Thiên Chúa Cha, hầu chu toàn ý định của Người. Sau khi chay tịnh, Đức Giêsu cảm thấy đói, vì thế, nhân cơ hội này, Ma Quỷ đã tiến đến và cám dỗ Ngài.
Cám dỗ đầu tiên mà Ma Quỷ tấn công Đức Giêsu chính là cám dỗ về của ăn nuôi thân. Lợi dụng lúc Đức Giêsu đói, Ma Quỷ đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn năm có một này, nên hắn đã tiến lại gần và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi!” (Mt 4, 3). Ma Quỷ thật tinh vi, nhưng Đức Giêsu đã không bị những thứ lương thực chóng tàn, mau hết làm cho Ngài sa ngã, vì thế, Ngài đã chiến thắng ngay từ cơn cám dỗ đầu tiên khi nói cho chúng biết lương thực của Ngài chính là làm theo ý Thiên Chúa Cha. Ngài nói: “Đã có lời chép rằng: ‘Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra’” (Mt 4,4).
Cơn cám dỗ thứ hai mà Ma Quỷ muốn tấn công chính là đề nghị Đức Giêsu sử dụng quyền lực. Vì thế, nó đã nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: ‘Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá’” (Mt 4,6).
Tuy nhiên, Ma Quỷ đã lầm khi tưởng rằng Đức Giêsu sẽ sử dụng quyền lực theo kiểu thế gian, để trổ tài theo ý của nó bằng những cú nhảy đẹp mắt, những pha ngoạn mục. Nhưng lại thêm một lần nữa chúng thất bại và chịu tác dụng ngược lại khi Đức Giêsu cho chúng biết rằng: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4, 7). Khi cám dỗ Đức Giêsu như thế, Ma Quỷ nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ mắc bẫy để sử dụng ý riêng của Ngài thay cho thánh ý Thiên Chúa Cha. Nhưng không! Đức Giêsu đã đi theo con đường khiêm tốn mà Chúa Cha muốn nơi Ngài.
Thất thế lần hai, Ma Quỷ vẫn chưa chịu thua, chúng tấn công lần thứ ba. Lần này chúng nhắm tới danh vọng. Ma Quỷ đã nịnh hót Đức Giêsu, và “đem Người lên một ngọn núi cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: ‘Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi’” (Mt 4, 8-9). Nhưng lần cuối cùng này chúng vẫn thất bại và chịu sự quở trách nặng nề của Đức Giêsu, đồng thời Ngài cũng xác định danh giới của chúng khi nói: “Xatan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: ‘Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi’” (Mt 4, 10).
Qua câu nói này, Đức Giêsu khẳng định thật rõ Ngài là Con Thiên Chúa, nên chỉ có bổn phận phục quyền và tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi.
Như vậy, cả ba lần cám dỗ, chúng đều lãnh nhận những thất bại. Nếu chúng tập trung vào: thú, lợi, danh, để hy vọng hạ gục được Đức Giêsu, để Ngài phải phục quyền chúng, và nhất là nó muốn phá vỡ chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, ý định đó đã không thành, vì Đức Giêsu đã lựa chọn con đường Thiên Chúa Cha muốn, đó là con đường tự hủy nhờ đức vâng lời.
- Ma quỷ cám dỗ chúng ta
Cơm, áo, gạo, tiền, vinh hoa, phú quý, quyền cao, chức trọng luôn gắn liền với thực tại của con người. Con người luôn hướng chiều về những điều đó vì mục đích sinh tồn của bản năng nơi loài thụ tạo. Vì thế, người ta chấp nhận và làm mọi cách để đạt được những mục đích trên.
Ma Quỷ là loài tinh quái, xảo quyệt. Nó đánh trúng tim đen của con người. Nó biết rất rõ nhu cầu và điểm yếu của chúng ta. Thực vậy, những nhu cầu như ăn uống, danh vọng, địa vị, chức quyền và sau cùng là tự phụ, khoe khoang, kiêu ngạo luôn theo sát mỗi người từ lúc sinh ra đến lúc nhắm mắt xuôi tay.
Cái quỷ quyệt của chúng là đưa ra những chiêu thức rất hấp dẫn, toàn là màu hồng để quyến rũ con người. Nhưng thực ra, những điều mà chúng cám dỗ ta chỉ là nửa sự thật mà thôi, chứ không phải sự thật tuyệt đối. Một khi con người sa lầy trước cám dỗ của nó, con người mới ngỡ ra là nó đã đưa mình vào những ảo vọng hão huyền.
Cách thức của chúng dùng chính là qua một trung gian, một cơ hội hay một sự vật:
Qua trung gian là con người, chúng tìm cách để người nào đó rủ rê dần dần ta phạm tội. Lúc ban đầu chỉ là những chuyện lặt vặt, nhỏ bé hằng ngày. Tuy nhiên, dần dà lâu ngày thành quen. Tội nhẹ, rồi dẫn đến tội trọng. Nay ăn cắp quả ổi là chuyện bình thường; ngày mai ăn chộm con gà cũng chẳng sao; ngày mốt lấy con trâu, rồi cuối cùng giết người cướp của.
Từ chuyện rất nhỏ, nhưng nó làm cho con người trai lỳ lương tâm và mất dần cảm thức về tội, nên chúng ta không lạ gì khi thấy nhiều người cứ nhởn nhơ trong vũng lầy tội lỗi mà vẫn tự hào mình là người tốt. Những người như thế, thường tìm mọi cách để ngụy biện cho hành vi sai trái của mình. Họ dùng những phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt. Họ sẵn sàng làm từ thiện để che lấp những tội ác như tham nhũng, bóc lột và buôn gian, bán lậu. Hay nói cách khác, họ dùng hình thức rửa tiền để che đậy những việc làm mờ ám của mình.
Thật vậy, là con người, ai cũng muốn có cơm no, áo ấm, rồi dần dần dẫn đến tình trạng ăn ngon mặc đẹp, tiếp theo chính là thỏa mãn xác thịt, ăn chơi trác táng và cứ như thế, chẳng mấy mà dẫn đến “Cực lạc sinh bi ai?”. Đây chính là cơn cám dỗ đầu tiên mà Ma Quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu.
Cơm cám dỗ thứ hai mà trước kia Ma Quỷ cám dỗ Đức Giêsu, thì ngày nay, nó cũng không buông tha chúng ta. Thật vậy, nó tấn công chúng ta về quền lực, vinh quang, phú quý để làm cho ta ra mê muội và tìm mọi cách để đạt được những điều ta muốn dù là bất chính.
Cám dỗ cuối cùng mà nó tấn công Đức Giêsu là tham lam, danh vọng. Ngày nay, nó vẫn thường cám dỗ chúng ta như thế. Nó đánh đúng sào huyệt tham sân si của con người, rồi sau đó, con người phải tôn thờ nó. Xin nhắc rằng, Ma Quỷ nó làm được nhiều thứ để cám dỗ con người, nhưng chỉ có một điều mà nó không làm được, đó là không cho con người được hạnh phúc thật và sự sống đời đời mà thôi.
Như vậy, Ma Quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu về 3 điểm, đó là: thú, lợi, danh. Đến lượt chúng ta, nó cũng không ngừng tấn công chúng ta về những điểm trên.
Nhưng, như Đức Giêsu đã chiến thẳng, còn chúng ta ngày nay thì sao? Mỗi khi đứng trước cám dỗ, chúng ta phải làm gì?
- Khi bị cám dỗ, ta phải làm gì?
Mỗi khi cám dỗ đến với chúng ta, xin hãy nhớ lại lời Đức Giêsu cảnh báo để thêm sự cẩn trọng, hầu không vì kiêu ngạo mà mắc vào cạm bẫy của chúng: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ” (Mt 26, 41). Hay Đức Giêsu nói với Phêrô về sự nguy hiểm của chúng: “Simon, Simon ơi, kìa Xatan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31). Và khi thánh Phêrô đã cảm nghiệm rõ nguy hiểm của Ma Quỷ, nên ngài đã cất lên lời khuyên nhủ: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì Ma Quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tiìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).
Nhiều người quá coi thường chúng nên dần đi vào con đường mà chúng vạch ra cho lúc nào không hay.
Thật vậy, có nhiều người vì ích kỷ, nên sinh ra cố chấp với anh chị em trong cộng đoàn, rồi kết cục bỏ Chúa và không tham gia sinh hoạt đoàn thể vì tính kiêu ngạo của mình. Những người như vậy, họ theo đạo vì ông này bà nọ, chứ không phải vì Chúa. Bởi vậy, khi họ có chuyện khúc mắc với anh chị em thì họ bỏ luôn Chúa, vì đâu biết rằng những người kia, họ chỉ là phương tiện, là cầu nối để ta gặp được Chúa, chứ không phải họ là Chúa. Đây là cách mà Ma Quỷ thường hay tấn công vào những người thiếu sự khiêm tốn, cố chấp.
Lại có những người luôn nghĩ mình là tốt lành, thánh thiện, nên không sợ gì sa ngã vào con đường tội lỗi, vì thế, họ không ngần ngại khi được bạn bè rủ rê đi vào chốn ăn chơi trụy lạc vì nghĩ rằng: tướng Quỷ cũng không bao giờ quyến rũ được mình. Tuy nhiên, biết bao người đã trở thành nô lệ của chúng chỉ sau vài cuộc ăn chơi. Riết thành quen, không đi thấy nhớ. Hay cũng có những người nghĩ rằng mình cũng cần phải thâm nhập thực tế để cứu giúp những người tội lỗi ra khỏi cuộc sống bê bối của họ, nhân danh việc tốt để dẫn đưa anh chị em thoát khỏi vòng tội lỗi, tuy nhiên, cũng lại không ít người đã thay đổi vai trò. Từ người cứu giúp chuyển dần sang thành người đi theo và cùng nhau phạm tội. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là chúng ta coi thường mối nguy hiểm của công việc và coi thường sự sự khôn ngoan, tinh xảo của Ma Quỷ.
Thấy được sự nguy hiểm này, nên Đức Giêsu mới dạy các môn đệ cầu nguyện trong kinh Lạy Cha: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, và trong kinh Ăn Năn Tội cũng có câu: “Nhờ ơn Chúa thì con sẽ tránh xa dịp tội”. Trong dân gian, trải qua cuộc sống, người ta đúc kết thành kinh nghiệm và khuyên: nếu lượng sức mà không vượt qua được thì hãy “đào vi thượng sách”.
Thực vậy, sức con người thì giới hạn, vì thế, không thể nào chống trả được những cơn cám dỗ. Nếu muốn chiến thắng, chúng ta phải cậy dựa vào ơn Chúa. Nói như thánh Phaolô: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4,13).
Khi chúng ta cậy dựa vào ơn Chúa và đi theo con đường của Chúa, chúng ta dùng chính võ khí của Đức Giêsu để chiến đấu. Võ khí đó là gì? Thưa! Đó là sự khiêm tốn và vâng lời, đơn sơ, chân thật. Mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Chúa là tồn tại, vì thế, phải cẩn trọng trong việc lựa chọn trước những trào lưu tục hóa như ngày nay. Đứng trước sự lựa chọn, thánh Phaolô đã cho chúng ta một kiểu mẫu: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi truyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô” (Pl 3, 8). Ăn chay, cầu nguyện và bố thí chính là xác định thật rõ về sự giới hạn của chúng ta với Đấng Tuyệt Đối. Ăn chay để hãm dẹp nết xấu và ý thức được thân phận mong manh của mình. Cầu nguyện chính là xin Chúa trợ giúp và cùng đồng hành với chúng ta để chúng ta chiến đấu chống lại Ba Thù. Bố thí chính là vượt ra khỏi sự ích kỷ vốn là mầm mống của tội lỗi, để sống hiệp thông, liên đới với anh chị em.
Lạy Chúa Giêsu, xưa kia Chúa đã chiến đấu và chiến thắng Ma Quỷ. Giờ đây, xin giúp chúng con chiến thắng được Ba Thù, để thuộc trọn về Chúa như Chúa thuộc trọn về Thiên Chúa Cha. Amen.
G. Nguyễn Cao Luật
Trình thuật về các lần cám đỗ được coi như phần mở đầu giúp người tín hữu hiểu được điều sâu kín nhất trong tâm hồn Đức Giêsu. Đó là một bản Tin Mừng thu gọn, một thứ hướng dẫn. Những ai muốn hiểu rõ về cuộc đời công khai của Đức Giêsu, cần phải để ý điều này: nếu muốn hiểu biết điều gì trong đó, hãy luôn nhớ lại 3 lựa chọn căn bản này của Đức Giêsu, những điều Người còn lựa chọn lại trong suốt cả cuộc đời.
Cuộc thử thách và lòng trung thành
Thời gian 40 đêm ngày Đức Giêsu trải qua trong sa mạc đánh dấu việc khởi đầu một cuộc phiêu lưu, cuộc phiêu lưu của Giao Ước Mới. Cuộc phiêu lưu này tái hiện quãng thời gian 40 năm dân Do-thái đã trải qua trong cuộc Xuất hành, đồng thời nhắc lại 40 ngày đêm ông Mô-sê đã ở trên núi Xi-nai.
Còn hơn thế nữa, khoảng thời gian này không chỉ là một cuộc khởi đầu, nhưng còn là một cuộc sáng tạo với những yếu tố như cuộc sáng tạo vũ trụ: sa mạc (miền đất trống rỗng, hoang vu), và sự thử thách.
Trong cuộc sáng tạo, A-đam đã phải chịu thử thách, đã đứng trước một lựa chọn, trong đó ông phải bày tỏ tự do của mình. Cũng vậy, với biến cố hôm nay, với cuộc thử thách và lựa chọn trong sa mạc, Đức Giêsu đã bày tỏ tự do của mình, đã thể hiện sự gắn bó với Thiên Chúa, và cho thấy bản tính sâu xa của Người: Con Thiên Chúa và Con Loài Người.
Thực vậy, sa mạc và thử thách luôn là những cơ hội để bày tỏ lòng trung thành hay thái độ bất trung (A-đam, sự kiện con bò vàng…). Lần đầu tiên trong suốt lịch sử cứu độ, Đức Giêsu thực hiện điều mà trước đây, cả A-đam lẫn ÍT-RA-EN không thể thực hiện: lòng trung thành với Thiên Chúa.
Nhờ sự trung thành với căn tính Con Người và Con Thiên Chúa, Đức Giêsu mở ra con đường cho Giao ước Mới, con đường đặt nền tảng trên lòng trung thành, một yếu tố mà con người có thể thực hiện được với nỗ lực và tự do của mình. Và lòng trung thành này được biểu hiện qua việc nhìn nhận Lời Chúa là của ăn, nhìn nhận thánh ý Chúa Cha có giá trị ưu tiên tuyệt đối, nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất.
Một cuộc chiến đấu
Con người vẫn thường nghĩ về Đức Giêsu như Đấng có uy quyền, Đấng bày tỏ các mầu nhiệm và thực hiện những điều lạ lùng. Về phần mình, Đức Giêsu lại đề ra một cuộc chiến đấu.
Quả thực, qua các cám dỗ tại sa mạc, Đức Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tính cách con người. Mặc dù có thể, Người đã không sử dụng các phép lạ cho riêng mình để loại bỏ đi những yếu tố vẫn gắn liền với thân phận con người.
Đức Giêsu muốn uống lấy chén đắng, Người muốn cứu nhân loại chứ không cứu lấy bản thân mình. Chính ý tưởng này còn đưa đến cho Người nhiều thử thách khác, không kém phần cam go, nhưng Người đã vượt qua. Thử thách cuối cùng là cái chết, Người cũng đã đón nhận, bởi vì Người hiểu rằng, chính trong tâm tình tự hiến vì yêu thương, Người nhận lấy vinh quang của cuộc chiến đấu, đồng thời đem lại vinh quang cho tất cả những ai bền lòng vững chí.
Suốt cuộc đời của Đức Giêsu là một cuộc chiến đấu liên lỉ chống lại sự dữ, chống lại quyền lực xấu xa đang đè nặng trên cuộc sống của con người. Người muốn giải phóng họ khỏi những quan niệm, những cách sống đang làm vướng bận mối tương giao của họ với Thiên Chúa, hay làm cho mối tương giao đó không được trong sáng, không đạt tới ý nghĩa thâm sâu. Chẳng hạn như sau khi chứng kiến phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng đã muốn tôn Người làm vua, nhưng Người đã lánh đi (Ga 6,15) hoặc khi Phê-rô lên tiếng can ngăn Đức Giêsu, xin Người đừng lên Giê-ru-sa-lem, Người đã không xiêu lòng trước thử thách, nhưng đã quyết liệt khước từ và nặng lời trách móc Phê-rô (x. Mt 16,23).
Như thế, Đức Giêsu không muốn sống an toàn, trái lại, Người lao vào một cuộc đấu tranh, chấp nhận những mất mát thua thiệt về phía mình, kể cả sự sống. Người hiểu rằng, để khai sinh một nhân loại mới, một ý nghĩa mới cho cuộc sống của con người, cần phải chiến đấu, phải hi sinh, phải liều lĩnh. Nếu không có can đảm vượt lên trên cái nhìn bình thường, vượt lên trên sự an toàn cho riêng mình, thì nhân loại không thể nào được cứu vớt, được giao hoà với Thiên Chúa.
Cuối cùng, cuộc chiến đấu này đã dẫn đưa Người tới cái chết trên thập giá, và Người đã chiến thắng nhờ sự Phục sinh. Sự kiện này cho thấy rằng cuộc chiến đấu của Người không phải là vô nghĩa, và con người có thể đạt tới chiến thắng vinh quang nhờ lòng trung thành, nhờ thái độ tuân phục thánh ý Thiên Chúa.
Vì vậy, xét theo cái nhìn bình thường, Đức Giêsu đã hành động như là không yêu mến con người; Người đã mở ra một cuộc chiến và mời gọi họ dấn thân, chứ không đem đến cho họ sự an toàn. Tuy nhiên, chính cuộc chiến do Đức Giêsu khởi đầu lại là con đường duy nhất để đạt tới vinh quang đích thực. Trong cuộc chiến đấu của mình, Đức Giêsu đã liên đới với tất cả những người đau khổ, liên đới với thân phận làm người của nhân loại; Người hành động như thế vì yêu mến họ, yêu mến cách tận tình, muốn đưa họ tới sự sống chân thật. Bình an do Đức Giêsu đem đến là bình an được chiếm đoạt bàng sức mạnh, bằng sự trung tín với Lời Chúa.
Chiến dấu từng ngày và suốt đời
Ba cám dỗ, hay ba chọn lựa, vẫn thường xảy ra trong suốt dòng lịch sử. Mỗi người sẽ gặp phải những thử thách và họ sẽ ngã gục như A-đam và dân It-ra-en, nếu họ không nhìn vào Đức Giêsu, và không noi theo gương của Người.
Cuộc chiến đấu ấy, thử thách ấy vẫn diễn ra cách này cách kia theo nhiều hình thức khác nhau; mỗi thời mang một vẻ khác, mỗi giai đoạn lại có vẻ tế nhị hơn, quyết liệt hơn, nhưng bao giờ cũng vẫn là sự chọn lựa giữa Thiên Chúa và trần gian. Đó là một cuộc chiến đấu dài, rất dài, không bao giờ chấm dứt; người ta phải chiến đấu đến giây phút cuối cùng, mà không được quyền bỏ cuộc, rút lui.
Vậy, đâu là những thử thách vẫn thường xảy ra và không khi nào Đức Giêsu nhượng bộ?
Thứ nhất: Con người được dựng nên không phải chỉ vì những lương thực trần gian. Họ còn có những lương thực thiêng liêng và chính thứ lương thực này mới cần thiết.
Thứ hai: Con người được dựng nên không phải để cảm nghiệm về Thiên Chúa mà thôi. Họ cần phải hiệp thông với Người, như một đứa con, với lòng tin tưởng tuyệt đối. Đó không phải là mối tương giao đặt nền tảng trên lòng yêu mến. Họ ở trong Người, không một chút nghi ngờ, không một khoảng cách.
Thứ ba: Con người được dựng nên không phải để thống trị anh em mình, không phải để bắt người khác thần phục mình. Trái lại, mọi người đều là con một Cha; tất cả đều quy hướng về Thiên Chúa. Hơn nữa, họ không được dựng nên để phục lạy các ngẫu tượng, nhưng là để thờ phượng Thiên Chúa:
Như vậy, vấn đề được đặt ra chính là căn tính của con người. Họ được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi và Ba Ngôi Chí Thánh không ngừng làm cho họ nên giống hình ảnh của Người. Đó là chương trình đã có từ thời sáng thế, và hôm nay vẫn đang được thực hiện. Chương trình này vẫn đang bị đe doạ vì những ham muốn chống đối của con người, và Thiên chúa không ngừng bày tỏ lòng yêu thương của Người:
Chính trong việc cử hành Thánh Thể,
Đức Kitô ban mình làm lương thực để nuôi sống con người.
Đức Kitô xoá tan mọi khoảng cách và nghi ngờ,
Ngài đến ở với chúng ta qua việc rước lễ.
Đức Kitô quỳ gối trước mặt chúng ta,
rửa chân cho chúng ta,
biến chúng ta thành một dân biết phục vụ,
sắn sàng quỳ gối để rửa chân và giúp đỡ người khác.
Con người không được dựng nên cho riêng mình. Cộng đoàn ngày Chúa Nhật là cơ hội để chúng ta thấy rõ căn tính của mình. Trong cộng đoàn này, chúng ta chia sẻ với nhau những thành quả do cuộc chiến đấu của Đức Kitô, đồng thời trở nên hình ảnh của Thiên Chúa.
Đi vào Mùa Chay
là cùng với Đức Kitô
lao vào cuộc chiến đấu.
để bày tỏ lòng trung thành
đặt nền tảng trên Lời Chúa.
Trầm Thiên Thu
Bốn Mươi Ngày Ăn Chay Và Khấn Nguyện
Trọn Cuộc Sống Biến Đổi Để Hoàn Lương
Cuộc đời luôn có nhiều thứ cạm bẫy, loại nào cũng nguy hiểm, mặc dù có vẻ rất bình thường: Tiền tài, danh vọng, chức tước, địa vị, quyền hành, nhục dục,… Đa dạng cạm bẫy, đủ thứ mưu ma chước quỷ. Cái bẫy tinh vi là sự cám dỗ.
Cái gì cũng có nguyên nhân, nguồn gốc, hoặc xuất xứ. Có thể nói rằng cám dỗ đến từ ánh mắt. Con mắt là cửa sổ tâm hồn, nhưng cũng chính cái “cửa sổ” ấy có thể khiến người ta gặp nguy hiểm, thậm chí nó có thể khiến chúng ta “trắng tay” – nghĩa đen và nghĩa bóng, dẫn tới chốn diệt vong đời đời.
Chúa Giêsu nói rằng con mắt là đèn của thân thể, mắt sáng thì toàn thân cũng sáng, mắt xấu thì toàn thân cũng tối. (x. Mt 6:22; Lc 11:34) Quả thật, mắt là “đầu mối” của tham-sân-si. Chỉ vì nhìn không khéo mà bị người khác cho là “nhìn đểu,” thế là xảy ra cãi vã, ẩu đả, thậm chí là án mạng. Xã hội ngày nay có những vụ án mạng rất lãng nhách, từ chuyện chẳng đáng gì.
Chuyện cám dỗ cũng tương tự. Nói theo ngôn ngữ bình dân, cám dỗ là “dụ khị” hoặc lừa dối. Người cám dỗ sử dụng động thái hoặc lời đường mật khiến người khác mắc lừa mà sa ngã. Vật cám dỗ không dụ dỗ nhưng nó có ma lực khiến người ta mắc bẫy hoặc “chết” mà không biết. Tất nhiên, các chước cám dỗ cũng có những mức độ khác nhau, và lúc nào cũng có – dù ngày hay đêm. Chỉ lơ là một chút thôi sẽ “sập bẫy” ngay. Cám dỗ rất tinh vi, có khi khó nhận ra, đến khi biết thì… muộn mất rồi!
Chiến đấu với cơn cám dỗ là chiến đấu với ba thù, ma quỷ và thế gian dễ tránh hơn chính mình – “nội gián” đáng sợ, và là cuộc chiến cam go nhất. Tuy nhiên, vẫn phải cảnh giác cao độ vì ma quỷ không bao giờ nghỉ ngơi, luôn rình rập. Thánh Lê-ô Cả nói: “Tên cám dỗ lúc nào cũng tỉnh táo, khai chiến thật dữ dội để chống lại những người hắn thấy rất cẩn trọng tránh tội.” Cái gì cũng có nguyên nhân, sập bẫy cũng vậy: con chuột sập bẫy chỉ vì tham miếng ăn. Còn con người, tại sao bị sập bẫy đời?
- THIẾU NỖ LỰC
Nỗ lực rất cần thiết, nỗ lực để vượt lên chính mình. Không nỗ lực, không thể thành công. Thánh Phaolô khuyên: “Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng!” (Ep 4:26) Ngày xưa, trên hành trình về Miền Đất Hứa ròng rã suốt 40 năm, Dân Chúa đã phải cảnh giác cao độ trước những thứ cám dỗ không ngừng. (x. Đnl 8:7-20) Và chính Chúa Giêsu cũng đã căn dặn: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ.” (Mc 14:38; Lc 22:40; Mt 26:41a) Tại sao? Lý do rất đơn giản: “Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26:41b; Mc 14:38) Thật vậy, phàm nhân chỉ là bụi tro, mau tan như hạt sương, rất yếu đuối, bạc nhược và khốn nạn, ấy thế mà lại rất “chảnh,” cứ tưởng mình là “số dzách,” ngang hơn cua bò, có thể “nổi loạn” bất kỳ lúc nào. Ôi, lạy Chúa, thật là kinh khủng!
Chỉ là “ác phẩm của nghệ nhân điêu khắc mà dám chống lại người tạo nên mình. Rõ là gan cóc tía, quá sức liều! Chúng ta không chỉ có Sinh Hồn như cỏ cây (sống và động), có Giác Hồn như động vật (biết đau, biết buồn, biết yêu, biết ghét,…), mà đặc biệt hơn cả là có Linh Hồn, biết lành biết dữ. Triết học cũng phải công nhận rằng “con người là sinh vật cao cấp nhất” trong các loài. Nhờ linh hồn mà con người trở nên “cao cấp,” mà chính linh hồn đó là tặng phẩm vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2:7) Ngài là Thiên Chúa duy nhất, không có thần linh nào quyền năng như vậy, mà có là thần linh thì cũng vẫn là thụ tạo của Ngài.
Thiên Chúa hoàn tất mọi thứ rồi mới tạo dựng con người, Ngài chuẩn bị mọi thứ để cho con người tận hưởng. Ngài trồng một vườn cây ở Ê-đen (Vườn Địa Đàng, Thiên Thai) ở phía Đông, rồi Ngài đặt vào đó chính con người mà Ngài tạo nên. Ngài khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, là cây cho biết điều thiện và điều ác. Ngài tạo dựng con người có hai giới tính: nam và nữ. Họ không chỉ được tận hưởng mọi thứ và có quyền trên mọi loài khác, mà họ còn được tận hưởng niềm hạnh phúc do kết hợp âm dương, và đó cũng là cách cân bằng giới tính. Vậy mà con người vẫn chưa thỏa mãn, vẫn ham hố, tham lam, tranh giành, và tìm cách nổi loạn.
Loài rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật mà Thiên Chúa đã làm ra. Nó là hiện thân loài quỷ dữ. Nó ghen ăn tức ở với con người, thế nên nó “dụ khị” người đàn bà: “Có thật Thiên Chúa bảo các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” (St 3:1) Người đàn bà thản nhiên nói với con rắn: “Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: ‘Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết.” (St 3:2-3) Con rắn thẳng thắn nói với người đàn bà: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” (St 3:4-5) Thật là ranh ma, quỷ quyệt! Nói ngọt như mía lùi như thế nên nghe lọt tận xương. Và điều gì sẽ xảy ra thì cũng đã xảy ra như một hệ lụy tất yếu.
Có lẽ thực sự có lý khi người ta bảo “gái tai, trai mắt.” Đàn ông là sóng cồn, còn phụ nữ là sóng ngầm nên khó tránh hơn. Cuộc đời có sự-cám-dỗ-dây-chuyền: Ma quỷ è Đàn bà è Đàn ông. Eva “chết” vì lời đường mật của ác quỷ, Ađam “chết giấc” vì lời năn nỉ của người đẹp Eva, (St 3) Samson “xiêu lòng” vì lời nỉ non của ác phụ Đalila. (x. Tl 16:4-21) Thật là “rợn tóc gáy” khi Kinh Thánh cho biết điều này: “Không vết thương nào sánh nổi vết thương lòng, không sự dữ nào bằng sự dữ do đàn bà gây nên, không độc ác nào bằng độc ác của người phụ nữ.” (Hc 25:13)
Nghe con rắn xúi giục rất bùi tai, lại nhìn thấy trái cây có vẻ ngon lắm, bà Eva không thể kềm lòng nên hái ăn ngay. Ăn thấy ngon, bà đưa cho chồng. Ông Ađam nghe vợ năn nỉ ỉ ôi quá nên cũng ăn cho vợ vừa lòng. Trái đó nhìn rất bắt mắt, nhưng ăn trái đó rồi thì bà “khôn ra” thật. Và rồi y như rằng, mắt cả hai người mở ra tròn vành vạnh, sáng như đèn cao áp, họ mới giật thót và bỗng dưng thấy mắc cỡ vì nhận biết mình trần truồng. Đúng là khôn hẳn ra. Cái miệng hại cái thân. Muộn mất rồi! Họ hết hồn hết vía, luýnh quýnh chạy đi lấy lá vả kết làm khố che thân. Đoạn phim thú vị thật, có lẽ đây là đoạn phim độc nhất vô nhị và hay nhất từ thuở hồng hoang cho tới kỳ tận thế chăng? Rất có thể như vậy.
Mệnh danh là “mẹ của chúng sinh,” (St 3:20) bà Eva là Bà Tổ. Bà có cái nickname đó là do chính ông Ađam đặt cho, có lẽ ông đề cao vợ quá nên mới đề cao bà xã như vậy. Chúng ta là hậu duệ nên cũng bị “di truyền” gen ác nghiệt là Tội Nguyên Tổ. Cũng đành chịu vậy thôi, bởi vì tội lỗi cũng có tính liên đới: cha mẹ phạm tội thì con cái cũng chịu hậu quả. (Ed 18:5-13) Ngoài tình trạng di truyền, hằng ngày chúng ta còn dám liều mình “coi trời bằng nắp bia” nên phạm tội cứ như tằm ăn dâu vậy. Khiếp thật! Và cũng vì thế mà chúng ta phải đêm ngày thú tội và hết lòng van xin: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử.” (Tv 51:3-6) Quả thật, “lỗi tại tôi mọi đàng” chứ chẳng dính líu tới ai!
Cuộc đời con người cũng như máy móc, cứ phải tân trang nhiều lần – hết tiểu tu, trung tu, rồi đại tu, thế mà vẫn xục xịch. Chúng ta cứ hứa rồi quên, quyết tâm chừa rồi lại tái phạm. Trái tim của chúng ta cứ sửa tới sửa lui, rửa bằng đủ loại thuốc tẩy mà vẫn không ổn. Chán lắm! Chỉ có Chúa mới có thể điều chỉnh nó. Do đó, chúng ta vẫn phải kiên trì mà năn nỉ Ngài: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con.” (Tv 51:12-14) Chỉ có vậy mới hy vọng được cứu độ. Và chắc hẳn ai cũng chỉ mơ ước được như vậy, đó là mục đích nhắm tới mà cố gắng ‘’sửa chữa” không ngừng.
Hằng ngày, trong các giờ kinh nhật tụng, Giáo Hội vẫn cầu xin: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.” (Tv 51:17) Mỗi chúng ta cũng phải cầu xin như vậy, nhất là mỗi sớm mai, thức dậy và khởi đầu một ngày mới với nhiều thứ phải chiến đấu.
- THIẾU CAN ĐẢM
Can đảm là dám đương đầu với mọi thử thách. Rất cần can đảm. Người can đảm cũng là người tự tin, nhưng phải cậy nhờ ơn Chúa chứ không thể ỷ lại vào sức mình. Ngày xưa, Napoléon Đại Đế là người đã từng chinh Nam phạt Bắc thế mà còn phải thốt lên: “Chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình.” Thánh Phaolô cũng đã thú nhận: “Tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm.” (Rm 7:15) Thật vậy, không ai có thể nói khôn. Chưa bị cám dỗ thì chưa thể nói mình hay hoặc mạnh. Chưa có dịp phạm tội thì đừng vội tưởng mình đạo đức. Có cơn cám dỗ mà không chiều theo nó thì mới là người hay, người giỏi, đạo đức, thánh thiện – đặc biệt là khi chỉ có một mình. Đừng vội trách những người phạm tội. Chúng ta PHẢI ghét tội và cương quyết chống lại tội chứ KHÔNG GHÉT người sai lầm, tội lỗi.
Sự can đảm (dũng cảm, dũng khí) càng cần hơn trong hành trình sám hối Mùa Chay, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta về cách so sánh của Thánh Phaolô: “Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội. Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật, thì tội không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Ađam đến thời Môsê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Ađam đã phạm. Ađam là hình ảnh Đấng sẽ tới.” (Rm 5:12-14) Can đảm để vươn lên, trước tiên là vượt qua chính mình, chiến thắng các thói hư và tật xấu – kể cả các thói quen không tốt hằng ngày về vệ sinh, ăn uống, sinh hoạt,…
Chính khách Winston Churchill (1874-1965, thủ tướng Anh) nói: “Thành công không phải là cuối cùng, thất bại không phải là chết người, vấn đề quan trọng là can đảm tiếp tục.” Có vẻ rất ư bình thường mà lại rất khác thường.
Tuy Ông Tổ Ađam nghe vợ mà phạm tội bất tuân, nhưng ông lại là hình ảnh liên quan Đức Kitô. Thật là kỳ diệu, thế nên Giáo Hội vui mừng thốt lên trong bài Exultet: “Ôi, tội hồng phúc!” Tội lỗi mà lại hóa ơn phúc. Giả sử ông Ađam không nghe vợ “dụ khị” thì chúng ta đâu được Chúa Giêsu đến thế gian làm người để đồng lao cộng khổ với chúng ta, và làm gì chúng ta diễm phúc được ăn Thịt và uống Máu Đức Kitô qua Bí tích Thánh Thể? Thánh Ý Thiên Chúa thật quá mầu nhiệm, chúng ta không bao giờ có thể hiểu nổi. Xin tạ ơn Thiên Chúa!
Có cách so sánh tỉ mỉ nên có vẻ dài dòng một chút, Thánh Phaolô cho biết thêm: “Nhưng sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người. Ơn Thiên Chúa ban cũng khác với hậu quả do một người phạm tội đã gây ra. Quả thế, vì một người duy nhất phạm tội, con người đã bị xét xử để phải mang án, còn sau nhiều lần sa ngã thì lại được Thiên Chúa ban ơn cho trở nên công chính. Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính thì sẽ được sống và được thống trị.” (Rm 5:15-17) Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là tuyệt đối, bất biến, vĩnh viễn.
Trải dài và xuyên suốt lịch sử của Giáo Hội, chúng ta thấy hầu hết các thánh đều có một quãng đời tối tăm, thậm chí rất tội lỗi, nhưng sau khi “sáng mắt” thì cũng “sáng lòng,” họ quyết tâm hối cải và sửa chữa, quyết không lăn vào vết xe cũ, nhờ đó mà họ đã nên thánh ngay từ đời này. Quả thật, con-đường-tội-lỗi-và-thứ-tha là con đường mà mọi phàm nhân đều đi qua để có thể đến với Đức Kitô, Đấng-Tử-Nạn-và-Phục-Sinh. Chắc hẳn chúng ta cũng đã, đang và sẽ như thế. Nhân vô thập toàn, phạm tội là điều không tránh khỏi, ví như một “quyền” của phàm nhân vậy. Tại sao chúng ta sa ngã? Đó là để “sức mạnh của Đức Kitô được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.” (x. 2 Cr 12:9) Thực sự là một mầu nhiệm mà chúng ta không thể hiểu hết.
Cuối cùng, Thánh Phaolô kết luận: “Tóm lại, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.” (Rm 5:18-19) Chúng ta chẳng làm được gì nếu không có Đức Kitô. (x. Ga 15:5) Vì thế, chúng ta có thể nhờ Đức Kitô mà nên công chính, mà nên công chính thì được cứu độ. Thật là trên cả tuyệt vời, hoàn toàn hợp lý.
Trình thuật Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu kể về ba chước cám dỗ mà Chúa Giêsu đã chịu: Ăn uống, kiêu ngạo, và danh vọng. Đó là “tam độc” hoặc các “mối tội” như những trái phá cực mạnh, vô cùng nguy hiểm, có thể khiến người ta thất điên bát đảo, quay cuồng như chong chóng.
Hôm đó, chính Đức Giêsu đã được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay ròng rã, Ngài cũng cảm thấy đói theo nhân tính như phàm nhân chúng ta. Phàm nhân là vậy, con người chỉ thế thôi!
Trước tiên, tên cám dỗ đến gần Chúa Giêsu và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” (Mt 4:3) Đúng là láo toét! Thế nhưng Ngài nói thẳng với nó: “Đã có lời chép: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4:4; Lc 4:4; Đnl 8:3)
Ai trong chúng ta cũng biết rằng ăn uống là thứ hàng đầu trong “tứ khoái” của con người. Khi đói, người ta có thể trộm cướp và dám sát hại người khác để mình có cái ăn. Đó là phản xạ sinh tồn. Khi đói ngấu, Thằng Bờm chẳng cần gì khác, dù là của cải quý giá, mà chỉ cần nắm xôi để giải quyết cái bụng đang “gõ lô tô” mà thôi. Miếng ăn rất thực tế. Tuy nhiên, cũng vì “cái thực tế” đó mà người ta tranh giành nhau, không ngừng tranh chấp và chiến tranh, bao nhiêu tệ nạn như cướp của, giết người, lừa đảo, áp bức,… cũng chỉ vì người ta “sợ đói” đấy thôi. Miếng ăn có thể là miếng cao quý, nhưng cũng có thể là miếng tồi tệ. Chiến thắng cái đói là vượt qua chính mình, ăn chay là để kiềm chế nhục dục, chiến thắng chính mình, không cho “cái tôi” manh động.
Tuy nhiên, có lẽ cũng nên “hiểu rõ” một chút: ăn chay không phải là để dành phần đó cho bữa khác, mà là để chia sẻ cho người nghèo hơn mình. Đó mới là cách thực thi bác ái – đặc biệt là trong Mùa Chay. Chuyện nhỏ mà là chuyện to. Có lẽ vấn đề này thường không được thực hiện đúng mức theo ý muốn của Giáo Hội.
Thua keo này bày keo khác. Quỷ mưu mô đưa Chúa Giêsu đến thành thánh, đặt Ngài trên nóc đền thờ, rồi nó dụ dỗ: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.” (Mt 4:6) Ngài cũng “chỉnh” nó ngay lập tức: “Nhưng cũng đã có lời chép: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” (Mt 4:7) Quỷ lại bị thua, 2–0.
Chắc chắn ai cũng yêu chính mình. Yêu mình là tự bảo vệ mình, để sinh tồn. Đó là điều tốt. Nhưng nếu yêu mình quá thì lại là xấu, vì đó là tự ái (tự yêu mình thái quá). Người ta tự ái vì đề cao “cái tôi” của mình, luôn cho mình là “cái rốn của vũ trụ,” là “bách khoa tự điển,” là “người có cả bụng chữ,” là siêu nhân thông thái,… Điều này liên quan tính kiêu ngạo (kiêu căng, ngạo mạn, tự phụ,…), đồng thời cũng liên quan tính ích kỷ – vị kỷ (vì mình) chứ không vị tha (vì người khác). Một chuỗi liên đới xấu xa, đậm chất tội, rất nguy hiểm. Kiêu ngạo là tính xấu đứng đầu trong bảy mối tội. Thật là khủng khiếp!
Chắc chắn nó cay cú lắm, nhưng chưa chịu bỏ cuộc. Nó lại đem Ngài lên một ngọn núi rất cao, chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thế gian và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, nó huênh hoang nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” (Mt 4:9) Đúng là “điếc không sợ súng.” Chó mà đòi chạy trước hươu. Và Chúa Giêsu liền nghiêm giọng: “Satan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” (Mt 4:10) Quỷ thua trắng, 3–0. Nó đành “ngậm bồ hòn làm ngọt” và xấu hổ muốn độn thổ, rồi đành cụp đuôi bỏ người chạy lấy của. Các sứ thần tiến đến hầu hạ Ngài.
Cuộc sống luôn có nhiều thứ “bả” khiến người ta sập bẫy. Nào là vật chất, danh vọng, địa vị, chức tước, quyền bính,… Trong xã hội đời thường đã đành, trong sinh hoạt tôn giáo cũng vẫn “cám dỗ” người ta mê muội, muốn được nổi trội hơn người khác, họ tranh giành và thách thức đủ dạng. Cả trong xã hội và Giáo Hội cũng vẫn có những người dùng vật chất để lũng đoạn một cách rất tinh vi, khó có thể nhận ra. Người ta “che đậy” và “biện minh” bằng nhiều chiêu bài nghe rất kêu, và xem chừng cũng rất đậm tính bác ái. Thế nhưng, nếu can đảm xét cho cùng thì chỉ là “sáng danh con” hơn là “sáng danh Chúa,” thậm chí có khi Chúa cũng chẳng “xơ múi” được gì! Ngày xưa người ta “mua chức quyền” theo kiểu “mộc mạc” nên dễ nhận ra, ngày nay người ta “mua chức quyền” theo lối rất tinh vi nên khó có thể nhận ra. Lộng giả thành chân.
Xét theo thế gian thì thất vọng lắm. Tuy nhiên, với ơn Chúa thì chúng ta có thể chiến thắng tất cả, nhưng phải thực sự kiên trì và cố gắng chiến đấu không ngừng thì mới có thể chiến thắng 3 “mối tội” đó. Và như vậy là chúng ta chiến thắng chính mình, là “chết” cho tội, là “xé lòng,” và là giữ chay. Nhờ đó mà chúng ta có thể được công chính hóa. Ai nên công chính thì được cứu độ, tức là nên thánh: “Ai cùng chết với Đức Kitô thì cũng được sống lại với Người.” (x. Rm 6:4-5) Sống lại với Chúa để được hưởng phúc vĩnh sinh, chứ không để chịu án phạt đời đời.
Tất cả là hồng ân. Thánh LM TS Thomas Aquinas (1225-1274) cho biết: “Chúng ta không có quyền đòi hỏi, nhưng phải nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bền đỗ, nhận ra những ai là người mà chúng ta phải tránh là một phương thế quan trọng để cứu lấy linh hồn mình.” Không có Chúa, chúng ta chẳng làm được gì đâu! (x. Ga 15:5)
Có loại “bẫy” dễ bị sập vì nó vừa ngọt ngào vừa êm đềm, rất đáng sợ, đó là loại mà Thánh Catherine Bologna đề cập: “Đôi khi ma quỷ xúi giục các linh hồn HAM HỐ một nhân đức hoặc một việc đạo đức nào đó đến lạ kỳ, để họ thực hiện việc ấy cách cuồng nhiệt; rồi nó làm họ đâm ra CHÁN NẢN đến độ chểnh mảng với mọi sự vì mỏi mệt và ngao ngán. Chúng ta cần phải thắng vượt cả chiếc bẫy này lẫn chiếc bẫy kia.”
