CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN. NĂM C

1305

CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN_C

Lời Chúa: St 18,20-32; Cl 2,12-14; Lc 11,1-13

——-

Mục lục (2022)

1. Tình Cha  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hãy tin và hãy xin (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Hãy xin sẽ được  (Lm. Thái Nguyên)

4. Lạy Cha chúng con  (Jorathe Nắng Tím)

5. Được gọi Chúa là Cha (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

6. Nhiêu khê  (Lm. Vũ Đình Tường)

7. Xin Thầy dạy con cầu nguyện  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

8. Cầu nguyện  (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

9. Đọc ngược kinh Lạy Cha (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

10. Lời kinh đẹp nhất (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

11. Chúa ban phúc lộc dồi dào (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

12. Suy niệm Chúa Nhật 17 TN_C (Lm. Phạm Hồng Thái)

 

Mục lục (2019)

1. Đấng kiên nhẫn và bao dung (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Đúng và đẹp  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Xin cho Danh Cha Cả Sáng (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Nước Cha trị đến  (Lm. Hoàng Kim Toan)

5. Cầu nguyện như Thầy Giêsu (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Phút giây yên tĩnh (Lm. Vũ Đình Tường)

7. Cầu nguyện  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

8. Chúa Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện(Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

9. Cầu xin ơn tha thứ tội lỗi (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

10. Lựa chọn phần tốt nhất (Lm. Trần Bình Trọng)

11. Cầu nguyện, cầu xin (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

12. Hãy xin thì sẽ được (Lm. Anthony Đinh Minh Tiên)

13. Chúa Giêsu dạy cầu nguyện (Lm. Simon Hồ Đức Minh, SVD)

14. Lời kinh đầy tâm tình (G. Nguyễn Cao Luật)

15. Suy niệm Chúa Nhật 17 Thường niên_C  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

16. Kinh Lạy Cha  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

17. Cầu nguyện cùng cha trên trời  (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

18. Tâm nguyện luyện tâm linh (Trầm Thiên Thu)

19. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 17 TN_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

20. Chúa Nhật 17 Thường niên_C.  (Lm. Antôn)

 

Mục lục (2016)

1. Cầu nguyện là nối liền nhịp cầu yêu thương (Gm.Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Lạy Cha chúng con  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Cầu nguyện kiên trì  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Hiệu quả  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

5. Tin tưởng vào Chúa và tha thiết nguyện cầu (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Cầu xin với thái độ con thảo (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

7. Kinh Lạy Cha – Lời kinh của Chúa  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Cầu nguyện của tôi còn thiếu điều gì? (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

9. Kinh Lạy Cha: Lời kinh cao đẹp và hoàn hảo nhất (Lm.GB. Trần Hào, SDB)

10. Xin  (Trầm Thiên Thu)

11. Lời kinh tuyệt diệu của muôn thế hệ  (Jos. Vinc. Ngọc Biển)

12. Phải cầu nguyện như thế nào?  (Lm. Giacôbê Tạ Chúc)

13. ABBA, Cha ơi!  (AM. Trần Bình An)

14. Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện (Lm. Fx. Đỗ Công Minh)

15. Biến ước mơ thành hiện thực (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

16. Kiên trì cầu nguyện  (IM. Lam Thy, ĐVD)

17. Cầu nguyện hay cầu xin? (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

18. Kinh lạy Cha – Lời cầu nguyện phong phú  (Lm. Đan Vinh)

19. Chúa Nhật 17 Thường niên_C  (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)

 

TÌNH CHA

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Trong cuộc sống thực tế, người cha thường hay nghiêm khắc đối với con cái, nhưng lại dạt dào tình thương. Nói đúng hơn, cách thể hiện tình cảm của người cha khác với người mẹ. Tuy vậy, tình cha không kém gì tình mẹ, vừa rộng mở, vừa bao dung. Nếu có nghiêm khắc, là vì muốn cho con nên người, bởi lẽ “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Cũng trong quan niệm thông thường của người Việt Nam, chữ “tình” rất quan trọng. “Trăm cái lý không bằng một tý cái tình”. Vì tình nghĩa, người ta dễ dàng bỏ qua những thiếu sót, “chín bỏ làm mười”, để quên đi quá khứ và sống hài hoà với nhau trong một làng, một xóm hoặc một đại gia đình.

Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa được xưng tụng là Cha. Ngài rất khiêm khắc đối với tội nhân, nhưng lại bao dung đối với những ai thành tâm sám hối. Ngài là Đấng “nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30,6). Câu chuyện ông Abraham “mặc cả” với Chúa đã diễn tả lòng nhân từ của Ngài. Thời đó, dân thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra sống trong tội lỗi và sa đọa, khiến Thiên Chúa bừng bừng nổi giận. Ngài quyết định sẽ trừng phạt họ. Ông Abraham đã “năn nỉ” với Chúa và dần dần từng bước hạ thấp điều kiện. Từ con số năm mươi người công chính, ông đã hạ xuống chỉ còn mười người, nhờ đó mà Chúa thay đổi ý định trừng phạt. Thiên Chúa đã bớt giận trước lời nài xin của ông Abraham và Ngài đã đồng ý: nếu có được mười người công chính thì Ngài sẽ không tru diệt hai thành này. Tác giả sách Sáng thế đã dùng lối văn “như nhân” để diễn tả Thiên Chúa. Ngài nguôi giận trước sự van xin của con người. Nếu đọc tiếp đoạn Sách thánh này, chúng ta sẽ thấy, điều kiện có mười người công chính cũng không đạt được. Thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra đã bị lửa diêm sinh từ trời thiêu rụi. Tất cả đã bị tru diệt, chỉ trừ gia đình ông Lót, là người kính sợ Chúa. Khi vừa chạy khỏi thành, bà vợ ông Lót, vì tiếc của quay lại, bỗng hoá thành tượng muối.

Nếu Thiên Chúa kiên nhẫn trước sự xúc phạm của con người, thì con người cũng phải kiên nhẫn cậy trông để thoát khỏi trừng phạt. Người hàng xóm trong Tin Mừng thánh Luca đã kiên trì nhẫn nại để vay bánh vào lúc nửa đêm. Sự kiên trì đã làm thay đổi lòng chai đá của chủ nhà, mà trỗi dậy lấy bánh cho người hàng xóm. Chúa Giêsu đã dùng một tình huống đời thường để liên hệ đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Nếu người thường còn làm thế, huống chi Cha trên trời. Hãy kiên trì cầu nguyện. Hãy phó thác nơi Thiên Chúa những lo lắng của cuộc đời. Ba động từ được Chúa Giêsu nhắc tới, đó là: xin, tìm, gõ cửa. Cả ba hành động này đều diễn tả sự kiên nhẫn, lòng cậy trông và tin tưởng phó thác. Thiên Chúa là Cha nhân từ. Ngài luôn lắng nghe những ước nguyện chân thành của chúng ta.

Cầu nguyện làm nên cốt lõi đời sống người tin Chúa. Vì cầu nguyện chính là than thở với Ngài, để trình bày với Ngài về nỗi niềm nhân thế. Cầu nguyện cũng là xin Chúa đỡ nâng trên đường đời còn mang nhiều truân chuyên. Đức Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện. Lời Kinh “Lạy Cha” diễn tả mối dây thiêng liêng giữa Thiên Chúa và người tín hữu. Chỉ có Chúa Giêsu mới được gọi Thiên Chúa là Cha, vì Người là Con của Chúa Cha, như Người nhiều lần khẳng định. Lời cầu nguyện mà Người dạy các môn đệ khởi đầu bằng hai chữ “Lạy Cha”, hoặc “Thưa Cha”, hoặc “Cha ơi”. Như vậy, Chúa Giêsu đã cho phép chúng ta gọi Chúa là Cha, giống như bản thân Người. Nói cách khác, nhờ Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu, và với Chúa Giêsu mà chúng ta được gọi Chúa là Cha với tâm tình thân thương trìu mến.

Nếu chúng ta mạnh dạn đến với Chúa và thân thưa với Ngài: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, là nhờ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.  Thánh Phaolô nói với chúng ta: trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta. Đức Giêsu đã giải phóng chúng ta khỏi mọi chướng ngại ngăn bước chúng ta đến gần Thiên Chúa.

Khác với lối cầu nguyện kể lể dài dòng và nhằm phô trương nơi những người biệt phái đã bị Chúa Giêsu kịch liệt lên án, kinh Lạy Cha ngắn gọn, đơn sơ mà lại mang nội dung rất phong phú. Đây là tâm tình đơn sơ của người con thảo thân thưa với Chúa. Điều cầu nguyện ưu tiên là ước mong cho vinh quang Chúa tỏ hiện giữa lòng nhân thế, để mọi người trên thế giới nhận biết Chúa là Cha vinh hiển quyền năng. Tiếp đó là những ý cầu nguyện xin cho bản thân và cho những người anh chị em bạn hữu. “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”. Lời kinh khiêm tốn nhẹ nhàng, vừa hướng chúng ta về Chúa, vừa liên kết chúng ta với tha nhân. Lời kinh cũng thể hiện thiện chí sống hài hoà với mọi người nhờ ơn Chúa, để có được trái tim bao dung như Ngài.

Với tâm tình yêu mến, phó thác và cậy trông, chúng ta cùng thưa với Chúa; “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”. Chắc chắn lời kinh sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an, trong mọi tình huống của cuộc đời.

Về mục lục

HÃY TIN VÀ HÃY XIN

Lm. Jos DĐH.

Người xưa có câu: phải cầu xin là nhục, phải khuất phục là hèn. (Khổng Tử). Thực tế mỗi người phải đi bằng chính đôi chân của mình, phải sống bằng thực lực của mình, không ai chấp nhận bạn đầu hàng số phận. Nếu đường đi lối lại thuộc về bạn, bạn phải bước đi, người khác chỉ có thể cùng đồng hành với bạn. Sống trong cơ chế xin cho: người nghèo xin người giầu, kẻ dưới xin cấp trên, qua sông phải luỵ đò là thế. Vâng, cứ đi đi, cứ ngã đi, rồi bạn sẽ biết cách phải tự đứng dạy. Đồng ý rằng: cuộc sống quá phức tạp, vấp ngã, không phải là khó hiểu, người tình có thể bỏ rơi ta, bạn thân có thể nghi ngờ lòng tốt của ta, nhưng đứng lên là do sức mạnh nội tâm của ta. Ví như các vận động viên chuyên chăm tập luyện, các ca sĩ kiêng khem, luyện giọng, ít là vì danh hiệu, vì nghệ sĩ cần phải sống mãi với các “fan” hâm mộ của mình.

Cứ theo suy nghĩ tự nhiên: kẻ đói xin ăn, người giầu xin danh tiếng, ốm đau bệnh tật thì xin gặp thầy gặp thuốc, vậy những người tài giỏi, khoẻ mạnh, có phải họ không cần nói lời xin bao giờ ? Theo diễn tiến của đoạn tin mừng hôm nay, ngoài cơm bánh vật chất, địa vị danh vọng, người ta còn có nhu cầu tâm linh thật quan trọng. “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy các môn đệ ông”. Không xin bạc vàng, công danh, nhưng xin biết cầu nguyện, xin cho biết thân thưa với Thiên Chúa, đúng và đẹp, xin như thế, có phải người đời sẽ cho là khờ dại, vớ vẩn không ? Trò tin Thầy tài giỏi đức độ, con cái tin cha mẹ yêu thương, hẳn họ sẽ bày tỏ lòng mến và xin điều cần xin. Cũng vì hết sức thiết thực, Thầy Giêsu chỉ dạy các học trò cầu nguyện, xin ơn, Thầy còn đưa ra một minh hoạ về câu chuyện xin bánh giữa đêm khuya.

Hãy tin và hãy xin, hãy yêu và đừng hỏi tại sao phải sống yêu thương, hãy tin Thiên Chúa là Cha giầu lòng xót thương, qua đó ta không phải “lăn tăn” việc thành bại, tại sao lại có câu: cho vàng cho bạc không bằng chỉ đàng đi buôn. Chỉ những ai thật sự khôn ngoan mới đủ thấm lời dạy: người không học như ngọc không mài. Chỉ những ai tự mãn kiêu căng, không thành ý, không tham vấn, không cầu xin ai bao giờ mới nói: nhịn thì nhục mà cự thì gục. Hãy tin, hãy xin, vì “không người cha nào khi con cái mình xin bánh, mà cho nó hòn đá, xin trứng, lại cho nó con bọ cạp” ? Tin tưởng, xin ơn, chắc không đấng bậc nào đòi hỏi con cái phải dồi dào kỹ thuật, nhất là khi chúng đã biết đặt mình trước sự khiêm tốn thành khẩn. Xưa, người ta nói con người chỉ đẹp khi là trẻ thơ, trong hình ảnh thiên thần. Nay, người ta nói con người chỉ đẹp khi ở trên mạng xã hội, với những thủ thuật tẩy xoá, giả tạo …

Cổ nhân có câu: dịu dàng mà không nhu nhược, dịu dàng mà vẫn cương quyết, đó là bí ẩn của phụ nữ. Thánh nữ Rosalima năm xưa vừa dịu hiền vừa quyết đoán, Thánh nhân thường hãm mình, ăn ít, ngủ ít, để có nhiều thời giờ tâm sự, cầu nguyện với Chúa. Lời tâm sự của thánh nữ rất chân thành: ôi Chúa Giêsu đáng mến biết bao, cho đến khi nào con mới biết yêu mến Ngài cho đủ ? Kẻ nào không yêu mến Chúa, thì hoặc vì họ chưa biết Ngài, hoặc họ là người không có trái tim bằng thịt. Vì xót thương dân thành Sôđôma, Abraham cầu xin, thương lượng cùng Thiên Chúa: giả như tìm được mười người công chính trong thành Chúa có tha cho họ không ? Chính niềm tín thác trọn vẹn vào Thiên Chúa quyền năng và giầu lòng xót thương, ông Abraham và nhân loại được nghe: “vì mười đó, Ta sẽ không phá huỷ thành Sôđôma”.

Hãy tin, hãy xin, không phải đó là dấu chỉ kẻ nhu nhược yếu mềm, mà là nét đẹp của bậc hiền nhân quân tử: người có đức là vua, người có tài là nô bộc. Người có phúc có đức, vẫn được xem là dễ dàng hơn trong việc sống thảo sống hiếu với bậc sinh thành, ít ra vì niềm tin: có đức ắt có phúc, có phúc ắt có phần. Hình ảnh người bạn xin bánh vào đêm khuya, được đáp ứng, hình ảnh bậc làm cha mẹ, không từ chối khi con mình xin trứng xin cá, tất cả là vì yêu vì thương. Đức Giêsu còn dẫn người môn đệ đi xa hơn: “nếu các con là những kẻ gian ác còn biết cho con cái mình của tốt, phương chi Cha các con trên trời lẽ nào lại không ban Thánh Thần cho kẻ kêu xin Người”. Vấn đề tin, không thể chuẩn và đẹp khi chưa sống, chưa thực hành, vấn đề xin không thể hợp lý và có lý, nếu chỉ dừng lại trên môi miệng, hình thức.

Người xưa thật tinh tế và dồi dào kinh nghiệm: mẹ yêu con bằng trái tim, cha yêu con bằng bờ vai vững chắc. Đức Giêsu yêu các học trò không hệ tại roi vọt hay ngọt bùi, mà bằng chính gương sáng của niềm tin Thiên Chúa là Cha và hãy nhẫn nại trong nguyện xin. Hãy tin Đức Giêsu là Thầy, là Thiên Chúa cứu độ, hãy nài xin tình yêu của Chúa hiện diện, ở mãi trong các tương quan gia đình và xã hội. Tiền nhân chỉ dạy chúng ta: ở chọn nơi chơi chọn bạn. Một người bạn tốt là người bạn luôn mỉm cười khi ta cười, vui khi ta vui, nhưng sẽ không khóc khi ta khóc, bởi lúc đó họ phải nắm tay và bảo vệ ta, người bạn tốt đó, nhất định phải là tình Thầy Giêsu. Hãy tin, hãy xin, vì chính Thầy truyền dạy: “ai xin sẽ được, ai tìm sẽ gặp, ai gõ sẽ mở cho”. Amen.

Về mục lục

HÃY XIN SẼ ĐƯỢC

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Khi thấy Đức Giêsu cầu nguyện, các môn đệ cũng xin Thầy dạy cho biết cách cầu nguyện. Ngài đã dạy các ông kinh Lạy Cha, là lời kinh tuyệt vời, vì đó chính tâm tình sống ngập tràn tình yêu mến của Ngài đối với Chúa Cha. Theo thánh Luca, phần đầu của lời nguyện là cầu cho danh thánh Cha vinh hiển và Triều Đại Cha mau đến, nghĩa là cho mọi người được nhận biết quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Thật ra, Thiên Chúa là Đấng sung mãn và đầy tràn vinh quang, không ai thêm bớt gì được nơi Người; Người là sự sống vô biên và là nguồn mạch mọi ơn lành, nên khi con người được nhận biết, thì đó là diễm phúc cho cuộc đời họ. Hơn nữa, khát vọng sâu thẳm của con người chính là Thiên Chúa, Đấng là khởi nguyên và là cùng đích của mọi loài mọi vật. Tiếp theo là xin cho lương thực hằng ngày; xin ơn tha thứ và biết thứ tha, nhất là xin đừng bị sa chước cám dỗ.