Lạy Cha hằng hữu, xin thêm lòng can đảm để chúng con đủ sức chiến thắng mọi cám dỗ, xin canh giữ để chúng con đừng bao giờ là cám dỗ người khác hoặc làm cớ vấp phạm cho tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Lm. Jos. DĐH
Có những nguyên lý xảy ra ở đời đáng để chúng ta phải suy nghĩ: tại sao đã giầu lại tham việc, có hay không kẻ thất nghiệp lại tham ăn ? Thật hư đến đâu mà lại có câu: ăn cơm thịt bò lo ngay ngáy, ăn cơm cáy ngủ ngáy o o ? Đúng hay không, khi nhiều người cho rằng: biết nhiều khổ nhiều, biết ít khổ ít ? Cũng không ít các đấng bậc vẫn quở trách con cháu: việc người thì sáng, việc mình thì quáng ! Thực ra đâu phải cứ người tài giỏi sẽ thành công, cũng chẳng căn cứ vào đâu để nói người ở miền quê luôn hiền lành chất phác hơn người thành thị ; cũng không thể cho rằng người giầu tiền lắm của là người hạnh phúc. Bằng chính kinh nghiệm của mình, chúng ta có thể quả quyết, không phải người tài giỏi, hoặc người khờ dại là người cần được kính trọng, quan tâm, đúng hơn, mọi người đều có trách nhiệm và bổn phận phải chiến thắng sự xấu, hầu góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình nhân loại.
Với cái nhìn chủ quan, nhiều người đã lên tiếng: Đức Giêsu có tội lỗi gì đâu mà cần phải tới hoang địa ? Đức Giêsu dư khả năng để trừ tà, diệt yêu quái ; hà cớ gì mà Thánh Thần lại dẫn vào sa mạc để chịu cám dỗ ? Cậy nhờ tình yêu Chúa, nhờ Thánh Thần hướng dẫn vào sa mạc gặp gỡ Chúa Cha, Đức Giêsu đã hiểu rõ hơn về thánh ý Cha. Chính tình hiệp thông, Đức Giêsu đủ sức đối phó và chiến thắng với tên cám dỗ: “có lời chép rằng, người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Chính nhờ hiệp thông cầu nguyện, các học trò Đức Giêsu có kinh nghiệm: sa mạc là nơi chốn cần thiết cho tương quan giữa con người với Đấng tạo thành trời đất muôn loài muôn vật.
Túng thiếu, cám dỗ, từ xa xưa đến nay ai chẳng dị ứng với chúng, dù mỗi gia đình, mỗi cá nhân, phải đối diện với khổ đau, chán nản, khác nhau. Rất nhiều người vẫn đang lý sự, tại sao Chúa Giêsu ở sa mạc năm xưa đã thắng ma quỷ, ngày nay con cháu không được Chúa bao bọc gìn giữ và Chúa khống chế tên cám dỗ để chúng không làm hại con người ? Mang bản tính người, Chúa Giêsu dư biết phận người yếu đuối, vật chất, tiện nghi, đều là nhu cầu thiết thực, nếu Chúa cất đi bệnh tật, hẳn con người sẽ hạnh phúc hơn không ? Cũng có lý lắm, nếu ai cũng giầu, và no đủ sự không ngoan, ai cũng cầu được ước thấy, hẳn thế giới xóm làng sẽ không còn ai trộm cướp gian tham bất công làm chi !
Thực ra, sa mạc là nơi lý tưởng nhất để cầu nguyện, gặp gỡ Thiên Chúa, sa mạc cũng là nơi nguy hiểm, vì thiếu cả tiện nghi vật chất, tinh thần, nên dễ rơi vào tình trạng cô đơn. Tên cám dỗ có thể tấn công vào sự đói khát của bất cứ ai: “nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi” ! Tên cám dỗ có thể đánh lừa chúng ta, kéo chúng ta xa Chúa, hoặc làm chúng ta hiểu lầm Chúa không phạt đâu, vì Chúa nhân từ. “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, gìn giữ bạn khỏi vấp chân vào đá”. Tên cám dỗ theo Chúa Giêsu vào sa mạc, chúng cũng sẽ theo từng học trò, từng tâm hồn những ai theo Chúa, và nếu Chúa Giêsu đã chiến đấu, chiến thắng, thì những ai tin và cậy dựa vào sức mạnh của Chúa, người ấy cũng chiến thắng.
Bước vào mùa chay, người tín hữu vẫn được nhắc nhớ mình là bụi tro, biết bao người vừa đi vừa chạy, nhưng đích điểm hạnh phúc lúc nào cũng là xa vời, nên ít nhiều chúng ta đã có kinh nghiệm về sự giới hạn bất toàn của mình. Trong khi đó, tên cám dỗ có mặt ở khắp nơi, từ em bé đến vị cao niên, tên cám dỗ có mặt ở nơi gia đình đạo đức, thì làm sao chúng buông tha các gia đình đang sống bê trễ xa Chúa. Cám dỗ nào cũng đáng sợ, dù là nghèo đói, sang giầu, trong khi đó ma quỷ luôn tìm cách kéo con người đi theo lối tắt đường vòng để xa Chúa lạc Chúa. Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ không phải bằng quyền năng, bằng thoả hiệp, hay bằng sự thinh lặng chịu vậy, Chúa chiến thắng ma quỷ tà thần bằng tình yêu, bằng sức mạnh của Thánh Thần, bằng sự vâng phục đức tin mà sứ mạng Chúa Cha uỷ thác.
Chiến thắng sự xấu, chiến thắng cám dỗ đó là ơn gọi mà Chúa Giêsu đi trước để dẫn dắt các học trò, và từng người tín hữu chúng ta tiến dần tới vinh quang hạnh phúc. Vào sa mạc cõi lòng, đến với tình yêu kết hiệp nên một trong Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu tiếp tục cho nhân loại biết rằng Ngài không chủ trương sống kham khổ, nhưng là tín thác trong cầu nguyện. Cha thánh Vianey trên đường về nhận nhiệm sở, ngài hỏi một em bé: đường đến nhà thờ ở đâu, chỉ cho cha với, rồi cha sẽ chỉ cho con đường tới thiên đàng. Em bé cười, đường tới nhà thờ không biết, làm sao cha chỉ đường tới thiên đàng ? Chiến thắng cám dỗ, chiến thắng sự xấu, tư tưởng xấu, bao giờ cũng phải nhờ cầu nguyện, là hiệp thông trong đức tin và đức ái. Chính tình yêu và niềm tin, ma quỷ không thể cám dỗ Đức Giêsu đi lối tắt đường vòng, đó cũng là phương thế hữu hiệu để minh chứng đường tình yêu và sống thánh ý Chúa Cha cách trọn vẹn nhất. Amen.
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Bài phúc âm hôm nay, thánh Mat–thêu nói đến những cám dỗ mà ma quỷ đã bày ra cho Chúa Giê-su. Cám dỗ của ma quỷ luôn lôi kéo Chúa Giê-su đi ngược lại với đường lối của Chúa Cha. Nó cám dỗ Chúa Giê-su thay vì thờ Chúa Cha thì cúi mình trước ma quỷ để thoả mãn cái bụng và nhu cầu cuộc sống. Nó cám dỗ Chúa Giê-su thoát ra khỏi ràng buộc của Chúa Cha để xưng bá và làm chủ mình. Nó cám dỗ để từ nay Chúa Giê-su không cần đi con đường mà Chúa Cha đã vạch ra mà tự đi, tự sống theo ý mình.
Chúa Giê-su đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ và còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì hiện hữu ở trần gian này đáng để con người phải cúi mình mà thờ lạy nó. Chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng cho con người tôn thờ. Và chỉ một mình Thiên Chúa mới làm chủ vận mệnh cuộc đời chúng ta. Nếu tự ra ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa con người sẽ sống trong sự dữ và hiểm nguy luôn rình chờ.
Mọi vật và mọi loài đều phải quy hướng về Thiên Chúa mới mong có một cuộc sống thanh bình hạnh phúc.
Chúng ta thử gẫm xem nếu trái đất không đi đúng quỹ đạo mà Thiên Chúa đã vạch ra cho nó? Thì đương nhiên sẽ là một chuỗi những va chạm của các thiên thể chung quanh trái đất và đương nhiên con người và mọi công trình do con người làm ra sẽ tan thành mây khói.
Chúng ta thử gẫm xem nếu con người không sống theo luân thường đạo lý là lương tâm ngay lành mà Thiên Chúa đã phú bẩm trong con người thì xã hội sẽ loạn lạc, đấu đá tranh hùng và huỷ diệt lẫn nhau.
Chúng ta thử nghĩ xem nếu con người cố tình phá huỷ công trình của Chúa để xây nên công trình của mình thì môi trường chúng ta có còn đáng sống hay chỉ là sa mạc khô cằn và sự chết tràn lan.
Và điển hình là những Virus dịch bệnh lan tràn đều là do con người đã đi theo ý mình để hại mình và hại người. . .
Và dường như những tai hoạ con người hôm nay đang phải gánh chịu hoàn toàn là do hậu quả của sự kiêu ngạo và loại trừ Thiên Chúa dẫn đến sự dữ khắp nơi tung hoành.
Giống như một gia đình cần phải có người cha làm chủ thì con cái mới hoà thuận và gia đình mới thịnh vượng, nếu không có người cha làm chủ thì làm sao gia đình yên bề gia thất? Chắc chắn anh em khó mà hoà thuận vì chẳng ai chịu lắng nghe nhau.
Thiên Chúa cũng như người cha trong gia đình. Chỉ có Ngài mới quán xuyến ngôi nhà vũ trụ này. Chỉ có Ngài mới có thể làm cho ngôi nhà vũ trụ ngày một thịnh vượng và giầu có thêm. Vắng bóng Ngài, hay loại trừ Ngài sẽ dẫn đến tai hoạ cho ngôi nhà chúng ta đang sống là vũ trụ này.
Khởi đầu mùa chay, chúng ta cần nhìn lại xem mình còn đi theo đường lối Chúa hay không? Thế giới đang bị tai hoạ nhiều vì đã phá huỷ công trình của Chúa, còn chúng ta có còn trung tín với giáo huấn của Chúa hay không?
Ở khởi đầu mùa chay, khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu chiến thắng ma quỷ cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Và qua gương Chúa Giê su, Giáo hội dạy chúng ta rằng: “Với ơn Chúa thì lời cầu nguyện và chay tịnh sẽ là khí giới giúp chúng ta chiến thắng được mưu mô của ma qủy. Xin Chúa là Đấng đã chiến thắng cám dỗ giúp chúng ta học nơi Chúa để sống quy phục Thiên Chúa và thực thi theo thánh ý Ngài. Amen
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần đưa vào hoang địa 40 mươi đêm ngày, chịu cám dỗ trước ba thử thách. Những điều đó nhắc nhớ lại dân Do Thái xưa đi trong hoang mạc 40 năm, cũng với ba cám dỗ chính yếu. Điều quan trọng muốn gợi lên, cách vượt qua những cám dỗ theo phương cách nào? Tự do vâng theo Ý Chúa hay theo cách của con người.
Tự do của con người.
Chúa Giêsu là người thật cũng như bao người, Chúa cũng chịu cám dỗ với những điều cơ bản: Bánh ăn – Quyền lợi – Của cải. Với dân Israel xưa:
Với bánh ăn, Chúa đã cho họ Manna là bánh bởi trời. Còn Chúa Giêsu nhắc lại cho con người nhận biết, “con người không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn bởi Lời Chúa” (Đnl 8,3).
Với quyền lợi, người Do Thái xưa trong hoang địa trách móc Môisê đã đưa họ vào nơi túng thiếu này. Họ kêu trách, đòi hỏi quyền lợi cho mình mà quên mất trách nhiệm của mình với giao ước Chúa đã ký kết và với việc Chúa đã giải thoát họ khỏi kiếp thân nô lệ. Con người thời nay của chúng ta cũng vậy, dựa vào khoa học, dựa vào những gì mình hiểu biết, quyền lợi. Thiếu trách nhiệm với nhau, với môi trường, với điều kiện quyền sống của mỗi người, đã giết chết nhau, giết chết Thiên Chúa để sống theo tự do của mình, thách thức Thiên Chúa. Chúa bảo: “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa là Thiên Chúa ngươi” (Mt 4, 7).
Với của cải, dân Do Thái xưa đúc con bê vàng để thờ kính nó thay vì Thiên Chúa của mình. Hy vọng đàn chiên bò sinh sôi nảy nở nhiều hơn, tài chánh thu tích nhiều hơn, cuộc sống trần thế bảo đảm hơn, không cần Thiên Chúa bảo trợ, con người tự quyết cho mình mọi việc. Chúa Giêsu nhắc lại điều quan trọng nhất: “Ngươi phải bái lạy một mình Thiên Chúa và thờ phượng một mình Người mà thôi” (Đnl 6, 13). Chúa Giêsu dạy cụ thể hơn: “Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, và sự công chính của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi” (Mt 6, 33).
Thái độ cần có để vượt qua cám dỗ:
Tinh thần nghèo khó: Nghèo khó ở đây không nói về vật chất của cải, nhưng muốn chỉ đến một tâm hồn phó thác, tùy thuộc vào Thiên Chúa. Chúa Giêsu, Người giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Để tội lỗi không làm chủ được chính mình, Chúa Giêsu muốn cho con người được biết việc đó cần phó thác và trông cậy vào Chúa, như cách sống tùy thuộc vào Thiên Chúa, vâng theo ý Chúa thay vì theo ý riêng mình. Thánh Augustine viết trong “Tự Thuật”: người ta thay vì “yêu Chúa quên mình”, người ta lại “yêu mình quên Chúa”.
Yêu mến Chúa trong con người yếu đuối của mình: Ai cũng mang thân phận yếu đuối, dễ phạm tội. Con người biết mình là đồ sành dễ vỡ, nhưng điều Chúa muốn cho con người luôn biết: trong bình sành dễ vỡ ấy chứa đựng biết bao hồng ân của Chúa, như Thánh Phaolô diễn tả: “Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành lọ đất, ngõ hầu quyền lực siêu vời kia thực rõ là của Thiên Chúa, chớ không phải xuất tự chúng tôi” (2Cor 4, 7). Trong kinh nghiệm đó, Thánh Phêrô trả lời với Chúa trong lần thứ ba Chúa hỏi: “Con có yêu mến Thầy không?… , Chúa biết con yêu mến Chúa với tất cả con người khiếm khuyết của con” (Ga 21, 17). Thành tâm, kiên nhẫn trong cầu nguyện, yêu mến Chúa trong mọi sự, kể cả trong yếu đuối, khiếm khuyết, tội lỗi của mình. Xin lòng Chúa xót thương!
Hy sinh – Hãm mình – bác ái: Đời sống của mỗi con người được mời gọi sống với, sống cho, sống vì anh chị em của mình. Chúa đến trong thân phận con người, Chúa cũng làm gương về lòng tận tụy, hy sinh, yêu thương mọi người. Chúa Giêsu phó dâng mạng sống mình: “Và vì chúng, Con xin hiến thánh mình Con, ngõ hầu chúng được tác thánh cách chân thật.” (Ga 17, 19). Đời sống bác ái là đời sống mở ra với người chung quanh, với những anh chị em cần đến sự trợ giúp của mình. Điều này mời gọi trước tiên với chính mình, đào luyện lòng nhân, đời sống nhân đức, sự thiện… để có cái cho anh chị em “vì không ai cho cái mình không có”.
Vào sa mạc, xin Chúa dạy chúng con sống nhờ vào Chúa, tùy thuộc vào Chúa. Chân thành cầu nguyện, kiên trì, yêu mến Chúa với tất cả con người khiếm khuyết của chúng con. Xin Chúa trợ lực cho chúng con khi tập luyện đời sống thiêng liêng, có những điều thiện hảo cần thiết để có thể đem trao cho anh chị em chung quanh.
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Người ta kể câu chuyện: Có một đạo sĩ tu thân tại một chiếc lều nơi hẻo lánh, và huấn luyện được một chú tiểu. Một ngày kia vị đạo sĩ phải xuống núi để hành đạo và dặn cậu học trò cố gắng tu luyện. Sau một thời gian, vì lũ chuột đến cắn phá đám áo quần nên chú tiểu này nghĩ rằng, mình phải nuôi một con mèo cho nó diệt chuột. Sau khi xin được con mèo về nuôi, chú tiểu chẳng có gì cho con mèo ăn, hằng ngày chú lại phải xuống chân núi xin ít sữa về nuôi con mèo. Sau một thời gian, chú thấy bất tiện quá bèn nghĩ: hay là mình nuôi một con bò để lấy sữa cho con mèo. Chú tiểu đã xin bà con dưới núi một con bò sữa về nuôi. Chú lại phải dựng một cái chuồng cho con bò, hằng ngày phải dắt con bò ra sườn đồi ăn cỏ, chiều đến lo vắt sữa cho con mèo. Thời gian tu luyện ngày càng ngắn lại và thời gian chăm sóc cho con bò và con mèo nhiều càng nhiều hơn. Sau đó vấn đề nảy sinh là, sữa bò nhiều quá một con mèo uống không hết, nên chú tiểu này bỏ việc chay tịnh để uống sữa cho khỏi phí. Số sữa còn dư chú đem xuống núi bán lại cho dân làng để lấy tiền giúp cho người nghèo. Cứ thế…Sau một thời gian, đàn bò của chú đã gia tăng rất nhiều, chú lại nghĩ đến việc mua thêm đất và trồng thêm cỏ cho bò… Một ngày kia vị đạo sĩ trở lại thăm đệ tử của mình. Ông không còn nhận ra cái lều ngày xưa thầy trò cùng tu luyện, thay vào đó là ngôi nhà khang trang và một trang trại xinh đẹp. Người học trò ngoan ngoãn, hiền lành của ông ngày xưa nay cũng đã khác. Ông hỏi người học trò: Con ơi! Tại sao thế này? Người học trò trả lời: Thưa thầy! tại con mèo đó thôi.
Thưa quý OBACE, ma quỷ không cám dỗ chúng ta một lần để tách chúng ta ra khỏi Thiên Chúa, nhưng mỗi ngày một chút, nó gieo sự nghi ngờ, khơi lên sự tự kiêu, tự mãn trong chúng ta và dần dần nó khiến chúng ta hồ nghi Thiên Chúa và cuối cùng xa rời Thiên Chúa. Đó cũng là điều các bài đọc Lời Chúa hôm nay muốn nói cho chúng ta.
Bài đọc một sách Sáng Thế kể lại Thiên Chúa như một người cha, ân cần chu đáo lo cho con từng ly từng tý: “Thiên Chúa lấy bùn đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở nên một sinh vật.” Điều này cho thấy rằng ngay từ ban đầu Thiên Chúa đã chia sẻ sự sống thần linh của Ngài cho con người. Ngài dựng nên con người và muốn cho con người mang lấy sự sống và hơi thở của chính Ngài và trở thành con và là bạn của Chúa. Thiên Chúa yêu thương, tin tưởng con người, Ngài đã làm nên một vườn thượng uyển thật xinh đẹp, trồng cây, tạo cảnh và đặt con người vào khu vườn để nó trông coi.
Ma quỷ vốn là thầy của sự xảo quyệt, ghen tị ích kỷ, nó không muốn thấy con người hạnh phúc, nó ghen tị vì thấy con người được Chúa yêu thương. Vì thế nó thực hiện mưu đồ tách con người ra khỏi Thiên Chúa bằng việc gieo sự nghi ngờ cho bà Evà. “Nó nói với người đàn bà: Có thật Thiên Chúa bảo: Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không? Người đàn bà trả lời: Trái cây trong vườn thì chúng tôi được ăn. Còn trái cây ở giữa vườn, Thiên Chúa bảo: Các ngươi không được ăn, không được động tới kẻo phải chết. Con rắn nói: Chẳng chết chóc gì đâu. Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra và ông bà sẽ trở nên như những thần linh, biết điều thiện điều ác.” Với lời lẽ tưởng như bâng quơ này, ma quỷ đã gieo được sự nghi ngờ vào trong con người. Bà Evà nghĩ rằng: vây chứng tỏ là Thiên Chúa không yêu thương mình như mình tưởng; Thiên Chúa không muốn cho mình bằng Ngài nên mới cấm mình; Thiên Chúa sợ mình trở nên thần linh biết lành biết dữ. Bà Evà đã tin rằng ma quỷ đã nói đúng: ăn trái cây này sẽ chẳng chết chóc gì đâu.
Sự nghi ngờ ngày càng lớn dần trong con người. Cùng với sự nghi ngờ là lòng ham muốn thèm khát nổi lên: “Người đàn bà thấy trái cây đó trông thì đẹp, ăn thì ngon và đáng quý, làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn và đưa cho cả chồng cùng ăn.” Cám dỗ đi từ giác quan, từ cái nhìn bên ngoài: “trông thì đẹp mắt”, đi đến sự thèm muốn: “ăn thì ngon” và sự tưởng tượng: “nó đáng quý vì làm cho mình nên tinh khôn…” Khi con người đã hồ nghi tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, cùng với khát vọng cao ngạo của mình là trở nên như thần linh, Ađam Evà đã ngã gục trong cơn cám dỗ này. Ma quỷ nó nói rằng cứ phạm tội đi, mắt ông bà sẽ mở ra, được tinh thông, nhưng sự thật bẽ bàng: “Mắt họ mở ra và thấy mình trần truồng” mà thôi. Ma quỷ xảo quyệt ở chỗ đó, không bao giờ nó nói thật, nó chỉ xúi người ta làm điều sai rồi nó bỏ đi, để mặc con người với sự bẽ bàng trần trụi của mình.
Đức Giêsu mang thân phận con người với những yếu đuối, Ngài đã không cây dựa vào sức mình, nhưng hoàn toàn cậy dựa vào quyền năng của Thiên Chúa qua sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần. Vì thế, Ngài đã chiến thắng những cám dỗ của ma quỷ. Tin Mừng hôm nay kể lại những cuộc cám dỗ hết sức tinh vi ma quỷ đã đưa ra cho Chúa Giêsu nhằm kéo Ngài đi lệch xa đường lối và kế hoạch của Thiên Chúa qua ba cơn cám dỗ:
“Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi.” Đây chính là cám dỗ cậy vào sức riêng mình, thể hiên bản thân. Ma quỷ nó muốn nói rằng: nếu ông là Con Thiên Chúa tại sao ông không thể hiện quyền năng của một Thiên Chúa qua việc làm cho đá trở nên bánh. Nó muốn nhắm vào tính tự ái, tự kiêu nơi con người. Nó khiêu khích sự khẳng định bản thân qua việc làm ra bánh và những của cải vật chất để cho mọi người và thu hút mọi người. Nó muốn Đức Giêsu dùng cách này để thực hiện sứ mạng của mình. Chúa Giêsu đáp lại: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.”Chúa Giêsu cho thấy việc thực hiện sứ mạng theo ý của Chúa Cha thì quan trọng hơn ý riêng mình; tìm kiếm và thực hành những gì Thiên Chúa dạy thì quan trọng hơn việc tìm kiếm cơm bánh vật chất.
Cám dỗ thứ hai: “Ma quỷ đem người đến thành thánh và đặt Người trên nóc đền thờ, nó nói với Người: Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì có lời chép: Vì Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn khỏi vấp chân vào đá.” Cám dỗ này là cám dỗ của sự kiêu ngạo tự mãn. Ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu đặt mình cao hơn Thiên Chúa, thấy mình đứng trên nóc đền thờ là nhà của Thiên Chúa. Từ đó có thể thách thức Thiên Chúa, lao mình vào nguy hiểm và buộc Thiên Chúa phải ra tay, phải sai thiên sứ đến phục vụ mình, khi gieo mình xuống đất. Biết được mưu đồ của cơn cám dỗ này, “Chúa Giêsu đã trả lời: Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa là Chúa của người.”
Cám dỗ thứ ba: “Ma quỷ đem Người lên một ngọn núi rất cao và chỉ cho thấy tất cả các nước thế gian và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy và bảo rằng: Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” Cám dỗ này thật ngọt ngào hấp dẫn, nó nhắm vào lòng ham muốn vinh quang và quyền lực, giàu có phú quý, muốn được mọi người tung hô ca tụng và muốn mọi người phải cúi đầu khuất phục mình. Ma quỷ đưa ra một điều kiện dường như đơn giản: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” Cám dỗ này hết sức nguy hiểm vì nó nhắm vào khao khát tiềm ẩn trong mỗi con người, nó đặt ra một sự chọn lựa hoặc tôn thờ Thiên Chúa hoặc bái lạy ma quỷ để được vinh quang danh dự trần thế. Chúa Giêsu đã phản ứng một cách hết sức mạnh mẽ, dường như không để cho cám dỗ này phảng phất trước mặt. Ngài xua đuổi nó một cách quyết liệt: “Satan kia, xéo đi! Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng chỉ một mình Ngài mà thôi.” Ma quỷ đã thất bại và bỏ đi và có các thiên thần tiến đến hầu hạ Người.
Thưa quý OBACE, ma quỷ thất bại trước Chúa Giêsu nhưng nó không chịu thua trước con người. Nó vẫn đang tìm cách gieo vào tâm hồn con người sự kiêu căng ngạo mạn, sự tự hào tự ái: Mình thành công như thế này là do cố gắng của bao nhiêu năm vun đắp…; và hồ nghi sự hiện diện, quan phòng và yêu thương của Thiên Chúa khi tự nhủ: Mình phải lo cho bản thân cho gia đình trước chứ, vì thế lo làm ăn, việc đạo đức tính sau. Ma quỷ nói với con người: Cứ có tiền là giải quyết được mọi vấn đề; có tiền là có nhiều kẻ theo, có quyền là có nhiều kẻ bái lạy mình. Vì thế cố gắng để giành cho có được nhiều tiền, nhiều quyền, phải thật giàu thì sẽ điều khiển được cả nước này. Khi vất vả và có được nhiều tiền của thì phải ăn chơi hưởng thụ chứ!
Ma quỷ đang dùng những lời lẽ tưởng như hợp lý ngọt ngào đó từng ngày rót vào tai vào tâm trí chúng ta. Nó cho chúng ta những cảm giác, những lý luận rất hợp lý để đánh lừa lương tâm của ta. Từng ngày từng ngày nó dẫn chúng ta đi xa con đường của Thiên Chúa để cuối cùng dẫn chúng ta bước vào con đường của nó. Nó vẽ ra cho chúng ta rất nhiều bức tranh ảo, mục tiêu ảo thật đẹp, thật hấp dẫn với mục tiêu cuối cùng là bái lạy nó, chấp nhận điều kiện của nó và cuối cùng chịu sự điều khiển của nó.
Con người chúng ta yếu đuối, xin Chúa giúp chúng ta biết dùng Lời của Chúa làm vũ khí chống lại những cám dỗ ngọt ngào của ma quỷ và thêm sự khôn ngoan sáng suốt để nhận ra mưu mô xảo quyệt của nó. Xin cho chúng ta đừng bao giờ hồ nghi tình thương của Thiên Chúa, cũng đừng bao giờ cậy dựa vào sức riêng của mình, nhưng biết cây dựa và hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa mà thôi. Amen.
XIN ƠN CHÚA GIÚP ĐỂ CHỐNG TRẢ TÊN CÁM DỖ
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Mùa Chay Thánh, mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng với những việc tốt lành theo truyền thống là ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Hôm nay Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay Thánh. Phúc âm trình bày cho chúng ta một cuộc chiến đấu làm theo ý Chúa Cha hay là theo ý của Satan. Quả thật, trước khi sứ vụ cứu thế khai mào, Chúa Giêsu đã vào hoang địa, ăn chay, cầu nguyện bốn mươi đêm ngày và ở đó chịu Satan cám dỗ.
Satan lợi dụng thời gian này để tấn công và cám dỗ Chúa đi khác đường lối của Chúa Cha, đây cũng là cám dỗ bất tuân giống như con rắn xưa đã cám dỗ Ađam. Satan muốn Chúa Giêsu là một con người hoàn toàn thuộc về thế gian, thế giới mà hắn làm chủ. Vì là con người, Chúa Giêsu đã dựa vào Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần để chiến đấu. Người đã chiến thắng, ma quỷ đã phải rút lui, và các các thiên sứ đến hầu hạ Người (x. Mt 4,1-11).
Bước vào Mùa Chay Thánh, chúng ta phải ý thức rằng, những quỉ kế mà ma quỉ dùng để cám dỗ Chúa Giêsu, cũng là những cách chúng cám dỗ chúng ta ngày hôm nay.
Satan là kẻ thù lớn nhất của chúng ta. Có người không tin có Satan, họ cho rằng, Satan là một sản phẩm do trí tưởng tượng của con người hoặc là sự dữ trừu tượng pha trộn trong con người và thế giới. Không!
Kinh thánh nói nhiều lần về Satan như một hữu thể cụ thể và có thực. Hắn là một thiên thần sa ngã. Chúa Giêsu khẳng định khi nói : “Hắn là kẻ nói dối và là cha của sự dối trá” (Ga 8,44). Thánh Phêrô ví ma quỉ như con sử tử gầm thét : “Đối thủ của anh em là ma quỉ như sư tử rống, nó lượn rình tìm sao nuốt được một ai” (1Pr 5,8). Và Chân phước Phaolô VI, Giáo hoàng dạy chúng ta : “Ma quỉ là kẻ thù số một, nó cám dỗ rất tinh vi. Chúng ta biết rằng nhân vật tối tăm và phá rối này thực sự tồn tại và tiếp tục hành động”.
Nó làm thế nào? Thưa, nó nói dối, lừa dối chúng ta. Baudelaire viết : “Chiến thắng lớn nhất của ma quỉ là làm cho chúng ta tin rằng ma quỉ không hiện hữu”. Nó nói dối chúng ta thế nào?
Hắn trình bày hành động xấu như thể là tốt, hắn thúc giục chúng ta làm điều xấu, hắn gợi lên những lý do để biện minh cho tội lỗi của chúng ta. Sau khi lừa dối chúng ta rồi, hắn làm cho chúng ta lo lắng và buồn bã. Hỏi chúng ta có bao giờ cảm thấy điều đó không?
Chúa Giêsu đã bị cám dỗ bất tuân lệnh truyền của Chúa Cha, Người đã chống trả quyết liệt và đã vâng phục cho đến chết; sự bất tuân ấy được diễn tả như thế nào? Nội dung của sự cám dỗ ấy là gì?
Chúa Giêsu là con người hoàn toàn như chúng ta, giống chúng ta mọi đàng, nên những thử thách mà Người phải đương đầu, những cám dỗ Người phải chịu, cũng là những thử thách, những cám dỗ của nhân loại hôm nay. Cám dỗ ấy là cám dỗ về vật chất tư lợi, uy quyền danh vọng, và về hưởng thụ thỏa mãn các đam mê trần tục.
Của cải vật chất là một cám dỗ lớn, mãnh liệt, không trừ một ai, từ em bé mới có trí khôn cho đến người già sắp lìa cõi thế, từ người buôn bán giữa chợ cho đến vị bậc vị vọng ở nơi nhà thờ. Tự bản chất, vật cất không xấu; xã hội phải làm ra của cải thì mới tồn tại và phát triển được; con người phải có điều kiện vật chất tối thiểu mới có thể sống. Nhưng tiền là một người đầy tớ tốt, và là một ông chủ xấu. Biết sử dùng và làm chủ của cải, chúng ta sẽ làm được rất nhiều việc, kể cả những việc ích Nước lợi Dân. Trái lại, khi nô lệ của cải, để của cải làm chủ, nó sẽ hủy hoại tất cả những giá trị đạo đức, từ tình nghĩa gia đình, vợ chồng, cho mẹ con cái, cho đến những giá trì về công bằng xã hội, về đạo đức và tôn giáo.
Danh vọng là một cám dỗ cũng mạnh không kém. Con người ngày hôm nay có khuynh hướng lẫn lộn danh dự với danh vọng. Thực ra danh dự thì ai cũng cần; có danh dự thì mới có thể sống vui, sống xứng đáng là con người. Mất hết danh dự, con người nhiều khi không còn thiết sống nữa. Nhưng danh vọng thì khác; danh vọng thường phát xuất từ một địa vị cao, hoặc một đời sống giầu có, hoặc từ sự thành công được nhiều người biết đến và khen ngợi. Người ham mê danh vọng là người thích được người khác vỗ tay đề cao, thích được nổi bật giữa đám đông. Có người ham mê danh vọng đến mức sẵn sàng hy sinh hạnh phúc gia đình, hy sinh cả những giá trị đạo đức, chạy theo danh vọng nhiều khi là thả mồi bắt bóng và dẫn tới những sụp đổ bi đát nhất.
Cám dỗ thứ ba là quyền lực. Ở bất cứ quốc gia nào, thời đại nào, cám dỗ về quyền lực vẫn là một cám dỗ đáng sợ nhất. Thường khi đã có tiền và danh vọng, điều mà người ta ao ước là có quyền trên những người khác, điều khiển người khác. Các tranh chấp về quyền hành làm nảy sinh những biến động xã hội rất tai hại, có khi còn phát sinh giặc giã chiến tranh và gieo rắc đau khổ tan tóc trên nhiều người. Có những người đang nắm quyền cố gắng giữ chặt quyền bính bằng mọi giá, kể cả những thủ đoạn bất chính và phi nhân.
Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan; nên Người được các thánh Giáo phụ gọi là Ađam mới, sinh ra một nhân loại mới, sống bằng sự sống và tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ mình là con người mới được tái sinh nhờ Phép rửa, được kêu mời sống ơn gọi đó.
Chúng ta hãy khẩn cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ đã đập vỡ đầu con rắn độc ác, giúp chúng ta vượt qua những cám dỗ mỗi ngày và sống Mùa Chay Thánh này cho nên. Amen.
Lm Vũđình Tường
Chuẩn bị hay sửa soạn là điều ai cũng làm bởi nó là một phần của cuộc sống. Chuẩn bị đi trước mọi việc, mọi biến cố to nhỏ đều đòi có chuẩn bị. Sự việc đơn giản cần chuẩn bị ít và chúng ta quen thuộc với chúng nên chuẩn bị trở thành thói quen, dường như không có. Sự việc quan trọng và phức tạp cần chuẩn bị kĩ và dường như không bao giờ đủ. Chuẩn bị mất nhiều thời gian, công sức nhưng chúng cần thiết bởi chuẩn bị càng kĩ mức độ lo lắng càng giảm.
Trong Kinh thánh, sa mạc hay hoang địa thường được chọn là nơi chuẩn bị cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Đây là nơi mình gặp chính mình, nhìn vào cõi lòng mình để nhận biết chính mình, biết tình yêu mình dành cho Chúa và quan hệ với Thiên Chúa mật thiết, gắn bó đến mức nào. Đây là nơi giúp ta đi từ hoang địa bên ngoài tiến vào hoang địa tâm hồn. Đây là nơi ta không còn chú tâm vào tiếng gầm gừ bên ngoài nhưng lắng nghe tiếng nói trong tâm tư. Đây là nơi giúp ta nhận biết đâu là tiếng Chúa mời gọi, chọn đi theo Ngài; đâu là tiếng ma quỉ phủ dụ, từ bỏ chúng, tránh bị chúng lường gạt. Đây là nơi ta chọn sống theo í Chúa và từ bỏ ước muốn, tham vọng cá nhân. Chọn bước theo con đường Chúa mời gọi và nhận sự hướng dẫn, quan phòng của Thiên Chúa. Quan trọng hơn hết, đây cũng là nơi ta nhận biết tội làm cho hình ảnh trong ta ra nhơ nhuốc, bẩn thỉu, xấu xa, bởi theo con đường ma quỉ phủ dụ. Nơi đây ta tẩy rửa, tắm gội, đánh bóng hình ảnh nguyên thủy Chúa dựng nên ta.
Để cứu dân Ngài, Thiên Chúa mời gọi Môisen từ hoang địa vùng núi Sinai làm công việc cứu dân Chúa khỏi tay Pharaô (Sáng Thế Kí chương 24 và tiếp theo). Dân Do Thái cũng luẩn quẩn từ sa mạc này đến hoang địa khác trước khi họ tiến vào vùng Đất Hứa tràn đầy sữa và mật ong. Thánh Gioan Tẩy giả cũng sống trong hoang địa trước khi rao giảng kêu gọi mọi người thống hối và nhận phép rửa từ ông. Trong tinh thần đó, Mùa Chay không phải là thời gian thất vọng mà chính là thời gian tràn trề hy vọng. Hy vọng bởi đây là thời gian chuẩn bị tâm hồn cho trong sáng, cho trái tim đong đầy yêu thương, nối kết lại các mối quan hệ, quan hệ gia đình, thân tộc, thân hữu, hoặc đang lỏng lẻo, hoặc đã bị cắt đứt, chia lìa. Hy vọng bởi đây là thời gian ta nhìn vào chính mầu nhiệm cuộc sống, tìm hiểu thêm í nghĩa tích cực của đau khổ, bệnh tật, thành công, thất bại, và ngay cả già nua trong đời. Hy vọng bởi chúng ta học từ Đức Kitô phương thế chống lại cám dỗ trong đời.
Đức Kitô sống trong hoang địa, sau đó Ngài cảm thấy đói và ma quỉ dến cám dỗ Ngài ba lần. Lần đầu liên quan đến thực phẩm, lần thứ hai liên quan đến danh vọng và lần cuối đến quyền lực. Cơ thể con người cần cơm ăn, áo mặc. Đức kitô đáp lại ma quỉ. Cơm ăn áo mặc không chưa đủ mà còn cần đến Lời Chúa. Bởi chính Lời Chúa ban bình an cho tâm hồn. Đức Kitô đáp lại ma quỉ. Danh vọng không làm nên con người; yêu thương đồng loại, nhân ái, khiêm nhường mới chính là đường lối Chúa. Quyền lực cần đi chung với trách nhiệm bảo vệ sự sống và công lí cho mọi người. Thực phẩm, danh vọng, và quyền lực đều là những món quà đáng giá khi chúng nằm trong tay những người hiền lương, hỗ trợ sự sống và kiến tạo hoà bình, công lí cho mọi người. Thực phẩm, danh vọng và quyền lực trở thành vũ khí hại người khi chúng rơi vào tay những kẻ bất lương, mong thoả mãn ích kỉ, phục vụ tham vọng cá nhân. Cám dỗ thứ ba bạch hoá ma quỉ là cha của mọi dối trá, gian manh, lừa đảo. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ; ma quỉ hứa vinh hoa phú quí trần gian cho những ai thờ lậy chúng. Chúng không thể cho những gì chúng không có.
Đức kitô không để chúng hỗn hào, lộng hành hơn nữa Ngài ra lệnh cho chúng. Ngươi phải thờ lậy Thiên Chúa. Một mình Ngài là Thiên Chúa, ngoài ra không còn thần nào khác. Sau đó Đức Kitô nói với chúng, satan hãy cút đi. Mat 4,10. Chúng vâng phục Đức Kitô, chúng biến mất. Vâng Đức Kitô mà không ph ục, kh ông yêu mến Ngài chính là phong cách của ma quỉ. Chúng ta xin ơn vâng phục Ngài trong tâm tình yêu mến.
Lm Nguyễn Xuân Trường
Mùa Chay là mùa sám hối trở về với Chúa. Phải trở về vì trong đời sống luôn có những cơn cám dỗ lôi kéo chúng ta rời xa Thiên Chúa. Thế nên, Chúa Nhật đầu Mùa Chay luôn kể câu truyện Chúa Giêsu chịu cám dỗ và vượt thắng cám dỗ.
Nhắc đến 3 cơn cám dỗ, thường chúng ta hiểu đó là những cám dỗ về vật chất, quyền lực, và danh vọng. Đó là những điều mà con người khao khát nên dễ bị cám dỗ. Và người ta bị sa ngã khi tuyệt đối hóa vật chất, quyền lực, danh vọng, coi nó là tất cả, và bất chấp tất cả để đạt được những điều đó. Khi bị sa chước cám dỗ như thế thì các mối liên hệ tình nghĩa yêu thương giữa người với người, các trật tự hài hòa tốt đẹp trong xã hội bị phá hỏng, bị hủy hoại tận gốc rễ.
Tuy nhiên, trong bình diện tôn giáo, thì 3 cơn cám dỗ không chỉ phá hỏng liên hệ giữa con người với nhau, nhưng nguy hiểm hơn, nó còn phá hỏng liên hệ giữa con người với Thiên Chúa. Khởi đầu quỷ cám dỗ về sự nghi ngờ Thiên Chúa khi nó bảo Đức Giêsu “Nếu ông là Con Thiên Chúa” thì hóa đá thành bánh đi, thì nhảy xuống khỏi đền thờ đi. Rồi cuối cùng quỷ cám dỗ từ bỏ Thiên Chúa và thờ luôn quỷ khi nó bảo Đức Giêsu “nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” Khủng khiếp và nguy hiểm của cơn cám dỗ là ở chỗ này: người ta bị cám dỗ bỏ tôn thờ Chúa để tôn thờ ma quỷ! Đây là cơn cám dỗ lớn nhất, nguy hiểm nhất, kinh khủng nhất của thời đại ngày nay.
Phúc đức thay, Đức Giêsu đã vượt qua các cơn cám dỗ nhờ Lời Chúa và niềm tin yêu Chúa khi Ngài mạnh mẽ tuyên bố rằng: người ta sống nhờ Lời Chúa, chớ thử thách Thiên Chúa, và phải tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi. Lời Chúa và niềm tin yêu Chúa chính là vũ khí mạnh nhất giúp chúng ta vượt qua các cơn cám dỗ rất hấp dẫn nhưng đầy nguy hiểm trong thời đại ngày nay. Amen.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT I MÙA CHAY_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Hằng năm, vào Chúa Nhật I Mùa Chay, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta chuyện tích “Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa”. Vì thế, Tin Mừng của Phụng Vụ Lời Chúa Năm A này mời gọi chúng ta lắng nghe và suy gẫm câu chuyện Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa theo Tin Mừng Mát-thêu.
St 2: 7-9; 3: 1-7
Bài Đọc I, trích từ sách Sáng Thế, mô tả sự thử thách của người nữ đầu tiên bằng ngôn ngữ hình tượng. Trước sự chọn lựa: hoặc nương tựa vào Đấng Tạo Hóa, hay tự mình quyết định theo sự tự do của riêng mình, người nữ này đã sa ngã kéo theo nhân loại.
Rm 5: 12-19
Trong Thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô gợi lên rằng nhân loại từ nguyên thủy mang dấu ấn của tội lỗi, nhưng nhờ Đức Giê-su, được thoát khỏi tội A-đam và được tái sinh trong muôn vàn ân sủng.
Mt 4: 1-11
Tin Mừng Mát-thêu tường thuật việc Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa. Xa-tan đề nghị cho Ngài những con đường cứu thế khác với con đường thập giá mà Chúa Cha đã chọn.
BÀI ĐỌC I (St 2: 7-9; 3: 1-7)
Sách Sáng Thế bắt đầu với hai chuyện tích về Cuộc Sáng Tạo: chuyện tích thứ nhất (St 1: 1-2: 4a) được biên soạn bởi truyền thống Tư Tế (P) vào thế kỷ IV trước Công Nguyên và chuyện tích thứ hai cổ xưa hơn (St 2: 4b-25) được biên soạn bởi truyền thống Gia-vít vào thế kỷ X trước Công Nguyên.
– Chuyện tích thứ nhất thuật lại cuộc sáng tạo trong sáu ngày theo cái khung của một tuần lễ Do thái mà đỉnh cao là ngày thứ bảy, ngày sa-bát. Chuyện tích này hình thành nên một đơn vị nhờ kỷ thuật đóng khung, bắt đầu với “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo nên trời đất” (St 1: 1) và kết thúc với: “Đó là nguồn gốc trời đất khi được sáng tạo.” (St 2: 4a). Diễn ngữ: “trời đất” chỉ toàn thể vũ trụ.
Bằng văn phong trang trọng có nhịp điệu của một bài thánh thi phụng vụ, tác giả truyền thống Tư Tế cho chúng ta biết làm thế nào Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật một cách tốt đẹp, trong đó con người là loài thụ tạo tuyệt hảo nhất (St 1: 31), vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người sau cùng như tuyệt đỉnh công trình sáng tạo của Ngài. Thêm nữa, Ngài đã tạo dựng con người có nam có nữ “theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài”.