Trong lời kinh này, điều lạ lùng và hết sức ngạc nhiên là Đức Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha: “Ba ơi!”. Tiếng gọi đó làm rúng động trái tim loài người chúng ta trước tình thương bao la của Thiên Chúa. Tiếng “Cha” ở đây không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Từ ngữ “Cha” gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa thâm sâu và mầu nhiệm. Khi mạc khải cho biết Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu đã đưa ra một hình ảnh về Thiên Chúa hoàn toàn khác với hình ảnh các vị thần của các tôn giáo khác. Không những Ngài cho ta thấy Thiên Chúa Cha yêu thương ta vô cùng, mà còn muốn ta đi vào tình nghĩa rất riêng tư và thân thiết với Cha.

Qua Kinh Lạy Cha, chúng ta còn khám phá ra mọi người đều là anh em có cùng một Thiên Chúa là Cha: “Lạy Cha chúng con” chứ không Lạy Cha của con. Vì là anh em với nhau trong một gia đình của Thiên Chúa, nên mọi người phải sống tình liên đới và có trách nhiệm với nhau trên mọi phương diện, cả trong lời cầu nguyện. Từ nền tảng này, câu “Tứ hải giai huynh đệ” mới có một ý nghĩa thiêng liêng cao vượt, chứ không chỉ là một liên hệ bề ngoài mang tính xã hội. Tổ phụ Abraham đã thực hiện tình liên đới đó khi tha thiết cầu xin cho thành Sôđôma khỏi bị phạt vì tội lỗi của họ quá nặng nề. Ông đã mặc cả với Chúa rằng, nếu trong thành có 50 người công chính thì xin Chúa tha cho cả thành. Chúa đồng ý, nhưng rồi ông phải hạ xuống dần dần còn 10 người. Rất tiếc là Abraham đã dừng lại ở con số đó, không dám tiến xa hơn vào lòng thương xót của Thiên Chúa (x. St 18, 20-32).

Sau kinh Lạy Cha, Đức Giêsu khuyến khích chúng ta hãy xin, hãy tìm và hãy gõ cửa. Ngài mời gọi ta hãy hành động tích cực chứ không thụ động ngồi chờ. Nhưng có khi vì tự phụ mà ta không xin nên không được; có khi vì ta lười biếng mà không tìm nên ta không gặp; có khi vì ta nhút nhát không gõ cửa nên không được mở cho.

Qua dụ ngôn người bạn bị quấy rầy, Đức Giêsu còn dạy phải kiên trì khi cầu xin, để tăng thêm ước muốn của ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Chúa ban. Nếu ta không nhận được điều mình xin, không phải là Chúa không ban, nhưng có thể điều cầu xin ấy không có lợi mà còn có hại cho tâm hồn ta, hoặc Ngài muốn dành cho ta một ơn lớn lao hơn. Trong sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa là Cha từ ái, Ngài biết phải ban ơn gì và ban như thế nào để làm triển nở cuộc đời ta.

Cầu xin không phải để cho được điều mình mong ước, mà còn để đạt tới những gì Chúa ước mong. Cầu xin chủ yếu là để nối kết thân tình với Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự trong ta, Đấng đang kết dệt nên cuộc đời ta và đưa ta vào chương trình tình yêu cứu độ của Ngài. Hiểu như thế để ta ra khỏi những bận tâm chật hẹp của bản thân, để thấy những nhu cầu lớn lao của tha nhân và Giáo hội. Cũng đừng quên rằng, ơn cao cả nhất mà Cha muốn ban cho ta là Chúa Thánh Thần. Có Thánh Thần là có niềm vui, có sức mạnh, có ánh sáng và sự sống mới. Đó là sự sống của Đức Kitô đang hình thành nơi mỗi người chúng ta cho tới khi đạt tới tầm mức viên mãn trong Thiên Chúa.

Cần lắng sâu trong cầu nguyện, ta mới biết điều mình phải xin, vì những điều ta xin còn mang nhiều cặn bẩn. Lắm khi ta xin rắn mà không hay. Cũng có khi ta tưởng Chúa cho chúng ta bọ cạp. Chỉ với con mắt đức tin, ta mới biết Chúa đã nhận lời mình rồi, nhưng theo một kiểu khác với kiểu ta muốn. Với tình yêu mến, thì mọi biến cố trong đời đều là quà tặng yêu thương của Chúa dành cho ta.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giê-su!
thách đố lớn của đời Ki-tô hữu,
chính là sự thinh lặng của Thiên Chúa,
vì con kêu cầu mà chẳng thấy đâu,
khi gặp khổ đau tinh thần thân xác,
khi thấy người lành gặp bao điều ác,
kẻ vô tội lại bị những hàm oan,
bao người phải than van và nổi loạn,
có thật chăng một Thiên Chúa toàn năng?

Chính Chúa cũng quằn quại trên thập giá,
cảm thấy sự thinh lặng của Chúa Cha,
trước sự gian tà mà không đáp trả,
xem như muốn bỏ cả người Con yêu.

Nhưng Ngài vẫn phó thác trong tay Cha,
biết Cha không hành động như người ta,
Cha không đưa Con xuống khỏi thập giá,
nhưng đã đưa Con ra khỏi nấm mồ,
đó mới là quyền năng Cha thi thố,
để nhờ Con muôn người được cứu độ.

Hôm nay Chúa dạy con cứ việc xin,
và hãy tin chắc rằng Chúa sẽ cho,
không hẳn thỏa mãn điều con cần có,
nhưng lớn lao hơn những gì con nghĩ,
người cha trần thế không cho điều xấu,
huống chi Thiên Chúa là Cha nhân hậu.

Xin cho con cứ tin tưởng thật nhiều,
nhưng hãy để cho Thiên Chúa định liệu,
vì Người biết những gì là tốt nhất,
Người còn ban cho con cả Thánh Thần,
là Đấng thánh hóa suối nguồn hồng ân. Amen.

Về mục lục

LẠY CHA CHÚNG CON

Jorathe Nắng Tím

Tôn giáo nào cũng dạy cầu nguyện, vì cầu nguyện là thực hiện tuơng quan với Đấng Thiêng Liêng mà người tín hữu tôn thờ. Cầu nguyện để chúc tụng, tạ tội, xin ơn… và sự gắn bó giữa Đấng Vô Hình với con người hữu hình, giữa Đấng Tối Cao, Toàn Năng, Tuyệt Đối với phàm nhân tương đối, yếu đuối, mỏng dòn được lớn lên qua cầu nguyện.

Sở dĩ xin Đức Giêsu dạy cầu nguyện, vì các tông đồ nhìn thấy chung quanh mình nhiều người cầu nguyện, đặc biệt các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và các ông muốn bắt chước họ cầu nguyện. Nhưng nguyên nhân sâu thẳm hơn, đó là từ đáy sâu tâm hồn,  các ông  cảm nhận cầu nguyện là một nhu cầu không thể thiếu.

Và Đức Giêsu đã dạy các ông cầu nguyện. Nhưng khi dạy các ông cầu nguyện:  “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11,2-4), Đức Giêsu đã không dạy các ông một công thức cầu nguyện khô khan, cứng nhắc, kiểu bấm nút tự động thì ơn lành sẽ tuôn ra; cũng không dạy các ông cầu nguyện như người ta lải nhải một cách vô hồn những lời thần chú mê tín, ma mị, mù qúang, nhưng mặc khải cho các ông Tên của Thiên Chúa.

Tên ấy là “Cha”. Với Tên này Đức Giêsu đã “hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bận khôn ngoan, thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn..” (Lc 10,21); với Tên này, trong vườn Cây Dầu trước giờ bị bắt, Ngài đã bồi hồi khẩn khoản: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con …” (Lc 22,42), vì sứ vụ mặc khải Tên Thiên Chúa là Cha chính là mục đích của đời Ngài, như Tin Mừng Gioan đã ghi lại trong lời cầu nguyện của Ngài với Chúa Cha: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm”, và  “những kẻ  Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha…”  (Ga 17, 4. 6).

Vì thế, người môn đệ cũng được mời gọi chung tâm tình cầu nguyện với Đức Giêsu, được chia sẻ hạnh phúc gọi Thiên Chúa là Cha và ký thác nơi Ngài mọi tâm tư, ước nguyện như Ápraham đã  nài xin Thiên Chúa tha thứ cho dân thành Xơđôm, “vì tội lỗi của chúng quá nặng nề” (St 18,20), khi ông năn nỉ Chúa rút  số người lành từ năm mươi xuống còn mười người (x. St 18,22-33).

Để làm chứng tình thương bao la, cao vời của người cha Thiên Chúa đối với con cái mình, sau khi dạy các tông đồ cầu nguyện khi thưa với Thiên Chúa: “Lạy Cha chúng con”, Đức Giêsu  khẳng định với các ông: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11, 9-10) khi quả quyết tình yêu tuyệt đối và vô cùng quảng đại của người Cha Thiên Chúa: “Ai trong anh em là một ngưòi cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11, 11-13).

Quả thực, mặc khải quan trọng nhất chúng ta nhận được từ Đức Giêsu chính là  được biết tên Thiên Chúa là “Cha chúng ta”, và  Người thương chúng ta bằng tình cha tuyệt đối của người Cha Thiên Chúa.

Có Thiên Chúa là Cha, chúng ta biết mình được yêu thương, gìn giữ, bao che, bênh vực, nhất là được tự do đến với Ngài, tự do ca tụng Ngài, tự do cầu xin Ngài thương xót, ban ơn, tự do tạ tội với Ngài khi lầm lỗi, mà không sợ hãi, vì “ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14), mà con cái thì không  sợ sệt, chỉ nô lệ mới phải sợ sệt thôi (x. Rm 8, 15). Nói cách khác, chúng ta có tất cả quyền làm con, vì “chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta  và sai Con của Người  đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4,10), “hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” ( Gl 4,5), được gọi Thiên Chúa “Ápba! Cha ơi!”(Gl 4, 6).

Xin Chúa cho chúng ta đừng bao giờ quên Ngài là Cha chúng ta, người Cha yêu thương con mình bằng một tình yêu toàn năng tuyệt đối. Và vì có chung một Cha, nên chúng ta là anh em của nhau, và chung nhau một tâm tình cầu nguyện cho “Danh thánh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,9-10) với lòng khiêm nhường và bền tâm tín thác, trông cậy  ở  tình thương của Cha chúng ta trên trời.

Về mục lục

ĐƯỢC GỌI CHÚA LÀ CHA

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cuộc sống là vô thường. Không có gì là tồn tại mãi. Có những điều mất đi ta mới thấy hụt hẫng như tình yêu thương của cha, của mẹ dành cho con cái. Khi ở trong vòng tay của mẹ cha ta luôn cảm thấy ấm áp hạnh phúc. Mất đi rồi ta mới thấy nhớ nhung, nuối tiếc không nguôi.

Tôi nhớ có đoạn status viết rằng:

“Bố à! con ước gì bố vẫn ở đây với con. Có nhiều thứ làm con mệt, làm con muốn khóc. Con của bố nhiều khi không mạnh mẽ được như lời bố dặn. Ở một mình con hay khóc lắm vì nhớ bố, vì tủi thân

Con nhớ Bố, Bố ơi”

Và có bạn còn viết rằng:

“Trái đất cứ xoay vòng, thời gian thì cứ trôi, nhưng một điều sẽ mãi mãi không thay đổi, đó là tình thương của cha trong trái tim con. Dù ngần ấy năm trôi qua, con vẫn nhớ về cha mỗi ngày như vậy

Quả thực người cha luôn là điểm tựa vững chắc nhất cho ta mỗi khi ta thấy mình yếu đuối, va vấp trong cuộc đời; là khung trời cho ta tung cánh bay thật cao…thật xa…với những ước mơ đong đầy….

Thật hạnh phúc cho những ai có một người cha tốt lành. Một người cha luôn ở bên con, lo lắng mọi điều cho con. Một người cha bao dung luôn tha thứ và kiên nhẫn với lỗi lầm của con.

Hôm nay Chúa Giê-su cũng mạc khải cho nhân loại về một Thiên Chúa với danh xưng là Cha. Một người Cha quyền năng và cũng thật tốt lành. Một người cha yêu thương con đến nỗi đã trao tặng cho con người toàn bộ gia sản mà Ngài đã tạo dựng nên. Một người cha chậm bất bình và rất mực từ bi. Ngài có giận trong giây lát nhưng yêu thương thì suốt đời, cho dù con cái có vong ân bội nghĩa, cha vẫn ngày ngày ngóng con trở về và luôn rộng lòng tha thứ khi con quay gót trở về.

Thật hạnh phúc cho chúng ta được làm con Thiên Chúa. Hãy đặt niềm tín thác nơi Chúa. Thiên Chúa như người Cha sẽ luôn lo lắng mọi sự cho con cái. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta vì chính Ngài đã nói: “hãy xin thì sẽ được, hãy gõ thì sẽ mở cho”.

Chúng ta hãy nhớ tới biết bao người đang đói khổ do mất mùa, do dịch bệnh gây nên.

Chúng ta hãy nhớ tới biết bao người đang thất nghiệp, nhưng còn gánh trên vai nợ nần chồng chất.

Chúng ta hãy nhớ tới biết bao người đang đau yếu bệnh tật, đang thiếu mọi phương tiên cứu sống.

Xin Cha ban lương thực và gìn giữ họ khỏi mọi sự dữ. Xin Cha đoái nhìn đến những thiếu thốn của họ và rộng tay ban phát.

Nguyện xin cho danh Chúa được cả sáng khi con người biết tín thác vào

Về mục lục

NHIÊU KHÊ

Lm Vũđình Tường

Khi cầu nguyện chúng ta dâng lên Chúa tâm tình tạ ơn, đồng thời cởi mở tấm lòng, tâm sự cùng Chúa. Đôi khi tấm lòng đó là mớ bòng bong rối bời, bao gồm lo lắng, buồn phiền, lo sợ, pha trộn với đau thương, đen tối, thất vọng, ê chề, chan chứa niềm đau của chính mình hoặc của người thân thương. Chúng ta dâng lên Chúa mối bận tâm đó, bởi chúng ta tự nhận mình yếu đuối, không đủ khả năng giúp mình và cần đến ơn Chúa trợ giúp. Chúng ta định thời gian cầu nguyện, nơi chốn và ngay cả cách cầu nguyện. Tuy nhiên kết quả cầu nguyện, nằm ngoài tầm tay ta; điều này hoàn toàn thuộc về Chúa và do Chúa quyết định. Cầu nguyện thường rập khuân theo thói quen, có nghĩa là lập đi, lập lại cùng phong cách, lời cầu. Cuộc sống tâm linh và cuộc sống thường ngày giống nhau ở điểm lập đi, lập lại. Mỗi ngày chúng ta thức dậy đúng giờ, làm cùng một công việc cần làm cho bản thân trước khi bắt đầu một ngày mới. Khi cầu nguyện, chúng ta bắt đầu bằng tâm tình tạ ơn, sau đó chúng ta cởi mở tấm lòng, tâm sự cùng Chúa điều chúng ta cần, bởi chúng rất gần, liên quan đến cuộc sống.

Kinh Lậy Cha, Đức Kitô dậy xin cho lương thực hàng ngày bởi chúng ta cần thực phẩm mỗi ngày. Chúng ta xin Chúa thứ tha tội lỗi bởi con người vừa bất toàn, vừa yếu đuối lại hay chiều theo thân xác. Học từ Thiên Chúa chúng ta cũng cần bỏ qua lỗi lầm thiếu sót của anh em. Đây không phải là một lựa chọn mà là điều phải làm bởi chính chúng ta được Chúa yêu thương, tha thứ. Chúng ta cần thể hiện điều đó với tha nhân. Chúng ta cũng cầu nguyện cho í Chúa được thể hiện để mọi người được sống an vui, hạnh phúc. Í tha nhân thường thay đổi, trong khi í Chúa không bao giờ thay đổi, trước sau như một. Đức Kitô dùng hình ảnh cha mẹ trần thế dù bất toàn còn biết cho con cái điều tốt đẹp. Chúa Cha sẽ ban cho những ai kêu cầu Danh Ngài điều trọn lành, thiện hảo, bởi Ngài là Đấng Thánh. Ngay cả Danh Ngài cũng Chí Thánh vì thế mọi sự đến từ Ngài đều tuyệt vời.

Đức Kitô kể chuyện ba người bạn để nói lên lòng nhân ái Chúa. Người bạn đi đường xa đến nhà anh bạn vào lúc đêm khuya. Chủ nhà không có chi đãi bạn đường xa, anh đến nhà người bạn cùng xóm hỏi mượn của ăn vào giữa đêm khuya. Người bạn đó chính là anh và tôi. Chúng ta được mời gọi dâng lời cầu lên Thiên Chúa bất cứ khi nào chúng ta nhớ đến Chúa, chập tối, giữa đêm hay hoàng hôn. Bất cứ khi nào chúng ta thấy nhu cầu cần cầu nguyện, chúng ta có thể dâng lời cầu xin. Bạn bị thức giấc, lo sợ, phiền muộn giữa đêm, bạn dâng lời cầu xin. Chúa không phiền trách. Đức Kitô còn dậy:

Ai xin sẽ được, tìm sẽ thấy và gõ sẽ mở cho Lc 11,9.