– Chuyện tích thứ hai bắt đầu với “Ngày Đức Chúa, là Thiên Chúa làm ra đất và trời” (2: 4b). Như vậy, với diễn ngữ “đất và trời”, chuyện tích thứ hai trình bày công trình sáng tạo của Thiên Chúa khởi sự nơi mặt đất, trong đó con người là trung tâm. Chuyện tích thứ hai này còn tiếp tục kể cho chúng ta về “Thử Thách và Sa Ngã” (St 3: 1-7). Tuy nhiên, tác giả không dừng lại ở nơi một tương lai vô vọng không lối thoát do sự sa ngã của con người đầu tiên, nhưng tiếp tục kể cho chúng ta về án phạt và lời hứa cứu độ (St 3: 8-24). Như vậy, qua chuyện kể liên tục của mình, tác giả muốn giới thiệu lịch sử cứu độ và đưa ra lý do đầu tiên: tội của con người và niềm hy vọng tương lai được thoáng thấy ở nơi lời hứa cứu độ: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3: 15).
Trong chuyện kể của mình, tác giả Gia-vít sử dụng kiểu nói trực tiếp và cụ thể: ông trình bày Thiên Chúa như nhân, nghĩa là Thiên Chúa hành xử như một con người. Ngoài ra, ông cũng không ngần ngại sử dụng ngôn ngữ thần thoại mà ông đã khai thác rất nhiều ở nơi kho tàng thần thoại rất phổ biến vào thời ông, nhưng ông sử dụng những chất liệu này cách tự do khi đặt chúng vào trong bối cảnh mới và ban cho chúng một tầm mức thần học khác biệt tận căn. Nhờ vận dụng hình ảnh và biểu tượng của khoa thần thoại, tác giả chuyển tải những suy tư nghiêm trọng nhất về nhân loại, như lời nhận xét của Đức Gioan Phao-lô II: “Đối với chuyện tích thứ hai về Cuộc Sáng Tạo, cách thức diễn đạt phù hợp với cách suy nghĩ của thời đại… Người ta có thể nói… rằng cốt là ngôn ngữ thần thoại. Quả thật, trong trường hợp này, thuật ngữ thần thoại không chỉ ra một nội dung huyền thoại, nhưng một cách thức cổ xưa để diễn tả một nội dung sâu xa hơn… Nội dung này đáng khâm phục ở nơi những điều liên quan đến những phẩm chất và độ đậm đặc của các chân lý mà nó chứa đựng” (Jean Paul II, Audience generale du mercredi 7 novembre 1979).
Hai đoạn văn đề nghị cho chúng ta hôm nay đều được trích từ chuyện tích thứ hai về cuộc Sáng Tạo, trong đó đoạn văn thứ nhất (St 2: 7-9) liên quan đến cuộc sáng tạo con người và đoạn văn thứ hai (St 3: 1-7) liên quan đến cuộc thử thách và tội nguyên tổ.
CUỘC SÁNG TẠO CON NGƯỜI (St 2: 7-9)
- Con người, được sáng tạo đầu tiên trước mọi sinh vật
Trong chuyện tích thứ nhất, công trình Sáng Tạo diễn ra trong sáu ngày, trong đó người nam và người nữ được sáng tạo đồng lúc và cuối cùng, như tuyệt đỉnh của công trình sáng tạo. Trái lại, trong chuyện tích thứ hai, con người được sáng tạo đầu tiên trước mọi sinh vật, và được sáng tạo một mình, không người nữ; người nữ sẽ xuất hiện sau này. Đây là cách thức mà tác giả Gia-vít sử dụng để nhấn mạnh quyền tối thượng của con người. Đấng Sáng Tạo sắp biểu lộ tất cả niềm ưu ái của mình đối với thụ tạo đầu tiên của Ngài.
Đức Chúa sáng tạo con người được mô tả như một thợ gốm thần linh “lấy từ bụi đất nặn nên con người”; sau này, Đức Chúa sáng tạo mọi sinh vật cũng được mô tả theo cùng một cách như vậy: Đức Chúa “lấy đất nặn ra chúng” (St 2: 19). Tuy nhiên, sắc thái biệt phân giữa con người và các sinh vật khác được trình bày rất tinh tế: con người và sinh vật có chung một xác thể, vì thế, sau này, khi con người phạm tội, Thiên Chúa nhắc nhở cho con người nguồn gốc mỏng dòn của nó: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3: 19); nhưng chỉ duy một mình con người mới được Thiên Chúa “thổi sinh khí vào lỗ mũi”, chính sự khác biệt này nói lên chiều kích cao cả của con người trên mọi loại thụ tạo.
Việc Đấng Sáng Tạo được mô tả như một người thợ gốm nhào đất sét mà nặn nên con người thuộc về di sản chung của nhiều dân tộc xưa. Ở Ai-cập, chính thần Knoum sáng tạo nên con người bằng cách nặn nên họ hàng loạt trên bàn xoay của người thợ gốm. Ở Sumer, chính mẫu thần Nammu nặn nên con người đầu tiên; ở Ba-by-lon, thần Ea “với đôi tay của mình đã sáng tạo nên con người”; ở Hy-lạp, một bản văn thần thoại kể rằng thần Démiurge nhân ái đã nặn ra con người bằng đất sét thấm đẫm nước mắt của thần. Con người sinh ra từ đất, đó là niềm tin tưởng khá phổ biến vào thời đó. Nhưng, về cơ bản, chuyện tích Kinh Thánh khác biệt với các chuyện tích này, đó là, người thợ gốm thần linh là Đấng Sáng Tạo, từ đất Ngài nặn nên hình người và làm sinh động hình người ấy bằng sinh khí của chính Ngài.
- Con người, một sinh linh
Đức Chúa thổi sinh khí vào hình tượng người bất động để làm cho con người sinh động. Sinh khí mà Đức Chúa ban cho con người phát xuất từ Thiên Chúa, vì thế, khi trút hơi thở cuối cùng, con người sẽ hoàn lại cho Ngài. Thánh Gioan diễn tả cái chết của Đức Giê-su trên thập giá cũng bằng dụng ngữ này: “Rồi người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19: 30).
Khi mặc khải ngôi vị của Thần Khí và ân ban của Ngài cho con người trong Đức Giê-su, Tân Ước đã cho khoa nhân loại của sách Sáng Thế chiều kích đích thật của nó. Đấng Sáng Tạo lập lại cử chỉ này trên mỗi người lãnh nhận bí tích Rửa Tội khi Ngài thổi hơi sự sống siêu nhiên vào họ, có nghĩa họ được tái sinh.
- Đức Chúa thiết lập nơi cư ngụ cho con người
Giữa khung cảnh đất hoang vu trơ trọi, thiên Chúa đã làm nẩy sinh một vườn cây kỳ diệu. Khu vườn này được gọi là “Ê-đen”, nghĩa là khu vườn xinh đẹp, và “về phía Đông” nghĩa là ở phía mặt trời mọc, dấu chỉ ánh sáng và sự sống. Trong khu vườn kỳ diệu này, Đức Chúa cho mọc lên đủ loại cây đơm bông kết trái xanh tươi nhờ một dòng sông từ vườn chảy ra tưới khắp bốn phía. Rồi đặt con người vào đó.
- Cây trường sinh và cây biết thiện ác
Trong các loại cây này, có hai loại cây không thuộc vào bất kỳ loại thảo mộc nào: “cây trường sinh” và “cây biết thiện ác”. “Cây trường sinh” là hình tượng cổ điển trong vùng Cận Đông xưa, đó là cây bất tử. Tính cách biểu tượng của nó được hổ trợ bởi bóng dáng tự nhiên (cây cao bóng cả bốn mùa xum xê cành lá) và bởi chiều kích phụng vụ: trong những thánh điện, các vị thần linh được cho là nhờ ăn trái của cây này mà bất tử. Điều này được phản ảnh ở nơi St 3: 22: sau khi con người đã ăn trái cây này, Đức Chúa là Thiên Chúa nói: “Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi” (St 3: 22).
“Cây biết điều thiện điều ác” là dụng ngữ sáng tạo của truyền thống Gia-vít. Có thể tác giả đã được gợi hứng, ít nhiều, từ một vị tiền nhiệm Ba-by-lon: ở lối vào nơi cư ngụ của các vị thần, có hai cây: cây trường sinh và cây chân lý. Chúng ta cũng gặp một cặp đối xứng nổi tiếng khác: thi hào Homère nói với chúng ta rằng trước đền thờ của các thần linh trên đỉnh núi Ô-lim-píc, có hai chậu được chôn sâu dưới đất; một chậu chứa đựng những điều thiện, chậu kia chứa đựng những điều ác.
Ở nơi diễn ngữ “biết điều thiện điều ác”, động từ “biết” chỉ sự hiểu biết do từ kinh nghiệm. Khác ngôn ngữ của những triết gia, ngôn ngữ Híp-ri thích liên kết những cặp mâu thuẫn để nói lên cái toàn thể, chẳng hạn như ngày và đêm, bóng tối và ánh sáng, nam và nữ…, vì thế đây cốt là một sự khôn ngoan siêu phàm, một phẩm chất đặc biệt mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể sở hữu tròn đầy.
Đoạn trích dẫn ngắn hôm nay không kể ra việc Thiên Chúa canh giữ cây biết điều thiện điều ác này; tuy nhiên, phần tiếp theo câu chuyện cho thấy điều đó. Thiên Chúa ấn định cho con người một giới hạn bất khả vượt qua, nhưng Ngài không rào cây này để dành riêng cho Ngài; Ngài phó thác cho lương tri của con người.
THỬ THÁCH (St 3: 1-7)
Phần thứ hai của Bài Đọc I là phần đầu chương 3 của sách Sáng Thế, giới thiệu chuyện tích về cuộc thử thách và tội nguyên tổ. Đây là một đề tài rất phổ biến hay ít ra rất gần với đề tài thuộc thể loại anh hùng ca: một vị anh hùng tìm cách lấy cắp một trong những đặc quyền của các vị thần, như ở Lưỡng Hà Địa, nhân vật Gilgamesh ra đi tìm kiếm cây trường sinh; ở Hy-lạp, Prométhée ăn cắp lửa thiêng, hoặc Héraclès đoạt lấy những trái táo trường sinh. Ngoài ra, cũng có biết bao đề tài tương tự ở Ấn Độ xưa, vân vân.
Tác giả kinh thánh biến đổi sâu xa hành động này khi định vị nó vào trong văn mạch thần học duy nhất và đặc thù. Ông biến đổi tham vọng của con người thành nguyên mẫu của tội cũng như tiền lịch sử của Sự Ác. Mặt khác, ông chủ ý mô tả biến cố nội tâm hơn là một biến cố bên ngoài. Bức tranh về cuộc Thử Thách là một tiểu phẩm kiệt tác về sự phân tích tâm lý.
- Con rắn
Chuyện tích về sự thử thách bắt đầu với câu then chốt gây sửng sốt này: “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi loài vật hoang dã, mà Thiên Chúa đã làm ra nó”. Như vậy trong tấm thảm kịch sắp diễn ra, người kể chuyện giới thiệu một nhân vật kỳ lạ, một con rắn biết nói, biểu tượng sự Ác, mà truyền thống đã nhận ra ở nơi con vật này là quỷ vương (Kn 2: 24). Ngay lập tức, vị ác thần này bị giảm thiểu đến mức tối đa: kẻ sắp tỏ mình ra là đối thủ của Thiên Chúa không gì khác hơn là một con vật “trong mọi loài vật nơi hoang dã”, một thụ tạo giữa mọi loài thụ tạo mà Thiên Chúa đã dựng nên, chứ không là một hữu thể tối cao, một ác thần như đối thủ của Thiên Chúa tốt lành. Việc giải thích Cựu Ước theo nhị nguyên: cuộc xung đột giữa Thiện và Ác, bị loại bỏ ngay từ những trang đầu tiên của bộ Kinh Thánh.
Tại sao chọn lựa con rắn? Trước hết, trong hầu hết những chuyện tích thần thoại, cây trường sinh mà các thần linh giữ lấy cho riêng mình để hưởng dùng, chung chung được mãng xà, con rồng hay ác thú, đôi khi quái vật, canh giữ. Truyền thống Gia-vít đã hướng sự chú ý đến cây biết điều thiện điều ác, chính điều ác mà ông liên kết với con rắn. Nhưng thay vì để cho con rắn làm kẻ canh giữ không cho con người tiến gần cây biết thiện điều ác, thì lại mở lối cho người phụ nữ đến gần và kích động lòng ham muốn ăn trái cây của bà. Con rắn hành xử như một kẻ gian ác. Chính ở nơi nét bút đặc thù này mà chúng ta đánh giá sự tự do của tác giả Kinh Thánh khi sử dụng hình tượng ngoại giáo.
Vả lại, nhiều dân tộc thời xưa đã nêu bật một cách nào đó hình tượng của con rắn. Họ liệt con rắn vào số những biểu tượng của sự sống và sự tái sinh: việc rắn thay da theo định kỳ xem ra nó sở hữu những bí quyết đem lại nguồn thanh xuân vĩnh hằng. Vì thế, bộ ba: người phụ nữ – cây – con rắn thuộc vào hình tượng của những việc thờ cúng cầu xin sự phong nhiêu và phồn sinh. Khoa ảnh tượng tôn giáo của thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên cung cấp nhiều ví dụ về đề tài này. Chúng ta không loại trừ rằng khoa ảnh tượng này đã là nguồn gợi hứng cho tác giả Kinh Thánh phác họa bức tranh này, nhưng ông đã tách nó ra khỏi ý nghĩa duy nhiên.
Mặt khác, rắn, con vật ở trong hang sâu dưới lòng đất, gợi lên mối giao du thân cận với địa giới, âm phủ, nơi ở của những vong hồn và những quỷ thần đáng sợ. Do đó, con rắn được xem như biết những bí ẩn của việc sinh tử mà địa giới nắm giữ. Cuộc đối thoại của con rắn với người phụ nữ diễn ra theo hướng này: con rắn tự phụ là mình biết những thiên cơ hậu vận như Thiên Chúa.
Cuối cùng, việc con rắn bị nguyền rủa không phải là không có hậu ý bút chiến. Vào thời truyền thống Gia-vít soạn thảo câu chuyện này, dân chúng vẫn còn tôn thờ trong đền thờ con rắn đồng được đồng hóa nó với con rắn đồng mà ông Mô-sê giương cao trong sa mạc. Phải đợi đến vua Khít-ki-gia, vào thế kỷ thứ tám, mới phá bỏ việc thờ cúng ngẫu tượng này: “Chính vua đã dẹp các tế đàn ở nơi cao, đập bể các trụ đá, bổ các bàn thờ và đập tan con rắn đồng ông Mô-sê đã làm, vì cho đến thời đó, con cái Ít-ra-en vẫn đốt hương kính nó; người ta gọi nó là Nơ-khút-tan.” (2V18: 4).
- Người phụ nữ
Con rắn ngỏ lời với người phụ nữ: “Có thật Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được được ăn mọi thứ cây trong vườn không?”. Tên cám dỗ bắt chuyện với một mình người phụ nữ, vì bà đã không trực tiếp nghe những lời cảnh báo của Thiên Chúa. Ngoài ra, chắc chắn nó nghĩ rằng người phụ nữ này dễ bị xiêu lòng trước lời dụ dỗ ngon ngọt của nó hơn người nam. Mặt khác, đề tài về người phụ nữ đầu tiên phạm tội được gặp thấy ở nơi khác, chẳng hạn như ở Hy lạp trong câu chuyện thần thoại Pandore, người phụ nữ đầu tiên này mở cái chậu chứa đựng những điều xấu không phải lúc; vì thế, những điều xấu này tràn lan khắp mặt đất, chấm dứt hạnh phúc nguyên thủy của nhân loại.
- Lời dụ dỗ dối trá
Để có thể gieo nghi ngờ vào lòng người phụ nữ, con rắn khôn khéo giả vờ ngây thơ hỏi người phụ nữ: “Có thật Thiên Chúa bảo: ‘Các ngươi không được ăn mọi cây trong vườn không?’” (3: 2). Theo cấu trúc câu của ngôn ngữ Híp-ri, đây không là một câu hỏi, nhưng là một câu nghi vấn mà người kể chuyện có dụng ý để nó trong thế lơ lững, nhằm để khích bác. Quả thật, người nữ phản ứng ngay tức khắc: “Trái cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái của cây ở giữa vườn, thì Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được ăn, không được động tới, nếu không, sẽ phải chết” (3: 3). Câu trả lời của người nữ cho thấy, dù không được Thiên Chúa truyền đạt trực tiếp, người nữ hiểu rất rõ tính nghiêm trọng của lời cảnh báo này.
Lúc đó, tên cám dỗ tìm cách tẩy xoá ý tưởng về Thiên Chúa tốt lành và thiện hảo trong tâm trí của người phụ nữ; nó trình bày Ngài như kẻ ghen tuông và lừa dối, muốn giữ lấy những đặc quyền cho riêng mình: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng vì Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (3: 5). Với những lời dụ dỗ bùi tai này, người phụ nữ bắt đầu nghi ngờ Thiên Chúa; chính ở nơi ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa mà tội lỗi sắp bén rễ.
- Tấn thảm kịch của sự tự do
Lúc đó, người kể chuyện mô tả cuộc đấu tranh đang diễn ra trong lương tri của người nữ. Ông mô tả nó như cuộc chiến của một con người tự do, có trách nhiệm, hoàn toàn sáng suốt. Vì thế, không phải vì ăn trái cây biết điều thiện điều ác mà người nữ – và người nam- đã thủ đắc được sự biện phân điều thiện điều ác (như vậy sẽ là nghịch lý). Sự biện phân này (kể cả sự tự do) là một ân huệ của Đấng Sáng Tạo ban cho thụ tạo có lý trí của Ngài. Thiên Chúa đã quá mạo hiểm khi ban sự tự do cho con người. Một cuộc độc thoại diễn ra trong lòng của người nữ: “Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn”. Đây thực sự là một trình thuật tinh tế điển hình của sự thử thách, của cơn cám dỗ. Tội lỗi xem ra luôn luôn có sức quyến rũ đối với con người.
- Tội lỗi
Vì thế, hành động của người nữ: “Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở với mình, ông cũng ăn”, diễn tả ý muốn toàn quyền quyết định, một sự tự mãn cao ngạo bất cần Thiên Chúa, nỗi khao khát tự mình quyết định điều thiện điều ác không cần thông qua lề luật của Thiên Chúa. “Việc cùng ăn một trái cây” liên hết hai người thành một cộng đồng cùng chung một trách nhiệm và một vận mệnh: “đồng hội đồng thuyền”, “đồng sinh đồng tử”. Đó chính là những đề tài rất nổi tiếng, và hơn cả đề tài, đó chính là những hành vi cúng tế và những nghi thức kết nghĩa huynh đệ trong xã hội.
Thế nên, trong thần thoại cũng như trong thực tế, những hành vi này – dù là những nghi thức kết giao đính ước nên vợ nên chồng, kết nghĩa huynh đệ đồng sinh đồng tử – đều có một điểm chung nhất đó là giới thiệu một tình huống bất khả đảo ngược. Vậy nên, trong những nghi thức kết giao, ai chấp nhận thức ăn mà người khác dâng hiến, dù khác nhau về bản tính hay môi trường, người đó dứt khoát trở nên “có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu” với người này. Theo đó, chúng ta có thể cho rằng chính con rắn (Xa-tan) dâng hiến trái cây, nó buộc chặt con người vào với nó vô phương cứu vãn, bởi vì con người, mà hai ông bà nguyên tổ đại diện, đã chấp nhận quà tặng của nó. Theo cách này, chắc hẳn tác giả của chuyện tích này đã muốn diễn tả con người đồng lõa với tội lỗi. Vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, những người đương thời của tác giả không phải là không biết tính chất nghiêm trọng của dấu chỉ này.
Mặt khác, thật là ý nghĩa biết bao khi truyền thống Gia-vít, vốn ý thức sâu sắc về hậu quả của tội (như phần tiếp theo của tác phẩm này cho thấy điều đó), đã chọn để mô tả tội đầu tiên, một hành vi cử chỉ bên ngoài xem ra vô hại như việc hái và ăn một trái cây, một trái duy nhất, từ cây mà người chủ vườn đã dành riêng cho mình; đáng lẽ ra tác giả đã có thể miêu tả một tội ác tày trời (ví dụ như tội Ca-in giết em mình là A-ben). Vì lẽ, ông đã không muốn chúng ta bị nhầm lẫn về bản chất của tội: tội trước hết là một sự xúc phạm trực tiếp đến Thiên Chúa, tác động đến mối tương giao theo chiều dọc giữa Thiên Chúa và con người.
- Họ thấy mình trần truồng
Tất cả những gì con người đánh mất do tội, người kể chuyện diễn tả một cách gợi hình: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng”. Sự trần truồng theo Cựu Ước có nghĩa sự yếu đuối, sự bơ vơ lạc lỏng, không nơi nương tựa, bảo vệ và che chở. Vì tội, hai ông bà đã đánh mất sự nương tựa, tức là Thiên Chúa, đã đánh mất những ân phúc tinh thần mà vườn địa đàng là biểu tượng; họ ý thức tình trạng tội lỗi của mình. Dấu chỉ đầu tiên của tội là xấu hổ vì thấy mình trần truồng, điều này đánh dấu sự đồi trụy trong mối quan hệ phái tính. Vết thương của tội chắc hẳn đã làm xáo trộn cách đặc biệt trật tự tính dục, và qua đó, tất cả mọi liên hệ của con người.
- Tính lịch sử của tội
Chuyện tích của sách Sáng Thế không có tính lịch sử. Tuy nhiên, sứ điệp mà nó trao gửi cho chúng ta mặc khải cho chúng ta rằng thân phận tội lỗi của con người là một sự kiện không “thuộc về bản tính”, nhưng “thuộc về lịch sử”. Thiên Chúa đã không tạo dựng con người gian ác; Ngài đã tạo dựng nên họ tốt lành và tự do (chuyện tích thứ nhất xác định:“theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài”). Thiên Chúa vốn rất mực tốt lành đã không thể tạo ra Sự Ác. Chính sự tự do của con người đã là mầm móng của mọi điều ác.
Tuy nhiên, con người không hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc Sự Ác xâm nhập thế gian, còn có tên cám dỗ, đây là một tình tiết giảm tội. Đó không phải là lý do vì sao đã có sự chuộc tội cho con người, trong khi không có sự chuộc tội cho Sa-tan sao? Đức Kitô đã gợi lên tấm thảm kịch nguyên tổ này: “Xa-tan là tên sát nhân ngay từ khởi đầu; nó là tên nói láo và cha của sự dối trá”.
- Kinh nghiệm lịch sử
Chúng ta có thể nghĩ rằng để xây dựng câu chuyện của mình, nhà biên soạn Kinh Thánh đã nhận nguồn cảm hứng từ chính lịch sử của dân tộc mình. Dân Chúa chọn đã được “lấy” từ hoang địa mà đưa vào Đất Hứa “chảy sữa và mật”, cũng như A-đam đã được “lấy” từ đất hoang dã mà đặt vào trong vườn Địa Đàng. Đối với Ít-ra-en, ngoài Đất Hứa ra còn có ân ban Lề Luật; cũng như đối với A-đam, ngoài vườn Địa Đàng ra còn có huấn lệnh của Thiên Chúa. Chúng ta gặp thấy ở nơi sách Đệ Nhị Luật cũng một cách nói: “Nếu anh em nghe huấn lệnh của Thiên Chúa, Chúa của anh em, anh em sẽ được sống… Nhưng nếu anh em thay lòng đổi dạ…thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong… Tôi đưa ra cho anh em chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa.” (Đnl 30: 15-20).
- Những khía cạnh ngôn sứ
Những khía cạnh ngôn sứ của chuyện tích thì rất nhiều và sâu sắc. Trong một linh cảm đáng ngạc nhiên, tác giả linh hứng đã định vị tấm bi kịch nguyên thủy vào trong một cuộc chạm trán giữa người phụ nữ với Tên Cám Dỗ, ở giữa lòng thiên nhiên còn nguyên sơ. Tin Mừng trình bày một chạm trán trực diện giữa Đức Giê-su và Xa-tan ở giữa lòng hoang địa. Người nữ đã vấp ngã trong khi Đức Giê-su lại chiến thắng tên Xảo Trá. Rõ ràng, bài trình thuật Sáng Thế này là khúc dạo đầu của bài ca khải hoàn dứt khoát của Chúa Giê-su.
Khi cho nhân vật phụ nữ một vai trò ưu thế, phải chăng tác giả muốn vén mở cho chúng ta thoáng thấy một dung mạo nữ giới khác, Đức Ma-ri-a, một tạo vật duy nhất thuộc dòng giống loài người chúng ta, đã hưởng được tình trạng vô tội trước khi nguyên tổ phạm tội, tức là tình trạng “tiền a-đam” như cách nói của các nhà thần học? Đối lại với tiếng “vâng” của bà tổ E-và với Xa-tan, sẽ là lời đáp trả “xin vâng” của Đức Ma-ri-a với sứ thần. Bà E-và ở nơi nguyên khởi của tội, Đức Ma-ri-a ở nơi nguyên khởi của Ơn Cứu Độ. Con người muốn trở thành Thiên Chúa, trong khi Thiên Chúa sẽ trở thành một phàm nhân, như câu nói bất hủ của thánh Giáo Phụ I-rê-nê: “Thiên Chúa làm người để con người trở thành con cái của Thiên Chúa”.
Thêm nữa, làm thế nào sự linh cảm này không làm chúng ta xúc động sâu xa hơn, thấm thía hơn? Bản văn không gợi ra một cách nào đó: đáp lại “việc ăn sinh nên tội” của hai ông bà nguyên tổ là bàn tiệc Tân Ước, ở đó “việc ăn mang lại ơn cứu chuộc”; và đối lại những lời dụ dỗ dối trá của Tên Cám Dỗ: “Nếu ông bà ăn trái này, ông bà sẽ không phải chết” là những lời hứa ban sự sống của Ngôi Lời nhập thể: “Nếu các ngươi ăn bánh này, các ngươi sẽ không chết bao giờ” .
BÀI ĐỌC II (Rm 5: 12-19)
Bài Đọc II, trích từ thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma, đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử tư tưởng Ki-tô giáo. Chính trên bản văn này mà Giáo Hội đặt nền tảng cho đạo lý của mình về tội nguyên tổ, bằng cách quy chiếu đến chuyện tích của sách Sáng Thế, như thánh Phao-lô đã làm.
Thánh Phao-lô đã đọc lại chuyện tích này dưới ánh sáng của mầu nhiệm Nhập Thể: chính khởi đi từ Đức Giê-su mà thánh nhân khai triển tư tưởng của mình, sự can thiệp cứu chuộc của Đức Ki-tô hình thành nên cơ sở của tất cả lập luận; sự liên đới của Đức Kitô với toàn thể nhân loại tội lỗi (liên đới hữu thể như lời phát biểu của thánh nhân: “Chúng ta là thân thể của Đức Kitô”), dọi chiếu ánh sáng trên bản văn của sách Sáng Thế. Từ đây, triều đại tội lỗi đối lập với triều đại ân sủng.
- Lập luận của thánh Phao-lô
Sau khi đã chứng minh rằng tội lỗi thống trị trên toàn thể nhân loại, thế nên mọi người bất luận là dân Do thái hay dân ngoại đều cần đến ơn cứu chuộc, thánh nhân truy nguyên đến tận nguồn gốc của tội bằng cách nêu bật sự tương phản giữa A-đam thứ nhất và A-đam thứ hai (Đức Giê-su).
Thánh nhân xây dựng lập luận của mình theo phép đối xứng nghịch đảo để nêu bật sự tương phản giữa A-đam thứ nhất và A-đam thứ hai (Đức Giê-su). Theo phép đối xứng nghịch đảo này, tiền đề được phát biểu một cách minh nhiên: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (5: 12), nhưng phản đề lại không hiển hiện, ít ra không được đặt ngay liền sau đó, bởi vì các câu 13-14 được chen vào. Tuy nhiên, phản đề này được hiểu một cách mặc nhiên theo trình tự hợp lý của phép đối xứng nghịch đảo: “Qua A-đam đầu tiên, tội lỗi và sự chết đã xâm nhập thế gian như thế nào; qua A-đam thứ hai (Đức Kitô) ơn công chính hóa và sự sống đời đời xâm nhập thế gian cũng như thế”.
Sự gián đoạn của phép đối xứng nghịch đảo này rất có ý nghĩa. Nó nói lên không có cùng chung mức độ giữa việc A-đam vi phạm và sự phục hồi được Đức Ki-tô thực hiện. Đức Ki-tô là nguồn mạch viên mãn của ân sủng trong khi A-đam chỉ là đường dẫn qua đó “tội lỗi đã xâm nhập thế gian” và “sự chết đã lan tràn tới mọi người”. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự tương phản không cùng một mức độ này ở nơi những đối xứng nghịch đảo của 5: 15-17 và 5: 18-19, và lần cuối cùng 5: 20 với những ngôn từ và những chi tiết khác nhau. Chúng ta có thể nói rằng thánh Phao-lô đã nhận được nguồn cảm hứng từ Kn 2: 23-24:
“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người
cho họ được trường tồn bất diệt.
Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người.
Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị
mà cái chết đã xâm nhập thế gian”.
A-đam đã mở ra một lỗ hỏng qua đó Sự Ác đã ùa vào gây ra những tàn phá. Sự Ác được trình bày như một quyền năng, hầu như được nhân hóa, có trước A-đam.
- Triều đại của tội lỗi
Tội lỗi cũng được nhân hóa, như một sức mạnh thù địch chống lại con người: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết” (5: 12a). Sự chết cốt yếu là sự chết tinh thần (cho dù thánh Phao-lô cũng thiết lập mối liên hệ giữa sự chết thể lý và tội lỗi mà sự chết là dấu chỉ).
Câu phát biểu nổi tiếng: “Như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (5: 12b) này đã gây nên những cuộc tranh luận và những giải thích khác nhau do cách hiểu “đại từ quan hệ” của Hy ngữ được đặt sau giới từ chỉ nguyên nhân: “bởi vì”. Chung quy có hai cách đọc và hiểu đại từ quan hệ này.
Cách đọc thứ nhất hiểu đại từ quan hệ này quy chiếu đến A-đam: “Như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì ông, mọi người đều phạm tội”. Cách đọc này đặt mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa tội của A-đam với toàn thể nhân loại. Cách đọc thứ hai hiểu đại từ quan hệ này quy chiếu đến sự chết của câu đi trước theo chức năng văn phạm của câu: “Như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì sự chết này, mọi người đã phạm tội”. Cách đọc này hiểu sự chết như chuẩn y tội phản nghịch của A-đam.
Xin nhắc lại rằng Công Đồng Tren-tô đã đặt nền móng cho đạo lý về tội nguyên tổ của mình trên toàn bộ bản văn, chứ không trên một câu. Dù thế nào, thánh Phao-lô đặt sự chết tinh thần của nhân loại dưới ba mối quan hệ: Sự Ác – A-đam – mọi người, những mối quan hệ nhân quả được thêm vào mà không loại trừ nhau. Thêm nữa, thánh nhân nhấn mạnh điều này trong toàn bộ chương – không một ai “do tự sức riêng của mình” có thể thoát khỏi dòng giống tội lỗi này: nhân tính đã bị thương tổn. Có mối liên hệ hữu thể giữa dòng giống loài người.
Thánh Phao-lô sẽ chứng minh theo cách khác sự thâm căn cố đế của tội. Trước khi có Lề Luật Mô-sê, tội đã có mặt trong thế gian rồi. Thánh nhân phân biệt ở đây sự vi phạm và tội lỗi. Khi có Lề Luật, việc không tuân thủ Lề Luật được xem là vi phạm; nhưng Lề Luật thực sự chỉ làm lộ ra chân tướng của tội lỗi, bộc lộ tội lỗi ra bên ngoài, vì thế Lề Luật không thể gây nên tội lỗi, bởi vì tội lỗi có trước Lề Luật.
- Triều đại ân sủng
Rõ ràng A-đam là tiên trưng phản diện của Đức Giê-su. Chúng ta cảm thấy rằng thánh nhân đã bị đánh động cách mãnh liệt bởi viễn cảnh phi thường này: Đức Ki-tô tự đặt mình liên đới với nhân loại tội lỗi để phá vỡ mối dây ràng buộc nhân loại với sự ác và giúp con người có khả năng tìm gặp lại sự sống thần linh. Thánh Phao-lô phóng chiếu vào trong quá khứ một sự liên đới đầu tiên thuộc loại suy trên dung mạo của A-đam. Nhưng sự liên đới thứ hai thì cao vời vô tận so với sự liên đới đầu tiên. Nguồn ân sủng sung mãn trổi vượt biết mấy trên muôn vàn tội lỗi.
Chính lúc đó thánh nhân mới có thể lấy lại sự so sánh còn bỏ ngỏ: “Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” (5: 15b). Đó là điểm nhắm mà thánh Phao-lô muốn đạt đến: triều đại tội lỗi đến hồi kết thúc, trong khi triều đại ân sủng được thiết lập muôn đời bền vững. Đức Ki-tô, vị lãnh tụ mới của con cái loài người, hướng dẫn nhân loại đạt đến ơn công chính hóa và sự sống.
TIN MỪNG (Mt 4: 1-4)
Chuyện tích “Chúa Giê-su rút vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ” được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Dù có nhiều chi tiết khác nhau, tuy nhiên cả ba đều đặt biến cố này ngay sau khi Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả. Cả ba Tin Mừng đều nhấn mạnh việc Chúa Giê-su rút lui vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ là dưới tác động của Chúa Thánh Thần.
- Gốc tích câu chuyện
Không ai được chứng kiến tận mắt biến cố này, vì thế phải giả sử rằng nguồn cung cấp duy nhất của mọi dữ kiện này không ai khác hơn ngoài Đức Giê-su. Đây là cuộc chuyện trò riêng tư giữa Thầy và trò. Vì thế, chúng ta đến câu chuyện này với lòng cung kính tuyệt đối, vì qua đó Đức Giê-su đã thổ lộ những sâu kín trong lòng của Ngài. Ngài đã cho loài người biết kinh nghiệm của chính Ngài. Đây là câu chuyện thánh hơn hết vì qua đó Đức Giê-su muốn nói với mỗi người rằng Ngài có thể giúp đỡ chúng ta trong những chước cám dỗ. Từ những cuộc chiến đấu của chính Ngài, Ngài đã cho chúng ta thấy Ngài có thể giúp chúng ta trong cuộc chiến đấu của chính chúng ta.
- Hoang địa
Hoang địa nơi Đức Giê-su rút lui là sa mạc Giu-đê, trải dài giữa Giê-ru-sa-lem và Biển Chết. Dãi đất hoang vu này toàn cát vàng, đá vôi bễ vụn và đá sỏi rải rác. Đó là nơi Đức Giê-su thấy mình trơ trọi hơn bất cứ nơi nào khác trong toàn xứ Pa-lét-tin. Những chước cám dỗ đã có thể mặc lấy hình thức của cuộc tranh luận nội tâm, diễn ra trong suốt cuộc rút lui vào hoang địa này như hai thánh Mác-cô (Mc 1: 13) và Lu-ca (Lc 4: 2) gợi ra, đoạn đạt đến cực điểm, vì sự yếu nhược thể lý của Đức Giê-su, do bởi ăn chay lâu dài như thánh Mát-thêu gợi ra (Mt 4: 3).
Đức Giê-su chuẩn bị sứ mạng của mình trong thinh lặng, cầu nguyện và chay tịnh. Hơn nữa, khi người ta ăn chay, có nghĩa người ta khiêm tốn nhận ra mình là tội nhân. Việc Đức Giê-su chay tịnh được định vị vào trong tiến trình nối tiếp sau việc Ngài chịu phép rửa, như vậy Ngài cũng muốn được liên đới với toàn thể nhân loại tội lỗi.
Đồng thời, Đức Giê-su cũng bày tỏ ước nguyện của mình là thu tóm ở nơi bản thân mình vận mệnh của dân Ngài. Như dân Ngài, Ngài đã kinh qua cuộc lưu đày ở Ai-cập khi còn ấu thơ (Mt 2 : 13-16); giờ đây, Ngài trải qua kinh nghiệm ở hoang địa bốn mươi đêm ngày, con số này nhắc nhở bốn mươi năm dân Do thái đã trải qua trong hoang địa, cũng như bốn mươi đêm ngày ông Mô-sê chuẩn bị để đón nhận những lời Giao Ước trên núi Xi-nai.
Chính ông Mô-sê mà thánh Mát-thêu đặc biệt nghĩ đến, như được bày tỏ trong chuyện tích cám dỗ này. Như ông Mô-sê xuống núi Xi-nai để công bố Giao Ước, Giao Ước này thiết lập dân Ít-ra-en thành dân Chúa chọn; cũng vậy, Đức Giê-su sẽ rời bỏ hoang địa để thiết lập một Giao Ước Mới và khai sinh một dân Ít-ra-en mới. Đối chiếu với bốn mươi ngày trong hoang địa, chúng ta cũng sẽ gặp thấy cùng khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên của Đức Giê-su : “Trong bốn mươi ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” (Cv 1: 3).
- Ba chước cám dỗ
Một mặt, ba chước cám dỗ diễn tiến theo trình tự của ba chước cám dỗ chính yếu mà dân Do thái đã trải qua trong hoang địa: bánh man-na (Xh 16 : 4), điềm thiêng dấu lạ (Xh 17) và thờ ngẫu tượng (Xh 32); nhưng trong khi dân Ít-ra-en thất bại trước những chước cám dỗ này, thì Đức Giê-su lại chiến thắng vẻ vang. Mặt khác, ba chước cám dỗ này đều có một nét chung: cả ba đều được sắp xếp nhằm trình bày những quan niệm sai lầm về Đấng Mê-si-a mà Đức Giê-su sẽ gặp phải trong suốt sứ vụ công khai của Ngài. Trong hoang địa, Ngài có đủ sáng suốt và sức mạnh cần thiết để chế ngự chúng.
A- Đấng Mê-si-a trần thế
Sau khi đã ăn chay suốt bốn mươi đêm ngày, Đức Giê-su cảm thấy đói. Quỷ cám dỗ Ngài biến những hòn đá thành bánh: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi !”. Quỷ muốn thử thách quyền năng của Đấng đã nhận tước hiệu “Con Thiên Chúa” vào lúc Ngài chịu phép rửa. Cũng một cách như vậy, những kẻ thù Ngài chế nhạo và thách đố Ngài ở dưới chân thập giá: “Hãy cứu lấy mình đi, nếu mày là Con Thiên Chúa” (Mt 27: 40). Hai chước cám dỗ này rất đối xứng với nhau: lạm dụng quyền Con Thiên Chúa để mưu cầu tư lợi cho riêng mình. Đức Giê-su đã đẩy lùi chước cám dỗ này: Ngài sẽ chỉ sử dụng quyền năng của mình để phục vụ tha nhân.
Xưa kia khi dân Do thái phải đói trong hoang địa và đã nhận được bánh man-na, ông Mô-sê cảnh giác họ đề phòng mọi tham lam của cải vật chất: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8: 3). Đức Giê-su đáp lại Xa-tan cũng bằng những lời này, qua đó Đức Giê-su không chỉ không để lộ chân tính của Ngài, nhưng tự đồng hoá mình với nhân loại. Một ngày kia, khi Đức Giê-su đói, các môn đệ mời Ngài dùng bữa, nhưng Ngài trả lời còn dứt khoát hơn: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết… Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy…” (Ga 4: 32-33).
B- Đấng Mê-si-a đầy quyền năng
Sau khi đặt Đức Giê-su trên nóc đền thờ Giê-ru-sa-lem, Xa-tan đề nghị với Đức Giê-su thực hiện một kỳ công ngoạn mục, nhờ đó Ngài có được một uy thế lớn lao đối với dân chúng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống coi”. Với sự khôn khéo xảo quyệt, Xa-tan trích dẫn Thánh Vịnh 91 theo đó người công chính hoàn hảo, được Thiên Chúa phù trì che chở và truyền cho thiên sứ tay đỡ tay nâng cho khỏi bị vấp chân vào đá (Tv 91: 11-12, 15).
Xưa kia, trong hoang địa, chính dân Do thái cũng đã thách thức Thiên Chúa như vậy: nếu Ngài không ban cho họ nước uống ngay tức khắc, thì họ sẽ nghi ngờ sự hiện diện của Ngài (Xh 17: 1-7), dù trước đó Ngài đã ban cho họ bánh kỳ diệu. Nhờ quyền năng của Thiên Chúa, ông Mô-sê đã ban cho họ nước phun ra từ tảng đá, tuy nhiên ông trách cứ nghiêm khắc dân cứng đầu cứng cổ này: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 6: 16).
Đức Giê-su đã trả lời cho sự thách đố của Xa-tan cũng bằng chính lời của ông Mô-sê: “Ngươi chớ thách thức Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Qua đó, Đức Giê-su bác bỏ lời đề nghị của Xa-tan: Ngài không đòi hỏi Thiên Chúa độ trì che chở Ngài đến độ đặt Ngài ra ngoài thân phận thường tình của con người. Sau này, Đức Giê-su cũng đã nhiều lần bị thách thức theo chiều hướng này: những người Biệt Phái đòi hỏi Ngài một dấu lạ ngoạn mục từ trời để chứng thực Ngài là Đấng Mê-si-a; nhưng Ngài sẽ không ban cho họ.
C- Đấng Mê-si-a thống trị thế giới
Chước cám dỗ thứ ba được định vị trong môi trường khải huyền: một ngọn núi tưởng tượng, Xa-tan chủ tể của mọi vương quốc. Chắc chắn, những hình ảnh được dùng nhằm nhấn mạnh cuộc chiến nội tâm mà Đức Giê-su phải đương đầu: chước cám dỗ về một Đấng Mê-si-a thống trị thế giới.
Đấng Mê-si-a mà dân Do thái chờ đợi mặc lấy nhiều dung mạo; nhưng phần đông hy vọng một Đấng Mê-si-a khải hoàn và chiến thắng, Đấng sẽ khôi phục lại vương quốc Đa-vít, qua đó, sẽ cho phép Thiên Chúa thống trị toàn thế giới. Một chương trình tuyệt vời, nhưng không một chút nào là chương trình của Đức Giê-su. Ngài đến với tư cách là “Người Tôi Trung” và “Con Người”, đó là hai tước hiệu Mê-si-a mà Ngài thường quy chiếu về mình. Khi đám đông phấn chấn muốn tôn Ngài lên làm vua, Ngài liền lánh mặt (Ga 6: 15). Ở Xê-da-rê Phi-líp-phê khi thánh Phê-rô ra mặt chống đối viễn cảnh về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ, Đức Giê-su mạnh mẽ đẩy lùi cơn cám dỗ này: “Xa-tan, hãy lui lại đằng sau Thầy!” (Mt 16: 23). Đó cũng là mệnh lệnh mà Ngài ra lệnh cho Tên Cám Dỗ trong hoang địa: “Xa-tan kia, xéo đi!”. Trong cuộc đời của Ngài, chưa bao giờ xảy ra một cuộc chiến đấu với chước cám dỗ nào dữ dội như cuộc chiến đấu tại vườn Ô-liu, khi quỷ tìm cách cám dỗ Ngài từ chối con đường thập giá.
Thánh Mát-thêu đồng hoá quyền thống trị thế giới với sự khuất phục dưới quyền Xa-tan. Sau này, Đức Giê-su vạch mặt chỉ tên Xa-tan là “thủ lãnh thế gian này” (x. Ga 12: 31; 14: 30; 16: 11; 1 Ga 3: 8). Thánh Phao-lô cũng đồng hoá những quyền thống trị thế giới với những thế lực Sự Ác: “Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước nhưng mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ep 6: 11-12).
Xưa kia, ngay cả trước khi vào Đất Hứa, dân Do thái để cho mình bị cám dỗ thờ lạy ngẫu tượng (thờ bò vàng), ông Mô-sê đã mạnh mẽ xác quyết: “Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải kính sợ; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ” (Đnl 6: 13). Đức Giê-su cũng đáp trả bằng những lời xác quyết mạnh mẽ như thế: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. Lúc đó, thánh Mát-thêu ghi lại một chi tiết có ý nghĩa: “Lập tức có thiên sứ đến gần hầu hạ Ngài”, nghĩa là, Đức Giê-su đích thật là Đấng Công Chính hoàn hảo mà Thánh vịnh 91 tiên báo.
Đức Giê-su đã không chọn những của cải trần thế, nhưng sự nghèo khó; Ngài đã không chọn quyền thế, nhưng sự khiêm hạ; Ngài đã không chọn thờ quyền thống trị thế giới, nhưng Ngài thích bị kết án một cách bất công là “vua dân Do thái” hơn.
Jorathe Nắng Tím
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
Lời cầu xin tha thiết trong Kinh Lậy Cha đã nói lên tình trạng căng thẳng của chúng ta, những con người yếu đuối trước những cám dỗ của Thần Dữ. Đức Giêsu, Thiên Chúa thật và con người thật đã trải qua những giây phút chịu ma qủy cám dỗ, như Tin Mừng đã ghi : “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu cám dỗ” (Mt 4, 1).
Trước hết, chúng ta cần minh định : Thiên Chúa không là “Tên Cám Dỗ”, nhưng kẻ cám dỗ chúng ta là Satan và bè lũ. Mục đích chúng cám dỗ là ngăn cản chúng ta thực thi giới luật Yêu Thương của Chúa, và tìm cách làm cho chúng ta không còn muốn sống theo đường lối của Ngài. Tuy thế, trong mọi trường hợp, cám dỗ luôn là dịp thử thách niềm tin của chúng ta, là cơ hội chúng ta chứng tỏ lòng trung thành với Thiên Chúa, và là thước đo mức độ gắn bó, kết hiệp của chúng ta với Thiên Chúa.
Như Đức Giêsu, khi chịu ma qủy cám dỗ trong hoang địa, Ngài đã làm chứng lòng trung tín sắt son, và kiên quyết vâng phục Thiên Chúa khi đặt mình dưới ánh sáng Lời Thiên Chúa, ngay trong lúc ma qủy thấy Ngài mệt mỏi, vì đói, như Tin Mừng Mátthêu đã kể lại : “Người ăn chay ròng rã suốt bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người…” (Mt 4, 3).
Qủy biết lúc nào thuận tiện để cám dỗ chúng ta, như đã cám dỗ Đức Giêsu khi Ngài mệt vì đói ; qủy biết những lúc chuáng ta khổ đau vì sa cơ thất thế, những lúc thất bại vì bị người thân bỏ rơi, bạn bè phản bội là cơ hội hiếm có để cám dỗ chúng ta ngã lòng trông cậy, tuyệt vọng, khước từ lòng thương xót của Thiên Chúa ; qủy biết thời buổi “ăn nên làm ra”, được “thăng quan tiến chức vùn vụt” là thời cơ dễ làm chúng ta sa chước cám dỗ “kiêu căng, ngạo mạn”, nên huy động lực lượng để cám dỗ chúng ta chống báng Giáo Hội, phạm thượng Thiên Chúa, khinh miệt anh em ; qủy tinh qúai biết rõ càng giầu, càng dễ gian tham, ty tiện, nên cám dỗ chúng ta làm những điều bất công, bất chính tổn thương đến người khác, và lỗi đức công bằng, bác ái, khi chúng ta chỉ còn một ham muốn tiền bạc, của cải.
Trong hoang địa, ma qủy bắt đầu bằng cám dỗ Đức Giêsu về Nhân Tính của Ngài, khi nói với Ngài : “Nếu ông là con Thiên Chúa, thì truyền cho hòn đá này hoá bánh đi !” (Mt 4, 3). Mục đích của ma qủy là thách thức Đức Giêsu từ chối nhân tính của mình, bằng ra tay uy quyền của Thiên Tính mà làm cho những hòn đá trước mặt Ngài hóa thành bánh, bởi điều làm ma qủy cay cú hơn cả là “Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi đã sai Con Một của Người xuống thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1 Ga 4,9). Ma qủy là ganh ghét, hận thù đã không muốn Thiên Chúa yêu thương loài người ; nó còn là bạo lực và sư chết, nên không muốn con người đuợc Thiên Chúa làm người cứu chuộc để ban lại sự sống.
Chính vì thế, ma qủy luôn tìm cách đánh đổ nhân tính của Đức Giêsu, để loài người theo chúng chối bỏ nhân tính của Ngài, như nhiều người, dọc suốt lịch sử Giáo Hội, đã kịch liệt chống đối, phản bác “mầu nhiệm làm người” của Ngôi Lời Thiên Chúa.
Giập tắt cơn cám dỗ về Nhân Tính của qủy, Đức Giêsu đã nhắc cho qủy lời Thiên Chúa : “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).
“Sau đó, qủy đem Người đến thành thánh, và đặt Ngưiờ trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người : Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi ! Vì có lời chép rằng : Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ ra tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Mt 4,5-6).
Đây là cơn cám dỗ của kiêu căng và lòng ham muốn quyền lực. Cơn cám dỗ nguy hiểm đối với mọi người, vì quyền bính, uy quyền, quyền lực là điều ai cũng chờ đợi, mong ước cho mình, bởi có quyền là có tất cả, và khi có tất cả thì chẳng còn sợ ai, không phải vâng phục người nào, và thực hiện được mọi sự theo ý mình.
Cũng với Lời Thiên Chúa, Đức Giêsu đã vượt qua cám dỗ của kiêu căng, quyền lực : “Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Đức Chúa của ngươi” (Mt 4,7).
Qủy lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước trên thế gian và vinh hoa, lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng : “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (Mt 4,8-9).
Cơn cám dỗ cuối cùng lại là cơn cám dỗ khủng khiếp nhất : cám dỗ con người chạy theo ma qủy và tôn thờ chúng, khi mặc cả với con người : nếu thờ lậy ta là Satan, ngươi sẽ có mọi vinh hoa, lợi lộc trên thế gian này.
Không ít người đã bùi tai và nghe ma qủy mà bỏ Thiên Chúa để sấp mình bái lậy chúng, hầu được những lợi lộc trần gian ; không thiếu người đã chấp nhận đầu quân cho Satan vì một mối lợi vật chất nào đó được Satan hứa đem lại.
Điều đáng buồn và lo ngại là thế giới hôm nay có nhiều phong trào, giáo phái “tôn thờ Satan”, vì Satan có khả năng làm cho những người bán linh hồn cho nó đạt được danh lợi, nguyện vọng và thực hiện được những mưu đồ, thủ đọan như họ muốn, nhưng những danh lợi, thành qủa do Satan mang lại ấy đều rất chóng qua, và sẽ đem lại bất hạnh cho người có nó, bởi tất cả những gì thuộc về ma qủy, đến từ ma qủy đều là ganh ghét, dối trá, hận thù, bạo lực, bất hạnh, chết chóc, do bản tính xấu xa, ác độc, gian dối của chúng. Vì thế, đi theo ma qủy và thờ lậy chúng, con người sẽ chuốc vào thân mọi tai ương, vì bản chất của ma qủy, cũng như mục đích duy nhất hoạt động của ma qủy là làm cho con người phải đau khổ, bất hạnh và chết, khi đánh mấtvà xa khỏi Thiên Chúa là Tình Yêu, Ơn Cứu Độ, Sự Sống đời đời, và Hạnh Phúc, Bình An.
Và cũng như hai lần chịu cám dỗ, Đức Giêsu đã xua đuổi Satan và nói với nó : Có lời chép rằng : “Ngươi phải bái lậy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,10).
Chúng ta có thể nhận ra ý Thiên Chúa qua đọan Tin Mừng “Đức Giêsu chịu cám dỗ trong hoang địa” :
- Thiên Chúa muốn chúng ta chân nhận : Ngôi Lời là Thiên Chúa thật và con người thật.
Vì là con người thật, nên Ngôi Lời là Đức Giêsu đã chịu ma qủy cám dỗ như chúng ta, cũng như bất cứ con người nào. Mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người là điểm nóng mà ma qủy và thế gian luôn tìm cách chống phá, lôi kéo người ta phủ nhận bằng mọi chiêu trò.
Sở dĩ ma qủy và thế gian phải chối bỏ mầu nhiệm “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7), vì nếu chấp nhận “mầu nhiệm nhân tính” này, chúng sẽ phải nhận tất cả chân lý về Thiên Chúa do Đức Giêsu mặc khải, vì Ngài vừa là Thiên Chúa, nên biết rõ Thiên Chúa là ai, và Thiên Chúa muốn gì, đồng thời vừa là con người, nên nói được với con người về Thiên Chúa.
Ngoài ra, khi phải chấp nhận mầu nhiệm làm người của Đức Giêsu, ma qủy, thế gian không thể chối từ : Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ duy nhất, bởi chỉ một mình “Thiên Chúa làm người” mới có thể chuộc lại tội lỗi của loài người đã xúc phạm đến Thiên Chúa, do đòi hỏi chính đáng của công bằng.
Vì thế, bằng mọi giá, ma qủy, thế gian luôn tìm tấn công mầu nhiệm “làm người” của Ngôi Hai Thiên Chúa, chống phá “nhân tính thật” của Đức Giêsu, để hủy bỏ công trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa qua cuộc khổ nạn và chết trên Thánh Giá như thánh Phaolô đã viết cho giáo đoàn Philípphê : “Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái qùy, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng : Đức Giêsu Kitô là Chúa…” (Pl 2,9-11).
- Thiên Chúa muốn chúng ta tin tưởng : Ơn của Ngài luôn đủ cho chúng ta (x. 2 Cr 12,9), để chúng ta chiến thắng ma qủy, vượt qua mọi cám dỗ :
Ma qủy không ngang hàng Thiên Chúa. Chúng chỉ là thụ tạo kiêu căng, phản bội đã bị Thiên Chúa xua đuổi khỏi Thiên Đàng và đẩy xuống hoả ngục. Vì thế, chúng không thể vượt quyền Chủ Tạo của Thiên Chúa. Do đó, chúng không thể áp chế ta khi cám dỗ ta. Chúng chỉ có thể lôi cuốn, dụ dỗ, mồi chài, nhưng quyết định nghiêng theo cám dỗ, chấp thuận lao mình vào cám dỗ, và chiều theo đề nghị của chúng hay không là do ta, vì Thiên Chúa ban cho mỗi người ý chí tự do để lựa chọn và quyết định, chưa kể ơn của Ngài luôn tràn đầy nâng đỡ, hỗ trợ, và bên cạnh, chúng ta có Giáo Hội là Mẹ luôn bảo vệ, chở che, cầu bầu.
Vì thế, cám dỗ là việc làm của ma qủy được Thiên Chúa cho phép, để thử thách niềm tin và lòng trung thành của chúng ta đối với Thiên Chúa, như Ngài đã cho phép Rắn Độc cám dỗ Evà, và cho phép Satan thử thách Gióp, tôi trung của Đức Chúa Giavê, nên ngã lòng trông cậy trong khi bị cám dỗ là điều tối kỵ đối với người môn đệ Đức Giêsu, và phải tránh cho kỳ được tâm trạng tuyệt vọng, như Gióp đã luôn vững lòng tín thác ở Thiên Chúa Giavê trong cơn thử thách vô cùng cam go, để trong mọi cám dỗ, thử thách, lúc nào ông cũng một lời ca ngợi Thiên Chúa :
“Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi : xin chúc tụng danh Đức Chúa !” (G 1,21).
- Khí giới tuyệt hảo để chiến thắng ma qủy khi bị cám dỗ là tìm về và dựa vào Lời Thiên Chúa :
Cả ba lần chịu cám dỗ, Đức Giêsu đều lấy Lời Thiên Chúa để chống trả ma qủy, và chúng đã phải thoái lui.
Thực vậy, nguy cơ lớn nhất của con người ngày xưa cũng như ngày nay, và cho đến tận thế là từ chối lắng nghe và suy gẫm Lời Chúa. Và khi không còn lắng nghe, suy gẫm, người ta sẽ không vâng theo, như Evà đã không nghe Lời Thiên Chúa, nên đã ra nông nỗi : “vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập thế gian, và tội lỗi gây nên sự chết” (Rm 5,12) .
Hơn chúng ta, ma qủy biết sức mạnh của Lời Chúa, nên tìm mọi cách để người ta không yêu mến Lời Chúa, không tìm về Lời Chúa, không tôn kính Lời Chúa, không rao giảng Lời Chúa, bằng chứng là hiện nay có nhiều người thích “tấu hài” hơn rao giảng Lời Chúa, thích kể chuyện mình hơn kể cho người khác nghe những kỳ công của Chúa, thích trích văn chương hoa mỹ của loài người khi truyền giáo hơn gieo rắc Lời Thiên Chúa, thích làm cho người khác nghe lời mình ngon ngọt, lôi cuốn hơn để Lời Chúa đi vào, ở lại và đổi mới tâm hồn họ.
Cũng vì biết Lời Chúa có sức mạnh giải thoát chúng ta khỏi cạm bẫy cám dỗ, nên ma qủy ráo riết làm cho con người không quan tâm đến Lời Chúa, không tìm ánh sáng khôn ngoan ở Lời Chúa, không quy chiếu mọi tư tưởng, hành động vào Lời Chúa, không tin Lời Chúa là sức sống đổi mới, không hy vọng Lời Chúa mang lại bình an đích thực, không xác tín Lời Chúa là chính Chúa, nên dần dà Lời Chúa bị thêm bớt, cắt xén, lãng quên, coi thường, diễu cợt, rồi trở nên xa lạ, hão huyền, vô ích với con người.
Vâng, ngay từ buổi đầu tạo dưng, con người đã bị ma qủy cám dỗ, và hậu qủa của tội lỗi khi “sa chước cám dỗ” là bất hạnh và sự chết.
Đức Giêsu, Thiên Chúa thật và con người thật đã chịu cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng ma qủy, khi lấy Lời Thiên Chúa giập tắt cơn cám dỗ. Ngài đã chiến đấu với ma qủy, bằng vũ khí Lời Chúa, và đã chiến thắng chúng bằng vâng lời Thiên Chúa, như thánh tông đồ dân ngoại đã qủa quyết : “Vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5,19).
Xin Chúa cho chúng ta biết yêu mến, lắng nghe, suy gẫm và vâng phục Lời Chúa, là vũ khí của Thiên Chúa đặt vào tay chúng ta để vượt qua cám dỗ, và chiến thắng ma qủy.
Lm. Antôn
Maria Kiều
LỜI CHÚA: “Khi ấy, Chúa Giêsu được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ”.
Sống là chịu tác động của bên ngoài. Có những điều nâng đỡ đời sống của chúng ta lên và cũng có những điều khiến ta ngã quỵ xuống. Ngày nay trong một xã hội luôn chạy theo tiền tài, danh vọng và quyền lực con người ta quên đi sự có mặt của ma quỷ. Nhưng ma quỷ vẫn còn đó và luôn hoạt động tích cực nhằm phá hủy thế giới và tiêu diệt con người. Ma quỷ rất tinh xảo nên con người chúng ta khó nhận ra âm mưu và dấu vết của chúng.
Xoay quanh bài Tin Mừng hôm nay thánh sử Mát-thêu cũng cho mỗi người chúng ta thấy được âm mưu của ma quỷ khi đánh vào điểm yếu của con người là ba điều thiết yếu nhất trong cuộc sống đó là: bản năng sinh tồn, bản năng thống trị, bản năng đối nghịch. Những bản năng ấy gắn liền với nhu cầu căn bản và chính đáng của con người. Bắt đầu sứ vụ công khai:“Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu cám dỗ”(Mt 4,1). Sinh xuống trần gian làm người, Chúa Giêsu cũng mặc lấy bản tính xác phàm như chúng ta, quy luật tự nhiên của con người, đói thì phải ăn.“Khi đã ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày và sau đó, Người thấy đói”(Mt 4,2). Chúa Giêsu đã bị ma quỷ cám dỗ bởi cơm bánh vật chất, những gì thiết thực nhất liên quan đến sự sống còn của con người. Nhưng chính Chúa Giêsu đã sáng suốt chỉ cho ta thấy vật chất không phải là tất cả, bánh vật chất của trần gian là cần, nhưng bánh tinh thần từ Trời còn quí hơn gấp bội. Cơm bánh mà chúng ta cần đón nhận hằng ngày đó chính là bữa tiệc Thánh Thể qua mỗi Thánh Lễ, là Lời Chúa mà chúng ta suy gẫm và lắng nghe mỗi ngày. Bởi đã có lời chép rằng :“Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4b).
Ma quỷ không dừng lại cám dỗ về cơm bánh vật chất mà nó còn muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà con người đánh mất chính mình. Khi ma quỷ khích Đức Giêsu dùng quyền năng của riêng mình để thỏa mãn nhu cầu, Chúa Giêsu đã từ chối. người muốn vâng phục Chúa Cha, tin tưởng phó thác vận mệnh mình trong tay Chúa Cha, để mặc Chúa Cha quyết định. Nhưng nhìn lại trong cuộc sống đôi khi mỗi người chúng ta lại bắt chính Chúa phải theo ý riêng của bản thân chúng ta. Chúng ta vẽ riêng cho mình một con đường và bắt Chúa theo con đường đó. Chúng ta thường lẫn lộn hoặc cố ý hiểu sai Ý Chúa, vì giải thích Lời Chúa theo ý mình. Cơn cám dỗ thứ ba là mộng đô hộ thế giới bằng tiền tài danh vọng, tự cho mình là chỗ đứng bằng Chúa. Ma quỷ luôn cám dỗ để con người tự cao rồi “coi trời bằng vung”. Ma quỷ luôn làm cho con người chúng ta cảm thấy thỏa thích, mãn nguyện trong những vinh hoa phú quý trần gian. Nó dẫn con người đi trong đam mê bất chính, những hưởng thụ lầm lạc. Con người vì kiêu căng nên muốn hưởng thụ tất cả mà dễ dàng bỏ Chúa.
Tuy đã chiến thắng trong thử thách đầu tiên nhưng chắc hẳn trên suốt hành trình rao giảng, Chúa Giêsu còn gặp rất nhiều những thử thách khác. Là những người Kitô hữu, những bạn hữu luôn theo sát chân Chúa trong đời sống đạo và đời, mỗi người chúng ta cũng bị cám dỗ bởi những thứ bên ngoài và những đam mê vật chất. Ngày nay, cơn cám dỗ của ma quỷ vẫn như chiếc bẫy giăng ra để ràng buộc con người trong vòng nô lệ. Muốn chống trả những cám dỗ đó. chúng ta phải bắt chước Đức Giêsu trong những phương thế này: Ăn chay, cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và luôn sống tâm tình con thảo đối với Chúa. Luôn siêng năng chạy đến với Chúa qua bí tích Thánh Lễ là bữa ăn thiêng liêng hằng ngày, luôn tìm gặp Chúa qua những ý định tốt đẹp của Ngài nơi từng anh chị em mình.
Bắt đầu Mùa Chay này, ước mong rằng mỗi Người chúng ta là những Kitô hữu và là những môn đệ đang bước theo chân Chúa sẽ biết noi gương của Thầy mình, luôn hăng say cầu nguyện vâng trọn thánh Chúa Cha, luôn chạy đến với Chúa để xin Ngài nâng đỡ, để chúng ta có thể chiến thắng được mọi cám dỗ của ma quỷ, hầu nhờ đó mà luôn trung thành với Ngài mãi mãi.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Sống trong cuộc đời, dù ở bậc sống nào đi nữa, chúng ta không thể thoát khỏi thử thách cám dỗ. Các vị thánh là những người đã can đảm đối diện và chiến thắng cám dỗ. Nếu đọc tiểu sử của các vị thánh như Thánh Antôn ẩn tu, Thánh Phanxicô Assidi, Thánh Catharina de Siena, Thánh Têrêsa Avila… chúng ta sẽ thấy các ngài là những người đã trải qua những cơn cám dỗ khốc liệt. Như thế, ta có thể định nghĩa: các thánh là những người đã chiến thắng cám dỗ để trung thành với Chúa.
Lời Chúa từ sách Sáng thế cho ta thấy cám dỗ là vấn đề “xưa như trái đất”. Cám dỗ đã hiện hữu ở đầu lịch sử, khi con người còn trong trắng và thân tình với Chúa. Bà Evà, với sự ngây thơ “nữ nhi thường tình” đã mắc mưu con rắn tinh quái và làm trái với lời dặn của Chúa. Cùng với việc ăn trái cấm, bà nghi ngờ lòng tốt của Chúa và phủ nhận những gì Ngài đã làm cho bà. Bà muốn lên ngang hàng với Chúa là Đấng đã tạo dựng nên bà từ bùn đất. Sau khi ăn trái cấm, mắt ông bà đã mở ra. Ông bà thấy nhãn tiền sự dối trá của con rắn. Ông bà cũng thấy rõ hậu quả của sự bất tuân: đó là sự trần truồng. Trước đó ông bà vẫn trần truồng, nhưng không xấu hổ. Nay, thay vì “nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” như lời dụ dỗ của con rắn, thì ông bà lại thấy sự yếu hèn đáng thương của mình. Câu chuyện này làm chúng ta liên tưởng đến một số mánh lới tiếp thị quảng cáo để lừa đảo trong xã hội hôm nay. Dù đã được cảnh báo, vẫn có nhiều người như con thiêu thân lao vào với hy vọng kiếm lời nhanh chóng và họ đã phải trả giá.
Những cám dỗ đến với ta chưa hẳn phải là tội. Chúng giống như những lời quảng cáo chào mời, nếu chúng ta khôn ngoan khước từ, thì không bị mắc bẫy. Chúng ta chỉ phạm tội khi chấp nhận hành động theo cám dỗ. Thánh Phanxicô đệ Salê đã giải thích về cám dỗ như sau: “Hỡi Thiên Kính, hãy tưởng tượng một vị nữ hoàng được lang quân hết tình yêu mến, bỗng có kẻ hư thân kia muốn quyến rũ và làm cho vị nữ hoàng ra nhơ uế, thì nó sai một sứ giả của tình yêu xấu xa đến thương lượng với nữ hoàng về ý định khốn nạn của nó. Trước hết, kẻ sứ giả kia nêu lên ý định của chủ, rồi đến vị nữ hoàng lấy làm vui lòng hay khó chịu với lời đề đạt kia, hoặc vị nữ hoàng ưng theo hay từ chối. Ma quỷ, thế gian, xác thịt thấy một linh hồn được kết hôn cùng Con Thiên Chúa, cũng dùng những cám dỗ và khêu gợi linh hồn ấy” (Dẫn vào đời sống trọn lành, Phần IV, Chương III). Vị nữ hoàng trong giải thích của tác giả có tự do để tuân theo hay khước từ những đề nghị khiếm nhã của “tên cám dỗ”. Bà chỉ phạm tội khi đồng lòng chấp nhận làm theo lời cám dỗ. Đối diện với cám dỗ cũng là dịp để nữ hoàng thể hiện lòng chung thủy với hôn phu của mình. Cũng thế, mỗi chúng ta hằng ngày bị biết bao cám dỗ lôi kéo để đi ngược với giáo huấn của Chúa. Cám dỗ vừa là một “phép thử” lòng trung thành, vừa là cơ hội để chúng ta chứng tỏ mình “ghét tội”, không khuất phục trước lời dụ dỗ ngon ngọt của ba thù.
Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Các tác giả Tin Mừng Nhất lãm đều thuật lại việc Chúa chịu cám dỗ trong hoang địa trước khi khởi đầu sứ vụ công khai. Phải chăng đó là một lời khẳng định cho chúng ta thấy, để có thi hành sứ vụ làm chứng cho Chúa, chúng ta phải được tinh luyện, thử thách như vàng thử lửa, nhờ đó chúng ta có đủ sức kiên trì và vững vàng trước những cám dỗ đang vây quanh chúng ta. Nếu ông Ađam và bà Evà đã ngây thơ ngã quỵ trước lời dự dỗ ngon ngọt của con rắn, thì Chúa Giêsu lại can đảm chiến thắng trước cơn cám dỗ của ma quỷ. Đây cũng là lời khẳng định của tác giả thư gửi tín hữu Rôma (Bài đọc II). Ađam là nguyên nhân sa ngã và kéo theo tội lỗi cho nhân gian; Chúa Giêsu là nguyên nhân ơn cứu độ đem hạnh phúc cho con người.
Như trên đã nói, cám dỗ luôn tồn tại. Ai ai cũng cảm nhận được điều ấy. Những cám dỗ của ma quỷ trong sa mạc vẫn đang hoành hành nơi cuộc sống của chúng ta. Đó là tiền bạc, quyền lực và sự lỗi phạm đức tin. Để trung thành với Chúa và để sống một cuộc sống thanh liêm ngay thẳng, chúng ta phải biết can đảm nói “không” với những chào mời bóng bẩy mà chứa nọc độc chết người. Cùng với những cám dỗ của ma quỷ, còn có những cơn cám dỗ đến từ chính con người chúng ta. Đó là những tham vọng, sự ghen ghét thù hằn, sự ích kỷ đố kỵ và biết bao nết xấu khác. Mùa Chay là thời điểm hồi tâm để chiến thắng chính bản thân, hướng mọi hành động, tư tưởng và việc làm tới những điều thiện hảo như Chúa muốn.
Xin Chúa giúp chúng ta sức mạnh để chiến thắng cám dỗ đang bao bọc vây quanh chúng ta, để sống giữa trần gian, mà lương tâm chúng ta vẫn thanh thoát, tâm hồn chúng ta vẫn gắn bó với Chúa trọn đời. Amen.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Có nhiều người thắc mắc: Ăn chay là gì? Phải chăng là để dằn vặt thân xác, hành khổ con người cho Chúa vui lòng? Hỏi như vậy là chưa hiểu đạo, chưa hiểu hết ý nghĩa của việc ăn chay. Chúa đâu phải quá độc ác, bệnh hoạn, vui lòng khi thấy con người chịu khốn khổ. Ăn chay một phần để hy sinh đền tội, nhưng mục đích chính của việc ăn chay là để thao luyện tâm hồn chống lại quỷ dữ.
Ngày nay người ta quên sự có mặt của ma quỷ. Nhưng ma quỷ vẫn có đó và và vẫn tích cực hoạt động nhằm phá huỷ thế giới, tiêu diệt con người. Ma quỷ rất tinh ma xảo quyệt nên người ta khó nhận ra âm mưu, dấu vết của chúng.
Nhìn vào ba cuộc ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta thấy ma quỷ rất tinh khôn. Nó có kế hoạch, có chiến thuật, tấn công nhiều đợt, nhiều bước.
Thoạt tiên ma quỷ tấn công vào những bản năng sơ đẳng nhất nơi con người: bản năng sinh tồn, bản năng thống trị, bản năng đối nghịch. Những bản năng ấy gắn liền với những nhu cầu căn bản, chính đáng của con người.
Kéo chú ý của người ta vào những nhu cầu rồi, ma quỷ tiến bước thứ hai, đó là phóng đại những nhu cầu đó lên, làm cho người ta lầm tưởng rằng, đó là những nhu cầu cấp bách, phải thoả mãn ngay tức khắc.
Khi ta đã hoàn toàn mê mẩn vì cái bẫy nhu cầu, ma quỷ mới đẩy ta đến bước thứ ba, đó là tìm thoả mãn những nhu cầu theo ý riêng mình. Cách giải quyết đó ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích sau cùng của ma quỷ là xúi giục ta phản loạn, không sống tâm tình người con hiếu thảo với Chúa, chống lại Chúa và sau cùng lìa xa Thiên Chúa.
Ông bà nguyên tổ đã rơi vào bẫy của ma quỷ nên đã không sống tâm tình của người con hiếu thảo, muốn lìa bỏ cha mình, muốn ngang bằng cha mình, muốn chống lại cha mình.
Chúa Giêsu, trái lại, đã sáng suốt vạch trần âm mưu của ma quỷ và kiên quyết sống tâm tình của người con hiếu thảo.
Khi ma quỷ phóng đại nhu cầu, muốn cho Chúa Giêsu tưởng rằng con người chỉ là vật chất, chỉ sống nhờ bánh vật chất, vật chất là tất cả đời sống. Chúa Giêsu đã sáng suốt chỉ cho ta thấy vật chất không phải là tất cả, bánh vật chất của trần gian là cần, nhưng bánh tinh thần của trời cao còn cần hơn.
Khi ma quỷ thúc giục Chúa Giêsu hãy thoả mãn tức khắc nhu cầu của mình, Chúa Giêsu đã biết kiên nhẫn chờ đợi. Khi ma quỷ khích Chúa Giêsu dùng quyền năng riêng của mình để thoả mãn nhu cầu, Chúa Giêsu đã từ chối. Người muốn vâng phục Đức Chúa Cha, tin tưởng phó thác vận mệnh trong tay Chúa Cha, để mặc Chúa Cha quyết định.
Tuy đã thắng trong cuộc đọ sức đầu tiên, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị ma quỷ cám dỗ trong suốt cuộc đời. Cơn dỗ khi thì đến từ những người tin theo Chúa, muốn tôn Chúa làm vua để được ăn no nê bánh vật chất, khi thì đến từ những người chống đối đòi xin phép lạ từ trời xuống. Có lúc ma quỷ mượn chính những người thân tín như Phêrô để ngăn cản Chúa Giêsu thực hành ý Chúa Cha. Có lúc ma quỷ dùng cái chết ghê sợ để uy hiếp tinh thần, mong Chúa Giêsu lùi bước để tìm ý riêng mình. Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ vì Người luôn tìm thánh ý Chúa Cha. Dù khi phải chiến đấu trong mồ hôi pha máu, Người vẫn nói: “Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, xin vâng theo ý Cha mà thôi”.
Ma quỷ vẫn đang tiếp tục tạo nên những cơn cám dỗ. Và nhiều khi chúng ta đã mắc bẫy ma quỷ. Ta mắc bẫy ma quỷ khi mải mê đuổi theo những nhu cầu tiêu thụ quá đáng. Ta rơi vào âm mưu ma quỷ khi ta muốn có tất cả và có tức khắc. Ta hoàn toàn nằm trong vòng tay ma quỷ khi ta dùng mọi phương tiện để thoả mãn những nhu cầu, bất chấp ý Thiên Chúa.
Thay vì tuân phục ý Chúa, tôi luôn luôn bắt Chúa làm theo ý tôi. Thay vì vâng lời Chúa, tôi luôn luôn muốn sai bảo Chúa.
Mùa Chay này, Chúa kêu gọi tôi trở về với Chúa. Muốn trở về với Chúa, tôi phải chiến đấu chống lại ma quỷ. Muốn đủ sức chống lại ma quỷ, tôi phải luyện tập bỏ ý riêng mình và tìm vâng phục ý Chúa.
Hãy đặt ra cho mình một chương trình sống Mùa Chay bằng tăng cường hy sinh, cầu nguyện, ăn chay và làm việc bác ái.
Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót đang chờ đón tôi trở về, và sẽ ban sức mạnh để tôi đủ sức chống lại mọi chước cám dỗ, nếu tôi biết sống trọn tình con thảo, tin cậy phó thác vào Người.
Lạy Thiên Chúa là Cha của con, xin đón nhận tâm hồn khiêm nhường sám hối của con.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Theo bạn, ngày nay ma quỷ còn hoạt động trong thế giới không? Nếu có, bạn cho một ví dụ.
2) Bạn thường thua hay thắng cuộc khi gặp phải cám dỗ. Thua, tại sao? Thắng, nhờ đâu?
3) Đâu là âm mưu của ma quỷ che dấu đàng sau những cơn cám dỗ?
.
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Cuộc sống không thiếu cám dỗ. Cám dỗ chợt đến, chợt đi nhưng nó dũng mãnh như cơn lũ có thể lôi kéo chúng ta lao vào sự dữ. Chỉ một phút mất cảnh giác nó có thể lấy đi nhân phẩm, danh dự của một con người. Nó hiện hữu bên ta như hình với bóng khiến ta lúc nào cũng phải nhớ đến nó. Nó thôi miên chúng ta từng phút giây như nhà văn Tế Xương đã bộc bạch rằng:
“Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ ấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà”.
Cám dỗ hiện hữu khắp nơi, và có mặt khắp chốn. Cám dỗ không cần khua chiêng đánh trống nhưng nó rất tinh vi dẫn dắt ta mê say theo chúng và một khi tỉnh ngộ thì đã quá sa vào sự dữ.
Có một con chuột rơi vào trong lu gạo, số gạo trong lu vẫn còn một nửa, sự cố ngoài ý muốn này khiến nó vui mừng không sao tả được.
Sau khi xác định là không có nguy hiểm gì, nó liền bắt đầu cuộc sống ăn rồi lại ngủ, ngủ rồi lại ăn trong cái lu gạo.
Rất mau, lu gạo sắp cạn kiệt, nhưng nó rốt cuộc vẫn không thoát khỏi sự cám dỗ của những hạt gạo, nên tiếp tục ở lại trong lu. Cuối cùng, gạo đã ăn hết, chuột ta mới phát hiện rằng mình không thể nhảy ra ngoài được nữa, lực bất tòng tâm!
Cuộc đời đôi khi xem ra rất yên bình nhưng thật ra khắp nơi đều đầy rẫy sự dữ chỉ cần một chút mất cảnh giác sẽ bị ma quỷ cướp mất linh hồn chúng ta.
Vậy đứng trước cám dỗ phạm tội vô luân, chúng ta nên phản ứng thế nào? Kinh Thánh cho biết câu trả lời: “Ý muốn của Đức Chúa Trời là anh em phải nên thánh và tránh khỏi sự gian dâm. Mỗi người trong anh em nên biết kiềm giữ thân thể mình thế nào cho thanh sạch và đáng trọng trước mắt Ngài” (1 Thess 4:3, 4).
Khởi đầu mùa chay Giáo Hội cho chúng ta học hỏi cách chiến thắng cám dỗ nơi Chúa Giê-su. Ngài đã chiến thắng cám dỗ nhờ luôn biết chọn vâng phục Chúa Cha hơn là nhu cầu bản thân.
Phúc âm ghi lại ma qủy năm xưa đã cám dỗ Chúa Giê-su bằng những thứ rất hấp dẫn về danh lợi thú. Nó đã mời mọc Chúa ăn đi để quay lưng lại với Chúa Cha như A-đam đã làm năm xưa. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy và còn hứa hẹn cho Chúa nắm gọn trong tay cả và dân thiên hạ. Có kẻ hầu người hạ. Có cơ hội hưởng dùng mọi vinh hoa phú quý trần gian.
Nhưng Chúa Giê-su đã chiến thắng cám dỗ. Ngài luôn chọn theo thánh ý Chúa Cha và vâng phục Chúa Cha. Ngài luôn tìm kiếm thực thi ý Chúa Cha hơn là những phù hoa trần gian. Ngài đến trần gian không phải vì những thứ ấy mà là vì muốn ý Chúa Cha nên trọn. Những cám dỗ ấy dù được bày ra thật hấp dẫn nhưng chỉ là sản phẩm của ma quỷ nên thường là giả tạo và mau qua. Chỉ có Thiên Chúa mới là thật, mới trường tồn qua mọi thời gian nếu con người biết vâng nghe lời Thiên Chúa.
Cuộc đời chúng ta chỉ hạnh phúc khi có tự do. Tự do không bị ràng buộc bởi dục vọng và đam mê. Tự do sống thanh thoát khỏi những tham vọng mù quáng. Tự do không để ma quỷ cám dỗ vào đường tội lỗi. Thế nên, chúng ta cần phải tỉnh thức trước cám dỗ để đừng vì đam mê lầm lạc mà mất tự do trở thành nô lệ ma quỷ.
Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng sự dữ nâng đỡ và giúp chúng ta chiến thắng những cám dỗ đang đeo đuổi và ràng buộc chúng ta. Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta biết thanh luyện chính mình để mỗi ngày nên hoàn thiện như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chủ nhật thứ nhất Mùa Chay đặt chúng ta trước một thảm kịch, mà thảm kịch ấy ảnh hưởng đến sự hiện hữu của chúng ta đó là : tội lỗi và hành động của con người nhằm phá vỡ sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Trình thuật chương đầu tiên của sách Sáng thế cho thấy nguyên tổ của chúng ta đã khước từ Thiên Chúa. Nguyên nhân này nảy sinh từ “con rắn “, ma quỷ hay còn gọi là Satan. Con rắn muốn thực hiên ý định dụ dỗ Adam tự sức mình, lập luật cho mình và trở nên Thiên Chúa, mà không cần sự trợ giúp của Thiên Chúa. Lời nói dối thuần túy ấy đưa con người đến chỗ diệt vong, bóp nghẹt ý muốn hiệp thông với sự sống thần linh của Ađam và cắt đứt mạch sống với Thiên Chúa khi bóp méo Lời Thiên Chúa.
Tin Mừng Matthêu cho thấy Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Nếu như nguyên tổ Ađam và Evà bị Satan ba lần dùng các chiến thuật cám dỗ với mục đích làm cho ông bà nguyên tổ hiểu lầm rằng nó đã làm những điều việc rất tốt cho Ađam và Evà. Nay nó cũng ba lần tấn công vào tương quan tình cha con giữa Chúa Giêsu với Cha Ngài.
Lần thứ nhất, nó đề nghị Chúa Giêsu tách khỏi Chúa Cha, tự khẳng định mình là Thiên Chúa khi nói : ” Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh.” Nhưng Chúa Giêsu đáp lại :” ” Có lời chép rằng : Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4 ). Ngài đã vượt qua thử thách và chiến thắng ma quỷ và tuyên xưng rằng sự sống đích thực chỉ có ở nơi Thiên Chúa, cần phải tin tưởng vào lời hứa của Chúa Cha. Nên Ngài hành động và tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa Cha, vì Ngài biết rằng Chúa Cha là Đấng trung thành. Nơi hoang địa, dân Israel đã chết vì bị cám dỗ sợ thiếu bánh ăn nên tích lũy manna. Dù Thiên Chúa đã yêu cầu không nhặt bánh thừa mỗi ngày. Nhưng họ vẫn nhặt bánh thừa vì nghi ngờ rằng : nếu Thiên không ban cho bánh nữa thì sao? Nếu Thiên Chúa không giữ lời hứa ? Một con chim ở trong tay tốt hơn hai con còn trong bụi rậm. Phần chúng ta, đã bao lần chúng ta bị cám dỗ mất lòng tin vào Thiên Chúa ! Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta rằng Chúa Cha là Đấng luôn trung thành, giữ lời hứa và quyết hối hận vì những gì Người ban tặng cho ta.
Cơn cám dỗ thứ hai, con rắn đẩy Chúa Giêsu vào thế buộc Chúa Cha phải can thiệp cho Ngài : “vì có lời chép rằng : Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông“, điều này ngầm thể hiện sự nghi ngờ mối quan hệ hiệp nhất với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã không làm, Ngài không bắt Chúa Cha thực hiện phép lạ cho Ngài để dạy chúng ta phải khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa. Hậu quả của tội nguyên tổ một lần nữa nghi ngờ rằng Thiên Chúa còn giữ cho mình một cái gì đó mà không ban cho ông bà. Như Thiên Chúa nói với Adam : “Ngươi có thể ăn tất cả các trái cây trong vườn.” Con rắn đã bóp méo lời Thiên Chúa khi nói ngược lại với Evà : “Thiên Chúa nói rằng ngươi không thể ăn tất cả các trái cây trong vườn“. Không, Thiên Chúa không nói thế, vì từ nguyên thủy, Người đã cho chúng ta mọi thứ.
Con rắn đã nói dối, bởi nó phát hiện ra động cơ thực sự, chuyển hướng sang tôn thờ nó thay vì thờ phượng một mình Thiên Chúa như là nguồn gốc mọi điều thiện hảo. Ở đây chúng ta thực sự bị cám dỗ phạm thượng chống lại Thiên Chúa, từ chối Người để theo ma quỷ là kẻ có thể ban sức mạnh cho ta.
Cơn cám dỗ thứ ba : Đỉnh cao của sự cám dỗ này là ngọn núi cao và vương quyền phổ quát của Chúa Kitô. Trên núi này, Chúa Giêsu mạc khải tròn đầy sự từ bỏ trong niềm tin tuyền đối ở tay Cha. Và Chúa Cha đã biểu lộ tình phụ tử viên mãn của mình khi phục sinh Đức Giêsu. Adam mới là Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết và tội lỗi nhờ tin tưởng và phó thác trong tay Chúa Cha. Adam đầu tiên tự cao tự đại, quên đi thân phận thụ tạo của chính mình ” là hình ảnh Thiên Chúa ” có nghĩa là không bình đẳng hoặc đồng bản tính trong tương quan với Thiên Chúa, dẫn đến sự sụp đổ của chính mình. Thay vào đó, Chúa Giêsu Kitô, Adam thứ hai , đã vâng lời Thiên Chúa, hạ mình xuống nên được suy tôn khi phục hổi phẩm giá là con của chúng ta với Cha trên trời (x. Pl 2 : 6-11 )
Phụng vụ Chúa nhật đầu tiên của Mùa Chay đưa chúng ta trở lại với căn nguyên của tội lỗi là : ý muốn tự chủ, từ chối Hồng ân Lời của Thiên Chúa là Cha, Đấng là nguồn gốc mọi điều thiện hảo với tình con thảo.
Câu hỏi đặt ra cho chúng ta là: đâu là vị trí của Thiên Chúa trong tất cả điều ấy?
Vậy chúng ta hãy chọn Chúa, đứng về phía Chúa, đón nhận Lời Chúa như là một hồng ân để chống lại tội lỗi, đương đầu với trận chiến thiêng liêng chống lại thần dữ, ba thù : Ma Quỷ, thế gian và xác thịt.
Lạy Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse cùng Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa, xin giúp sức cho chúng con trong suốt Mùa Chay Thánh này. Amen.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Chúa vào hoang địa nguyện cầu,
Thánh Thần hướng dẫn, cầu bầu Chúa Cha.
Lâm cơn cám dỗ quỷ ma,
Bốn mươi ngày nhịn, đường tà mở ra.
Xúi lòng khiến bánh mưa sa,
Ăn vào khỏi đói, ngợi ca uy quyền.
Nghe rằng Lời Chúa dủ khuyên,
Chính do Thiên Chúa, đã truyền cho dân.
Đưa lên Thành Thánh trước sân,
Đền thờ đỉnh nóc, thiên thần đỡ chân.
Gieo mình nhảy xuống tay nâng,
Là Con Thiên Chúa, không cần phô trương.
Ngươi đừng thử thách mở đường,
Quỷ ma tấn tới, không nhường nói ngay.
Đưa Người lên núi đẹp thay,
Ngó nhìn thiên hạ, dịp may chiếm phần.
Sấp mình thờ lạy quỷ thần,
Cho ông tất cả, chỉ cần bái tôn.
Sa-tan cút xéo liệu hồn,
Phụng thờ Thiên Chúa, túi khôn cuộc đời.
Chúng ta bước vào Mùa Chay Thánh. Mùa chay là mùa sám hối. Sám hối là nhận biết lỗi lầm của mình, rồi hối lỗi, xin lỗi và sau cùng là sửa lỗi. Mùa chay đưa dẫn chúng ta trở về với lòng mình và với Chúa. Nếu lòng chúng ta đầy ứ những lo lắng và lo toan trong cuộc sống, vậy còn chỗ đâu cho chính chúng ta.
Đôi khi chúng ta nghĩ rằng cuộc sống của chúng ta không có vấn đề gì cả. Chúng ta vẫn chu toàn mọi công việc hàng ngày. Sống yên vui trong tổ ấm của gia đình. Chúng ta sống trọn vẹn mọi giây phút có được. Hầu như trong mọi lúc chúng ta đều bị cuốn hút vào một cái gì đó. Như khi lái xe hay đi đường, chúng ta nghe nhạc hoặc nói truyện phôn. Khi về nhà, chúng ta lại mở máy vi tính hay truyền hình xem tin tức, thề thao và các mục chúng ta ưa thích.
Mùa chay là thời gian trở về. Chúng ta cần có những giây phút thinh lặng giúp suy tư và xét mình để nhận diện con người thật của mình. Chúng ta đang sống trong thế giới xô bồ và lẫn lộn. Biết rằng hành trình cuộc sống của chúng ta được kết dệt bằng những lựa chọn không ngừng. Đôi khi chúng ta không biết lựa chọn thế nào cho đúng: Giữa thiện và ác, giữa đúng và sai và giữa xấu và tốt. Đôi khi làm chúng ta phải so đo tính toán và rất khó quyết định giữa hai khoảng cách này.