Đây không phải là kinh nghiệm của Kitô hữu bởi ai cũng có kinh nghiệm xin hoài, xin mãi vẫn không nhận được điều mình xin. Điều chắc chắn, rõ ràng là những gì đến từ Chúa đều trọn lành, tốt đẹp, bởi Ngài là Đấng Thánh. Có thể Chúa không ban đúng điều chúng ta xin nhưng ban cho điều khác tốt lành cho ta hơn. Có thể Chúa ban cho sức mạnh nội tâm để vững tin vào Chúa. Có thể Chúa ban ơn khôn ngoan để giải quyết vấn đề. Có thể Chúa ban cho ơn can đảm để chấp nhận sự thật trong đời. Chúng ta xin ơn khôn ngoan biết nhận ra món quà Chúa trao ban.

Chú trọng quá nhiều đến thành quả của cầu nguyện là đặt sai trọng tâm trong cầu nguyện. Trọng tâm của cầu nguyện không phải là nhìn đến kết quả của cầu xin. Trọng tâm của cầu nguyện là liên kết cuộc sống ta với Thiên Chúa; nhận biết Thiên Chúa cùng đồng hành với ta trong mọi hoàn cảnh, tình huống của cuộc sống. Đức Kitô cho biết Chúa Cha biết ta cần những gì ngay cả trước khi chúng ta xin.

Khi cảm thấy điều ta xin bị từ chối, hãy đọc lại dụ ngôn người kia tổ chức tiệc cưới cho con. Ông gởi thiệp mời đến các thân hữu. Mọi người đều viện lí do từ chối. Người thì cần đi xem ruộng định mua, kẻ khác coi nhà bán, kẻ khác nữa đi mua súc vật Lc 14:16-19. Dụ ngôn đặt vấn đề ai từ chối ai? có bao giờ bạn từ chối lời Đức Kitô mời gọi: Hãy theo ta.

Đức kitô không thiếu kinh nghiệm bị người ta loại bỏ, từ chối, trách móc, nhục mạ. Đức Kitô có lần nói, ‘Ta đứng gõ cửa. Ai ra mở cửa, Ta sẽ vào nhà người ấy, và sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta’. K H 3:20.

Cuối bài giảng Đức Kitô cho biết,
‘Cha trên trời ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người’ Lk 11,13
Có Thánh Thần Chúa là có tất cả bởi Thánh Thần sẽ đáp lại lời ta tâm sự.

Về mục lục

XIN THẦY DẠY CON CẦU NGUYỆN

Bông Hồng Nhỏ

Trong suốt hành trình rao giảng, Thầy Giêsu luôn dành thời gian để cầu nguyện cùng Cha. Hình ảnh Thầy Giêsu cầu nguyện đã trở nên thật quen thuộc và đầy lôi cuốn. Người thường cầu nguyện một mình. Từ trước đến nay, Thầy Giêsu chỉ âm thầm làm gương cho các ông, và hôm nay một người môn đệ mới đại diện các anh em ngỏ lời xin Thầy dạy cầu nguyện. Người đã dạy các ông lời cầu nguyện đẹp nhất và khuyên các ông hãy kiên trì trong cầu nguyện.

Lời cầu nguyện mà Thầy Giêsu dạy chính là lời kinh “Lạy Cha” mà ta vẫn thường đọc hằng ngày. Lời ấy hướng tâm hồn ta về Thiên Chúa là Cha, đặt ta trước sứ mạng làm chứng cho Nước Chúa hiển trị ngay ở trần gian bằng chính đời sống yêu thương và tha thứ. Khi cầu xin như thế, người Kitô hữu tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa và bày tỏ lòng tín thác nơi tình yêu quan phòng của Người. Cầu nguyện là sự sống của mỗi người Kitô hữu và cũng là một hành động xuất phát từ một trái tim tràn đầy lòng mến và một đức tin trưởng thành mỗi ngày. Đây không chỉ là một hành động cầu xin đơn thuần nhưng là một sứ mạng thiêng liêng liên quan đến ân sủng. Nghĩa là khi cầu nguyện, ta không dựa vào sức lực và ước muốn riêng nhưng cần mở ra trước ân sủng của Chúa và trung thành dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Thầy Giêsu dạy cầu nguyện cho tất cả những ai đang khao khát cầu nguyện. Thánh Luca không nêu rõ danh tính của người ngỏ lời xin Thầy Giêsu dạy cầu nguyện. Người ấy là ai?

Hôm nay, người ấy có thể là một người mẹ quê nghèo khổ đang mắc bệnh nặng. Chị đến với Chúa chỉ đơn giản thưa lên Chúa tâm tình phó thác của mình, bằng sự đơn sơ chân thành, chị đọc lời kinh “Lạy Cha” mà chị đã thuộc lòng từ tấm bé. Ngày này qua ngày khác, chị kiên trì cầu nguyện với Chúa Giêsu. Chị bày tỏ lòng yêu mến Đức Mẹ, chị lần hạt mỗi ngày để nhờ Mẹ chuyển cầu lên Chúa. Người ấy cũng có thể là một nhà bác học đang cặm cụi với những thí nghiệm, những nghiên cứu của mình. Người ta vẫn có thể bắt gặp ông đang quỳ gối cầu nguyện trong ngôi nhà nguyện nhỏ. Đó cũng có thể là một bác nông dân đang mong chờ cơn mưa đầu mùa. Sau những ngày nắng hạn, cơn mưa tưới mát cả cánh đồng. Nhìn cơn mưa, lòng đầy phấn khởi và hy vọng, bác thầm dâng lên Chúa lời tạ ơn. Người ấy có thể là bất cứ ai – những người khao khát được gặp gỡ Chúa và dâng lên Chúa tâm tình tri ân. Cũng như người kia đến nhà người bạn để xin sự giúp đỡ, anh ta đã nhận được sự giúp đỡ sau khi đã đứng lì ra đó để mà nài xin. Anh không xin cho mình nhưng cho một người bạn lỡ đường. Cầu nguyện đòi hỏi sự kiên trì và hạ mình thẳm sâu.

 Cầu nguyện là hành động của người đang cầu xin sự giúp đỡ, của tâm hồn đang tìm kiếm chân lý, của đôi chân đang ngập ngừng đứng trước cửa và đưa đôi tay gầy guộc để gõ lên cánh cửa đang đóng với hy vọng nó sẽ mở ra. Thầy Giêsu khẳng định: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho (Lc 11, 9-10).

Lạy Thiên Chúa là Cha nhân lành! Cha biết rõ con cần gì trước khi con cầu xin. Cha hằng ban Thánh Thần cho những kẻ cầu xin. Xin cho con biết cầu nguyện với tâm tình của một người con thảo theo gương thầy Giêsu, để lời cầu nguyện của con thống nhất với cả đời sống, một đời sống tràn đầy tình bác ái yêu thương. Amen.

Về mục lục

CẦU NGUYỆN

Thiên San

Cầu nguyện là cách để con người đến gần Thiên Chúa. Qua cầu nguyện, con người đi tìm gặp Thiên Chúa cũng như chính Thiên Chúa đến gặp gỡ con người. Lịch sử cứu độ cho chúng ta thấy các cuộc gặp gỡ ấy. Chẳng hạn như cuộc gặp gỡ của tổ phụ Ápraham với Thiên Chúa, Giacóp với sứ thần của Chúa, của Môsê với Thiên Chúa… Bài Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta câu chuyện của Thầy trò Đức Giêsu. Một lần kia, sau khi Thầy Giêsu cầu nguyện xong, có một môn đệ đến xin Người dạy cho cách cầu nguyện. Đức Giêsu đã dạy cho các ông.

Điều đầu tiên khi cầu nguyện đó là xin cho danh thánh Cha được vinh hiển, tiếp sau đó mới đến các nhu cầu của ta. Chúa Giêsu hướng chúng ta đến tương quan với Chúa Cha, hướng đến Đấng mà ta cầu xin và mong cho triều đại của Cha mau đến hơn là nói về điều ta muốn xin cho mình. Sau đó là hướng đến các nhu cầu của ta, của mọi người và cũng không quên xin cho mình khỏi sa chước cám dỗ. Để nói rõ và cụ thể hơn về lời dạy của mình, Đức Giêsu kể cho các ông nghe câu chuyện anh bạn lỡ đường. Người khẳng định rằng dù người bạn đó không dậy để lấy cho anh bạn của mình những gì anh ta cần vì tình bạn thì cũng sẽ dậy vì sự kiên trì của anh ta. Người còn tha thiết, mời gọi các ông hãy cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì ngay cả một người cha vốn là kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành thì Cha trên trời sẽ còn ban cả Thánh Thần cho những kẻ kêu xin (x. Lc 11, 5-13).