Sự cám dỗ đưa đẩy chúng ta vào những việc sai trái, mà đôi khi chúng ta không hay biết. Cứ thế chúng ta an vui tự tại trong cách suy nghĩ và cách sống của mình. Những cám dỗ thường ngày rất nhẹ nhàng và tinh tế. Rất khó để phân biệt đúng hay sai. Chúng ta làm gì thì cũng chỉ nghĩ là vui chơi tí thôi, đâu có hại chi. Nhớ câu truyện con ếch ngồi trong nồi nước. Nếu chúng ta bỏ một con ếch vào trong một nồi nước lạnh, rồi đem đun xôi từ từ. Nước nóng dần, con ếch vẫn cảm thấy thoải mái nằm yên hưởng phước và rồi từ từ nước nóng xôi lên, chú ếch chết lúc nào không hay biết.
Ma quỉ cám dỗ rất khôn khéo. Từng bước dẫn ta vào đường lầm lạc. Bà Evà đã bị trúng kế của ma qủy về sự cám dỗ. Bà đi từ việc muốn ăn trái cấm tới việc kiêu ngạo muốn được biết mọi sự bằng Thiên Chúa. Chúng ta hãy ăn chay và cầu nguyện luôn, xin Chúa đừng để chúng con xa chước cám dỗ. Chúng ta không thể tránh các cơn cám dỗ trong cuộc sống. Phải phấn đấu và thắng vượt các cơn cám dỗ, chúng ta sẽ được hưởng phước bên Chúa.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Có chăng một điều gì xuyên suốt qua ba cơn cám dỗ Đức Giê-su phải vượt qua, sau khi Người giữ chay bốn mươi đêm ngày trong hoang địa? Cũng như có không một mẫu số chung nào đó trong cả ba cuộc thử thách được các Phúc âm tường thuật trong cuộc đời trần thế của Đức Giê-su: khởi đầu sứ mệnh công bố Nước Trời, tại vườn Cây Dầu trước giờ tử nạn, và khi bị treo trên thập giá trong giờ hấp hối? Các cơn cám dỗ không chỉ là lẻ tẻ liên quan tới một số lãnh vực nặng tính luân lý, mà tấn công tập trung vào chính sứ mệnh nòng cốt mà Đức Giê-su đang nỗ lực thiết lập và loan truyền: đó là thiết lập một tương quan hoàn toàn mới giữa con người với Thiên Chúa. Các cám dỗ này đều tập trung tấn công trực diện nội dung nòng cốt nhất của Tin Mừng: sứ điệp Thiên Chúa yêu thương.
Mọi tôn giáo đều hướng tới thiết lập mối tương quan giữa Thiên Chúa (Ông Trời, Thượng Đế, Đức Chúa Gia-vê, Đấng Allah…) với con người’; thế nhưng đa phần tương quan này qui về con người nhiều hơn là về chính Thiên Chúa (homo-centric). Rất thường tình khi các ‘tín đồ’ trong việc giữ đạo coi bản thân mình mới là cứu cánh tối hậu của việc giữ đạo! Người ta cầu khẩn cúng bái Ông Trời hay thần thánh thì cũng là để được đáp ứng các nhu cầu bản thân, vật chất cũng như tinh thần. Người ta cố gắng ăn ngay ở lành, hay nắm giữ các qui luật của thượng giới thì cũng là để được ân thưởng theo luật nhân quả. Thậm chí đôi khi điều này càng bộc lộ rõ khi một người nào đó, chỉ vì lợi ích riêng tư, chỉ vì mong được toại nguyện trong các điều họ cầu khẩn mong đợi, mà sẵn sàng rũ bỏ đạo này để cải đạo theo một tôn giáo khác, hoặc bỏ bê vị thần này mà quay ra tôn sùng vị thánh kia.
Về điều này dân Do Thái cũng không phải luật trừ! Từ thời Cựu Ước họ đã nhiều lần kêu trách Gia-vê vì cơn đói khát phải chịu trong thời gian xuất hành trong hoang địa; và để thỏa mãn họ, Đức Chúa đã phải cho man-na từ trời rơi xuống, cho nước mát từ đá tảng vọt ra. Con cái Áp-ra-ham đòi Đức Chúa phải cung phụng họ, như điều kiện để được họ trung thành với Ngài; “Nếu ông là con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh ăn đi”. Cơn thử thách đánh thẳng vào tương quan ‘con người – Thiên Chúa’, mà Giê-su Na-da-rét phải trải qua, cũng cổ điển như thế: là con của Thiên Chúa thì có quyền được no thỏa khi đói bụng, được thỏa mãn các nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Thế nhưng mối tương quan ‘con người – Chúa Cha’ mà Giê-su muốn rao truyền lại hoàn toàn trái ngược: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”; có nghĩa là: trước hết không phải Thiên Chúa buộc phải cho con người no đủ, mà là con người phải qui về Thiên Chúa là nguồn mạnh yêu thương. Tin Mừng Đức Giê-su công bố hiển nhiên lấy Thiên Chúa làm trung tâm (theo-centric)!
Lịch sử Cựu Ước cũng đầy các dẫn chứng như thế: đã là Dân Riêng thì phải được Gia-vê bảo vệ khỏi mọi hiểm nguy; và đó là lý do để họ trung thành nắm giữ giao ước. Ai phụng thờ Đức Chúa thì được Ngài che chở phù trì trong cơn nguy biến, người ta vẫn thường nghĩ thế; “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. Đức Giê-su vượt qua cơn ‘cám dỗ’ phổ thông này với một xác định: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”, có nghĩa là đòi phải có một thứ đức tin vô điều kiện, không đòi hỏi bất cứ điều gì. Thiên Chúa mới là trên hết, và là tất cả!
Đánh mất niềm tin vào Đức Chúa Gia-vê để tin tưởng một chúa nào khác, nhất là vì mưu đồ chính trị hay lợi lộc vinh hoa, luôn bị người Do Thái coi là trọng tội, là tội thờ bụt thần. Thờ bụt thần điển hình nhất chính là: coi mình là tuyệt đối trong tương quan; chính vì thế mà ngay cả việc phụng thờ Đức Chúa đôi khi cũng cần phải được thanh luyện. Về việc này Đức Giê-su rất dứt khoát: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
Ngay cả nhiều Ki-tô hữu qua các thời đại cũng từng bị cám dỗ về đức tin chính ở điểm mấu chốt này: người ta giữ đạo vì hạnh phúc của mình hơn là vì chính Thiên Chúa, người ta mong đạt được phần thưởng thiên đàng hơn là khám phá ra Thiên Chúa trong bản chất của Người, người ta coi hạnh phúc của mình mới là mục tiêu của việc giữ đạo. Ngay cả Đức Giê-su, trong tư cách một con người, cũng giống chúng ta ở chỗ: có khuynh hướng qui về mình trong tất cả mọi tương quan với Thiên Chúa. Trong Vườn Câu Dầu vì lo sợ nỗi khổ nạn đau đớn, Người đã thốt lên: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này” (Mt 26:39). Trên thập giá, trong nỗi cô đơn cùng cực, Người cũng mở miệng than trách: “Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46). Thế nhưng, trong niềm tin chân chính nhất, và đó là điều Người muốn truyện đạt tới mọi Ki-tô hữu chúng ta nhất là hôm nay, Đức Giê-su vẫn luôn xác định Thiên Chúa mới đích thực là trung tâm: “Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”… “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46).
Đối với tôi trong tư cách một Ki-tô hữu, Mùa Chay phải là thời gian đặc biệt Hội Thánh cống hiến giúp tôi vượt qua thử thách đức tin này, điều mà trong tư cách một ‘tín đồ’, chắc chắn ít nhiều tôi cũng đang mắc phải. Niềm tin vào một Chúa Cha yêu thương đã hiến mình và chết cho tôi, điều mà tôi chuẩn bị cử hành trong suốt thời gian này, chắc hẳn không phải chỉ để tôi chỉnh đốn nơi mình mặt này hay mặt khác về diện luân lý, nhưng còn là để điều chỉnh chính tương quan phó thác trọn vẹn theo chiều hướng Đức Ki-tô đã thực hiện trên Thập Giá.
Phải chăng đó mới là mục tiêu đích thực của Mùa chay, thời gian cần thiết để tôi có thể cử hành biến cố ‘Thiên Chúa hiến mình cho tôi’ cách trung thực nhất?
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô! Mùa chay là thời gian dành cho con để củng cố đức tin còn rất non yếu của mình. Xin thanh luyện tâm trí con, để khi cầu nguyện tức là đi vào tương quan với Chúa Cha Nhân Ái, con luôn biết phó thác trọn vẹn và hoàn toàn qui về thánh ý nhân từ của Cha, trước và trên tất cả mọi điều con thầm mong ước. Xin Chúa dạy cho con biết phó thác vô điều kiện cho lòng nhân ái của Cha, trong mọi tình huống cuộc đời kể cả những lúc đen tối nhất. Con cầu xin điều này nhân danh chính Thập Giá của Đức Giê-su Ki-tô là Chúa của con. A-men.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Một triết gia đã nói: “Sống là tranh đấu”. Trong kiếp sống làm người, ai trong chúng ta cũng phải đấu tranh liên lỉ để chọn lựa giữa sự thiện và sự ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa hạnh phúc và đau khổ, đặc biệt lựa chọn giữa sự sống và cái chết. Đây là quy luật muôn đời của cuộc sống nhân sinh.
Bước vào mùa chay, chúng ta cũng được mời gọi nhìn vào nguyên mẫu nơi Chúa Giêsu để bước vào cuộc chiến đấu thiêng liêng. Khi mang thân phận con người, Đức Giêsu cũng phải đấu tranh để vượt qua những thử thách và cám dỗ hầu thực hiện sự lựa chọn căn bản. Đó là chọn con đường Thập giá để thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Cha đã trao phó.
Ý nghĩa của thử thách và những cơn cám dỗ
Ngạn ngữ Pháp có câu: “Người ta dùng lửa để thử vàng, dùng vàng để thử đàn bà, dùng đàn bà để thử đàn ông”. Tình, tiền, tài luôn là những miếng mồi nhử hấp dẫn, và sự cám dỗ về những tham sân si vẫn luôn xảy đến trong cuộc sống con người. Một nhà xã hội học đã nói: “Tiền bạc có thể giúp ta xây được một căn nhà sang trọng nhưng chưa chắc đã là mái ấm gia đình. Tiền bạc có thể giúp ta kiếm được những cô gái xinh xắn nhưng chưa chắc đã là một người vợ hiền thục. Tiền bạc giúp ta quen biết được nhiều bậc danh giá, nhưng chưa chắc họ là những bạn bè tốt”. Bởi vì, tiền bạc chỉ là phương tiện kiến tạo hạnh phúc, nhưng lúc nào nó cũng giống như con dao hai lưỡi.
Khi ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu, nó cũng dùng bả sang giàu phú quý như một miếng mồi nhử. Nơi chúng ta cũng vậy, tiền bạc vẫn là sức mạnh khủng khiếp nhất luôn tấn công nhằm gặm nhấm nhân cách con người. Nó lúc nào cũng trở nên như một ‘con bò vàng’ của thời đại hôm nay khiến chúng ta dễ cúi đầu bái lạy giống dân Do Thái trong sa mạc năm xưa.
Tương tự như thế, những nhu cầu của thân xác như việc ăn uống hay nghỉ ngơi là những nhu cầu chính đáng để con người duy trì sự sống. Nhưng từ nhu cầu để sinh tồn chuyển sang lối sống để hưởng thụ cách ích kỷ chỉ cách nhau một bước. Sống tiện nghi an nhàn nhằm thụ hưởng là một hình thái duy vật mà Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã từng cảnh báo. Kiểu sống như thế sẽ dần gặm nhấm đức tin, làm xói mòn tình yêu của chúng ta đặt để nơi Thiên Chúa.
Những vinh quang trần thế mà ma quỷ đưa ra để chiêu dụ Đức Giêsu cũng là một cái bẫy rất nguy hiểm đối với chúng ta ngày hôm nay, vì khuynh hướng ưa thích thượng tôn cái tôi kiêu căng nơi mỗi người. Thánh Tôma Aquinô đã từng nói có vẻ hơi cường điệu rằng khi chúng ta chết đi, 15 phút sau cái tôi của chúng ta mới chết hẳn. Cái tôi đó vẫn đeo bám dai dẳng, và đi sâu vào phận người.
Đây là những cám dỗ căn bản vẫn luôn xảy ra trong cuộc sống. Chúa Giêsu cũng từng trải qua những cơn cám dỗ như thế trong hoang mạc năm xưa. Ngài đói, ma quỷ đến xúi Ngài biến đá thành bánh để ăn. Ngài nhìn thấy những sang giàu trần thế khi đứng trên núi cao, ma quỷ chỉ vào những của cải đó như một miếng mồi nhử. Ngài là con Thiên Chúa đầy vinh quang và quyền năng, ma quỷ xúi bẩy Ngài gieo mình xuống đất. Đó là những mưu chước rất thâm độc. Nhưng cuối cùng, Chúa Giêsu đã chiến thắng và không bao giờ đầu hàng trước mưu chước của quỷ dữ.
Trong cơn đói cồn cào, Chúa Giêsu đã không chọn bánh để ăn nhưng luôn tìm thánh ý Chúa Cha làm lương thực nuôi sống mình. Đứng trước sự giàu sang phú quý, Đức Giêsu đã chọn cho mình một lối sống khó nghèo tận căn để hiến trao trọn vẹn, ngay đến cả mạng sống. Đặc biệt đứng trước mồi nhử vinh quang, Đức Giêsu đã không nghe lời ma quỷ gieo mình xuống đất, nhưng đã chọn treo mình lên cao, lên đỉnh cao của Thập giá để khai mở chân trời cứu độ cho con người.
Vì thế, những thử thách đến trong cuộc đời mỗi người hôm nay luôn hàm ngậm ý nghĩa sâu xa. Đó là quà tặng Thiên Chúa gửi trao để giúp chúng ta tôi luyện đức tin. Vàng thử lửa, gian nan thử anh hùng. Mẫu gương Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay là bài học chúng ta phải học cho đến suốt đời.
Thử thách nhằm tôi luyện đức tin
Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã từng đọc cuốn sách ‘Thép đã tôi thế đấy’. Tác giả nêu ra mẫu gương của anh chàng Paven, một con người đầy nghị lực đã vượt qua bao thử thách để luôn trung thành với lý tưởng cách mạng. Nhưng đây chỉ là một câu chuyện hư cấu mang tính phóng đại và huyền thoại. Còn đối với các Kitô hữu, chúng ta có một mẫu gương có thật và rất sống động là chính Đức Giêsu. ‘Thép’ trong trái tim Ngài đã được ‘tôi ’ rất kỹ, và cao điểm của quá trình tôi luyện là Ngài đã bị phân thây trên Thánh giá cách nhục nhã như một tên cướp. Ngài là hình mẫu, là lý tưởng và là đối tượng duy nhất của niềm tin chúng ta. Thánh Phaolô đã viết: “Trong khi người Hy Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, người Do Thái tìm kiếm những dấu lạ, chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh vào Thập giá”. Cũng vậy, trong bài đọc hai của phụng vụ hôm nay, Thánh Phaolô nhắc lại niềm tin này và mời gọi chúng ta nhìn vào Thập giá Đức Kitô để kiện cường đức tin mỗi ngày. Đức Giêsu đã đón nhận Thập giá như một ‘Ađam mới’ để ‘giải án tuyên công’, hóa giải thứ án phạt do tội nguyên tổ gây ra. Nhờ máu Người đổ ra trên Thập giá, chúng ta được ‘công chính hóa’, bởi vì trong nhiệm cục cứu độ, ‘ở đâu tội lỗi đầy tràn, ở đó ơn sủng càng chan chứa gấp bội’ (Rm 5,20). Niềm tin vào Đức Kitô phải được tôi luyện qua những gian nan và thử thách. Có như thế chúng ta mới đạt đến đức tin kiên định và luôn bám chặt vào Thập giá. Nhà văn Nikos Kazanzakis đã viết một câu chuyện giả tưởng với tựa đề ‘The last temptation of Christ’ (Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa). Cho dù đó chỉ là một câu chuyện hư cấu, nhưng nhà văn cũng muốn nói lên rằng những thử thách và cám dỗ trong cuộc đời con người chúng ta luôn có liên hệ với Thập giá của Chúa Giêsu.
Kết luận
Có một giai thoại trong cuộc đời thánh Antôn tu rừng ngày xưa. Một bữa nọ trong khi Thánh nhân cầu nguyện, ma quỷ hiện lên và nói với Ngài : “Tại sao các ông chiến đấu và tấn công tôi dữ dằn như vậy?”. Thánh nhân hỏi ngược lại: “Tại sao ma quỷ chúng mày cứ hay cám dỗ chúng tao?”. Ma quỷ trả lời: “Chúng tôi đâu có cám dỗ các ông. Sự ác đã bén rễ nơi tâm hồn mỗi người giống như một cục than hồng đặt sẵn ở đó. Bổn phận của chúng tôi chỉ là đứng bên ngoài để quạt cho cục than cháy đỏ lên mà thôi”.
Chúng ta đã bắt đầu bước vào mùa chay, mùa chiến đấu và tập luyện thiêng liêng. Xin Chúa Thánh Thần ở bên chúng ta mọi ngày. Ngày xưa Thần Khí đã đưa Chúa Giêsu vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ. Xin Chúa Thánh Thần cũng ở cận kề chúng ta trong cuộc sống sa mạc trần gian hôm nay giữa bao thử thách.
.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Sau khi ăn chay được 40 ngày trong hoang địa, Chúa Giê-su cảm thấy cái đói hành hạ Ngài khủng khiếp. Bấy giờ ma quỷ đến đề nghị với Ngài rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!”
Chúa Giê-su đáp: “Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa.” (Mt 4,4)
Đúng vậy, nếu chỉ sống bằng cơm bánh, người ta không thể sống cho ra người.
Hai sự kiện gần đây chứng minh điều đó:
Tại Ukraine vào năm 1983, cô bé Oxana Malaya bị cha mẹ bỏ rơi lúc mới lên ba, phải chung sống với đàn chó hoang, cùng ăn uống và sinh hoạt với chúng. Đến năm lên 8, Oxana mới được giải cứu. Khi đó, người ta thấy cô bò trên đất bằng bốn chân, gầm gừ và “sủa dữ dội” như loài chó. Oxana ngủ trên sàn, ăn uống và vệ sinh cho bản thân giống hệt loài chó.
Vào năm 2011, người ta phát hiện một em bé ở Chi-lê tên là Axel Rivas, bị cha mẹ bỏ rơi từ thơ ấu, đã đi theo bầy chó hoang, bú sữa chó, kiếm ăn với đàn chó, sống chung với chó lâu ngày, nên đã mất hết tính người, không biết nói ngôn ngữ con người mà chỉ biết gầm gừ như chó… (Nguồn: Mentalfloss và http://m.afamily.vn/app)
Hai sự kiện trên chứng tỏ rằng nếu con người chỉ được nuôi bằng cơm bánh mà thôi, thì không thể thành người trưởng thành được mà là nửa người, nửa thú. Do đó, những phụ huynh chủ trương chỉ cần lo cho con mình ăn no mặc ấm là đủ, mà không cần chăm lo giáo dục con cái là sai lầm tai hại.
Cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa
Để sống cho ra người, ngoài việc hấp thụ các loại thực phẩm như một số loài động vật khác, con người cần có lương thực tinh thần như văn học, nghệ thuật, khoa học và đặc biệt là giáo huấn khôn ngoan của các thánh hiền và nhất là Lời Thiên Chúa.
Chúa Giê-su khẳng định rõ điều này: “Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn bằng Lời Chúa nữa.”
Nhờ Lời Chúa dạy, con người mới nhận biết Thiên Chúa Cha là Người Cha yêu quý của mọi người trên dương gian. Ngài là Người Cha đầy quyền năng phép tắc, đầy lòng yêu thương nhân loại là con chí ái của Ngài. Ngài muốn chúng ta gọi Ngài cách thân mật là bố, là ba; tương quan giữa chúng ta với Ngài là tương quan Cha-con thân thiết trong gia đình.
Nhờ Lời Chúa dạy, người ta mới biết Chúa Giê-su là Đấng hiến thân chịu chết đền tội cho muôn dân để họ khỏi chết muôn đời nhưng được sống hạnh phúc vĩnh viễn trên thiên quốc.
Nhờ Lời Chúa, chúng ta biết Chúa Thánh Thần là Thầy dạy cao cả, là vị Quân sư tài ba lỗi lạc, hãy để Ngài dạy dỗ, soi đường chỉ lối để đời ta được thành toàn.
Nhờ Lời Chúa dạy, ta biết mọi người là anh chị em với nhau nên phải yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
Lời Chúa cho biết mỗi người chúng ta là chi thể của Chúa Giê-su và vì thế, khi ta yêu thương phục vụ nhau là phụng sự chính Chúa và được Chúa cho hưởng phúc thiên đàng.
Như thế, Lời Chúa thực sự là lương thực thiêng liêng vô cùng cao quý, nuôi dưỡng tâm hồn con người, mang lại hạnh phúc cho muôn dân và cung cấp cho nhân loại một nền tảng vững chắc để xây dựng một thế giới yêu thương, hạnh phúc trên mặt đất này.
Lạy Chúa Giê-su,
Lời Chúa có giá trị cao quý triệu lần hơn lương thực trần gian.
Xin cho chúng con đừng chỉ mải mê tìm kiếm lương thực đời này mà lãng quên lương thực thiêng liêng là Lời thần thiêng của Chúa.
Xin cho chúng con nhận ra được giá trị cao quý tuyệt vời của Lời Chúa để luôn khao khát học hỏi và đem ra áp dụng trong cuộc đời, nhờ đó, chúng con được hạnh phúc đời nầy và được vui hưởng cuộc sống vĩnh cửu trên thiên đàng mai sau.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Mùa Chay trải dài 40 ngày.Thời gian này nhắc lại 40 năm của dân Israel trong sa mạc trước khi đến Đất hứa, 40 ngày ngôn sứ Êlia ở trên núi Horeb, 40 ngày Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện trong hoang địa.Thời gian 40 ngày là con số tượng trưng nói lên thời gian thử thách và thanh luyện.Trên con đường về Nước Trời, chúng ta trải qua những thử thách và thanh luyện.Thời gian 40 ngày chay tịnh thật quí giá để mỗi người nhìn lại bản thân, đánh giá lại chính mình để sám hối canh tân.
Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau 40 đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.
- Chịu cám dỗ
Làm người ở đời là chấp nhận thân phận chịu cám dỗ. Thánh Kinh đã ghi nhận, từ buổi đầu sáng tạo đã có cám dỗ. Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer, một thiên thần sáng láng đã không vượt qua được cơn cám dỗ, và đã trở thành Satan tăm tối. Tiếp đến, thụ tạo đầu tiên trong con người là Adong và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Nguyên Tổ đã gục ngã thảm thương trước cám dỗ cho nên đau khổ sự chết đã tràn vào thế gian.Trong hành trình về Đất Hứa, dân Israel đi trong sa mạc và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa.Vua Đavit sa ngã trước cám dỗ sắc dục nên đã phạm tội cướp vợ của Uria và đã giết chết người anh em này.Giuđa Iscariốt chỉ vì tham tiền nên đã phản bội Thầy và bán Thầy giá 30 đồng bạc bằng nụ hôn giả dối…Các chước cám dỗ của Satan đều chung quy về ba mục tiêu: danh, lợi, thú.
Thiên Chúa cho phép ma qủy cám dỗ để thử thách xem con người ta có trung tín hay không, và để cho con người có cơ hội lập công phúc, để họ có thể chứng minh đức tin của mình.
Thiên Chúa cho có sự cám dỗ để cho con người phấn đấu thanh luyện mình, và đồng thời, khi Ngài cho phép như thế, ma qủy cũng lợi dụng triệt để mà cám dỗ con người. Mỗi ngày, chúng bày ra những chước độc mưu thâm, mỗi lúc một tinh vi xảo quyệt, lắt léo khôn khéo để cám dỗ người ta.
Thiên Chúa ban ơn thêm sức để con người chúng ta có thể chống lại những cơn cám dỗ ấy. Không khi nào Chúa để con người phải chịu những cơn cám dỗ qúa sức mình chịu đựng được. Như vậy, chúng ta phải chiến đấu với những cơn cám dỗ. Điều cần thiết là chúng ta phải phân định được ma qủy với những hành động cám dỗ xấu xa của nó để chống trả và xa lánh.
- Ma qủy thường cám dỗ như thế nào ?
Ma qủy lừa dối con người.Ai cũng có trí khôn, biết phân biệt điều nào là xấu, là nguy hại và chẳng nên làm. Nhưng ma qủy lừa dối cho rằng việc làm đó là có lợi, là cần thiết nên người ta mới dấn sâu vào. Khi cám dỗ Evà, ma qủy không nói rằng ăn trái cấm đó là chống lại Thiên Chúa, nó chỉ nói rằng ăn trái này thì Bà sẽ được trở nên thông minh như Thiên Chúa. Có nhiều người bước vào nghiện ngập bằng những phút giây sảng khoái thăng hoa lừa dối. Nếu người ta biết sự xấu xa của tội thì có lẽ không ai lại đi phạm tội, nhưng người ta tưởng lầm, hoặc bị cám dỗ coi đó là hạnh phúc. Nếu người ta nhìn thấy những hình khổ nơi hỏa ngục thì chằng ai dám phạm tội. Ma qủy khiến người ta phạm tội bằng cách dẫn người ta một cách từ từ. Không khi nào có ai có thể phạm tội trọng ngay tức khắc, tội trọng chỉ bắt đầu bằng những tội nhẹ. Người ta thường nói, khi còn bé ăn trộm một qủa trứng, rồi khi lớn lên sẽ ăn trộm cả một con bò. Những tội trọng bắt đầu từ những nết xấu hay những tội nho nhỏ. Ma qủy cũng vậy, nó dẫn dắt người ta từ chỗ tưởng chừng vấp phạm những điều nhỏ tới phạm những điều lớn. Không ai nghiện thuốc ngay từ điếu hút đầu tiên, không ai nghiện rượu ngay khi uống chén đầu tiên. Nhưng dần dần nếu lập đi lập lại nhiều lần sẽ dẫn đến chỗ nghiện ngập (x. Buồn vui cùng kiếp người, ĐTGM Ngô Quang Kiệt, trang 33).
Chuyện kể rằng : khi ông Nôe trồng nho, Satan lấy làm lạ nên tiến lại gần hỏi :
– Ông đang trồng cây gì thế ?
– Cây nho.
– Nó có lợi gì không ?
– Có chứ. Trái nó vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng. Từ trái nho ta còn có thể làm ra rượu giúp lòng người hưng phấn nữa.
– Vậy thì để tôi giúp ông.
Satan liền giết một con chiên, một con sư tử, một con lừa và một con heo. Lấy máu của chúng tưới gốc cây nho. Thế là cây nho lớn nhanh. Nôe lấy trái nho làm rượu.
Từ đó trở đi khi người ta uống một chút rượu vào thì sẽ vui vẻ dễ thương như con chiên; uống thêm chút nữa thì mạnh bạo như sư tử; nếu uống thêm thì sẽ ngu như lừa; nếu uống nữa thì… hoàn toàn như con heo vậy. (Truyện cổ Nước Pháp).
Ma qủy luôn lừa dối con người. Chúng ta phải luôn cảnh giác.
- Phương thế chiến thắng cám dỗ.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta phải biết chống cự lại những cơn cám dỗ. Muốn chống lại, phải có những phương thế để có thể chiến thắng.
a). Lời Chúa.
Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu từ những điều thường nhất là cơm bánh hàng ngày. Chúa nhịn ăn 40 đêm ngày, đói thì cần ăn, đó là điều rất đổi bình thường.Ma qủy lợi dụng điều đó để cám dỗ, sau đó mới cám dỗ những những điều mạnh hơn là thử thách Thiên Chúa và chống lại Ngài. Chúa Giêsu dùng Lời Chúa để chiến thắng.
Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma qủy đưa ra một chước cám dỗ thì Ngài lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:
– Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)
– Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)
– Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).
“Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ“. Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: “Satan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm”. Thời cơ ma quỷ chờ đợi chính là lúc Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi “mồ hôi đổ ra như máu”. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “ Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha ” (Mt 26, 39b); “ Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha ” (Mt 26, 42b). Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: “Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin”. Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên “Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Dt 4,15). Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.
Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. “Lời Chúa thì sống động và mạnh mẽ, có khả năng biến đổi những cõi lòng và đưa chúng trở về với Chúa.” (Sứ điệp mùa Chay 2017). “Lời Chúa là một hồng ân”, đọc và suy gẫm Lời Chúa sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.
b). Ăn chay cầu nguyện.
Ăn chay cầu nguyện giúp con người chế ngự bản thân.Tội lỗi của con người là do không biết chế ngự bản thân. Ăn chay cầu nguyện giúp chúng ta biết thanh luyện con người mình, chế ngự bản thân, hãm dẹp dục vọng. 40 ngày Mùa Chay nhắc nhớ về 40 ngày đêm chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, nhắc lại 40 năm dân Do thái lưu đày trong sa mạc chuẩn bị về Đất hứa. Mùa Chay là mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng, giúp chúng ta trở nên người thiện chiến, biết chế ngự và làm chủ bản thân.
Cầu nguyện là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và đã chiến thắng cám dỗ.
Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của ma quỷ, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta !
Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; GLGH #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện, chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với Các Thánh trên trời.Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).
Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn và có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ“. Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.
Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa, thực thi những việc đạo đức của Mùa Chay.
Chúa Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: “Hãy tỉnh thức”. Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.
Mùa Chay là thời gian đặc biệt để sám hối canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và thực hành ăn chay cầu nguyện theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mỗi người chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa hàng ngày như lời mời gọi của Đức Thánh Cha “Anh chị em thân mến, Mùa Chay là mùa thuận lợi để đổi mới cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa Kitô, Đấng đang sống trong lời của Người, trong các bí tích và nơi người thân cận của chúng ta. Chúa là Đấng đã chiến thắng sự lừa dối của Tên Cám Dỗ trong bốn mươi ngày ở sa mạc, sẽ chỉ cho chúng ta con đường chúng ta phải đi. Nguyện xin Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào một cuộc hành trình thực sự của hoán cải, để chúng ta có thể tái khám phá hồng ân lời Chúa, được thanh tẩy khỏi tội lỗi đã làm cho chúng ta ra mù loà, và phục vụ Chúa Kitô hiện diện trong những anh chị em của chúng ta đang túng thiếu”. (Sứ điệp mùa Chay 2017).
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY_A
Lm. Anthony Trung Thành
Chúng ta đã bước vào Mùa chay thánh. Mùa chay thánh hay còn được gọi là mùa chiến đấu thiêng liêng. Đối tượng đặc biệt mà chúng ta phải chiến đấu đã được Tin mừng hôm nay nhắc tới, đó là sự cám dỗ. Vậy, cám dỗ do đâu? Ai bị cám dỗ? Cám dỗ về điều gì? Làm thế nào để thắng được sự cám dỗ?
- Cám dỗ do đâu?
Từ “cám dỗ” thường được hiểu theo nghĩa xấu. Bởi vì, sự cám dỗ thường đến từ Ma quỷ hoặc những hình thức khác do Ma quỷ bày đặt ra. Chẳng hạn, ma quỷ lấy hình con rắn để cám dỗ Adong và Evà phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa; Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu như được ghi chép trong Tin mừng hôm nay; Ma quỷ có thể dùng danh, lợi, thú để cám dỗ con người qua mọi thời đại.
Nhưng chúng ta cũng có thể thay thế từ “cám dỗ” bằng từ “thử thách”. “Thử thách” thường được hiểu theo nghĩa tốt. Thử thách được hiểu như là một cuộc sát hạch, một cuộc thi, ai vượt qua được thử thách ấy là kẻ chiến thắng, được coi như thi đậu. Ai không vượt qua được thử thách đó là kẻ thất bại, hay còn gọi là thi trượt. Kinh Thánh nói : “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Chí sĩ Phan bội Châu cũng nói:
Nếu phải đường đời bằng phẳng hết,
Anh hùng hào kiệt có hơn ai.
Vì thế, thử thách rất cần thiết trong đời sống thường ngày cũng như trong đời sống thiêng liêng. Trong đời sống thiếng liêng, thử thách thường đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa thử thách để biết lòng trung thành của con người. Thiên Chúa đã thử thách ông Abraham khi đòi hỏi ông sát tế Isaac (St 22,1). Thiên Chúa thử thách ông Gióp khi để ma quỷ làm hại con cái, tài sản của ông (x. G 1,1-22; 2, 1-13). Đức Giêsu thử thách lòng tin của người đàn bà Ca-na-an (x. Mt 15, 21-28)…
Như vậy, trong đời sống thiêng liêng: cám dỗ đến từ ma quỷ còn thử thách thì đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa để cám dỗ xẩy ra đối với con người và có những lúc Ngài thử thách con người, nhưng Ngài vẫn luôn muốn con người chiến thắng thử thách, không sa chước cám dỗ. Bằng chứng là trong Kinh Lạy Cha, Ngài đã dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.” (Mt 6,13).
- Ai bị cám dỗ? Cám dỗ về điều gì?
Đã là con người ai cũng có thể bị cám dỗ. A-dong và E-và đã bị cám dỗ. Các thánh cũng thường xuyên bị cám dỗ. Chính Đức Giêsu bởi mang theo bản tính loài người nên Ngài cũng bị cám dỗ. Ma quỷ có thể cám dỗ con người về mọi phương diện. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu về ba phương diện.
Thứ nhất: Lợi dụng khi Đức Giêsu đang đói, cần của ăn, Ma quỷ đã cám dỗ Ngài rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy khiến những hòn đá này biến thành bánh” (Mt 4,3). Chúng ta biết, Đức Giêsu thừa khả năng để làm phép lạ. Sau này, chính Ngài đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no mà còn dư thừa. Nhưng, trong trường hợp này, nếu Đức Giêsu làm phép lạ biến đá thành bánh thì Ngài sẽ mắc âm mưu của Ma quỷ: Thứ nhất, Ngài dùng quyền năng mình sai mục đích; Thứ hai, Ngài không tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Cho nên, Đức Giêsu không làm phép lạ theo yêu cầu của Ma quỷ, trái lại Ngài đã trích lời Kinh Thánh rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”(Mt 4,4).
Thứ hai, Ma quỷ muốn cám dỗ Đức Giêsu về tội kiêu ngạo, muốn tôn mình lên, nên mới nói với Ngài rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa hãy gieo mình xuống đi” (Mt 4,6). Ở cơn cám dỗ này, Quỷ muốn Đức Giêsu đòi hỏi Thiên Chúa can thiệp để làm theo ý mình, nghĩa là áp đặt ý Thiên Chúa trên ý mình để làm phép lạ. Đây là một sự thử thách Thiên Chúa. Đức Giêsu đã biết âm mưu của Ma quỷ, Ngài đã chiến thắng cơn cám dỗ này bằng lời Kinh Thánh: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”(Mt 4,7).
Thứ ba, Tin mừng kể lại: “Quỷ đưa Người lên núi rất cao, và chỉ cho Người xem thấy mọi nước thế gian và vinh quang của những nước đó, rồi nói với Người rằng: ‘Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi’” (Mt 4,8-9). Chúng ta thừa biết rằng, thờ lạy Thiên Chúa là bổn phận của con người. Nhưng con người thường bị cám dỗ từ bỏ Thiên Chúa để thờ lạy các thần khác ngoài Thiên Chúa. Ma quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu về phương diện này. Một lần nữa, Đức Giêsu đã chiến thắng Ma quỷ bằng Lời Kinh Thánh: “Ngươi phải thờ lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”(Mt 4,10).
Như vậy, ai cũng bị cám dỗ. Cám dỗ về mọi mặt nhất là về danh, lợi, thú. Đức Giêsu đã bị cám dỗ và Ngài chiến thắng. Nhờ ơn Chúa, có rất nhiều người đã thắng được cơn cám dỗ nhưng cũng không thiếu những người đã sa chước cám dỗ.
- Làm thế nào để chiến thắng cám dỗ?
Waterstone có viết: “Đầu hàng cám dỗ là hành động của thú tính, chiến thắng nó mới là con người.” Nhưng làm sao để chiến thắng cơn cám dỗ của Ma quỷ?
Thứ nhất, hãy tránh xa chước cám dỗ: Ma quỷ rất tinh ranh, thông thường chúng cám dỗ con người theo cách tiệm tiến. Nghĩa là nó bắt đầu cám dỗ con người phạm các tội nhẹ, đến các tội ít nhẹ hơn, đến các tội nặng và cuối cùng là phạm tội rất nặng. Chẳng hạn, để các trẻ em nghiện geam, ma quỷ dụ dỗ chúng đến các quán nét; để các ông nghiện cờ bạc, ma quỷ dụ dỗ họ thường xuyên lui tới các sòng bạc; để các thanh thiếu niên lỗi đức trong sạch, Ma quỷ cám dỗ con người xem những hình ảnh, những trang mạng xấu (gương vua Đa-vít); để ai đó trở thành kẻ ăn cắp, ma quỷ cám dỗ họ bắt đầu bằng hành động ăn cắp vặt…
Vì vậy, cần đề phòng những nơi nguy hiểm, tránh xa các chước cám dỗ mà ma quỷ bày ra, cố gắng nói không với các chước cám dỗ, cho dù đó chỉ là những lỗi nhỏ nhặt trong cuộc sống hằng ngày. Bởi vì,“Trẻ trộm gà, già trộm trâu, lâu lâu thành giặc.” Mặt khác, cần biết chọn điều tốt và loại bỏ điều xấu; chọn điều lành và bỏ điều ác; chọn Chúa và bỏ Ma quỷ.
Thứ hai, siêng năng cầu nguyện: Thiên Chúa không bao giờ thử thách hay để cho ma quỷ cám dỗ quá sức chịu đựng của con người. Thánh Phaolô đã từng nói: “Ơn Ta đủ cho con” (2Cr 12,9). Chính vì thế, con người cần phải cố gắng hết sức mình để chống trả chước cám dỗ. Đồng thời, hãy dùng những phương tiện Chúa ban để lượt thắng những thử thách mà Thiên Chúa có thể gửi đến và chiến thắng các chước cám dỗ do Ma quỷ bày ra. Có nhiều cách thế để xua đuổi Ma quỷ nhưng cách thế hiệu quả nhất là cầu nguyện. Cầu nguyện để xin Chúa giúp sức cho chúng ta. Đức Giêsu đã cho chúng ta biết, có những thứ quỷ chỉ trừ được bằng “cầu nguyện” (x. Mc 9,29). Chính Ngài mời gọi chúng ta: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo phải lâm vào cơn cám dỗ” (Mt 26,41). Vì vậy, hãy siêng năng cầu nguyện và cầu nguyện sốt sắng. Rất nhiều vị thánh đã chiến thắng được cám dỗ nhờ cầu nguyện. Chẳng hạn, thánh Gioan Maria Vianay đã phải bị Ma quỷ quấy phá suốt 35 năm, từ 1824-1858, nhưng Ngài đã chiến thắng nhờ cầu nguyện. Thánh Antôn, một ngày kia, bị Ma quỷ cám dỗ về đàng trái, Ngài đã cầu nguyện sốt sắng và lấy tay ghi hình thánh giá lên nền nhà thờ, Ma quỷ thấy vậy liền bỏ chạy.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chiến thắng Ma quỷ cám dỗ, xin giúp chúng con đủ sức để chiến thắng các cơn cám dỗ trong đời sống đức tin của chúng con. Amen.
.
P. Trần Đình Phan Tiến
Cám dỗ là một sự “thử thách”, một “ranh giới” giữa Thiên Chúa và ác thần, giữa điều thiện hảo và satan. Con người đứng trên mọi tạo vật có thân xác, bởi vì con người có linh hồn. Linh hồn của con người là “ sự sống “ của Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa là ” Sinh Khí “ hay “ Thần Khí”, tức sự sống siêu nhiên, sự sống không ai nắm bắt được, sự sống vĩnh cửu. Thiên Thần là tạo vật, hay thụ tạo, nhưng không có thân xác, ở cận kề Thiên Chúa. Vì vậy, thiên thần là loài siêu nhiên, nhưng là thụ tạo. Thiên Chúa lại tạo thành một “vật” kỳ lạ, huyền diệu, vừa có thân xác, vừa có sinh khí, thân xác bởi bùn đất, nhưng sinh khí bởi Thiên Chúa, đó là loài người.(St 2, 7 -9). Vì vậy, con người là một động vật, loài thụ tạo huyền nhiệm và linh thánh, vừa hữu thể, vừa vô hình. Một loài thụ tạo duy nhất và là lùng nhất, vừa là là loài vật vừa là thần linh. Có thể nói loài người là “ linh vật”, nên chi được gọi là “ con người ”, khác với con vật, vì có linh hồn bất tử. Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới gọi là bất tử, ngoài Thiên Chúa ra không có chi là bất tử. Vì vậy, sinh khí nơi con người chính là Thần Linh nơi Thiên Chúa.
Chúng ta thấy, loài người đặc biệt biết bao ! Nếu không được Thiên Chúa dựng nên thì làm sao con người được hình thành. Rõ ràng, con người là một sinh vật, nếu không có Sinh Khí của Thiên Chúa , thì không thể được tham dự vào đời sống thần lình, siêu nhiên được. Lúc đó, chỉ có một loài tạo vật duy nhất được sống gần bên Thiên Chúa, đó là Thiên Thần.
Vì vậy, sau khi loài người được tạo dựng bởi Thiên Chúa, thì ngay khi cuộc sống đầu tiên bởi một sinh vật lạ lùng xuất hiện và được Thiên Chúa “sủng ái “, mặc nhiên, dù là thiên thần, nhưng không phải là Thiên Chúa, phát sinh sự đố kỵ, rõ ràng, satan không phải do Thiên Chúa tạo thành. Nhưng, trong giây lát trong bản ngã của một thiên thần vẫn dấy lên sự đố kỵ với loài thụ tạo mới. Tự đi cám dỗ, mách nước với vật thụ tạo mới, đó là con người. Thiên Chúa vẫn đặt ra “cây ác”, bên cạnh “ cây thiện “ để “ thử thách “ loài vật đặt biệt mà Ngài mới tạo thành. Và như vậy, satan xuất hiện, như vậy” satan “ là kẻ ganh ghét và phản ngịch, ganh ghét với loài người và phản nghịch với Thiên Chúa.
Theo đó, con người đầu tiên bất trung với Thiên Chúa, phá vỡ sự cam kết qua “Lời” phán của Thiên Chúa, đó là “ tội ”. Vâng, “tội” đã xâm nhập vào thế giới của con người, gọi là “thế gian”, thế giới gian nan, là thế giới “có tội”. Mặc nhiên, đau khổ xuất hiện, như vậy đau khổ là hệ lụy của “ tội lỗi”, chịu sự trừng phạt của Thiên Chúa, và án phạt lớn nhất là con người “phải chết”. Thân xác phải chết, gọi là ” trả nợ Adong”, đó là “tội tổ tông”. Tội tổ tông là chính nguyên tổ đã phạm tội và người đầu tiên của loài người đã phạm tội, thì án phạt mặc nhiên hệ lụy đến muôn kiếp.
Như vậy, mầm móng satan, hay nguyên cớ của tội là do “ cám dỗ ”, và con người chịu cám dỗ và sa chước cám dỗ, là do bởi không nghe Lời của Thiên Chúa. Như vậy, nguyên tổ Adong đã sa chước cám dỗ cách gián tiếp bởi một người “phụ nữ”, người nầy cùng được tạo thành với mình, gọi là đồng loại. Người phụ nữ nầy đã nghe theo lời của satan, chứ không nghe theo Lời của Thiên Chúa. từ đó, án phạt sự dữ, sự đau khổ và sự chết xuất hiện. Như vậy, dòng giống loài người phải mang án phạt đó, trải dài giòng lịch sử của con người, gọi là nhân thế, phải đau khổ, và biết bao hệ lụy của khổ đau.
Từ đó, sự kêu cầu , sự than van , rên xiết cảu nhân thế, Thiên Chúa không bỏ mặc họ dưới quyền của đau khổ, sự dữ và sự chết. Thiên Chúa chọn một dân riêng để lãnh đạo, hướng dẫn qua các ngôn sứ. Vì , Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn thánh thiện và siêu nhiên, nên, Ngài chỉ phán bằng LỜI mà thôi. Như vậy, trải qua hành trình giải thoát “gián tiếp” qua các tổ phụ và tiên tri, Thiên Chúa đã giải thoát “dân riêng “ của Ngài “ vượt qua “ nhiều lần hiểm trở. Như Vượt Qua “ khỏi “ nạn sát hại các con đầu lòng của người Ai-cập, vượt qua Biển Đỏ “ khô chân “của Pharaol.
Như vậy, Mùa Chay của Cựu Ứơc là nhắc nhớ hành trình cứu thoát của Thiên Chúa trên dân riêng của Ngài, Vượt Qua nhiều lần nguy hiểm để “cứu “ thoát dân mà Thiên Chúa chọn. Mùa Chay là mùa nhắc nhớ hồng ân cứu thoát của Thiên Chúa, mùa đền tội, mùa thống hối. Qua đó, Thiên Chúa sẽ ban Đấng Cứu Tinh đến cho nhân loại, từ đó , sẽ có một Lễ Vượt Qua mới.
Và , Mùa Chay của Tân Ứơc là hành trình nhắc nhớ Lễ Vượt Qua của Đức Kitô, Đấng đã đến để kiện toàn lề luật. Theo đó, Tin Mừng hôm nay ( Mt 4, 1 -11), trình thuật biến cố Chúa Giêsu chịu cám dỗ bởi satan.
Rõ ràng, bị cám dỗ là động thái mà loài người phải chịu vì ý nghĩa nêu trên. Khi Đấng Cứu Thế đến , Người mặc lấy nhân tính hoàn toàn, thì satan càng hờn ghen, bởi vì, dù loài người sa ngã, nhưng , Thiên Chúa vẫn yêu thương và không bỏ mặc, lại còn ban Đấng Cứu Thế đến, vì vậy, trước khi chu toàn sứ vụ Thiên Sai cách công khai, Chúa Giêsu được Thần Khí Thiên Chúa đưa vào hoang địa để chịu satan cám dỗ.
Như vậy, ba lần Chúa Giêsu chịu cám dỗ là Người đã ăn chay bốn mươi đêm ngày rồi, vì mang tính phàm nhân, tức nhân tính hoàn toàn, ngoại trừ tội lỗi. Thì, Chúa Giêsu cảm thấy đói, satan liền cám dỗ thức ăn.
Mặc nhiên, satan biết rõ về phần Thiên Tính của người, nó phủ đầu, khiêu khích Chúa Giêsu : “ Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy biến những hòn đá nầy thành bánh đi.” (c 3)
Quả nhiên satan vẫn ngoan cố, dù biết Người là Thiên Chúa, nhưng , bản tính Thiên Chúa chịu mang lấy sự hữu hình của nhân thế, nên satan càng tức ghen.
Chúa Giêsu dung Lời Kinh Thánh đáp lại : “ Đã có Lời chép rằng : Người ta sống không chỉ nhở cơm bánh, mà còn nhờ bởi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” ( c 4).
Như vậy, Chúa Giêsu cho chúng ta biết Lời Chúa là “ Lương Thực” nuôi sống phần “sinh khí” , tức sự sống thật bởi Thiên Chúa, đó là linh hồn con người.
Như vậy, ý nghĩa việc ăn chay thân xác, sẽ giúp chúng ta có cơ hội “sống Lời Chúa”.
Lần thứ hai, satan lại dùng sự kiêu ngạo, sự tự cao, sự tài giỏi mà thử thách Chúa Giêsu. Nó đã dùng ngay Lời Kinh Thánh. Chúa Giêsu dùng ngay Lời Kinh Thánh mà quở trách nó. “ Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi “( c 7) . Dù mặc lấy sự hữu hình, nhưng Chúa Giêsu vẫn là Thiên Chúa của satan, nó ngạo mạn, nhưng Chúa Giêsu vẫn biểu lộ sự khiêm tốn, vì ,Người tự nguyện mặc lấy nhân tính phàm nhân. Một sự tự nguyện mang tính Cứu Độ con người, vì thế ,Chúa Giêsu vẫn “nhẫn nại” trả lời cho satan.
Lần thứ ba, satan lại dùng mưu kế khác, lần nầy là quyền lợi vật chất, phú quý vinh hoa, nó nghĩ rằng với tính phàm nhân, Chúa Giêsu sẽ đánh đổi để suy phục nó. Thật là ngu ngốc, với một “nguyên tổ” loài người có thể sa ngã, nhưng, đây chính là Một Ngôi Vị Thiên Chúa đã “từ bỏ” moi sự ngang hàng với Thiên Chúa, tự nguyện mặc lấy nhân tính hữu hình, để cứu độ con người, thì làm sao mắc bẩy satan. Vì ,Người đã hoàn toàn trút bỏ mọi uy quyền, để chỉ tôn thờ duy nhất một Thiên Chúa là Cha. Lần nầy Chúa Giêsu đã lên tiếng đuổi satan, hỡi satan , hãy xéo đi, cút đi. Vì có Lời chép rằng : “ Ngươi phải thờ lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và chỉ phụng thờ một mình người mà thôi “Thế là satan phải rút lui, và các thiên sứ tiến lại hầu hạ Người.
Vâng, là Ngôi Lời Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã từ bỏ tất cả, nơi Người chỉ còn lại là sự khiêm hạ vâng lời, và vâng lời cho đến chết, hầu cứu thoát thế nhân tội lỗi khỏi thế lực satan. Vì vậy, dù là trong nhân tính, Người vẫn từ bỏ mọi sự, sự chay tịnh, hay chịu cám dỗ về thế lực và uy quyền, Người cũng chẳng màng, bởi nơi Người chính là Thiên Tính thần linh ngự trị.
Chúng ta bước theo Chúa Giêsu , trong những cơn cám dỗ, chắc chắn chúng ta không thể lướt thắng satan, nếu như chúng ta không “bám sát” vào Chúa Giêsu. Bởi vì, nơi chúng ta vẫn mang một xác thịt nặng nề, yếu đuối, nhưng, chúng ta đừng quên rằng, trong thân xác yếu đuối, chúng ta vẫn có linh hồn là sinh khí của Thần linh, nếu chúng ta biết cậy trông vào Chúa Giêsu , linh hồn chúng ta thật sự cố gắng noi theo gương chiến thắng ba cơn cám dỗ của Người, thì chúng ta sẽ có một ân sủng siêu nhiên phù giúp.
Đoan Tin Mừng ( Mt 4, 1 -11) hôm nay, không phải chỉ để nhắc lại cho nhớ mà thôi, mà còn là một động lực giúp chúng ta chiến đấu chống lại cám dỗ, nếu chúng ta quyết tâm từ bỏ những quyến rũ của satan. Vâng, đây là ý nghĩa của Mùa Chay, được gọi là Thánh, bởi vì chính Chúa đã thánh hóa Mùa Chay qua gương chịu satan cám dỗ.
Như vậy, Mùa Chay của Cựu Ứơc chỉ là giục lòng sám hối, là hình thức cho con người tự làm, như than van , khóc lóc. Nhưng, Mùa Chay Tân Ứơc đã được thánh hóa bởi gương chịu cám dỗ của Đấng Cứu Thế hôm nay. Vậy, Chúa Giêsu chịu satan cám dỗ, là chính để thánh hóa những ai đã đang bước theo Chúa Giêsu và chịu cám dỗ, hãy tin rằng có Chúa Giêsu cùng đồng hành.
Thánh vịnh 50 hôm nay diễn tả sự thống hối của Vua Đavit, một vị vua khôn ngoan , đầy tài năng, nhưng vẫn yếu đuối. Nhưng, chính sự vấp ngã của Vua Đavit, là một sự mạnh mẽ bởi tâm hồn thống hối, đến độ sự thống hối của ngài là một mẫu “ GƯƠNG THỐNG HỐI “.
Bài đọc II ( Rm 5, 12 -19) thánh Phaolo cho chúng ta biết, vì một người mà muôn người chết là Adam, thì nhờ gương một Người là Đức Kitô, mà muôn người được “cứu”. Như vậy, giá cứu chuộc của Đức Kitô là cao cả vô song.
Lạy Thiên Chúa là Cha đầy lòng lân tuất, mỗi năm đến Mùa Chay Thánh, chúng con lại được nhắc nhớ đến hành trình cứu chuộc của Đức Kitô – Giêsu. Người đã noi gương lướt thắng cám dỗ, hầu giúp chúng con nhận biết, Người đã hạ mình chịu satan cám dỗ vì chúng con, hầu để tôn vinh và phụng thờ Thiên Chúa duy nhất và hằng hữu mà thôi./. Amen
Nguyện xin Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse cầu bàu cho chúng con trong Mùa Chay này, hầu giúp chúng con lướt thắng satan./. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Ma quỷ rất ghét khi con người hướng về Thiên Chúa và đến gần Thiên Chúa. Chúng tìm mọi cách quấy phá để ngăn chặn chúng ta. Nó lợi dụng những lúc chúng ta “yếu đuối” (cả thể lý và tinh thần), nó sẽ tấn công. Nó đã áp dụng “chiêu” đó khi thấy Chúa Giêsu cảm thấy đói sau 40 ngày ăn chay.
Tình trạng “đói” là trường hợp cụ thể – đói về thể lý hoặc đói về tinh thần (khao khát, ham muốn, tham lam,…). Ông bà nguyên tổ đã sập bẫy nó giăng chỉ vì miếng ăn. Nhiều con nghiện (ma túy, rượu chè, cờ bạc,…) chỉ thử xem sao, thỏa mãn tính tò mò, thỏa “cơn đói khát” của tính tham-sân-si mà ma quỷ đã ngấm ngầm “gieo” vào lòng họ, để rồi không thể thoát khỏi “chiếc vòng kim cô” của nó ghim chặt vào đời mình.
Ma quỷ rất xảo quyệt, và cơn cám dỗ rất đa dạng: Tiền tài, danh vọng, chức tước, địa vị, quyền hành, nhục dục,… Đủ loại mưu ma chước quỷ. Có thể nói rằng bắt nguồn từ con mắt, vì “con mắt là cửa sổ tâm hồn”, nhưng chính cái “cửa sổ” ấy cũng có thể nguy hiểm, không tỉnh thức thì cái “cửa sổ” đó sẽ khiến chúng ta “trắng tay” (cả nghĩa đen và bóng), và dẫn tới chốn diệt vong.
Chúa Giêsu đã nói: “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng thì toàn thân anh sẽ sáng. Còn nếu mắt anh xấu thì toàn thân anh sẽ tối. Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối thì tối biết chừng nào!” (Mt 6:22-23; Lc 11:34-36). Quả thật, mắt là “đầu mối” của tham-sân-si. Chỉ vì nhìn không khéo mà bị người khác cho là “nhìn đểu”, thế là xảy ra cãi vã, ẩu đả, thậm chí là án mạng.
Cám dỗ là gì? Đó là mưu mô “dụ dỗ” người khác, bằng động thái hoặc lời đường mật, khiến họ mắc lừa mà sa ngã. Nói theo ngôn ngữ bình dân, cám dỗ là “dụ khị”. Nói thẳng ra là “lừa bịp”. Tất nhiên, cám dỗ cũng có những mức độ khác nhau, và lúc nào cũng có những chước cám dỗ – bất kể ngày hay đêm. Chỉ lơ là một chút thì sẽ “chết chắc”. Cơn cám dỗ rất tinh vi, rất khó nhận ra, đến khi biết thì… muộn mất rồi! Chiến đấu với cơn cám dỗ là chiến đấu với chính mình – một trong ba kẻ thù đầu sỏ (xác thịt, thế gian, ma quỷ), đó là cuộc chiến cam go nhất!
HÈN NHÁT NÊN SA NGÃ
Văn sĩ trào phúng Mark Twain (1835-1910, Hoa Kỳ): “Điều cấm đoán có sức mê hoặc đến nỗi khiến nó hấp dẫn không thể tả”. Quảng cáo nào cũng hay, cám dỗ nào cũng ngọt bùi, đầy hoa mỹ lộng lãy, hứa hẹn tương lai xán lạn, nhưng đến khi biết hối hận thì không còn kịp nữa. Cơn cám dỗ giống như những con sóng thần (26-12-2004 tại Thái Lan, 11-3-2011 tại Nhật Bản), nước biển đang êm đềm, bất ngờ nổi sóng và giật ngược, không ai chạy kịp!
Ngày xưa, trên hành trình vào Miền Đất Hứa ròng rã suốt 40 năm, Dân Chúa đã phải cảnh giác cao độ trước những thứ cám dỗ không ngừng (x. Đnl 8:7-20). Chính Chúa Giêsu cũng căn dặn: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Mc 14:38; Lc 22:40; Mt 26:41a). Tại sao vậy? Lý do rất đơn giản: “Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41b; Mc 14:38). Thật vậy, phàm nhân chỉ là bụi tro, mau tan như hạt sương, rất yếu đuối, bạc nhược và khốn nạn, ấy thế mà lại rất “chảnh”, cứ tưởng mình là “số dzách”, ngang bướng hết nước hết cái, sẵn sàng “nổi loạn” bất kỳ lúc nào. Ôi, lạy Chúa, thật là khủng khiếp!
Nhân loại chúng ta chỉ như “tác phẩm” của nghệ nhân điêu khắc mà dám “chống lại” người tạo tác nên mình. Gan cùng mình, liều hết nước! Chúng ta không chỉ có sinh hồn như cỏ cây (sống và động), có giác hồn như động vật (biết vui, biết buồn, biết yêu, biết ghét,…), mà đặc biệt hơn cả là có linh hồn, biết lành và biết dữ. Triết học cũng phải công nhận rằng “con người là sinh vật cao cấp nhất”. Nhờ linh hồn mà con người trở nên “cao cấp”, nhưng chính linh hồn đó là do Thiên Chúa trao ban: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2:7). Ngài ẩn mặt đi, chúng ta liền rụng rời kinh hãi; Ngài lấy sinh khí lại, chúng ta tắt thở ngay và trở về cát bụi (Tv 104:29).
Thiên Chúa quan phòng và tiền định, Ngài chuẩn bị mọi thứ xong xuôi đâu đấy rồi mới tạo dựng con người, Ngài lo liệu trước để cho con người có cái mà tận hưởng. Ngài trồng một vườn cây ở Ê-đen (phàm ngôn Việt ngữ quen gọi là Vườn Địa Đàng, cõi Thiên Thai), ở về phía Đông, Đức Chúa đặt vào đó con người do chính Ngài nặn ra. Ngài khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác. Ngài “thiết kế” hai loại người: nam và nữ. Họ không chỉ được tận hưởng mọi thứ và có quyền trên mọi loài khác, mà họ còn được tận hưởng niềm hạnh phúc do kết hợp âm dương, và đó cũng là cách cân bằng giới tính. Ấy thế mà con người vẫn chưa thỏa lòng, vẫn tham lam, vẫn tranh giành, vẫn muốn nổi loạn!
Trong các động vật Thiên Chúa tạo dựng, có con rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật. Nó là hiện thân của ma quỷ. Nó ghen ăn tức ở với con người nên nó đã “dụ khị” người đàn bà: “Có thật Thiên Chúa bảo các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” (St 3:1). Người đàn bà “hồn nhiên” nói với con rắn: “Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: “Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết” (St 3:2-3). Rắn nói với người đàn bà: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3:4-5). Ranh mãnh và xảo quyệt thật! Lời nó ngọt như mía lùi thế thì sao mà người-phụ-nữ-đầu-tiên không thấy “mát ruột” cho được. Đúng là “nói ngọt lọt tận xương” mà!
Thật là chí lý khi người ta bảo “gái tai, trai mắt”. Đàn ông là sóng cồn, còn phụ nữ là sóng ngầm. Sóng ngầm khó tránh hơn sóng cồn. Cuộc đời có sự-cám-dỗ-dây-chuyền: Ma quỷ liên quan Đàn bà liên quan Đàn ông. Chàng A-đam “chết ngắc” vì nàng E-va, còn chàng Samson đành “bó tay” vì lời nỉ non “dụ dỗ” của nàng Đa-li-la (x. 16:4-21).
Nghe bùi tai với lời xúi dục của con rắn, lại nhìn thấy “trái cấm” có vẻ ngon và hấp dẫn lắm, nhất là sau khi ăn trái đó thì mình được tinh khôn, nàng E-va Sướng rơn! Thế là cầm lòng chẳng đặng, bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình. Khốn thay là ông A-đam nghe bà xã dụ thế nào mà cũng dám “chơi” luôn. Đàn bà “đáng nể” thật đấy! Thế là y như rằng, bấy giờ mắt cả hai người mở ra tròn vành vạnh, sáng như đèn cao áp, họ mới giật thót vì mắc cở hết sức khi nhìn thấy nhau trong tình trạng “không mảnh vải che thân”. Ui da, kỳ quá chừng! Họ hết hồn hết vía, luýnh quýnh chạy đi lấy lá vả kết làm khố che thân. Đoạn phim “thú vị” thật, có lẽ đây là đoạn phim độc nhất vô nhị và hay nhất từ thuở hồng hoang cho tới tận thế!
Là phụ nữ đầu tiên xuất hiện trên trái đất, bà E-va được mệnh danh là “mẹ của chúng sinh” (St 3:20). Cách gọi đó là do chính ông A-đam yêu vợ mình quá nên mới tôn bà xã lên như vậy. Chúng ta là con cháu nên cũng bị “di truyền” gen Tội Nguyên Tổ. Cái gen ác nghiệt hết sức, nhưng đành chịu thôi! Đâu chỉ do di truyền, chúng ta còn hằng ngày vẫn liều mình “coi trời bằng nắp bia” nên phạm tội hơn tằm ăn dâu. Chính vì thế, chúng ta phải đêm ngày thú tội và hết lòng van xin: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử” (Tv 51:3-6). Thật diễm phúc cho chúng ta vì Thiên Chúa là Đấng luôn giàu lòng thương xót (Ep 2:4) và không hề chấp tội (Tv 130:3).
Máy móc nào cũng luôn phải tân trang nhiều lần, hết tiểu tu, trung tu, rồi đại tu, thế mà vẫn xục xịch. Chúng ta cũng vậy, cứ hứa rồi lại quên, quyết tâm chừa rồi lại tái phạm. Trái tim của chúng ta cứ sửa tới sửa lui, rửa bằng đủ loại “thuốc tẩy” mà vẫn không sạch. Chán thật! Chỉ có Chúa mới có thể điều chỉnh nó. Do đó, chúng ta vẫn phải kiên trì mà năn nỉ Ngài: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con” (Tv 51:12-14). Có thế mới được lãnh nhận ơn cứu độ. Và chắc hẳn ai trong chúng ta cũng chỉ mơ ước được như vậy!
Hằng ngày, Giáo hội vẫn cầu nguyện trong các giờ kinh nhật tụng: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” (Tv 51:17). Mỗi chúng ta cũng hãy tha thiết cầu xin như vậy, nhất là mỗi sớm mai thức dậy. Nhờ đó mà bớt hèn nhát và bớt sa ngã, nhất là trong Mùa Chay này.
CAN TRƯỜNG NÊN CHIẾN THẮNG
Napoléon Đại Đế là người đã từng chinh Nam phạt Bắc thế mà còn phải thốt lên: “Chiến thắng một đạo quân còn dễ hơn chiến thắng chính mình”. Thánh Phaolô cũng đã thú nhận: “Tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7:15). Thật vậy, không ai có thể nói khôn. Chưa gặp cám dỗ thì chưa thể nói mình mạnh. Chưa có dịp phạm tội thì đừng tưởng mình đạo đức. Có cơn cám dỗ mà không chiều theo nó thì mới là người hay, người giỏi; có dịp phạm tội mà không phạm tội thì mới là người đạo đức, thánh thiện. Đừng vội trách những người phạm tội. Chúng ta ghét tội và cương quyết chống lại tội chứ không ghét người có tội!
Trên hành trình sám hối trong Mùa Chay, Giáo hội nhắc nhở chúng ta về cách so sánh của Thánh Phaolô: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội. Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật, thì tội không bị kể là tội. Thế mà, từ thời A-đam đến thời Mô-sê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như A-đam đã phạm. A-đam là hình ảnh Đấng sẽ tới” (Rm 5:12-14).
Mặc dù ông bà nguyên tổ phạm tội vì bất tuân, nhưng lại là hình ảnh của Đức Kitô. Thật kỳ diệu, như trong bài Exultet có nói: “Ôi, tội hồng phúc!”. Tội lỗi mà lại hóa ân phúc. Lý do là nếu ông A-đam không nghe vợ dụ khị thì chúng ta đâu được Chúa Giêsu đến thế gian làm người để đồng cam cộng khổ với chúng ta, và làm sao chúng ta được ăn Thịt và uống Máu của Ngài qua Bí tích Thánh Thể? Thánh Ý Thiên Chúa thật quá mầu nhiệm, chúng ta không bao giờ có thể hiểu nổi, dù chỉ một chút thôi! Thảo nào tác giả Thánh Vịnh đã phải thốt lên: “Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao, tính chung lại, ôi nhiều vô kể!” (Tv 139:17).
Như một lời giải thích, Thánh Phaolô tiếp tục so sánh tỉ mỉ và có vẻ dài dòng một chút: “Nhưng sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người. Ơn Thiên Chúa ban cũng khác với hậu quả do một người phạm tội đã gây ra. Quả thế, vì một người duy nhất phạm tội, con người đã bị xét xử để phải mang án, còn sau nhiều lần sa ngã, thì lại được Thiên Chúa ban ơn cho trở nên công chính. Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị” (Rm 5:15-17).
Xuyên suốt chiều dài lịch sử Giáo hội, chúng ta thấy hầu hết các thánh đều có một quãng đời tối tăm, thậm chí rất tội lỗi, nhưng sau khi “sáng mắt” thì cũng “sáng lòng”, họ quyết tâm hối cải và sửa chữa, quyết không lăn vào vết xe cũ, nhờ đó mà họ đã nên thánh ngay từ lúc còn sinh thời. Quả thật, con-đường-tội-lỗi-và-thứ-tha là con đường mà mọi phàm nhân đều đi qua để có thể đến với Đức Kitô, Đấng-tử-nạn-và-phục-sinh. Chắc hẳn chúng ta cũng đã, đang và sẽ như thế. Nhân vô thập toàn, phạm tội là điều không tránh khỏi, ví như một “quyền” của phàm nhân vậy. Tại sao chúng ta sa ngã? Đó là để “sức mạnh của Đức Kitô được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (x. 2 Cr 12:9). Thật là mầu nhiệm quá!
Và rồi Thánh Phaolô kết luận: “Tóm lại, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5:18-19). Chắc chắn chúng ta chẳng làm được gì nếu không có Đức Kitô (x. Ga 15:5). Vì thế, chúng ta có thể nhờ Đức Kitô mà trở nên công chính, ai trở nên công chính thì được cứu độ. Ôi, trên cả tuyệt vời!
Hôm nay, trình thuật Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu (Mt 4:1-11; tương đương Mc 1:12-13 và Lc 4:1-13) cho biết về ba chước cám dỗ mà Chúa Giêsu đã chịu: Ăn uống, kiêu ngạo, và danh vọng. Đó là các “mối tội đầu” tương tự những trái phá cực mạnh, vô cùng nguy hiểm!
Kinh Thánh cho biết rằng Đức Giêsu đã được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay ròng rã, Ngài cảm thấy đói. Nhân tính là thế! Và đó là “nhược điểm” của nhân tính.
a. Cám Dỗ Thứ Nhất: ĂN UỐNG
Khi đó, tên cám dỗ đến gần Chúa Giêsu và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” (Mt 4:3). Nhưng Ngài vặn lại ngay: “Đã có lời chép: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4:4).
Ăn uống là thứ đứng đầu trong “tứ khoái” của con người. Khi đói, người ta có thể giết người khác để mình có cái ăn. Đó là phản xạ sinh tồn. Khi đói ngấu, Thằng Bờm chẳng cần gì khác, dù là của cải to lớn, mà chỉ cần nắm xôi để giải quyết cái bụng trước. Miếng ăn rất thực tế. Nhưng cũng vì “cái thực tế” đó mà người ta tranh giành nhau, chiến tranh không ngừng, bao nhiêu tệ nạn xảy ra (cướp của, giết người,…) cũng chỉ vì người ta “sợ đói”. Miếng ăn có thể cao quý, nhưng cũng có thể tồi tệ. Chiến thắng cái đói là vượt qua chính mình, ăn chay là để kiềm chế nhục dục, tức là chiến thắng chính mình.
Thiết tưởng, cũng nên tái nhận thức rằng ăn chay không phải là để dành phần đó cho bữa khác, mà là để chia sẻ cho người nghèo hơn mình. Đó là thực thi bác ái Mùa Chay. Vấn đề này thường không được thực hiện đúng!
b. Cám Dỗ Thứ Nhì: KIÊU NGẠO
Ma quỷ thất bại nên nó bày keo khác. Ngay sau đó, nó đem Chúa Giêsu đến thành thánh và đặt Ngài trên nóc Đền Thờ, rồi nó khiêu khích: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Mt 4:6). Đức Giêsu cũng “chỉnh” nó liền: “Nhưng cũng đã có lời chép: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4:7).
Ai cũng yêu mình. Yêu mình là tự bảo vệ mình, để sinh tồn. Đó là động thái đúng, rất tốt. Nhưng nếu yêu mình quá thì lại hóa xấu, vì đó là tự ái (“tự ái” là “yêu mình” thái quá). Tự ái là đề cao “cái tôi” của mình, luôn cho mình là “cái rốn của vũ trụ”, là “bách khoa tự điển”, là “người có cả bụng chữ”, là nhà thông thái, là nhân tài, là đạo đức,… Điều này liên quan tính kiêu ngạo (kiêu căng, ngạo mạn,…), đồng thời cũng liên quan tính ích kỷ – tức là vị kỷ (vì mình) chứ không vị tha (vì người khác). Một chuỗi liên đới xấu xa, đậm tính tội lỗi, nghĩa là rất nguy hiểm. Kiêu ngạo là một trong bảy mối tội đầu!
c. Cám Dỗ Thứ Ba: DANH VỌNG
Ma quỷ lại tiếp tục thất bại, nó chưa chịu thua. Thế là nó lại đem Chúa Giêsu lên một ngọn núi rất cao, chỉ cho Ngài thấy tất cả các nước thế gian và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và nó thản nhiên nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (Mt 4:9). Đúng là “điếc không sợ súng”. Chó mà đòi chạy trước hươu. Và Đức Giêsu liền nghiêm giọng: “Satan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4:10). Quá tam ba bận. Thế là ma quỷ phải “ngậm bồ hòn làm ngọt”, nó xấu hổ muốn độn thổ nên đành cúp đuôi bỏ Ngài mà đi. Ngay lúc đó, các sứ thần tiến đến hầu hạ Ngài.
Ôi, cơn cám dỗ! Danh vọng, địa vị, chức tước, quyền hành,… luôn là “bả” khiến người ta sập bẫy. Trong xã hội đời thường đã đành, trong sinh hoạt tôn giáo cũng vẫn có những cơn cám dỗ khiến người ta mê muội, muốn được nổi trội hơn người khác, họ tranh giành và thách thức đủ dạng. Cả trong xã hội và Giáo hội cũng vẫn có những người dùng vật chất để lũng đoạn một cách rất tinh vi, khó có thể nhận ra. Người ta “che đậy” và “biện minh” bằng nhiều chiêu bài nghe rất kêu, và xem chừng cũng rất đậm tính “bác ái”. Đáng sợ thật! Thế nhưng, nếu can đảm xét cho cùng, đó chỉ vì “sáng danh con” chứ chẳng vì “sáng danh Chúa”, thậm chí có khi Chúa cũng chẳng “sơ múi” được gì! Ngày xưa, người ta “mua chức quyền” theo kiểu “mộc mạc” nên dễ nhận ra, ngày nay là thời @, người ta “mua chức quyền” theo cách tinh vi lắm, do đó mà rất khó nhận ra.
Ba mối tội đó là “tam độc” thật khó tránh, phải luôn cảnh giác. Tuy nhiên, nhờ ơn Chúa, chúng ta có thể chiến thắng tất cả, nhưng chúng ta phải thực sự kiên trì và cố gắng chiến đấu không ngừng thì mới có thể chiến thắng “tam độc” đó. Và như vậy là chúng ta chiến thắng chính mình, là “chết” cho tội, là “xé lòng”, là chay tịnh,… Nhờ đó mà chúng ta có thể được công chính hóa. Ai nên công chính thì được cứu độ, tức là nên thánh: “Ai cùng chết với Đức Kitô thì cũng được sống lại với Người” (x. Rm 6:4-5).
Làm sao thoát khỏi cơn cám dỗ? Thánh GM Phanxicô Salê (François de Sales) nói: “Mọi cơn cám dỗ của hỏa ngục không thể làm vấy bẩn một linh hồn không hề yêu thích chúng”. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, đừng dại mà đối đầu với nó, đào vi thượng sách! Đặc biệt là hãy bám chặt vào Thiên Chúa, vì Ngài đã hứa: “Ta là Thiên Chúa của ngươi, Đấng cầm lấy tay phải ngươi và phán bảo: Đừng sợ, chính Ta phù trợ ngươi” (Is 41:13).
Văn sĩ Mark Twain có cách nhận xét khá thú vị: “Có vài cách bảo vệ tốt chống lại sự cám dỗ, nhưng cách chắc chắn nhất là sự nhút nhát”. Cứ cố gắng chạy càng xa càng tốt, tự cứu mình trước rồi trời sẽ cứu! Nhút nhát với ma quỷ là một cách can trường, ai can trường trong ơn Chúa thì sẽ chiến thắng ma quỷ.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, con chẳng có gì ngoài tội lỗi, con không dám cầu xin Ngài cho con không bị đau khổ, nhưng cầu xin Ngài ban cho con đủ sức mạnh để vượt qua đau khổ, xin giúp con luôn can đảm chiến đấu ngoan cường với mọi chước cám dỗ, và xin canh giữ để con đừng bao giờ là chước cám dỗ cho người khác hoặc làm cớ vấp phạm cho tha nhân. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Amen.
Nghe Thánh Kinh Ca “Cám Dỗ”: https://youtu.be/4OQtlDjBA-U
.
JM. Lam Thy
Theo từ nguyên, cám dỗ chỉ có nghĩa: “Khêu gợi lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã”. Cái lòng ham muốn đó không gì khác hơn là cái dục vọng xuất phát tự bản năng của con người. Là con người ai chẳng muốn ăn ngon, mặc đẹp, có nhiều tiền bạc, của cải, nhiều quyền lực, danh vọng, đam mê sắc dục. Và vì thế, đã là con người thì ai cũng có dục vọng (lòng ham muốn). Tâm địa con người cũng giống như một ruộng lúa, trong đó không thiếu cỏ lùng, bởi trong con người luôn luôn có “cốt cách của một vị thánh nhân cũng như của một tên đại bợm” (ngạn ngữ Tây phương). Bản chất cám dỗ là nguy hiểm, nhưng ác một nỗi những cơn cám dỗ lại luôn luôn là một sự dễ chịu, ngọt ngào, lôi cuốn. Vì thế, mới khiến con người dễ bị sa ngã.
Đã có người coi cám dỗ không phải là xấu, không phải là tội, thậm chí còn cho rằng sự cám dỗ ấy sẽ là triều thiên vinh quang khi con người chiến thắng được nó. Một câu hỏi được đặt ra: cái triều thiên vinh quang ấy có được là do sự cám dỗ mang lại hay do sự chiến đấu chống lại được cám dỗ? Đáp số của câu hỏi này thật hiển nhiên: Triều thiên vinh quang ấy có được là do sự chiến đấu thắng lợi được cám dỗ. Và như thế thì cám dỗ tốt hay xấu, tội hay không tội? Nếu nó không xấu, không phải là tội, không lôi cuốn con người làm cho sa ngã, thì có cần phải chiến đấu chống lại nó không? Và không chiến đấu thì đào đâu ra triều thiên vinh quang? Thực ra, xét đến cùng, thì vì sao ma quỷ, kẻ xấu phải cám dỗ con người? Nếu là một suy nghĩ (tư tưởng), một hành động, một việc làm tốt, quang minh chính đại, thì tự bản chất bộc lộ ra chẳng cần phải dùng cảm tính mà dụ dỗ (cám dỗ) một ai. Chỉ có những ham muốn không tốt, những dục vọng thấp hèn mới cần phải che đậy và dùng chiêu thức cám dỗ để lừa phỉnh, gạt gẫm người ta vướng vào. Cũng vì thế nên Thánh Gia-cô-bê Tông đồ mới dạy: “Khi bị cám dỗ, đừng ai nói: “Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ”, vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai.” (Gc 1, 13).
Chính Đức Giê-su Thiên Chúa, với bản tính loài người, cũng chịu để bị cám dỗ, chớ Người không hề cám dỗ một ai. Những Lời dạy của Người luôn luôn là ngay thẳng, rõ ràng, phân mính, không hề có sự gian dối, lừa gạt. Người không hề nói “Ai muốn theo Thầy thì sẽ được vinh hoa phú quý, quyền lực danh vọng”, mà Người luôn luôn dạy : “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Vác thập giá hẳn nhiên không dễ chịu chút nào! Nói về cám dỗ thì không biết thế nào là cùng. Con người sống trên đời luôn phải đối diện với trăm mưu nghìn chước của ba thù, mà toàn là những mưu ma chước quỷ, những chước độc mưu thâm. Vì thế, nếu biết rằng mình bị cám dỗ, thì vẫn có hy vọng chống lại được. Cái nguy hiểm của cám dỗ là ở chỗ người bị cám dỗ không hề biết mình đang bị kẻ xấu, kẻ thù dùng cảm tính dụ dỗ mình làm việc xấu. Một ông vua nếu biết mình đang bị rơi vào kế mỹ nhân, chắc chắn sẽ không mất nước vì gái đẹp. Một ông quan không bị mờ mắt vì hấp lực của tiền bạc danh vọng, chắc chắn sẽ không đến nỗi thân bại danh liệt, thân tàn ma dại. Quả thật, không thiếu những người lúc nào cũng luôn miệng lu loa: Đừng hòng đem danh vọng, quyền lực ra mà cám dỗ được ta, rượu ngon, gái đẹp cũng đừng hòng lay chuyển được ta. Nhưng để có được một người sống đúng như lời nói, quả thật rất khó.
Con người được Thiên Chúa dựng nên để “thống trị muôn loài” nên có hai phần: thể chất (thân xác) và tâm linh (linh hồn). Vì thế khi con người bị kẻ thù (là ma quỷ) cám dỗ cũng có thể tách ra hai phần: Về thể xác thì từ miếng ăn thức uống, đến mọi dục vọng xác thịt, thậm chí cả những tiện nghi vật chất, những điều kiện sinh hoạt nơi gia đình xã hội, ma quỷ cũng có thể sử dụng để cám dỗ con người. Còn về tinh thần thì chúng đem quyền lực, danh vọng ra để lôi cuốn. Đừng nói con người trần tục dễ bị cám dỗ; đến như Đức Ki-tô cũng bị cám dỗ bởi bản tính loài người. Bài Tin Mừng hôm nay (CN I Mùa Chay – Lc 4, 1-13) là một minh họa: Khi Đức Ki-tô vào hoang địa thì Người cũng bị ma quỷ cám dỗ cả về thể xác (cơn đói khát trong hoang địa) lẫn tinh thần (quyền lực, danh vọng thế gian, thậm chí cả sự thách đố, đối kháng với Thiên Chúa: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!”… “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi!…”)
Đức Giê-su Ki-tô khi bị cám dỗ, vì Người là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên Người đã hiểu rõ ý định của ma quỷ từ trước khi chúng thốt thành lời để cám dỗ Người, và Người đã chiến thắng, cũng như về sau, Người chiến thắng sự chết bằng biến cố trọng đại: Phục Sinh vinh hiển. Ngược dòng lịch sử, Nguyên tổ A-đam và E-và cũng bị cám dỗ, nhưng không biết được đó là mưu thâm chước độc của ma quỷ, nên đã sa vòng tội lỗi, bị tội lỗi thống trị. Thường thì những người đại ngôn như kiểu lu loa ở trên (“Đừng hòng đem danh vọng, quyền lực ra mà cám dỗ được ta, rượu ngon, gái đẹp cũng đừng hòng lay chuyển được ta.”) lại là những người dễ bị cám dỗ nhất. Kẻ viết bài này cũng đã hơn một lần chứng kiến những anh chàng vỗ ngực huênh hoang “không sợ ma” lại là những anh chàng sợ ma số một. Chỉ những người “nhát như cáy”, “nhát như thỏ đế” mới đại ngôn như vậy để tự trấn an mà thôi.
Không phải là ngẫu nhiên mà thánh Phao-lô nhắc nhở tín hữu Cô-rin-tô: “Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10, 12). Chớ nên tự tin quá mức đến gần như tự cao tự đại, mà hãy trông cậy vào Thiên Chúa, vì “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng.” (1Cr 10, 13). Vâng, xin hãy “tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì.” (Gc 1, 2-4).
Viết về cám dỗ, cũng không thoát khỏi thói quen là đưa ra những lời khuyên (tự khuyên bản thân mình là chính) hãy kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ, quyết tâm chiến đấu để vượt thắng mọi gian nan, thử thách nghiệt ngã. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là có biết những cơn cám dỗ đó là thử thách hay không. Bởi chỉ thấy có Đức Ki-tô vào hoang địa bị ma quỷ cám dỗ trực tiếp, còn tất cả chúng ta – kể cả những thánh nhân, những tiên tri, ngôn sứ – thì không có thời gian và không gian cố định, cụ thể hơn là chúng ta bị cám dỗ suốt dọc đời sống trần thế, ở bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào, hễ có cơ hội là ba kẻ thù (ma quỉ, xác thịt, thế gian) sẵn sàng cám dỗ. Có lẽ cũng chính vì thế nên những cuộc vào hoang địa thường là để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường, ngõ hầu có đủ sức chiến đấu chiến thắng được mọi cơn cám dỗ ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời gian nào.
Trở lại với bài Tin Mừng CN I Mùa Chay, Thánh Lu-ca viết: “Đức Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ.” (Lc 4, 1-2). Trước đó, thánh Gio-an Tiền Hô khi bắt đầu rao giảng cũng vào trong hoang địa 40 ngày. Xa hơn nữa, tổ phụ A-bra-ham, ông Mô-sê, tiên tri Ê-li-a… cũng đều vào hoang địa, vượt qua hoang địa, để chịu thử thách và vượt qua được nó. Như vậy, hoang địa chính là những khó khăn thách đố bắt người ta phải chiến đấu, phải đương đầu. Ở nơi hoang địa, cùng lúc đương đầu với thử thách, với nghịch cảnh, với cám dỗ của ba thù, con người còn được gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ Đức Ki-tô. Ông Mô-sê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Si-nai, đã gặp và trở nên bạn của Chúa, mặt ông trở nên sáng láng lạ lùng. Tiên tri Ê-li-a, sau 40 đêm ngày, đã đi tới núi của Chúa và gặp được Người. Thánh Gio-an Tẩy Giả – người cùng thời với Đức Giê-su – sau 40 ngày trong hoang địa, đã được “người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông” (Mt 3, 5) để chịu phép rửa và nghe thánh nhân rao giảng về Thiên Chúa, về chính Đức Giê-su Ki-tô.
Những cuộc vào hoang địa của tổ phụ, của các thánh nhân, các tiên tri và kể cả của Đức Giê-su Ki-tô, thường trải qua thời gian 40 ngày. Giáo Hội cũng dùng Mùa Chay với thời gian 40 ngày để tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giê-su, và mời gọi tín hữu hãy vào hoang địa với Người để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Mà muốn rèn luyện tâm trí, cách tốt nhất là đối diện với nghịch cảnh, ở đây là đối diện với hoang địa – nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào – nơi chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỉ, tức là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.
Chúng ta vẫn thường hay nói đến “sa mạc, hoang mạc cuộc đời” để ám chỉ cõi lòng (tâm hồn) hoang dại, trống vắng đến khủng khiếp trước cuộc đời đầy phong ba bão táp, đầy thử thách gian nan. Cái sa mạc ấy, cái hoang mạc ấy – cái cõi lòng hoang vắng ấy – phải chăng cũng chính là hoang địa? Ta không có điều kiện để vào nơi hoang địa của thiên nhiên, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời. Khi vào hoang địa thiên nhiên, chúng ta trực diện với những khó khăn thử thách: từ bên ngoài (khách thể) như thời tiết (ngày nóng khủng khiếp, đêm lạnh cóng da), thú dữ, cát đá vô tri; từ bên trong (chủ thể) như sự cô đơn lạnh lẽo, thiếu lương thực, không trợ lực. Tất nhiên những thứ đó không phải là những cám dỗ của ba thù, mà đó chính là những thử thách để con người trui rèn ý chí, tôi luyện quyết tâm đối kháng. Và nhờ thế, khi bị cám dỗ trong hoang địa cuộc đời, con người mới có thể chống lại và hy vọng chiến thắng.
Vậy thì tại sao ta không mạnh dạn đi vào hoang địa cuộc đời của chính chúng ta để thẳng thắn “nhìn lại mình”, sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thử thách, sẵn sàng khai thông hoang địa, sẵn sàng dọn đường mở lối để được gặp gỡ Thiên Chúa – và nhất là biết sẵn sàng từ bỏ ý riêng để luôn tìm thánh ý Thiên Chúa, hầu biết được đâu là lời mời gọi của Thiên Chúa, đâu là sự cám dỗ của ba thù. Điều đáng lo lắng, sợ hãi chính là điều chúng ta rõ ràng đang ở trong hoang địa cuộc đời, mà lại vẫn tưởng mình đang ở trong Thiên đường, ở trong Đất Hứa, để rồi tự ru mình trong những mời gọi ngọt ngào, những cám dỗ lôi cuốn. Đến ngay như đã thực sự ở trong Đất Hứa cũng vẫn có thể bị kẻ thù cám dỗ (“Đề phòng các cám dỗ khi vào đất hứa” – Đnl 8, 1), huống hồ là tưởng tượng, là ảo vọng đang ở trong Đất Hứa! Như vậy, phải chăng chính những ham muốn (dục vọng) của con người đã tạo nên những ảo tưởng để rồi lại quay ngược mũi giáo cám dỗ chính mình? (“Nhưng mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình lôi cuốn và dùng mồi mà bắt. Rồi một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi, thì sinh ra cái chết.” – Gc 1, 14-15).
Tóm lại, người Ki-tô hữu cần phải ý thức: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp.” (1Cr 10:13). Đồng thời phải “biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người.” (Gc 1:12). Vâng, và vì thế, vào hoang địa, ngoài vấn đề hãm mình ép xác (chịu thử thách để vượt thắng thử thách), còn phải là: vào hoang địa để cầu nguyện, để gặp gỡ Thiên Chúa, để xin ơn soi sáng hầu phân biệt được đâu là cám dỗ của ma quỷ, đâu là Lời mời gọi của Thiên Chúa, và nhất là để xin Thánh Thần thêm sức mạnh chống chọi với ba thù. Thiết nghĩ chỉ có như thế mới hy vọng đủ sức chiến đấu và chiến thắng được cám dỗ.
Tất cả những tâm nguyện đó, những ao ước đó, những cầu xin đó sẽ đạt được hiệu quả tối đa, nếu ta biết cậy nhờ vào một cây cầu nối vững chắc giúp chúng ta đến với Chúa một cách an toàn: Đó chính là Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ của tất cả chúng ta; vì “Nhờ Mẹ, đến với Chúa” (Ad Jesum, per Mariam). Hãy đến và nép mình bên áo Mẹ, mà nài van: “Chốn ba đào nhiều phen nguy biến, quanh chúng con ma quỷ chực liên. Ôi! Mẹ lành nhìn con giao chiến, thêm sức cho giúp con vững bền. Rồi khi giờ yếu đau hấp hối, ngàn chước độc quỷ ma đưa tới. Giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền, nâng đỡ con xác hồn tinh tuyền.” (“Chốn ba đào” – TCCĐ)
.