Đọc lại câu chuyện của tổ phụ Ápraham, chúng ta sẽ thấy được sự kiên nhẫn và tình thương bao la của Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng học được nơi tổ phụ Ápraham một thái độ cần thiết khi cầu nguyện. Để nài xin Chúa tha thứ cho dân thành, ông Ápraham đã không ngần ngại hết lần này đến lần khác thưa lên với Chúa lời van nài để xin Chúa thương xót dân thành. Quả thực, theo dõi diễn tiến của gặp gỡ, trao đổi của ông với Đức Chúa, chúng ta sẽ phải nín thở, thán phục sự mạnh bạo của ông và đồng thời hết lòng ngợi khen lòng thương xót, khoan dung của Chúa bao la vô ngần. Con số những người lành được tìm thấy dường như ít dần đi nhưng với hết cả tấm lòng và sự tin tưởng, ông vẫn thưa lên cùng Đức Chúa. Ông rất khéo léo, khiêm tốn và hết sức tin tưởng vào Chúa. Nhờ ông mà bao nhiêu người được cứu thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.

Khi cầu nguyện, chúng ta không chỉ dừng lại ở tương quan cá vị với Chúa mà còn được thực thi một nghĩa vụ cao cả là trung gian chuyển cầu. Ông Ápraham đã thực hiện một cuộc thương lượng để dân thành khỏi chết vì lửa (x. St 18, 20-32), ông Môsê đã cố gắng làm cho nét mặt của Chúa dịu lại (x. Xh 32, 7-14). Ngày hôm nay, chúng ta cũng hãy đến với Chúa, thưa lên cùng Chúa lời nguyện cầu thay cho bao người, có khi vì chúng ta nài xin mà Chúa sẽ không giáng phạt như Ngài định làm; hay vì chúng ta, Ngài sẽ ban cho người này người kia điều họ mong ước. Chúng ta có thể trở thành trung gian chuyển cầu khi biết tìm đến với Chúa, thân thưa với Ngài, sống thân tình với Chúa. Vì là chỗ thân tình, là bạn tâm giao, là người yêu dấu, chúng ta sẽ được Chúa nhậm lời. Trong cầu nguyện, khi làm trung gian chuyển cầu, chúng ta cần lắm sự trung thành, kiên trì dù gặp khó khăn và một thái độ chân thành, khiêm tốn.

Cầu nguyện không phải là việc của riêng ai, không phải là của tu sĩ, linh mục nhưng là của tất cả mọi người. Có tương quan là có cầu nguyện. Mỗi người tương quan với Chúa thế nào một phần là ở việc cầu nguyện. Cầu nguyện là điều không thể thiếu trong đời sống của người Kitô hữu nói chung và là nền tảng của đời sống tu trì. Mỗi người sẽ có cách cầu nguyện khác nhau, sẽ có tương quan thân gần hay xa cách, mặn nồng hay hờ hững, thân thiết hay quen biết xã giao với Chúa. Chúa luôn mở rộng cửa đón chờ chúng ta, đến hay không là ở sự tự do của mỗi người. Đừng để thời gian qua đi mà không thiết lập tương quan với Thiên Chúa là Đấng tối cao. Ngài là kho báu, là bể tình thương cho ta kín múc. Hãy đến với Ngài, đừng ngần ngại.

Về mục lục

ĐỌC NGƯỢC KINH LẠY CHA

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Kinh Lạy Cha được ghi lại ở hai Phúc âm: Matthêu và Luca.

Sau khi Chúa dạy đừng khua chiêng đánh trống như người giả hình. Đừng cho tay trái biết việc tay phải phải làm. Khi cầu nguyện đừng lải nhải, họ cứ nghĩ rằng cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha trên trời biết rõ anh em cần gì. Đừng như người giả hình thích đứng cầu nguyện trong hội đường. Rồi Matthêu kết luận: Vậy anh em hãy cầu nguyện như thế này: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” (Mt 6,7-9).

Luca xếp hoàn cảnh Kinh Lạy Cha ngay sau trình thuật bữa ăn ở nhà Macta, Maria và Ladarô. Câu chuyện xảy ra ở vùng núi Ôliu. Nơi chốn và thời gian của Kinh Lạy Cha là: “Mọi người trở về nhà mình, còn Chúa thì đến và qua đêm ở núi Ôliu”. Cả ngày Chúa giảng trong đền thờ. Đêm đến Thầy trò kéo nhau về núi Ôliu. Bấy giờ các môn đệ hỏi Chúa cách cầu nguyện. Chúa đã dạy Kinh Lạy Cha: “Thưa thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện,cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông.Người bảo các ông:‘Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến’” (Lc 11,1-2).

Kinh Lạy Cha, một lời kinh tuyệt vời và phong phú vì chất chứa bao điều huyền nhiệm.

Đọc xuôi, Kinh Lạy Cha bao gồm: một lời thân thưa (Lạy Cha), hai lời nguyện ước (xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển triều đại Cha mau đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời) và ba lời cầu xin (xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày, xin tha tội cho chúng con, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ). Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện là xin cho mình được sống trọn tình con thảo đối với Thiên Chúa. Làm con thảo của Chúa là làm sao để mọi người được nhận biết, thờ phượng và thực thi ý Chúa, tuân giữ lề luật của Ngài và yêu thương tha nhân.

I. Đọc ngược Kinh Lạy Cha

Đọc ngược kinh Lạy Cha để đi lại lộ trình đức tin của dân Do thái ngày xưa và để bày tỏ niềm xác tín mới đối với Thiên Chúa vì những gì Người ban cho chúng ta qua kinh Lạy Cha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng:

  1. Thiên Chúa là Cha quyền năng đã cứu chúng ta cho khỏi sự dữ.

Cũng như ngày xưa Thiên Chúa đã cứu dân Israel ra khỏi ách nô lệ bên Ai cập, thì nay qua bí tích rửa tội, mỗi người chúng ta cũng đã được Thiên Chúa cứu khỏi quyền lực của Satan là đầu mối của mọi sự dữ.

  1. Thiên Chúa là Cha yêu thương không để chúng ta sa chước cám dỗ.

Sau khi được Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, dân Do thái đã đi qua hoang địa tiến về đất hứa, đã gặp rất nhiều cám dỗ và thử thách. Sau khi chịu phép rửa tội, cuộc đời chúng ta cũng là một hành trình xuyên qua hoang địa trần gian để tiến về đất hứa đích thực là thiên đàng. Chúng ta cũng gặp phải những chước cám dỗ như người Do thái ngày xưa. Nhận ra sự yếu đuối của mình, chúng ta tha thiết khẩn cầu Chúa gìn giữ và Người đã gìn giữ chúng ta.

  1. Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta.

Mặc dù đã nhiều lần phản bội, quay lưng lại với Thiên Chúa, thử thách Thiên Chúa, cứng đầu cứng cổ bất tuân lệnh Chúa, nhưng dân Do thái đã được Chúa tha thứ, nhờ lời chuyển cầu của ông Môsê. Cũng vậy, nhờ công nghiệp của Đức Kitô, chúng ta luôn được Thiên Chúa thứ tha những lỗi lầm thiếu sót và những xúc phạm đến Thiên Chúa và anh chị em là hình ảnh của Người. Được Thiên Chúa tha thứ, chúng ta cũng tha thứ cho nhau, để cùng nhau tiến bước trên con đường của Chúa.

  1. Thiên Chúa là Cha quan phòng luôn chăm sóc và nuôi dưỡng chúng ta.

Trong suốt hành trình 40 năm trước khi tiến vào đất hứa là nơi chảy sữa và mật, mỗi ngày dân Do thái đã được Thiên Chúa ân cần ưu ái ban cho manna, thịt chim cút và nước sạch từ tảng đá chảy ra. Ngày nay Thiên Chúa quan phòng cũng luôn lo liệu cho chúng ta mọi nhu cầu vật chất, để chúng ta có thể sống xứng đáng và phát triển các khả năng. Hơn nữa Người còn ban cho chúng ta bánh hằng sống là Lời Chúa và bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, cùng với dòng nước ơn thánh vọt ra từ tảng đá là Đức Kitô đang hoạt động qua các bí tích, giúp chúng ta có sức đạt đến đất hứa đích thực là nước thiên đàng, nơi tràn trề sữa và mật thiêng liêng, khiến cho chúng ta không bao giờ đói khát.

  1. Thiên Chúa là Cha khôn ngoan đã mạc khải cho chúng ta thánh ý của Người và giúp chúng ta thực hiện.

Cùng với manna, chim cút và nước từ tảng đá vọt ra, Thiên Chúa còn ban cho dân Do thái các huấn lệnh bày tỏ ý muốn của Người, để họ tuân giữ và được sống. Ngày nay, chúng ta cũng nhận được thánh ý của Thiên Chúa biểu lộ qua Thánh Kinh, qua giáo huấn của Giáo Hội. Đời sống của mỗi người chúng ta hệ tại việc thực thi ý Chúa. Khi kết hiệp sự vâng phục của chúng ta với sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với thánh ý Cha, tức là chúng ta làm cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

  1. Thiên Chúa là Vua uy quyền đã làm cho Nước Chúa trị đến nơi chúng ta.

Sau khi hoàn tất cuộc hành trình xuyên qua sa mạc, Thiên Chúa đã ban cho dân Israel đất hứa làm gia nghiệp, ở đó họ sống hạnh phúc dưới quyền cai trị của Người. Sau khi hoàn tất cuộc hành trình nơi dương thế, chúng ta cũng sẽ được đưa vào Nước Trời, nơi Thiên Chúa hiển trị, để Người mãi mãi là Vua của chúng ta và chúng ta sẽ là dân của Người đến thiên thu vạn đại, và trong Nước Người không còn đau khổ, khóc than và tang tóc, nhưng chỉ có sự sống dồi dào trong hạnh phúc vô biên.

  1. Thiên Chúa là Cha, đó là thánh danh mà chúng ta ca tụng đến muôn ngàn đời.

Sống trong đất hứa Thiên Chúa đã ban, những người Do thái đạo đức không ngừng tôn vinh danh Chúa, vì chính nhờ danh Người họ đã được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai cập, được giúp đỡ để vượt qua các chước cám dỗ, được tha thứ mọi tội lỗi, được nuôi dưỡng chăm sóc, được biết thánh ý của Thiên Chúa, được sống dưới quyền cai trị của Chúa. Mai ngày trên thiên đàng, chúng ta cũng sẽ không ngừng ca tụng thánh danh Thiên Chúa và chúng ta có thể khởi đầu kinh Lạy Cha như sau: “Lạy Cha, giờ đây chúng con được ở với Cha trên trời”. (trích từ: Kinh Lạy Cha của Linh Mục trong Năm Đức Tin, ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi; Gpquinhon.org).

II. Kinh Lạy Cha, lời kinh tuyệt vời

Kinh Lạy Cha là lời kinh của chính Chúa Giêsu. Thánh Tôma Aquinô gọi Kinh Lạy Cha là “lời cầu nguyện tuyệt hảo nhất”. Còn Tertulianô nói đây là “Bản tóm tắt toàn bộ Tin Mừng”. Tin Mừng về Thiên Chúa là Cha và chúng ta có thể nài xin cùng Ngài trong tư cách là những người con.

Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Vinh danh và thánh ý Chúa được đặt trên hết. Các nhu cầu của con người được đặt sau.

Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Con người được gọi Thiên Chúa là Cha. Mỗi người là con cái của Thiên Chúa.

Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa chước cám dỗ ở tương lai.

Kinh Lạy Cha là lời kinh tuyệt vời và huyền nhiệm nối kết con người với Thiên Chúa. Đây là lời kinh đến từ Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Chính vì thế, Thiên Chúa ưa thích và không ngừng ban muôn ơn cho con người thông qua lời kinh thân thương, đơn giản và dễ hiểu này.

III. Đọc Kinh Lạy Cha với tâm tình yêu mến

Trong Thánh Lễ, trước khi đọc Kinh Lạy Cha, chủ tế mời gọi: “Vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo lời Người dạy, chúng ta dám nguyện rằng”. Động từ “dám” diễn tả một thái độ kính sợ đối với Chúa. Thái độ này bắt nguồn từ truyền thống lâu đời trong Kinh Thánh, được minh họa trong cảnh Môsê gặp Thiên Chúa nơi bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi: “Chớ lại gần. Cởi dép ra, bởi đất ngươi đang đứng là đất Thánh” (Xh 3,5). Chỉ nhờ Đức Giêsu Kitô – Thiên Chúa làm người, chúng ta mới dám đến gần Thiên Chúa là Cha, trong niềm tin yêu thảo hiếu: “Trong Ngài, ta được tự do dạn dĩ và được đến cùng Cha, đầy lòng tín thác vì đã tin vào Ngài” (Ep 3,12).

Kinh Lạy Cha là bản kinh tóm lược toàn bộ Tin Mừng, là lời kinh của Chúa Giêsu, lời kinh duy nhất mà Chúa Giêsu đã trực tiếp dạy các môn đệ. Kinh Lạy Cha còn là lời kinh của Hội Thánh, trong Phụng vụ, Kinh Lạy Cha luôn chiếm ưu thế đặc biệt trong các Giờ kinh Nhật tụng, trong Thánh lễ và trong các Bí tích gia nhập Kitô giáo.

Chính vì thế, khi đọc Kinh Lạy Cha, thái độ nền tảng chúng ta phải có là khiêm tốn và biết ơn: khiêm tốn vì nhận ra sự thật về con người bất xứng của mình, tạ ơn vì biết rằng tất cả là ân huệ Thiên Chúa ban. Đồng thời, phải noi gương Chúa Giêsu, sống tư cách người con hiếu thảo, luôn tín thác vào Cha, và thực thi thánh ý Cha. Cầu nguyện là thân thưa với Thiên Chúa như con với cha.

Chúa Giêsu là Đấng đã thi hành ý muốn của Cha ở dưới đất cũng như ở trên trời. Lời cầu nguyện Chúa Giêsu dạy chúng ta cũng là lời tóm kết những gì Chúa đã sống. Lời cầu nguyện và đời sống của Chúa đi đôi với nhau. Kinh Lạy Cha, nhờ Chúa Giêsu mà chúng ta “dám” thân thưa lời cầu nguyện hàng ngày với Cha trên trời. Trong thánh lễ, trước khi đọc Kinh Lạy Cha, vị chủ tế nâng cao Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, tuyên xưng rằng: Chính nhờ Ðức Kitô,cùng với Ðức Kitô,và trong Ðức Kitô, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, mọi vinh quang và danh dự đều thuộc về Cha,là Thiên Chúa toàn năng, đến muôn thuở muôn đời. Amen.

Về mục lục

LỜI KINH ĐẸP NHẤT

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay là trích đoạn từ chương 11,1-13, trong đó tác giả ghi lại cho chúng ta Kinh Lạy Cha, là lời kinh đẹp nhất và ý nghĩa nhất trong kinh nguyện Kitô giáo. Bởi lẽ, lời cầu nguyện này trực tiếp đến từ môi miệng của Chúa Giêsu, do Người dạy. Chúng ta hãy tưởng tượng mỗi ngày trên thế giới có biết bao nhiêu triệu người đọc Kinh này để cầu nguyện.

Hơn nữa, lời Kinh này ra đời trong bối cảnh đặc biệt sau khi Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha và sống thân mật với Người. Điều đó cho thấy Chúa Giêsu là con người cầu nguyện và là thầy dạy cầu nguyện. Vì thế, các môn đệ đến xin Chúa dạy cho biết phải cầu nguyện thế nào như họ đã thấy Gioan Tẩy Giả dạy các môn đệ ông cầu nguyện. Ở đây, chúng ta cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của Kinh Lạy Cha.

1- Thiên Chúa là Cha chúng ta

Trước hết, Chúa bảo họ rằng: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói rằng: Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển.”

Ở đây, Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha khi cầu nguyện, chứ không gọi là Thiên Chúa, là Vua, là Đấng quyền năng, dẫu đó là những danh hiệu dành cho Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là gì? Chúa Giêsu muốn chúng ta đi vào tương quan trước hết với Thiên Chúa như là Cha – con với Người. Đây chính là tương quan nền tảng và là niềm vui của chúng ta với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha chúng ta bởi vì Người đã tạo dựng và cứu độ chúng ta. Người muốn chúng ta được chia sẻ sự sống và hạnh phúc của Thiên Chúa. Chúng ta hình dung Thiên Chúa của mình theo hình ảnh nào? Có phải như là một ông chủ và chúng ta là đầy tớ? Ở đây, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy thưa với Thiên Chúa là Cha, hãy đi vào tương quan với Thiên Chúa như là Cha của mình. Thật là vinh dự khi được gọi Thiên Chúa là Cha!

2- Vì Danh và Nước Chúa

Thứ đến, “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển.” Danh Thiên Chúa là thánh. Theo Cựu Ước, thánh có nghĩa là tách biệt khỏi mọi sự trần tục.

Ở đây, Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện trước hết cho Danh Cha. Nghĩa là Danh Chúa được ưu tiên trước hết. Điều này có nghĩa là Chúa phải là ở chỗ nhất trong ý nguyện và trong đời sống của chúng ta.

Quả thế, tiền bạc, nghề nghiệp, gia đình, tương quan bạn bè vv… tất cả là tốt và cần thiết cho cuộc sống, nhưng chúng không phải là chỗ nhất trong đời sống của người Kitô hữu. Thiên Chúa phải ở chỗ nhất. Như thế, chúng ta cầu xin cho “Danh Cha vinh hiển” có nghĩa là xin cho mọi người biết đặt Thiên Chúa ở chỗ nhất trong cuộc sống mình, chúng ta ước mong và khát khao cho mọi người được biết Danh Cha và tôn thờ Danh đó.