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Mt 4,1-11
(1) Bây giờ Đức Giê-su được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ. (2) Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. (3) Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi !”. (4) Nhưng Người đáp: “Đã có lời chép rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”. (5) Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, (6) rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi ! Vì đã có lời chép rằng: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. (7) Đức Giê-su đáp: “Nhưng cũng đã có lời chép rằng: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. (8) Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, (9) và bảo rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi”. (10) Đức Giê-su liền nói: “Xa-tan kia, xéo đi ! Vì đã có lời chép rằng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi !” (11) Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và kìa các sứ thần tiến đến hầu hạ Người.
- Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giê-su như một Mô-sê Mới, lãnh đạo một cuộc Xuất Hành Mới. Người còn là hiện thân của dân Ít-ra-en Mới vào sa mạc sống lại kinh nghiệm của dân Ít-ra-en xưa trên núi Xi-nai (x Đnl 8,2-4). Có điều khác với Ít-ra-en xưa, Người đã qua các cơn cám dỗ thử thách mà vẫn trung thành với ơn gọi của mình. Người muốn nêu gương cho các tín hữu hôm nay về cách chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ.
- CHÚ THÍCH:
– C 1-4: + Được Thần Khí dẫn vào hoang địa: Thần khí đã ngự xuống trên Đức Giê-su, giờ đây lại hướng dẫn Người vào nơi hoang vắng, có lẽ là một hang núi gần thành Giê-ri-cô. + Để chịu quỷ cám dỗ: Cám dỗ đồng nghĩa với sự thử thách do ma quỷ thực hiện. Khi bị cám dỗ mà chiều theo thì mới phạm tội. Còn nếu chống trả còn có công. Đức Giê-su cũng trải qua sự thử thách, nghĩa là phải lựa chọn giữa tốt và xấu. Thần Khí đã đặt Đức Giê-su vào một hoàn cảnh để Người tự khẳng định lập trường và chứng tỏ là Con hiếu thảo luôn làm đẹp lòng Thiên Chúa. + Bốn mươi đêm ngày: Cũng như Mô-sê trước khi nhận hai bia đá Giao ước, đã lên núi bốn mươi ngày đêm, ăn chay cầu nguyện (x. Đnl 9,9), và sau đó lại ăn chay thêm bốn mươi ngày đêm để sấp mình xin Đức Chúa nguôi giận mà tha tội cho dân Ít-ra-en đã vi phạm Giao ước khi đúc tượng bê vàng để thờ lạy (x. Đnl 9,18). Ngoài ra con số bốn mươi hay được dùng trong Thánh Kinh để ám chỉ một thời gian khá dài như: lụt đại hồng thủy kéo dài suốt bốn mươi ngày đêm, dân Ít-ra-en đi trong hoang địa bốn mươi năm, Vua Đa-vít cai trị bốn mươi năm, bốn mươi ngày giữa lễ Phục Sinh và lễ Thăng Thiên… Sở dĩ Đức Giê-su có thể nhịn đói suốt bốn mươi ngày đêm là nhờ có ơn Chúa nâng đỡ. + Nếu ông là Con Thiên Chúa: Tước hiệu này thuộc nội dung các lời hứa về Đấng Mê-si-a con vua Đa-vít (x. Tv 2,7; 89,27). Ngoài ra tước hiệu này còn có ý nghĩa về Thần tính của Đức Giê-su. + Hãy truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi: Ma quỷ cám dỗ Đức Giê-su biến đá thành bánh, hy vọng có thể do bị đói khát, Người sẽ quên đi tư cách Mê-si-a để làm theo ý riêng hơn là theo ý Thiên Chúa. + Đã có lời chép: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh…”: Đây là lời trong Sách Đệ Nhị Luật (8,3) mà Đức Giê-su đã chọn để vâng Lời Thiên Chúa, nhờ đó đã chiến thắng ma quỷ. Sau này Người cũng nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34).
– C 5-7: + “Hãy gieo mình xuống đi”: Ma quỷ xúi Đức Giê-su thử thách quyền năng Thiên Chúa khi gieo mình từ trên cao rơi xuống để được Thiên Chúa cứu giúp. + Có lời chép rằng: “Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn…”: Xa-tan đã nêu ra câu Thánh Vịnh này theo nghĩa đen (Tv 91,11-12). + Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách…”: Đây là câu Kinh Thánh trong sách Đệ nhị luật: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã thách thức ở Ma-xa” (Đnl 6,16). Trái với dân Ít-ra-en xưa đã đòi Đức Chúa phải làm dấu lạ để chứng minh quyền năng, còn Đức Giê-su hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa mà không cần đòi dấu lạ (x. Ga 6,30-33).
– C 8-11: + Đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian…: Câu này nhắc lại sự kiện xưa kia Mô-sê lên núi Nê-bô và đã được Đức Chúa cho nhìn thấy tất cả Miền Đất Hứa (x. Đnl 31,1-4). Nay ma quỷ cũng tác động làm cho Đức Giê-su tưởng tượng ra mình đang ở trên núi và nhìn thấy những của cải châu báu để cám dỗ Người hãy thờ lạy nó như chúa tể để được nó ban cho của cải trần gian. + Xa-tan kia, xéo đi !: Xa-tan nghĩa là “tên cám dỗ”. Sau này Đức Giê-su cũng xua đuổi Phê-rô giống như thế khi ông cám dỗ Người đừng đi theo con đường thập giá theo thánh ý Chúa Cha (x. Mt 16,23). + Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi: Đây là câu trích trong sách Đệ nhị luật (6,4.13), cho thấy chỉ duy có một Thiên Chúa độc nhất mà mọi người đều phải phụng sự tôn thờ Ngài.
- HỎI ĐÁP:
1) HỎI: Cám dỗ là gì ? Bị cám dỗ thì đã phạm tội chưa ? Ta cần làm gì để khỏi sa chước cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt mình ?
ĐÁP:
– Cám dỗ là việc ma quỷ xúi giục một người phạm tội chống lại Thiên Chúa khi cố tình không vâng lời Chúa dạy để làm điều vi phạm các giới răn của Ngài.
– Mỗi cơn cám dỗ thường có ba giai đoạn: Một là ma quỷ gợi lên một hình ảnh, một tư tưởng xấu trong tâm trí người ta. Hai là ma quỷ xúi người ta thỏa mãn đam mê dục vọng ấy bằng sự ưng thuận. Ba là sự chọn lựa tự do: nếu chiều theo ma quỷ tức là phạm tội và làm cho Chúa buồn. Còn nếu từ chối không nghe theo ma quỷ, họ sẽ được Chúa chúc phúc và sẽ làm cho Chúa vui lòng.
– Để khỏi sa chước cám dỗ của ma quỷ, chúng ta hãy noi gương Chúa Giê-su: Năng hãm mình và ăn chay để tập làm chủ bản năng của mình, siêng năng học sống Lời Chúa như thanh gươm hai lưỡi để đương đầu với ma quỷ, năng xin ơn Chúa trợ giúp và luôn vâng theo Thánh Thần hướng dẫn.
2) HỎI: Đức Giê-su bị ma quỷ cám dỗ trong tâm trí hay trong thực tế ?
ĐÁP: Việc quỷ đặt Đức Giê-su lên nóc Đền thờ, đem Người lên một ngọn núi cao và chỉ cho Người xem tất cả vinh hoa lợi lộc của các nước trên thế gian… cho thấy Đức Giê-su có bị ma quỷ cám dỗ, nhưng chúng chỉ cám dỗ Người ở trong tâm trí, chứ không thực sự đem Người từ nơi này đến nơi kia.
3) HỎI: Đức Giê-su trải qua cơn cám dỗ của ma quỷ nhằm mục đích gì?
ĐÁP: Sau khi chịu phép Rửa của Gio-an và được Thần Khí hiện xuống xức dầu thiêng liêng tấn phong làm Đấng Ki-tô, Đức Giê-su đã được Thần Khí dẫn vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày và chịu ma quỷ cám dỗ. Sở dĩ Người chịu ma quỷ cám dỗ là nhằm mục đích như sau:
– Một là để trải qua những sự thử thách của nguyên tổ A-đam E-và xưa trong vườn địa đàng (x St 3,1-24), và của dân Ít-ra-en trong cuộc Xuất Hành (Đnl 8,2-4). Vì Người là A-đam Mới và Ít-ra-en Mới thời Tân Ước (x Rm 5,18-19).
– Hai là để nêu gương ăn chay cầu nguyện cho các tín hữu, nhờ đó chúng ta sẽ làm chủ được bản thân và dễ dàng chiến thắng ma quỷ cám dỗ hưởng thụ các lạc thú bất chính (x Mt 17,21; Mc 9,29)..
– Ba là để nêu gương vâng theo sự hướng dẫn của Thần Khí: Nếu chúng ta biết nghe theo sự hướng dẫn của Thần Khí qua việc siêng năng học sống Lời Chúa, chúng ta sẽ luôn vâng lời Chúa phán hơn nghe theo ma quỷ mà theo ý mình, như Đức Giê-su có lần quở trách Tông đồ Phê-rô (x Mt 16,21-23).
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Đức Giê-su liền nói: “Xa-tan kia, xéo đi ! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,10).
- CÂU CHUYỆN: TAM THẬP LỤC KẾ: ĐÀO VI THƯỢNG SÁCH
Ở núi Phong Khê đất Thục có một giống đười ươi có bộ mặt giống như người. Chúng biết nói cười và máu của chúng được người ta dùng làm thuốc nhuộm quần áo rất tốt, nên các thợ săn thường săn bắt chúng. Biết được loài đười ươi này thích uống rượu và đi guốc, thợ săn đã đem rượu và guốc bày la liệt trên một đồng trống để nhử chúng, rồi ẩn núp chờ đợi. Dù sống sâu trong rừng, nhưng loài đười ươi lại có khứu giác rất nhậy nên vẫn ngửi thấy mùi rượu thơm liền kéo nhau đến uống. Những con già đời đoán biết đó là bẫy của thợ săn, liền nhắc nhở cả bầy rằng: “Hãy cảnh giác, đừng khờ dại uống rượu đi guốc kẻo bị mắc mưu của bọn người độc ác kia”. Thế là cả bầy buồn bã bỏ đi. Nhưng rồi một con bị mùi rượu thơm hấp dẫn không cưỡng lại được, liền bất chấp lời khuyên khôn ngoan và rủ đồng bọn quay trở lại. Rồi “quen mui thấy mùi ăn mãi”, chúng tranh dành nhau chí choé nốc cạn hết bầu này đến bầu khác. Đến lượt các con già cả khôn ngoan tuy biết là nguy hiểm, nhưng không thể cưỡng được sự hấp dẫn của rượu, cũng lao vào uống no say. Sau đó chúng xỏ chân vào guốc bên cạnh bước tới bước lui ngả nghiêng trông thật tức cười. Bấy giờ bọn thợ săn liền hò nhau từ chỗ ẩn nấp, nhất tề xông đến vây bắt. Thấy bọn thợ săn đến, bầy đười ươi đáng thương liền bỏ chạy tán loạn. Nhưng chân đi guốc không quen, bị té nhào vào nhau và bị bọn thợ săn bắt gọn không sót một con.
Than ôi! Biết rõ người ta đặt bẫy hại mình, mà vẫn lao vào ăn uống đến nỗi tất cả đều bị mất mạng thì thật ngu dại lắm thay! Đối với các bạn trẻ hôm nay thì rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút chích sì-ke ma túy… là những thứ làm mất hết nhân tính, trở thành những kẻ bất lương trộm cướp giết người, rồi còn có thể bị lây nhiễm HIV-AIDS. Thế mà vẫn có không ít bạn trẻ nhắm mắt lao mình vào những đam mê chết người đó thì không phải khờ dại lắm sao ?
Đối với các cơn cám dỗ về đam mê sắc dục và ma túy, thì đừng bao giờ nghĩ rằng mình có đủ bản lãnh để chống trả lại được, và phải làm như cổ nhân dạy: “Tam thập lục kế: Đào vi thượng sách” (Ba mươi sáu phương thế thì chạy trốn là phương thế hay nhất). Đừng bao giờ thử hút chích sì ke ma túy, thử đi bia ôm một lần… Vì thử dù chỉ một lần thôi là đã bắt đầu biến thành con nghiện rồi vậy !
- SUY NIỆM:
Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng: Chiến đấu với thiên nhiên để tồn tại, chiến đấu với kẻ thù để khỏi bị tiêu diệt, chiến đấu với xác thịt để trở nên người tốt. Hôm nay Giáo Hội còn dạy chúng ta phải chiến đấu với một loại kẻ thù vô hình nguy hiểm là ma quỷ. Chính Đức Giê-su đã chiến đấu và chiến thắng ma quỷ để nêu gương cho chúng ta. Vậy ngày nay ma quỷ thường cám dỗ chúng ta về những vấn đề gì ? Và chúng ta phải làm gì để chiến thắng nó ?
1) CÁM DỖ XƯA VÀ NAY: Ma quỷ cám dỗ Đức Giê-su và lòai người chúng ta về ba phương diện sau:
+ Một là về THÚ VUI: Ma quỷ xúi Đức Giê-su biến các viên đá cuội trở thành bánh mì mà ăn, tức là dùng quyền năng Thiên Chúa để thỏa mãn các nhu cầu vật chất thể xác, giống như dân Ít-ra-en trong hoang địa ngày xưa đã kêu trách Đức Chúa và Mô-sê khi họ bị đói khát và thèm thịt thà và các thứ rau thơm mà họ đã từng ăn khi còn ở Ai cập (x. Xh 16,3). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta tìm thỏa mãn các đam mê xác thịt bất chính như ăn chơi sa đọa, rượu chè say xỉn và hút chích ma túy…
+ Hai là về DANH VỌNG: Ma quỷ xúi Đức Giê-su nhảy từ nóc Đền thờ xuống để được người đời khen ngợi là tài giỏi và cũng để thử thách Thiên Chúa, đòi Chúa phải chứng tỏ quyền năng bằng việc làm phép lạ cứu mình thóat chết (x. Lc 23,35). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta thử thách quyền năng Thiên Chúa khi đòi Chúa làm phép lạ trái với định luật do Chúa đã an bài trong thiên nhiên để chiều theo sở thích riêng của chúng ta !
+ Ba là QUYỀN LỢI: Ma quỷ xúi Đức Giê-su sấp mình thờ lạy nó để được nó ban cho quyền hành trên muôn nước và được hưởng lợi lộc giàu sang (x. Xh 32,6). Ngày nay ma quỷ cũng thường cám dỗ chúng ta chối bỏ Thiên Chúa và tôn thờ sức mạnh của tiền tài, chọn làm những việc bất chính miễn là có nhiều tiền như: buôn bán sì ke ma túy, mở quán bia ôm, cà phê tươi mát, tin theo thầy bói, đồng bóng, cầu cơ, buôn lậu, tham nhũng, sản xuất hàng nhái…
2) PHƯƠNG THẾ ĐỂ CHIẾN THẮNG MA QUỶ CÁM DỖ:
Đức Giê-su đã chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ bằng các phương thế như sau:
+ ĂN CHAY CẦU NGUYỆN: Người đã vào hoang địa ăn chay cầu nguyện suốt 40 đêm ngày. Ma quỷ đã đánh thẳng vào điểm yếu của Đức Giê-su là tình trạng bị đói để xúi Người biến đá thành bánh ăn. Nhưng nhờ nội lực mạnh mẽ do ăn chay cầu nguyện, mà Người đã chiến thắng ma quỷ. Sau này Người cũng dạy các môn đệ phải dùng phương thế này như sau: “Giống quỷ ấy chỉ trừ khử được bằng lời cầu nguyện thôi” (Mc 9,29).
+ HỌC SỐNG LỜI CHÚA: Để đáp lại sự trích dẫn Lời Chúa của ma quỷ, Đức Giê-su cũng dùng Lời Thánh Kinh để bắt chúng câm miệng. Lời Chúa chính là ánh sáng chỉ đường và là nguyên tắc ứng xử của Đức Giê-su như sau: Đáp lại lời xúi biến đá thành bánh, Đức Giê-su nêu cao Lời Chúa dạy: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Đnl 8,3). Đáp lại cám dỗ thờ lạy ma quỷ để được hưởng quyền hành lợi lộc của nó, Đức Giê-su nêu ra Lời Chúa dạy: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và thờ phượng một mình Người mà thôi” (x. Đnl 6,13). Đáp lại cám dỗ gieo mình từ nóc Đền thờ xuống, Đức Giê-su đưa ra Lời dạy của Chúa: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (x. Đnl 6,16).
3) ÁP DỤNG CỤ THỂ: Ngày nay khi bị cám dỗ, chúng ta cũng cần chống trả bằng những phương cách sau:
+ Chăm chỉ làm việc bổn phận và tránh sự ở không. Vì “Sự lười biếng là cha của mọi thói hư tật xấu”.
+ Làm một việc nào khác phù hợp sở thích như xem sách chuyện, phim truyền hình, thăm bạn bè, đi bơi lội hay tham gia chơi một môn thể thao lành mạnh.
+ Tránh tò mò truy cập vào các trang phim ảnh xấu trên internet.
+ Năng đọc kinh Lạy Cha để cầu xin Chúa: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
+ Làm dấu thánh giá và kêu cầu ơn Chúa trợ giúp như thánh Phê-rô xưa khi sắp bị chìm: “Lạy Thầy, xin cứu giúp con !”, hoặc noi gương Đức Giê-su xua đuổi ma quỷ cám dỗ: “Xa-tan, hãy xéo đi !” (Mt 4,10).
- THẢO LUẬN:
1) Bị cám dỗ đã phạm tội chưa ? 2) Bạn có nên thử Thiên Chúa bằng việc xin khỏi bệnh mà không dùng thuốc theo toa bác sĩ, xin thi đậu mà không chăm chỉ học hành, xin được trúng số… hay không ? 3) Trong suy niệm trên, bạn thấy phương thế nào hiệu quả nhất và dễ áp dụng nhất để chiến thắng ma quỷ cám dỗ ?
- NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay con rất cảm phục thái độ cương quyết không khoan nhượng của Chúa Giê-su khi đương đầu với ma quỷ cám dỗ. Chính nhờ ăn chay cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày, mà Chúa đã được gia tăng nội lực tinh thần. Chính nhờ luôn vâng theo sự hướng dẫn của Thần Khí, mà Chúa đã chọn làm theo thánh ý Chúa Cha, thi hành mọi lời Chúa Cha phán dạy và cương quyết xua đuổi ma quỷ khi nó cám dỗ bỏ Chúa Cha mà tôn thờ nó bằng câu: “Xa-tan kia, xéo đi!”.
– LẠY CHÚA. xin giúp con biết nghe theo lời khuyên của thánh Phê-rô Tông Đồ: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (1 Pr 5,6-9). Nhờ đó, con sẽ trở nên con ngoan hiếu thảo, luôn làm đẹp lòng Chúa Cha, noi gương Chúa khi xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
Lm. Jos. DĐH
Mùa hè nóng nực, mùa thu mát mẻ, mùa đông lạnh lẽo, mùa xuân ấm áp ; tình yêu sẽ không gọi là mùa, nhưng chẳng có bút giấy nào diễn tả đủ cảm xúc giữa vui buồn, khổ đau, hạnh phúc, nơi những người đang yêu. Sức hấp dẫn của uy quyền trần thế hay gánh nặng sầu muộn, cũng chưa đủ giúp con người giảm bớt được niềm vui hạnh phúc họ đang kiếm tìm. Thật khó hiểu, khi người thì tìm đến qui luật yêu thương, kẻ khác lại đang trốn chạy ! Theo suy xét chung chung: tiếng cười, tiếng khóc, là kết quả thành công hay thất bại của một đối tượng ; nhưng thực ra, khóc, cười, chỉ là cảm xúc được bày tỏ lúc vui, lúc buồn.
Đức Giêsu hôm nay được Thánh Thần dẫn vào sa-mạc, chúng ta đọc và không khỏi ngạc nhiên, tại sao lại đến sa-mạc để chịu ma quỷ cám dỗ ? Có phải ở sa-mạc mới có ma quỷ, hay khi người ta đói khát sẽ bị cám dỗ như dân gian vẫn nói khá nghiêm túc: đói ăn vụng, túng làm liều ! Mùa hè không có tuyết rơi, nhưng mùa đông hiện nay chưa chắc lạnh lẽo, khi mà cả thế giới đang ưu tư về sự biến đổi khí hậu. Các linh mục tu sĩ bước vào cầu nguyện, chắc gì đã có đủ sự thanh thoát, đã mặc được tâm tình: “ngươi phải thờ phượng Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài”.
Đức Giêsu đến trần gian từ hình hài một em bé, sống âm thầm ở Nagiarét, và hôm nay đến sa-mạc, trước sau như một, Ngài vẫn là Thiên Chúa yêu thương. Sa-mạc, nơi hạn chế về tiện nghi vật chất, của ăn thức uống ; sa-mạc, truyền thống từ xa xưa, vẫn xem là nơi lý tưởng nhất để gặp gỡ Chúa. Sa-mạc có ma quỷ cám dỗ, sa-mạc nắng nóng khô cằn, không thể đến đó được nếu vắng bóng tình yêu. Lúc này chúng ta đang cầu nguyện, hy sinh, hãm mình, theo Chúa Giêsu vào sa-mạc, vào nhà thờ, vẫn có cám dỗ, nếu thiếu tình yêu. Mang thân phận con người, Đức Giêsu cảm thấy đói khi ở sa-mạc, phương thế Đức Giêsu thắng “đói khát”, thắng “cám dỗ” là tình yêu, là tác động của ơn Chúa: “người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”.
Nhắc đến ăn chay kiêng thịt, tâm lý chung là cảm thấy đói, đúng hơn là thứ tư lễ tro, thứ sáu tuần thánh, những ai giữ chay, sống tinh thần hy sinh cầu nguyện, làm việc bác ái được, phải là những môn đệ mang trong mình tình yêu thương của Chúa Kitô. Kinh nghiệm cho thấy người giầu, người tài giỏi cũng cần phút nghỉ ngơi, hồi tâm, họ mới hy vọng biết mình đang mưu cầu thứ hạnh phúc nào. Người thánh thiện, người tội lỗi, nếu không theo Chúa Giêsu vào sa-mạc, họ sẽ chẳng phân biệt được đâu là lời ngọt ngào nguy hiểm, đâu là lời cay đắng rèn luyện tâm tư ! Cùng lắm họ chỉ nhận ra “cái bóng” của mình hoặc chung quanh chỉ là thế gian, là tên cám dỗ mà thôi.
Đức Giêsu được hướng dẫn tới sa-mạc không phải là thủ tục, không hẳn để giới thiệu một phương pháp hữu hiệu nhằm chiến thắng cám dỗ, cải thiện tư duy và hành động. Thực ra, Đức Giêsu đang chuyển đến chúng ta thông điệp: sống thánh ý Chúa, thì hoạt động hay cầu nguyện đều phải có Chúa ở cùng. Sống ở đời, không thể chỉ tìm hoặc chờ được sống trong mùa xuân ấm áp, không thể cứ vào ở luôn trong sa-mạc mới tìm thấy hạnh phúc. Thuộc về Chúa Giêsu, sống ở mùa chay, mùa thuận lợi, mùa mưa, mùa nắng, hành trang của chúng ta lúc nào cũng phải có tình yêu.
Trong Cổ Học Tinh Hoa có câu truyện: Hà chính mãnh ư hổ, xin được chia sẻ…: Đức Không Tử khi sang nước Tề, đi qua núi Thái Sơn thấy người đàn bà đang khóc thê thảm lắm. Ngài nói rằng: người đàn bà này xem chừng trong nhà có trùng tang. Rồi ông sai Tử Cống đến hỏi. Người đàn bà thưa rằng: “ở đây lắm hổ, bố chồng tôi đã chết vì hổ, chồng tôi đã chết vì hổ, bây giờ con tôi lại chết vì hổ, thảm lắm ông ạ”! Thầy Tử Cống thắc mắc, thế sao gia đình bà không bỏ chỗ này mà tìm nơi ở khác ? Người đàn bà nói: “tuy vậy nhưng ở nơi đây chính sách quan trên không hà khắc tàn bạo như ở nơi khác”. Thầy Tử Cống thưa lại với Khổng Tử, Đức Khổng Tử nói: các ngươi nhớ đấy, chính sách hà khắc khốc hại hơn là hổ !
Biết nguy hiểm, nhưng chính sách sưu thuế và mọi ưu đãi của xã hội ở đó lại rất tốt, nên người đàn bà trong câu truyện không chuyển đi nơi khác. Người Kitô hữu biết rằng ở hoàn cảnh giầu nghèo, tội lỗi hay công chính, đều cần có Chúa, liệu ta có quyết tâm đừng để mất ơn nghĩa Chúa không ? Vào sa-mạc, vào nhà thờ, hoặc ở nơi làm việc học tập, ma quỷ vẫn rình rập, bao lâu ta chưa để Đức Kitô hoạt động nơi cuộc sống của chúng ta. Điều gì không thể giết ta được, sẽ giúp ta mạnh hơn, trưởng thành hơn. Đói khổ, thiếu bằng cấp, thiếu khả năng, không làm chúng ta chết, nhưng sẽ giúp chúng ta ngộ ra tác động của ơn thánh thực sự làm ta hạnh phúc. Tại sa-mạc, Đức Giêsu phải chịu ma quỷ cám dỗ, 3 năm trong hành trình truyền giáo, ma quỷ vẫn theo Chúa Giêsu ; nhưng Ngài chỉ cho chúng ta “sức mạnh của tình yêu”, chính là phương thế để thắng cám dỗ, thắng thế gian. Amen.
.
Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng
Mùa chay là mùa thống hối ăn năn tội lỗi, là mùa tỉnh thức và cầu nguyện, cũng là mùa hy sinh chiến đấu. Ba bài đọc Chúa Nhật I Mùa Chay năm A đều vẽ lên hình ảnh chiến đấu với cùng một kẻ thù cám dỗ, đó là ma quỷ.
- Hình ảnh được vẽ lên ở bài đọc I: Nhắc tới biến cố Evà trong vườn địa đàng bị ma quỷ trá hình con rắn cám dỗ. Trước lời đường ngọt của ma quỷ, bà đã vấp ngã. Từ sự lầm lỡ tai hại của bà, bà đã kéo luôn Ađam – chồng bà – phạm tội bất tuân. Và hậu quả của tội là xấu hổ, là đau khổ, là án phạt.
Đúng vậy, sau khi phạm tội, ông bà đã xấu hổ tìm lá cây che thân. Và đã đau khổ rồi tìm đường trốn Thiên Chúa. Nhưng tội nhân chạy đâu cho khỏi “lưới trời lồng lộng”? Thiên Chúa đã gọi ông bà ra trình diện trước nhan Ngài để lãnh án phạt. Từ đó, con người mất vườn địa đàng, mất phúc trường sinh – trí khôn ra u tối, phải chịu nhiều đau khổ, cuối cùng phải chết. Nếu Đấng cứu thế không đến, thì con người cứ đi vào con đường lầm lạc, đen tối, và cứ mãi phải sống trong cảnh yếu đuối, tội lỗi. May có Chúa Kitô đến, Ngài đã đem lại ơn cứu rỗi cho nhân loại.
- Chúng ta hãy xem hình ảnh Chúa Kitô trong bài Phúc Âm. Hãy ngắm nhìn hình ảnh Chúa Kitô đang cơn đói. Sau khi ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc, Ngài bị đói. Thừa cơ hội ấy, ma quỷ đến tấn công Ngài bằng những lời phỉnh gạt ngọt ngào:
– Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy biến những hòn đá này thành cơm bánh,….
– Nếu ông là Con Thiên Chúa hãy gieo mình xuống đất đi,…
– Nếu ông sấp mình thờ lại tôi, ông sẽ được mọi vinh quang, phú quý ở trần gian,…
Nhưng 3 lần cám dỗ, 3 lần ma quỷ đều thất bại.
Trong vườn địa đàng, ông bà nguyên tổ chỉ bị cám dỗ có một lần và đã sa ngã. Nhưng trong sa mạc, Chúa Kitô đã bị cám dỗ tới 3 lần, và 3 lần Ngài đều chiến thắng. Điều đó chứng tỏ sự chiến đấu của Chúa Kitô cam go, khóc liệt hơn nhiều. Vì thế, chiến đấu của Ngài thật lớn lao.
Và điều đó cũng chứng tỏ con người thật yếu đuối, mỏng dòn. Đúng thế, như lời triết gia Pascal nói: “Con người là cây sậy biết suy nghĩ”. Đã mang kiếp cây sậy, ắt yếu đuối mỏng dòn, dễ bị dập gẫy. Đã dễ dập gẫy như vậy, con người sống giữa sa mạc trần gian là phải chiến đấu với: thế gian, xác thịt, ma quỷ. Trong trận chiến này, muốn chiến thắng, chúng ta phải đứng về phía Chúa Kitô. Ngài đã chiến thắng thế gian và ma quỷ. Nhất là sự chiến thắng của Ngài trên thập tự giá, đã kéo được muôn triệu người về với Ngài. “Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”.
Thật vậy, trên đỉnh cao thập giá, Chúa Kitô đưa nhân loại ra khỏi “sa mạc”. Ngài đã dẫn những người đi theo Ngài và cùng chiến đấu với Ngài vào vườn địa đàng mới, đó là Giáo Hội và Nước trời.
Trong bài đọc II hôm nay, Thánh Phaolô nhắc đến hậu quả của việc sa ngã nơi hai ông bà nguyên tổ và nhắc đến sự chiến thắng của Chúa Kitô:
– Do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và bởi tội lỗi có sự chết. Và cũng do một người mà ân sủng của Chúa đã chuyển đến cho con người, và bởi ân sủng có sự sống muôn đời.
– Do sự không vâng phục của một người mà muôn người trở thành tội nhân, và cũng do sự vâng phục của một người mà muôn người trở nên công chính.
Thưa anh chị em! Mùa chay là mùa thống hối, ăn năn tội lỗi. Mùa cha là mùa chiến đấu. Mùa chay còn là mùa tỉnh thức và cầu nguyện. Chúa Giêsu đã dạy: “Chúng con hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vào sa mạc ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày để làm gương cho chúng con phải chuyên cần cầu nguyện. Xin giúp chúng con biết tỉnh thức cầu nguyện suốt mùa chay để bước đi theo Chúa.
.
AM Trần Bình An
Trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại cho đến ngày nay, chưa có yến tiệc nào linh đình, trọng thể, vĩ đại bằng tiệc Xuân năm Canh Tý (1874) do Từ Hy Thái Hậu đời nhà Thanh Trung Hoa, tổ chức khoản đãi phái đoàn Sứ Thần, tướng lãnh các quốc gia phương Tây. Trước sức mạnh quân sự hùng hậu của 8 nước phương Tây cùng liên minh đánh Trung Quốc, Từ Hy Thái Hậu nhà Thanh tự hiểu rằng, con đường tốt nhất là dùng ngoại giao để giải quyết.
Mở đầu cho mối giao hảo này, một yến tiệc linh đình nhất đời Thanh được tổ chức vào Tết Nguyên đán năm 1874 với sự tham gia của các sứ thần nước ngoài tại Duy An Cung. Thực khách gồm 400 người, thực đơn có 140 món, tiệc khai đúng 12 giờ đêm giao thừa năm 1874, kéo dài cho đến giờ Tý đêm mồng 7 tết. Chi phí bữa đại tiệc hết 98 triệu hoa viên Trung Quốc, tương đương 374 ngàn lượng vàng, được chuẩn bị trước 11 tháng 6 ngày, cần đến 1750 người phục dịch. Ngay từ rằm tháng 2 năm Quý Dậu (1873), mỗi tỉnh Trung Quốc được lệnh cử 10 đầu bếp xuất sắc nhất về kinh đô hội ý thảo thực đơn. Sau gần hai tháng hội ý, các đầu bếp đã thống nhất một thực đơn gồm 140 món, trong đó có 7 món cực kỳ đặc biệt. Trong 7 ngày đêm yến tiệc ấy, mỗi ngày chỉ dùng 1 món, gồm chuột sâm, óc khỉ, tinh voi, heo quý, cỏ phương chi, dê núi và trứng công.
Quan khách nhận được thiệp mời từ 23 tháng Chạp năm Quý Dậu (1873), gồm 212 vị trong phái đoàn 8 nước liên minh nước ngoài cùng 188 công thần được tuyển chọn của triều Thanh.
Đêm 30 Tết, tất cả khách mời tề tựu tại Duy An Cung, cùng lúc ấy, Từ Hy Thái Hậu dự lễ trừ tịch ở Tôn Long Miếu. Ba hồi chiêng trống vang lên, thay mặt triều đình nhà Thanh, thái thú Lý Hồng Chương phát biểu ý kiến về ý nghĩa buổi tiệc, nhằm thắt chặt tình hữu nghị giữa nhà Thanh với các nước phương Tây. Thay mặt 8 nước, sứ thần nước Anh đáp từ. Ba tiếng ngọc khánh báo hiệu đại yến bắt đầu.
Cứ ăn hết một món, nhạc lại tấu lên một bản. Dùng đúng 5 món, thực khách được uống một chén rượu thuốc, tác dụng tiêu thực. Rượu đãi khách cũng là rượu đại bổ. (Bữa tiệc Tết của Từ Hy Thái Hậu, Phunutoday)
Từ Hy Thái hậu rất tinh tế về tâm lý, khi dùng tuyệt chiêu đánh vào bao tử, vốn là cám dỗ bản năng muôn thuở của con người. Satan cũng dùng chiêu thức này, cám dỗ Đức Giêsu trong hoang mạc, nhưng đã thất bại! Tin Mừng Chúa Nhật I Mùa Chay hôm nay, Đức Giêsu chiến thắng ngoạn mục cả ba thử thách: Bản năng, danh lợi, quyền lực, vốn là những cám dỗ gay gắt, mạnh bạo, trường kỳ, suốt đời người.
Cám dỗ bản năng
Đức Giêsu cảm thấy đói sau 40 đêm ngày chay tịnh, ma quỷ cám dỗ Người chiều theo bản năng sinh tồn, hoá đá ra bánh để ăn. Theo Từ Điển Công Giáo, bản năng là sinh lực được phú bẩm cho từng sinh vật theo mỗi loại, giúp chúng tự động đáp ứng những nhu cầu sinh tồn, tự vệ và phát triển…
Hành vi bản năng, không qua ý thức, luôn tự động hướng về một mục đích được thiết lập trong cấu trúc tự nhiên của loài. Ví dụ: vì mục đích sinh tồn, mọi động vật đều tự động tìm thức ăn khi đói. Tuy nhiên, qua giáo dục, con người có thể kiềm chế, định hướng và thăng hoa bản năng của mình, hướng về mục đích cao cả hơn.
Nhưng Chúa Giêsu đáp: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” Người viện đến Lời Chúa trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 8, 3) để hoá giải chước cám dỗ bản năng.
Như vậy, người Kitô hữu được ưu ái, vinh dự, được ban sức mạnh, được nuôi dưỡng và lớn lên, nhờ lắng nghe, học hỏi, cử hành và sống Lời Chúa. “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 4, 34)
Thánh Phaolô vạch trần những kẻ chỉ biết sống theo bản năng: “Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian.” (Pl 3, 19)
Cám dỗ danh lợi
Cám dỗ lần thứ hai, ma quỷ chưa chịu thua, đưa Người lên Thành thánh: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Ngài đã ra lệnh cho các Thiên Thần đến với ông, và chư vị đó sẽ nâng đỡ ông trên tay, để ông khỏi vấp chân vào đá.”
Quỷ quyệt, Satan khéo léo viện dẫn Thánh Vịnh (91, 11-12) cám dỗ Đức Giêsu luỵ vào hư danh, vụ lợi. Phản bác lại, Người vẫn tiếp tục dùng Lời Chúa (Đnl 6, 16) để phản bác.
Chính Người đã vâng phục Thiên Chúa Cha, từ bỏ vinh quang, nhập thể làm người nghèo khó, để cứu chuộc nhân loại, nên Người chẳng bận tâm danh lợi cõi trần. “Ðức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế…” (Pl 2, 6-8)
Công khai từ chối tìm kiếm danh lợi cho mình, vì Người đã hoàn toàn vâng phục, để vinh danh Thiên Chúa Cha. “Nếu tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của tôi chẳng là gì cả. Ðấng tôn vinh tôi chính là Cha tôi, Ðấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông.” (Ga 8, 54)
Cám dỗ quyền lực
Cám dỗ lần thứ ba, ma quỷ đánh vào tánh đam mê quyền lực: “Tôi sẽ cho ông tất cả những cái đó, nếu ông sấp mình xuống thờ lạy tôi.” Đức Giêsu không còn nhũn nhặn, mềm mỏng nữa, mà phản bác quyết liệt: “Hãy lui đi, hỡi Satan! Vì có lời đã chép: ‘Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi, và chỉ phụng sự một mình Ngài.”
Một lần nữa, Người trung kiên viện dẫn Lời Chúa trong Đệ Nhị Luật. (Đnl 6, 13) Nếu biết kính sợ và tuân giữ thường ngày các mệnh lệnh của Chúa, thì con cái Chúa sẽ được hạnh phúc mãi mãi. (Đnl 5, 29)
Bất cứ ai giàu nghèo, sang hèn cũng đều dễ mắc vào thói mê quyền lực, khi sống vị kỷ, chỉ sống cho mình. Thực ra họ chỉ cúc cung bái, làm tôi mọi cho bản thân, phục vụ cho cái tôi, vốn mong manh, dễ hư nát! Vậy Chúa ở vị trí nào trong cuộc đời họ?
“Thử thách gian khổ là “giấy phép theo Chúa” để hưởng hạnh phúc hân hoan với Chúa: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thánh giá…” (Đường Hy Vọng, số 714)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường chịu bao cám dỗ trong từng phút giây cuộc đời về bản năng, háo danh, háo quyền. Xin Chúa luôn giúp chúng con can đảm từ bỏ mình, canh tân, vác thập giá theo Chúa.
Bước vào Mùa Chay, chúng con khấn xin Mẹ Maria cầu bầu, nâng đỡ, dắt dìu chúng con vượt qua những chước cám dỗ, dốc lòng ăn năn, sám hối tội lỗi, để chuẩn bị tâm hồn sốt sắng bước vào Mùa Chay, xứng đáng lãnh nhận hồng ân cứu độ. Amen.
.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Đổ rỗng là một hành vi giải thoát con người ra khỏi những ham muốn, cảm xúc hỗn độn (giận, ghét, oán, hờn, thù, căm…), thoát khỏi đam mê vật chất, danh vọng, tiền của… Đổ rỗng để chỉ còn một khao khát tuyệt đối là chính Chúa.
Mong chẳng còn gì.
Ràng buộc bởi phù vân, là một ngục tù con người tự mang lấy cho mình nhiều thứ không cần thiết trong hành trang của mình. Trong ràng buộc của phù vân, con người mất mục đích tối thượng của mình, đi tìm Chân, Thiện, Mỹ, điều tuyệt diệu giữa cuộc đời, khiến nhìn vào cuộc đời thấy nhiều đen tối, ngày vui ít, ngày buồn sầu, khổ não lại nhiều.
Sống trong lạc thú, con người vẫn không thể giết chết một khát vọng sâu xa tiềm ẩn của tiếng gọi tuyệt đối của sự sống. Bởi vì khát vọng sự sống đã được mang ngay từ lúc bắt đầu sự sống trên trần gian. Muốn sống ngay cả khi muốn chết, vì muốn sống cuộc sống khác, thay đổi cuộc sống hiện tại này.
Khát mong sự sống, một sự sống không còn các thứ ràng buộc làm già nua, mất niềm vui đích thực trong cuộc đời. Có thể có người lựa chọn cho mình mua vui bằng vật chất, sở hữu những thứ đắt tiền, hoặc tìm đến những thứ vui chóng qua, những cảm xúc hời hợt, khoái lạc… Tìm kiếm như thế cũng là biểu hiện khát vọng sống mãnh liệt nhưng lại rơi vào hư ảo bởi mê lầm.
Rèn luyện đổ rỗng.
Chỉ có con người mới có cố gắng tự rèn luyện, chấp nhận hy sinh, gian khổ để đạt được điều tối thượng của cuộc sống.
Khát vọng sống, chỉ phát triển đúng hướng khi kiểm soát được chính mình, biết điều chỉnh mình khi lạc hướng, sửa lại mình khi lỗi phạm. Đó là một khát vọng giải thoát để được tự do mà R. Tagore diễn tả:
“Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế gọi được người là tất cả của tôi. Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế cảm thấy người ở mọi chốn, mọi nơi, đến với người trong mọi thứ mọi điều và dâng người tình tôi lúc nào cũng được.” (Bài số 34, Lời dâng, bản dịch Đỗ Khánh Hoan).
Khát mong nhưng vẫn đầy cản trở:
“Chướng ngại trong tối thường dai dẳng, nhưng khi rắp tâm đập tan tôi lại thấy lòng dạ nhói đau. Tôi chỉ thèm có tự do giải thoát, nhưng lại thấy hổ thẹn khi mong đợi ngóng chờ. Tôi chắc kho tàng vô giá ấy ở trong anh và anh là người bạn thân tôi nhất, song tôi nào dám quét khỏi phòng mình lớp ngân tuyến phủ che. Vải liệm bao thân tôi à khăn liệm bụi bậm và chết chóc; tôi ghét vô cùng, ấy thế mà vẫn cứ yêu thương ôm vào lòng. Tôi nợ nần nhiều lắm, tôi thất bại lớn lao, tôi xấu hổ âm thầm và ê chề sạn mặt, tuy nhiên khi tới hỏi xin lạc phúc, tôi lại run rẩy sợ lo, những e lời nguyện cầu được chấp nhận.” (Bài số 28, Lời dâng, bản dịch Đỗ Khánh Hoan).
Thánh Phaolô chỉ ra cuộc chiến nội tâm đầy gian nan: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7,19).
Chính vì thế, con người cần rèn luyện thiêng liêng không ngừng để gia tăng đức hạnh nơi mình.
Vào sa mạc cùng Chúa Giêsu
Thánh Thần dẫn chúa Giêsu vào hoang địa. Vào cuộc chiến thiêng liêng con người không thể thiếu vắng sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô viết: Sau cùng, anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối.” (Ep 6, 10 – 14)
Chúa Giêsu chịu ba cám dỗ, những cám dỗ chính yếu trong đời sống. Cám dỗ, chúng không đến vào lúc còn đang đầy tràn sự sống, chúng đến vào lúc mệt mỏi, sức sống cạn dần. Chúa Giêsu chịu cám dỗ sau bốn mươi ngày ăn chay, về vật chất, về tính kiêu ngạo, về quyền hành.
Những cám dỗ rất thường trong cuộc đời con người, chúng ta được Thánh Phaolô khuyên bảo: “Vậy hãy đứng vững: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa. Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. (Ep 6, 14 – 17)
Xin Chúa giúp chúng con vào mùa chay thánh này với sức mạnh của Chúa thánh Thần, để tập luyện đổ rỗng để được lấp đầy bằng ân sủng của Chúa. Cho chúng con trưởng thành trong đức tin, cậy mến và đạt tới niềm vui và hạnh phúc trong Chúa.
.
THỬ THÁCH TÍN TRUNG TRONG QUYỀN TỰ DO LỰA CHỌN
Lm Uyen Nguyen
Đa phần con người ngày nay mất cảm thức về cơn cám dỗ. Họ sống giữa đời mà như không hề hay biết có cám dỗ. Không phải không tin câu chuyện mà Tin Mừng nơi ba Phúc Âm nhất lãm đồng bộ mô tả, ‘ĐGS được Thần Khí dẫn vào hoang địa chịu Satan cám dỗ’. Hầu như con người ngày nay, thường gặp mãi tâm thức đó, ai cũng như nấy, quen nhàm giữa biết bao người chung tâm trạng: không cần biết và để ý đến cám dỗ! Ta cũng vậy thôi!
Cám dỗ lẻn vào mọi lãnh vực, mọi phạm vi. Kẻ giàu, kẻ cao sang quí phái, tìm cách leo lên địa vị quyền bính cao trọng, đạt danh vọng chói lọi, có ê hề của cải để hưởng thụ, để lóe mắt mọi người. Một lối sống đầy khao khát như nhau: ai nấy, tất cả đều ra sức, cố công cần mẫn tiến lên ở những bậc thang cao trên mọi lãnh vực mà không quan tâm đến cám dỗ!
Bước vào mùa chay, một lần nữa, GH mời gọi những người con của GH ngày nay, hãy hướng mắt tinh thần khám phá và nhìn cám dỗ mà ác thần dành cho ĐGS dưới ba hình thức có tương quan mật thiết đến chính mỗi người ở trần gian. Matthêu ghi nhận đầy tâm ý khi tường thuật lại sự việc này của Người: ‘Sau khi chịu phép rửa, ĐGS được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu quỷ cám dỗ’ (c.1). Quỷ cám dỗ và phép rửa của Người có tương tác mật thiết. Khi yêu cầu Gioan tẩy giả làm phép rửa, Người nói: ‘Bây giờ cứ thế đã, để giữ đức công chính’ , để có luôn sự toàn vẹn là Con hằng đẹp lòng TC Cha. Thế nên, điều mà GH kêu gọi là có tâm thế cẩn trọng trước cơn cám dỗ mọi nơi, mọi lúc, mọi thời và đối với mọi người.
Với ĐGS, quỷ cám dỗ Người, khi đưa và đặt Người ở ba nơi khác nhau: tại nơi hoang địa; trên nóc đền thờ; trên một ngọn núi rất cao. Ba nơi với ba nội dung rủ rỉ cám dỗ khác nhau tượng trưng cho hết mọi lãnh vực đời trần mà quỷ xưa bày ra cho ĐGS thì nay cũng tấn công đánh ngã bất kỳ ai là người không một lần để tâm đề phòng.
Thử thách ĐGS, ngay giữa hoang địa, cơn cám dỗ đánh ngay vào nhu cầu cấp thiết, vào cái bụng hiện đói cồn cào,rất đời thường, đói cần cái ăn, ‘hóa đá thành bánh ăn’. Cám dỗ muốn đưa đến ‘lạm dụng’ tài phép. Để buộc nó câm miệng, Người nói: ‘Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn nhờ Lời bởi miệng TC phán ra’ (c.4), nghĩa là cả mi, hãy tuyên xưng, và tỏ lòng tin tín thành, cậy trông tuyệt đối vào TC qua việc tuân phục lời Ngài, điều đó đích thực mới có sự sống bất tận!
Ở nóc Đền Thờ, quỷ thử Người nhảy xuống để thấy TC yêu thương đến độ không chần chừ đến hộ tống bênh đỡ. Một thử thách lòng tin TC hằng hiện diện mọi nơi và thương yêu chăm sóc. Để quỷ câm miệng và bỏ cuộc, Người nói với nó: ‘Cả mi nữa, hãy suy phục TC là Chúa mi, chớ có thử thách Người’ (c.7). Với Người, suy phục TC là việc đón nhận con đường sứ vụ, hoàn tất trong đau khổ mà Chúa Cha ủy thác. Vì đền thờ là nơi thờ phượng TC hiện diện, nơi tiến dâng hiến lễ lên cho TC. Mà Người sẽ là ‘Vật HiếnTế’ ấy, không thể khác.
Trên một ngọn núi rất cao, tỏ tường thấy mọi vinh hoa, quyền chức cao trọng trên đời, phú quí sang giàu, quỷ đòi Người suy phục nó qua một cử chỉ bái lạy (hiểu là tôn thờ)! Người mạnh dạn tống cổ nó đi khi nói: ‘Satan kia, xéo đi! Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là TC ngươi và chỉ phải thờ lạy một mình Người thôi’ (c.10). Satan không hề chấp nhận thờ và phục vụ TC, vì tự cho mình ngang bằng TC. ĐGS đến trong trần gian là để phục vụ theo lệnh Cha của Người vì Người là Con hằng hữu cùng Cha, là Thiên Sai theo lệnh Ngài: phục vụ Cha và phục vụ phàm nhân trong vâng phục kinh qua chu toàn sứ mệnh cứu độ.
Dù bề ngoài rõ ràng là thua cuộc, tên cám dỗ vẫn không hề bỏ cuộc. Ắt hẳn nó sẽ cố tìm dịp khác. Với ĐGS, cám dỗ từ đây thực tế luôn hằng kề bên Người, ngay trên đường loan báo TM, giữa những người của mình, với các đối thủ, trong đám đông dân chúng, nơi các biến cố xảy ra. Nhưng cho đến cùng đời, sự chọn lựa của Người vẫn được Người tuân thủ tích cực để có được sự hoàn hảo, Người là Đấng thiên sai, là Con dấu ái của TC Cha. Vất vả đi rao giảng Nước Trời, cuộc thương khó cuối đời với cái chết thương đau trên cây thập giá là bằng chứng hùng hồn trước tâm thế chọn lựa bất khuất của Người. Với kitô hữu mọi thời, cám dỗ luôn hiện diện. ĐGS đã thắng, báo hiệu một GH của Người và các Kitô hữu cũng thắng .Người chiến thắng tên cám dỗ, nghĩa là, nơi Người, biểu lộ sức mạnh cứu độ trong quyền uy TC và mời gọi các kitô hữu đặt trọn niềm cậy trông vào Người, để, phần mình, cũng sẽ vượt thắng mọi cám dỗ nhờ sức mạnh của Lời và quyền năng của Người.
Lạy Thầy Giêsu chí thánh, xin cho chúng con biết khiêm tốn vâng nghe Lời Người, nhờ đó chiến thắng mọi mưu chước cám dỗ.
.
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Một lời cầu mà Chúa Giêsu truyền dạy chúng ta trong kinh Lạy Cha khiến chúng ta không thể xao lãng và xem thường chước cám dỗ, nhất là khi chước cám dỗ ấy lại do chính thần dữ chủ mưu gây ra. Bước vào Chúa Nhật thứ nhất của mùa Chay thánh, qua ba bài đọc Lời Chúa, giáo hội cho chúng ta trực diện với chước cám dỗ để nhận rõ sự thâm độc của thần dữ để rồi bền bỉ chiến đấu đến cùng.
Bài đọc thứ nhất trích sách Sáng Thế tường thuật câu chuyện tiên tổ loài người thất bại trước chước cám dỗ của Satan. Thế nhưng bài tin mừng cho thấy Satan đã phải chuốc lấy thất bại trước Chúa Giêsu. Thánh Phaolô qua bài đọc thứ hai đã làm một so sánh mang tính đối nghịch giữa sự thất bại của tổ tiên loài người với sự chiến thắng của Chúa Kitô chỉ muốn nhấn mạnh đến tính phổ quát của công trình cứu độ của Đấng làm người.
Xin được mạo muội vạch trần một nét tinh ranh của Satan trong chước cám dỗ của nó và mong sao chúng ta thêm phần cảnh giác. Đã là quỷ thì kế mưu cám dỗ của nó hẳn là tinh ranh và xảo quyệt khó lường. Sự thường nếu lấy điều xấu mà cám dỗ thì rất dễ bị nhận diện. Chính vì thế ma quỷ thường lấy điều tốt để cám dỗ loài người chúng ta. Với tổ tiên loài người thì nó dụ dỗ họ tìm biết sự thiện sự ác. Phân biệt điều lành điều dữ, là điều đáng làm và là việc phải làm cho đúng với phận người. Nỗ lực tìm biết điều lành, điều dữ quả thật là việc làm đáng khen, vì đó là việc rất tốt, việc chính đáng và phải đạo, đạo làm người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa. Với Chúa Giêsu thì ma quỷ cám dỗ Người tìm sự thành công trong công cuộc cứu độ nhân trần. Thực thi công trình cứu độ đạt kết quả là một điều tốt, đáng ước mong, vì đó là mục đích của việc nhập thể làm người của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Có thể nói rằng quỷ kế của Satan là đề ra một việc tốt, một việc phải làm và đáng làm nhưng rồi lại khôn khéo dẫn dụ chúng ta thực hiện việc ấy bằng những phương thế sai lạc, nghĩa là trái với đuờng lối của Thiên Chúa. Luân lý Công giáo khẳng định rõ nguyên tắc “mục đích không thể biện minh cho phương tiện”. Để đạt một đích tốt phải phải sử dụng những phương tiện tốt hoặc mang tính trung dung nghĩa là tự chúng không xấu. Chủ trương của ngài Đặng Tiểu Bình: “Mèo đen hay mèo trắng cũng được, miễn là bắt được chuột” không phù hợp với luân lý Công giáo.
Satan đâu có cám dỗ tổ tiên loài người làm điều xấu, nó chỉ xúi giục tiên tổ nỗ lực tìm biết sự lành sự dữ. Cái tinh quái của nó là ở chỗ xúi giục tiên tổ lấy bản thân mình, lấy lợi ích của mình làm tiêu chí để phân biệt điều tốt xấu, lành dữ. Chi tiết này được trình bày qua dữ kiện là sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội thì thấy mình trần truồng. Người ta thấy mình trần truồng là khi hướng cái nhìn vào bản thân mình.
Phải xác định rằng chỉ có nhà sản xuất mới có khả năng và thẩm quyền khẳng định sản phẩm mình làm ra là tốt hay xấu vì chính họ đặt ra tiêu chuẩn kỷ thuật sản phẩm. Chúng ta nhận ra hiện thực này qua những lần thu hồi xe hơi lỗi kỷ thuật của nhiều nhà sản xuất như Honda, Toyota… Như thế, chỉ có mình Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên vũ trụ vạn vật mới có thẩm quyền xác định các sự vật hiện tượng, các hành vi nào là tốt hay xấu, lành hay dữ. Như thế con người chúng ta chỉ có thể tìm biết điều lành điều dữ cách chuẩn xác dựa vào thánh ý Thiên Chúa, dựa vào chương trình và ý định của Người.
Cái sai lầm của tổ tiên loài người là lấy bản thân mình, lấy lợi ích riêng của mình làm tiêu chí để thẩm định điều tốt xấu, lành dữ. Khi nghiêng chiều theo chước cám dỗ này thì sự lành dữ, tốt xấu không còn mang tính khách quan. Trời nắng tốt dưa, trời mưa tốt lúa và được mùa lúa thì úa mùa xoài…là những điều như hiển nhiên. Như thế một dữ kiện có thể tốt với người này và xấu với người kia. Nếu nhân loại cứ theo sự chủ quan để chọn lựa và hành xử thì sẽ sinh ra hỗn độn.
Satan khi cám dỗ Chúa Giêsu cũng thực hiện chiêu trò này. Nó không cám dỗ Người từ bỏ côngcuộc cứu độ nhân loại nhưng nó lại cám dỗ Người thực thi công trình cứu độ theo ý riêng của Người chứ không theo thánh ý Cha trên trời. Cám dỗ thứ nhất: Sử dụng của cải vật chất, cơm áo gạo tiền thì dễ thành công lắm chứ, vì có thực mới vực được đạo, có tiền thì mua tiên cũng được mà. Cám dỗ thứ hai: Sử dụng quyền năng phi thường thì dễ lôi cuốn lòng người và nói gì người ta cũng dễ nghe theo. Cám dỗ thứ ba: Thoả hiệp với mãnh lực sự xấu. Chỉ là tận dụng nó hay là lợi dụng nó mà thôi, có gì đâu phải ầm ỉ. Chúng quả thật là tinh vi và xảo quyệt.
Để chiến thắng chước mưu ma quỷ thì Chúa Giêsu đã phải chiến đấu trong sự tỉnh thức và nỗ lực hết mình. Để có được động thái hoàn toàn vâng phục thánh ý Cha trên trời qua lời thân thưa: “…Xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”, thì Chúa Giêsu đã phải tuôn mồ hôi pha lẫn cả máu đào.
Xây cất nhà thờ là một điều tốt, thành lập một giáo xứ mới cũng có thể là điều tốt, thuyên chuyển nhân sự dễ dàng cũng có thể là điều tốt… tuy nhiên để đạt được những điều tốt ấy thì không thể thoả hiệp với sự dữ, không thể sử dụng những phương thế làm cớ cho những tâm hồn bé mọn vấp phạm… Quỷ kế của Satan luôn tinh quái và chước mưu cám dỗ của nó vẫn còn đó dưới nhiều hình thái tinh vi. Và chúng ta cần phải bền chí khẩn cầu: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Thiên Chúa không hề cám dỗ bất cứ một ai, và Người cũng chẳng thể để mặc chúng ta sa chước cám dỗ. Cầu nguyện là gặp gỡ Chúa để nhận biết thánh ý Người. Chắc chắn qua lời cầu xin trên, Thiên Chúa muốn dạy chúng ta hãy cẩn trọng với chước mưu ma quỷ cám dỗ và hãy biết lánh xa dịp tội. Biết mình yếu thi đừng ra đầu gió. Chuyện đơn giản mà thực ra không mấy dễ dàng.
.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Trang Tin Mừng hôm nay, Hội Thánh mời gọi mọi người suy niệm sự Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Động từ cám dỗ luôn được hiểu theo nghĩa xấu. Nó hàm ý xúi giục làm điều xấu, điều trái. Cám dỗ, theo nghĩa xấu ấy, luôn luôn dẫn người ta đến phạm tội, cố gắng tuyết phục người khác thực hiện đường tà.
Vì thế, cám dỗ là phương tiện khởi đầu để có thể làm cho một người lập công, chứng tỏ lòng yêu mến Chúa, tạo thêm công đức, và càng ngày càng tiến tới ơn nên thánh hơn, càng hoàn bị mình trong Chúa hơn, nếu ta cương quyết chống lại nó, đạp trên nó và chiến thắng nó theo gương Chúa Giêsu.
Nhưng cám dỗ sẽ là phương tiện đưa ta đến chỗ chống đối lề luật, đứng ngoài ơn và tình yêu của Chúa. Nó làm ta loại trừ Thiên Chúa, đi xa ảnh hưởng của Chúa. Nó cũng là phương tiện khiến ta có thể phản bội anh chị em, ảnh hưởng xấu, thậm chí đe dọa đời sống của anh chị em xung quanh. Nó giết chết sự sống đời đời của ta, nếu ta không nỗ lực chiến đấu với nó, nếu ta a tòng theo nó, nếu ta để cho mình say trong cám dỗ.
Trường hợp của Tổ tông loài người cho thấy những điều tệ hại như vừa nói. Tổ tông đã không cưỡng lại cám dỗ. Tổ tông đã a tòng cùng cám dỗ. Tổ tông đã vứt bỏ mọi điều tốt đẹp nhận được từ Thiên Chúa. Bởi ngã trong cám dỗ, Tổ tông đã không thể giữ lại mọi điều tốt đẹp nguyên khởi cho mình và cho con cháu.
Từ bài đọc I trích sách Sáng thế, nói về sự ngã nhào trong cám dỗ của Tổng tông Ađam – Evà, và từ bài Tin Mừng, nói về sự chiến thắng cám dỗ của Chúa Giêsu, chúng ta thấy gì?
- Tội có hấp lực?
Tội lỗi có hấp lực riêng của nó. Chính hấp lực này đã làm con người không thể cưỡng lại, nhưng đã nhiều lần ngã nhào trong tội. Cách hai ông bà Ađam – Evà đối diện cám dỗ là bằng chứng cho thấy hấp lực mạnh mẽ của tội.
Bà Evà chưa bao giờ sờ tới trái cây, chỉ nhìn ngắm, lại vẽ ra trong tưởng tượng, rồi sau đó dám khẳng định: “Trái cây ăn thì ngon và thèm ăn để được thông minh” (bài đọc I). Bà và cả ông Ađam tự nộp mình cho cám dỗ, đã chết thật, chết cả một đời sống tâm linh, đó là đời sống mà không thụ tạo nào được hưởng, chỉ con người được Thiên Chúa thông ban mà thôi.
Cũng vậy, chúng ta không mạnh mẽ để có thể tự mình đứng vững trước cám dỗ. Chỉ có ơn Chúa phù trợ, ta mới đủ mạnh mà thôi. Vì thế, suốt đời, ta phải tập và sống khiêm nhường thẳm sâu, để có thể chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những hấp lực mà nó gợi ý.
Đừng bao giờ tự phụ vào bản thân. Bởi chính khi cậy sức bản thân và không sợ cám dỗ, là lúc dễ bị cám dỗ đốn ngã nhất. từng người hãy luôn đinh ninh lời thánh Phaolô: “Ai tưởng mình đứng vững, coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10, 12).
Hãy cậy vào sức Chúa, cậy vào ân sủng và tình yêu của Chúa để tấn công hấp lực của tội. Hãy lắng nghe lời thánh Phaolô dạy để sống khiêm nhường và biết nhìn nhận bản thân hơn: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1Cr 10, 13).
Thánh Giacôbê cũng nhắc nhở: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1, 2-4).
- Tội, trước tiên là hướng về bản thân.
Chỉ một cám dỗ hướng về bản thân, Ađam, Evà đã phạm tội.
Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu cũng cùng nội dung như đã từng cám dỗ ông bà Ađam và Evà – dù cho đó là cám dỗ về sự ích kỷ, sống cho riêng mình, quay quắt trên chính bản thân mình; dù cho đó là dùng quyền năng Chúa ban để biến đá thành bánh ăn; hay nhảy từ nóc cao của đền thờ như một thách đố đối với Thiên Chúa; hoặc mua lấy quyền lực và vinh quang, sự giàu sang, dù cho phải tôn thờ ma quỷ – tất cả đều chỉ nhắm một mục đích: lo cho chính đời sống thân xác của mình.
Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Cùng một nội dung cám dỗ: ích kỷ cho bản thân, quay quắt trên chính bản thân mình, nhưng cách hành xử của Chúa lại đối nghịch hoàn toàn với ông bà Ađam – Evà. Thái độ của Chúa thật cứng rắn và dứt khoát đối với tội. Ôn bà Ađam – Evà đã không chiến đấu, nhưng ngay từ đầu đã xuôi theo tội.
Chúa Giêsu vững lòng tin vào Thiên Chúa để vượt lên trên những cám dỗ. Ađam, Evà thay vì tin Chúa, đã nghi ngờ tình yêu của Chúa khi chấp nhận lời dụ của kẻ cám dỗ: “Thiên Chúa biết rằng ngày nào các ngươi ăn trái ấy, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ biết thiện ác như thần thánh”.
Chúa Giêsu dựa vào Lời Chúa để chiến thắng cám dỗ. Ađam, Evà do sự nghi ngờ, đã bất tuân Lời Thiên Chúa ngỏ với mình, đã ngã nhào vào cám dỗ.
Có thể nói cám dỗ là “người bạn” không được mời nhưng cứ bám sát lấy ta cách dai dẳng. Cám dỗ đã nhiều lần đánh gục ta, làm cho bản tính yếu hèn của thân kiếp con người vốn đã yếu hèn, càng dễ đổ vỡ, càng yếu đuối hơn. Nhưng dù đã sa ngã, đó là một tình trạng nguy hiểm vô cùng lớn, vẫn chưa là điều nguy hiểm nhất. Nguy hiểm nhất, đáng sợ nhất là khi biết mình phạm tội nhưng vẫn ở lỳ trong tội.
Đồng ý rằng, cuộc đời có quá nhiều cám dỗ lôi kéo. Nếu chúng ta đã đủ ý chí để quyết tâm không phạm tội, và đã chiến thắng tội lỗi, đó là điều tốt.
Nhưng giã như vì yếu đuối, ta đã không được như Chúa Giêsu. Ngược lại, nhiều lần ta đã gục ngã, đã sa chước cám dỗ, thì giờ đây, nhờ sống mùa Chay, hãy vùng đứng dậy, hãy vững ý chí, hãy tập trung nghị lực, cùng với sự cầu nguyện, xin ơn Chúa giúp, hy vọng ta sẽ vững tâm trở về với Chúa.
Hãy xây dựng một quyết tâm sống mùa Chay của năm nay theo gương Chúa Giêsu, đó là dùng mọi cách mà Hội Thánh dạy: Tham dự phụng vụ, cầu nguyện, lãnh bí tích, hy sinh hãm mình, bác ái, tiết chế bản thân, luôn lưu ý chiến thắng cám dỗ… để thực sự chiến thắng và đứng trên mọi cám dỗ bằng mọi giá.
Lạy Chúa, chúng con đã phạm tội. Nhiều lần chúng con không chiến đấu chống lại tội lỗi, mà có khi còn hùa theo nó cách dễ dàng. Xin tha thứ cho chúng con. Xin ban sức mạnh để chúng con đủ nghị lực, đủ cương quyến chống trả cám dỗ và tội lỗi. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Khi viết về cựu cầu thủ Lê Công Vinh, nay là chủ tịch câu lạc bộ bóng đá Thành phố Hồ Chí Minh, nhà báo Trung Dũng đã viết: “Công Vinh đã xăm hình một chiến binh La Mã để tự nhắc nhở mình phải luôn chiến đấu trong những ngày rèn luyện ở đất Bồ Đào Nha. Và khi đã tự coi mình là một chiến binh thì không bao giờ được phép đầu hàng trong bất cứ hoàn cảnh nào bởi chỉ có chiến đấu thì mới có thể chiến thắng…”
Đời người nói chung và kitô hữu nói riêng là một cuộc chiến đấu trường kỳ. Khởi đầu mùa Chay, Giáo hội đã dâng lên Chúa lời nguyện của ngày Thứ Tư Lễ Tro: “Lạy Chúa, ngày hôm nay tất cả chúng con ăn chay hãm mình để bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Xin giúp chúng con hằng biết sống khắc khổ, để ngày thêm vững mạnh mà chiến thắng ác thần”.
Lời Chúa Chúa Nhật I mùa Chay hôm nay nhắc nhở chúng ta về cuộc chiến đấu trường kỳ này.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
- Bài Đọc I: St 2, 7-9 ; 3, 1-7
Trình thuật sáng tạo trong bài đọc thứ nhất không nhằm kể lại chi tiết rõ ràng về việc Thiên Chúa tạo dựng, nhưng qua đó muốn chuyển đạt cho người đọc những ý tưởng về tình thương của Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ vạn vật và đã cho con người được hiện hữu; nhắc cho con người về những cám dỗ của ma quỷ; về quyền tự do lựa chọn và hậu quả của sự lựa chọn ấy.
Trong việc tạo dựng con người, ý tưởng chính của tác giả là con người vừa là vật chất (đất sét) vừa là thần linh (hơi thở của Thiên Chúa).
Trong cám dỗ của Satan, điều chính yếu là để con người không nhận thấy tình thương của Thiên Chúa, mà chỉ thấy những điều cấm đoán; không thấy những ân ban của Ngài mà nghĩ rằng Thiên Chúa ganh tị không cho con người được như Ngài; không vâng lời Thiên Chúa mà muốn sống theo ý riêng của mình. Đồng thời tác giả cũng cho thấy từ ngàn xưa, cám dỗ đã len lỏi vào những giác quan của con người: mắt thấy, tai nghe, tay hái, miệng nếm…
Trong quyết định của Adam và Eva, cho thấy con người luôn được đặt trước 2 sự lựa chọn. Qua 2 lựa chọn đó cho thấy họ đứng về phe nào, không thể có sự thỏa hiệp giữa 2 bên, mà phải dứt khoát: Thiên Chúa hay ma quỷ. Vì tính chất quyết liệt đó mà cuộc đời như một cuộc chiến.
- Tin Mừng: Mt 4, 1-11
Hoang địa trong Thánh kinh có ý nghĩa là nơi để thanh luyện, để chiến đấu; đồng thời cũng là nơi để gặp gỡ: gặp gỡ chính mình và gặp gỡ Thiên Chúa.
Hôm nay “Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4, 1). Ngài đã sống lại kinh nghiệm của dân Israel xưa trong sa mạc: “Anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dẫn anh em trong sa mạc, để bắt anh em phải cùng cực; như vậy Người thử thách anh em cho biết lòng dạ anh em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh của Người hay không” (Đnl 8, 2). Ba cơn cám dỗ của Đức Giêsu gợi lại những cám dỗ chính yếu của dân Israel xưa trong sa mạc đó là thức ăn, là thử thách Đức Chúa và thờ lạy các thần minh khác. Thế nhưng khác ở chỗ là Đức Giêsu đã chiến thắng tất cả những cám dỗ đó nhờ dựa vào Lời Chúa.
II. CHIẾN ĐẤU TRONG CUỘC ĐỜI
Từ chiến đấu và chiến thắng của Đức Giêsu gợi lên cho tôi một vài suy nghĩ:
- Đức Giêsu chia sẻ trọn vẹn kiếp người
Trong những câu chuyện về tấm gương đạo đức của một vị lãnh đạo ở một đất nước kia mà tôi tạm gọi là Bác, có một câu chuyện về việc Bác rất yêu thương trẻ em. Chuyện kể rằng: “Có lần đang ngủ đến gần sáng, lạnh quá, Bác thức dậy, gió vun vút đập vào cửa kính. Chợt Bác nghe thấy có tiếng trẻ em rao hàng dưới đường. Bác mở cửa ngó xuống nhìn em bé, nhìn mãi cho đến khi em bé đi khuất, Bác mới từ từ khép cửa lại”.
Có những người bạn không Công giáo hỏi tôi tại sao Chúa Giêsu phải làm người cho cực khổ, nếu Ngài quyền năng, chỉ cần Ngài phán một lời thôi thì có thể cứu được nhân loại rồi?!
Vâng, đúng vậy, tình yêu của Thiên Chúa không chỉ ở trên trời nhìn xuống thấy con người đau khổ rồi tội nghiệp, hoặc chỉ “nhìn mãi cho đến khi em bé đi khuất, rồi đóng cửa lại”; mà tình yêu của Thiên Chúa là ở chỗ chia sẻ trọn vẹn kiếp người của chúng ta.
Có một thời người ta cài nhạc chờ cho điện thoại di động không phải bằng tiếng chuông hay bài hát, mà bằng một giọng nói rất trầm ấm: “Nếu một ngày nào đó bạn cảm thấy thật buồn và muốn khóc, hãy gọi cho tôi, tôi hứa sẽ không làm cho bạn cười, nhưng biết đâu tôi sẽ khóc cùng bạn! Nếu một ngày nào đó bạn cảm thấy vô cùng đơn độc, hãy gọi cho tôi, tôi sẽ đến bên bạn, chỉ để im lặng không nói một lời, nhưng tôi muốn bạn biết rằng, luôn có tôi bên cạnh! Nếu một ngày nào đó bạn phân vân trước những quyết định của mình, hãy gọi cho tôi, tôi sẽ không quyết định thay bạn, nhưng có thể giúp bạn vững tâm hơn trước sự lựa chọn của mình! Nếu một ngày nào đó, bạn vô cùng đau khổ vì phạm phải sai lầm, hãy gọi cho tôi, tôi không thể sửa chữa sai lầm đó, nhưng tôi có thể giúp bạn nhận ra rằng, những sai lầm sẽ giúp bạn trưởng thành và tự tin hơn!…”
Khi chúng ta gặp bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc đời: vui-buồn, sướng-khổ, thành công-thất bại, tín nhiệm-hiểu lầm, thánh thiện-tội lỗi, cao cả-yếu hèn… hãy đến với Đức Giêsu vì Ngài thấu hiểu tất cả cho chúng ta, và hơn thế nữa, Ngài còn có thể giải quyết giúp chúng ta chứ không chỉ “luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”.
Khi có Đức Giêsu, mọi cuộc chiến của chúng ta đều sẽ thắng. Chỉ sợ chúng ta thắng mà không có Đức Giêsu. Ví dụ khi chúng ta có được nhiều thứ từ tiền tài, danh vọng, quyền lực, tình cảm… mà không có Đức Giêsu, nghĩa là chúng ta đang được ma quỷ “khuyến mãi” đấy! Ngược lại nếu chúng ta đang phải vất vả chiến đấu với tất cả mọi chênh vênh của kiếp người mà có Đức Giêsu thì chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng. Ngài không hứa đem đến cho chúng ta chiến thắng theo kiểu thế gian, mà Ngài sẽ ban cho chúng ta chiến thắng vinh quang trên thiên đàng.
- Từ bỏ những gì là tầm thường để thăng tiến tình bạn với Thiên Chúa.
Trong sứ điệp mùa chay 2017 của Đức Thánh Cha Phanxicô, Ngài đã viết: “Mùa Chay là một khởi đầu mới, là một con đường dẫn ta đến với mục đích của mùa Phục sinh, vinh thắng của Đức Kitô trên sự chết. Mùa Chay mời gọi chúng ta mau chóng hoán cải. Mỗi Kitô hữu được mời gọi trở về với Thiên Chúa với “hết lòng mình” (Giôen 2, 12), để từ bỏ những gì là tầm thường và để thăng tiến tình bạn với Thiên Chúa”.
Điều này nhắc nhở chúng ta phải ý thức về những cám dỗ của ma qủy là để chúng ta trở thành những con người tầm thường. Nhìn lại những cám dỗ của ma quỷ, chúng ta nhận thấy quả thật nó tầm thường và thậm chí tồi tàn vô cùng. Cám dỗ về miếng ăn, cám dỗ về đam mê lạc thú, cám dỗ về quyền lực… Đôi khi nghĩ lại chẳng lẽ cuộc đời chỉ thế thôi sao?
Ngày 28/02/2017 vừa qua, Giáo hội Công giáo hoàn vũ sống lại những giây phút bồi hồi cảm động của 4 năm về trước khi chia tay Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI với những lời lẽ vẫn còn in đậm trong trái tim của nhiều người: “Tôi chỉ đơn thuần là một kẻ hành hương bắt đầu giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình của mình trên trái đất này. Tuy nhiên, với trái tim của tôi, với tình yêu của tôi, với lời cầu nguyện của tôi, với sự suy tư của tôi, với tất cả sức mạnh nội tâm của tôi, tôi vẫn muốn làm việc cho lợi ích chung và lợi ích của Giáo Hội và của nhân loại. Và tôi cảm thấy rất được hỗ trợ bởi lời chúc tốt đẹp của anh chị em. Chúng ta hãy cùng nhau tiến về phía trước với Chúa vì lợi ích của Giáo Hội và của thế giới. Cảm ơn anh chị em, và bây giờ tôi xin hết lòng ban cho anh chị em Phép Lành của tôi”. Ngay cả ngôi vị Giáo hoàng mà ngài còn dám từ bỏ để đi vào cuộc hành trình cuối cùng trên mặt đất bằng sự gắn bó thâm sâu mật thiết hơn với Thiên Chúa.
Khi bước vào mùa Chay thánh năm gia đình 2017 này, mỗi người chúng ta hãy quyết tâm từ bỏ những giá trị tầm thường, những vui chơi thấp kém để phát huy tình bạn chân thành với Thiên Chúa. Người chồng hãy cố gắng từ bỏ rượu chè, hoặc vài điếu thuốc để làm cho môi trường mình sống được văn hóa, được sạch đẹp hơn. Người vợ hãy cố gắng để bỏ cờ bạc, bớt lắm lời, cằn nhằn kêu ca trách móc để bầu khí gia đình được nhẹ nhàng hơn. Đặc biệt những người con là các bạn trẻ đây hãy bớt gánh nặng cho cha mẹ và biết lo nghĩ cho tương lai của mình. Hãy chọn lấy cho mình những lý tưởng cao cả hơn như đi tu để phục vụ Giáo hội và cứu rỗi các linh hồn; làm thầy thuốc để phục vụ bệnh nhân nghèo; làm giáo viên để dạy chữ, nhất là dạy đạo đức cho các em nhỏ; thậm chí là là mơ ước làm lãnh đạo để lo cho nước, cho dân… Hay như Đức Thánh Cha mời gọi trong sứ điệp mùa chay năm nay: “Tôi khuyến khích tất cả các tín hữu thể hiện tinh thần đổi mới này bằng cách chia sẻ trong các Chiến dịch Mùa Chay được thúc đẩy bởi nhiều tổ chức Giáo Hội tại những miền khác nhau trên thế giới, và nhờ thế sẽ làm thuận lợi cho nền văn hóa gặp gỡ trong cùng một gia đình nhân loại của chúng ta”.
Nhưng động lực chính yếu để người ta dám từ bỏ những giá trị thấp kém, những giá trị tầm thường vẫn là việc để phát huy tình bạn chân thành với Thiên Chúa. Nếu chưa có tình bạn đó thì phải cầu nguyện và tập luyện để xin Chúa cho chúng ta thấy chỉ có Ngài là Đấng thấu hiếu và giúp đỡ cho chúng ta. Nhờ tình bạn đó mà cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp đã dám từ bỏ không phải những thứ thấp hèn, mà cả điều quan trọng nhất là chính mạng sống mình để cho đoàn chiên của Ngài được an toàn, và nhờ vậy Ngài được ở trọn vẹn bên Người Bạn thân là Đức Giêsu trong vinh quang Nước Trời.
Xin Chúa giúp chúng con ý thức được những cám dỗ của ma quỷ rất tinh vi và mạnh mẽ, không phải để sợ hãi, nhưng để chiến đấu can trường hơn. Xin cho chúng con biết hướng đến những giá trị cao cả, những giá trị đúng đắn để những điều tầm thường, những chuyện thấp kém của ma quỷ không lôi kéo được chúng con. Xin cho chúng con biết gắn bó mật thiết và phát huy tình bạn chân thành với Đức Giêsu trong việc cầu nguyện, học hỏi Thánh kinh, năng lãnh nhận các Bí tích để chúng con đủ sức mạnh chiến đấu với ma quỷ. Xin Mẹ Maria, thánh Cả Giuse và Cha Phanxicô Xaviê Trưởng Bửu Diệp chuyển cầu và nâng đỡ kiếp người yếu đuối của chúng con.
.
Fx Đỗ Công Minh
Bài Tin mừng Chúa nhật thứ I Mùa Chay Thánh sử Matthêu cho con thấy Chúa đã bị cám dỗ ba lần, mà còn hơn thế nữa. (Xem Mt 27,39-44). Cám dỗ thứ nhất là thỏa mãn nhu cầu vật chất hàng ngày, cụ thể về ăn uống. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay, về bản tính con người, Đức Giêsu thấy đói. Ăn uống trở lại là việc bình thường, nhưng ma quỉ muốn thử thách phần Thiên tính của Người, thử xem Người có đói đến mức độ dùng quyền năng thực hiện những việc của kẻ phàm phu tục tử, theo cái nhìn của y: biến đá thành bánh? Chúa đã dùng Lời Kinh Thánh để chiến thắng “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra”.
Không chịu thua, Satan cám dỗ Chúa về quyền lực mà y cho rằng, dù là Thiên Chúa, nhưng cũng như con người, mong muốn thể hiện quyền lực của mình để mọi người biết đến: “Nếu ông là Thiên Chúa Hãy gieo mình xuống đi!”. Tưởng Chúa nghe theo lời để tỏ uy quyền, nhưng Người đã phản bác: “Ngươi đừng thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi”.
Lần cuối, y chắc mẩm thế gian với vinh quang của nó và của cải vật chất, lợi lộc hẳn là đến Thiên Chúa cũng ham muốn, y tự tin đến mức: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi”. Đến đây thì Người phải lên tiếng một cách kiên quyết: “Satan kia, hãy xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.Đức Giêsu chịu ma quỉ cám dỗ và người đã chiến thắng. Chúng đã hiển hiện là tên cám dỗ trước mặt Chúa và Người đã xua đuổi thẳng tay. Tên Quỉ đã bỏ đi và chờ đợi nhiều dịp khác.
Chúa đã từng nhắc các Tông đồ “Ma quỉ sẽ sàng anh em như người ta sàng gạo”. Ngày hôm nay, con không nhận biết được hình dạng tên cám dỗ đó như thế nào? Nhưng trước những lôi cuốn từ của cải, tiền bạc, lợi lộc, quyền lực bất chính, những đam mê tội lỗi vẫn hàng ngày diễn ra trong cuộc sống của con, tên cám dỗ vẫn quanh quẩn bên con. Qua những lời rủ rê, qua những lợi lộc cho bản thân, cho gia đình; qua một vị trí, địa vị, quyền lực hấp dẫn, nấp dưới nhiều chiêu bài khác nhau đang lôi kéo con chiều theo. Những cám dỗ ngọt ngào, những vũng lầy êm ái của nền văn minh sự chết, khiến con rời xa ơn cứu độ của Thiên Chúa, rời xa vòng tay yêu thương của Cha trên trời, của cộng đoàn Hội Thánh nơi trần gian này.
Xin cho con biết tỉnh táo để nhận ra những cám dỗ trong cuộc sống hôm nay. Con biết đón nhận Lời Chúa, biết đem ra thực hành trong đời sống đạo. Đó là con đang sử dụng những khí cụ chống lại những cơn cám dỗ tưởng như nhẹ nhàng, êm ái nhưng đầy hiểm độc.
Lạy Chúa! Xin chớ để con sa chước cám dỗ. Xin cứu con qua khỏi mọi sự dữ. AMEN.
.
Lm. Antôn
Trong một lớp giáo lý ngày Chúa nhật, giáo lý viên bảo các em trong lớp vẽ một bức hình về một câu chuyện Kinh thánh mà các em thích nhất. Một em trai vẽ một bức hình có một người đàn ông bận quần áo rất chỉnh tề lái chiếc xe Lexus mui trần mới và thật đẹp, và có 2 người ngồi ở ghế sau gần như trần truồng. Giáo lý viên cảm thấy lạ và hỏi em cho biết ý nghĩa của bức hình. Nhà họa sĩ nhỏ bé lấy làm ngạc nhiên không biết tại sao giáo lý viên hỏi ý nghĩa về bức tranh, nhưng giải nghĩa rằng người tài xế là Chúa đang lái xe đưa ông A-dong và bà E-và ra khỏi vườn Địa đàng.
Ông bà anh chị em thân mến. Đó cũng là câu chuyện trong bài đọc một hôm nay. Ông A-dong và bà E-và, tổ tông loài người, đã nghe lời dụ dỗ của ma quỉ là con rắn phạm tội không vâng lời Chúa, và đã bị Chúa đuổi ra khỏi vườn Địa đàng. Câu chuyện này giúp chúng ta hiểu rõ căn nguyên, nguồn gốc của sự dữ, của tội lỗi và đau khổ. Thiên Chúa dựng nên tổ tông loài người để sống trong hạnh phúc và chia sẻ ân sủng với Ngài, nhưng vì nghe lời cám dỗ của ma quỉ, không tin vào Chúa, tự tạo luật lệ cho mình và đã dùng tự do để từ chối và từ bỏ Chúa. Câu chuyện này cho chúng ta biết chúng ta tự mang lại cho chính mình những đau khổ, sự dữ và sẽ lãnh nhận những hậu quả do chính mình tự làm ra, do chính hành động của mình làm.
Thánh Phao-lô trong bài đọc 2 xác định và vạch ra cho chúng ta biết chiều hướng tội lỗi này nằm trong con người chúng ta. Nhưng thánh Phao-lô còn nhấn mạnh cho chúng ta biết một điều quan trọng và là một tin mừng: chính Chúa Giê-su Ki-tô, Người đã cứu thoát chúng ta khỏi tội lỗi. Thánh Phao-lô cho chúng ta biết: “Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế.”
Thật vậy, bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giê-su nhận ra và đã cương quyết từ chối và không nghe những lời cám dỗ, những lời dụ dỗ ngon ngọt và khéo léo của ma quỉ. Chúa cương quyết vâng lời Chúa Cha và trung thành với sứ vụ đã được trao phó. Chúng ta thấy ma quỉ đã dùng 3 thứ rất hấp dẫn: miếng ăn, kiêu ngạo và danh vọng để cám dỗ Chúa. Và chúng ta thấy ngày nay, ma quỉ vẫn còn dùng 3 thứ này để cám dỗ chúng ta vì 3 thứ này cũng rất hấp dẫn với tất cả chúng ta, dễ làm cho chúng ta không vâng lời và sống xa Chúa.
Cám dỗ thứ nhất là cơm bánh, miếng ăn. Đây là một cám dỗ rất dễ gặp trong cuộc sống. Bên ngoài, nó còn có vẻ hợp lý. Chúng ta thường nghe nói: “Có thực mới vực được đạo.” Dựa vào lý luận này, chúng ta làm theo ý thích và tiện lợi của mình. Dùng miếng ăn để tự biện minh cho sự khô khan, nguội lạnh, thờ ơ với đức tin và Lời Chúa, và chạy theo sự tham lam tiền của, vật chất của mình. Và từng bước một, chúng ta đặt miếng ăn, tiền bạc trên hết và trước Chúa và đi xa dần Thiên Chúa. Cám dỗ thứ hai là kiêu ngạo. Chúng ta biết ma quỷ là cha thần kiêu ngạo. Biết bao người xưa và nay đã sa vào cạm bẫy của ma quỉ, trở thành nạn nhân của lòng tự ái, tự hào và tự phụ vì công đức và sự đạo đức của mình. Cám dỗ thứ ba là danh vọng. Ma quỷ hứa ban cho Chúa tất cả nếu bằng lòng uốn gối quỳ tôn thờ chúng. Thờ lạy tức là vâng phục và chúng ta thấy biết bao người cũng đã vâng phục, tôn thờ ma quỉ vì rơi vào bẫy danh vọng và tiền bạc.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta có nhận ra mỗi lần bị cám dỗ, Chúa Chúa đã lấy Lời Kinh Thánh để chống trả và chiến thắng không. Điều đó cho chúng ta biết Kinh Thánh Lời Chúa là khí giới, là sức mạnh và là sự giúp đỡ chính đáng để chúng ta kháng cự, để chống trả lại và chiến thắng những cơn cám dỗ. Không có ơn Chúa, chúng ta không thể đương đầu và không thể chiến thắng được. Ngoài ra, khi bị cám dỗ, Chúa Giê-su quyết chống trả lại ngay tức khắc. Gương A-dong và bà E-và, tổ tông loài người vẫn còn đó. Bà E-và xưa chỉ vì không quyết tâm chống trả ngày, mà còn lân la, tò mò gợi chuyện, nên đã bị ma quỉ đánh lừa và sa ngã thảm thương. Cho nên, khi bị ma quỉ cám dỗ, đưa ra những cạm bẫy, đưa ra những sự cám dỗ thật lôi cuốn, chúng ta phải chống trả ngay. Người bị cám dỗ mà không quyết tâm chống trả ngay, hay coi thường thì sớm muộn gì cũng đối diện với những sự nguy hiểm và rơi vào cạm bẫy.
Ông bà anh chị em thân mến. Cám dỗ là những tư tưởng lôi cuốn chúng ta nghĩ rằng: chúng ta sung sướng, hạnh phúc, thoải mái và tự do hơn nếu không có sự hiện diện của Chúa. Chúng ta không cần đến Chúa và không cần sự dạy dỗ, hướng dẫn và giúp đỡ của Chúa. Ơn sủng và sức mạnh để chống đỡ và chiến thắng cám dỗ luôn có sẵn cho chúng ta, nhưng chúng ta không luôn sử dụng. Tất cả chúng ta, nam nữ, giáo dân tu sĩ, trẻ già, đều bị cám dỗ. Chúng ta biết chính Chúa Giê-su cũng bị cám dỗ. Lời Chúa trong Mùa chay kêu gọi chúng ta hy sinh thời giờ cầu nguyện, ăn chay hãm mình đền tội, làm việc bác ái, và nhất là thực hành Lời Chúa, như những dòng chữ trên tấm băng rô treo trên cung thánh đây. Xin Chúa giúp chúng ta biết dùng thời giờ mùa chay, để chú trọng vào đời sống đức tin, và biết lấy Lời Chúa làm sức mạnh, để chiến thắng những cạm bẫy của ma quỷ, để chúng ta được sống trong ân sủng, hạnh phúc và bằng an của Chúa.
.