Lời cầu thứ hai: “Triều Đại Cha mau đến.” Triều Đại Thiên Chúa là gì và tại sao chúng ta phải xin cho Triều Đại đó mau đến?

Theo một số Giáo Phụ như Origene và các nhà thần học, Triều Đại Thiên Chúa không phải là một nơi chốn, hay là một điều gì nhưng trước hết chính là Chúa Kitô, hiện diện trong chính con người Đức Giêsu. Trong tiếng Hy Lạp, từ autobasilia có nghĩa là chính trong con người Chúa Giêsu. Như thế, Chúa Giêsu chính là Triều Đại Thiên Chúa đến và hiện diện giữa trần gian. Người chính là Nước Trời ở giữa chúng ta. Nước đó được thiết lập cách hữu hình qua việc Chúa Giêsu thiết lập Giáo Hội như là dấu chỉ và phương tiện của Nước Trời.

Triều Đại Thiên Chúa còn có ý nghĩa khác theo thánh Phaolô: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự bình an, hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta chân lý, sự thật và quà tặng Thánh Thần. Chúng ta cầu nguyện cho Nước đó được mau đến trong lòng của mỗi người, mỗi gia đình và mọi dân tộc. Chúng ta xin cho chân lý, tình yêu và hoan lạc của Chúa ngự trị, lan rộng và phát triển khắp mọi nơi, trong mỗi người trên thế giới.

3- Lương thực và ơn tha thứ

Lời cầu xin thứ ba mà Chúa Giêsu dạy là “xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày.” Ở đây Chúa dạy chúng ta cầu xin Chúa Cha ban cho chúng ta có đủ lương thực hằng ngày. Nghĩa là chúng ta xin Chúa ban của cải vật chất để sinh sống. Lương thực hằng ngày là cái ăn, cái mặc, nhà cửa, phương tiện đi lại… Những thứ này là cần thiết cho đời sống con người. Xin Chúa ban những thứ đó để chúng ta có đủ điều kiện sống xứng đáng với nhân phẩm con người và làm con cái Chúa.

Tuy nhiên, theo chú giải của các Giáo Phụ, lương thực hằng ngày còn có ý nghĩa sâu xa hơn, không chỉ dừng lại ở lương thực vật chất, mà còn là lương thực tinh thần. Quả vậy, con người không chỉ sống nhờ cơm bánh nhưng còn sống bởi tình yêu và giá trị tinh thần, tôn giáo. Theo ý nghĩa đó, lương thực hằng ngày đây chính là Thánh Thể và Lời Chúa. Nơi Thánh Thể, Chúa Giêsu hiến mình và trở thành Bánh Thánh để nuôi sống chúng ta. Nơi Thánh Thể, Chúa Giêsu tiếp tục ban Lời hằng sống để nuôi dưỡng đời sống tâm linh con người. Như thế, trong lời xin này, chúng ta xin Chúa Cha cho chúng ta lương thực hằng ngày cả vật chất lẫn tinh thần.

Lời cầu nguyện cuối cùng: “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người.”

Trong ý nguyện này, Chúa Giêsu dạy chúng ta xin Chúa Cha tha thứ tội lỗi của chúng ta. Bởi lẽ, ai trong chúng ta cũng đã phạm tội, ai trong chúng ta đều là tội nhân. Chúng ta cần được Thiên Chúa tha thứ. Thiên Chúa đã sai Con Một Người đến nhập thể, chết và phục sinh để tha tội cho chúng ta. Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Chúng ta xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta.
Nhưng để được Thiên Chúa tha thứ, chúng ta cũng phải biết tha thứ cho những ai có lỗi với chúng ta. Chúa dạy chúng ta cũng phải có lòng tha thứ, bao dung và thương xót đối với anh chị em như chính Thiên Chúa đã tha thứ và thương xót chúng ta.

Như thế, Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện đẹp nhất, ý nghĩa nhất của Kitô giáo do chính Chúa Giêsu dạy chúng ta. Mỗi lần chúng ta cầu nguyện, hãy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, đồng thời chúng ta cũng xin Chúa cho những ý nguyện đó được thực hiện trong đời sống mỗi người, trong gia đình và xã hội. Amen!

Về mục lục

CHÚA BAN PHÚC LỘC DỒI DÀO

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dùng dụ ngôn người bạn vay bánh giữa đêm khuya cũng như chuyện người cha sẵn sàng cho con cái mình những gì tốt nhất để khẳng định với chúng ta rằng nếu chúng ta liên lỉ nài xin thì chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời. Ngài dạy: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho…”

Thiên Chúa là Cha nhân lành, luôn yêu thương chăm sóc nuôi dưỡng đoàn con trên dương thế. Không có ơn Chúa ban, con người không thể tồn tại. Ngài ban cho ta vô vàn ân huệ mà lắm khi chúng ta không ngờ tới.

– Có nhiều ân huệ Chúa ban trước khi ta cầu xin, đó là Ngài cho ta được sinh ra làm người, được ân cần chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ ngay từ ấu thơ… Ngoài ra, từng hơi ta thở, từng hớp nước ta uống, từng tia nắng soi đường và sưởi ấm cho ta… đều là ân huệ Chúa rộng ban cho ta được sống trên đời.

– Còn rất nhiều ân huệ khác Chúa ban qua tay những người chung quanh: Chúa cho ta cơm ăn, áo mặc, đồ dùng… qua trung gian cha mẹ ; Chúa giáo dục ta nên người nhờ thầy cô ; Chúa cứu chữa ta khỏi bệnh nhờ các y bác sĩ…

Tuy nhiên, có những lúc chúng ta cầu xin mà dường như Chúa chẳng nhận lời, rồi đâm ra thất vọng, oán trách Chúa. Nên hiểu rằng : Trong những trường hợp đó, vì muốn đào tạo ta nên người trưởng thành, Chúa “không cho cá mà lại cho cần câu.”

Người cha khôn ngoan không tự mình đi câu cá, đem về nấu nướng, dọn sẵn lên bàn cho con ăn, bởi vì nếu ngày nào ông cũng làm như thế thì đứa con sẽ cậy dựa vào cha mẹ mà không tự lo cho mình, sẽ trở thành lười biếng và suốt đời chỉ muốn người khác ban phát mọi thứ cho mình.

Nhưng thay vì trao cá cho con ăn từng bữa, ông sẽ trao cho nó một chiếc cần câu. Nhờ sử dụng phương tiện nầy, người con có thể kiếm được rất nhiều cá mà không phải ngửa tay xin.

Tương tự như thế, Thiên Chúa là Cha khôn ngoan. Ngài không ban hết mọi thứ ta xin, vì nếu làm như thế, Ngài sẽ làm hỏng đời ta. Khi đó, không ai còn muốn học tập, lao động, sản xuất nữa… vì đã có Chúa lo cả rồi.

Trái lại, thay vì cho cá, Ngài trao cho ta những “chiếc cần câu”, nghĩa là ban cho ta đôi tay để lao động, ban cho ta trí tuệ để tìm tòi, phát minh và sáng chế, ban đủ thứ phương tiện để ta hoạt động hằng ngày…

Nhờ vận dụng những thứ “cần câu” nầy, trí tuệ chúng ta được mở mang, thân xác được khoẻ mạnh, con người được phát triển vẹn toàn.

Chúa không cho cá nhưng lại cho chiếc cần câu

Ý tưởng này đã được một tác giả diễn tả cách chí lý như sau:

“Tôi xin sức mạnh…

Và Ngài đã cho tôi gặp khó khăn để trui rèn tôi nên mạnh mẽ.

Tôi xin khôn ngoan…

Và Ngài cho tôi những vấn đề – tựa như những bài toán khó – để giải quyết, nhờ đó tôi trở thành người khôn ngoan.

Tôi xin tiền của…

Và Ngài cho tôi khối óc và bắp thịt để làm việc, nhờ đó tôi trở nên giàu có. (…)

Thế là, tuy không trực tiếp lãnh nhận những gì tôi xin…

Nhưng tôi có được tất cả những thứ tôi cần” (Khuyết danh).

Lạy Chúa Giê-su,

Nhờ tình thương và muôn vàn ân sủng Chúa, chúng con mới được sống đến ngày hôm nay. Xin cho chúng con biết đền đáp tình thương Chúa bằng cách sử dụng ân huệ Chúa ban để phụng sự Chúa và phục vụ mọi người. Amen.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 17 TN_C

 Lm Phạm Hồng Thái

Phải chân nhận rằng: Cầu nguyện là nhu cầu cần thiết cho đời sống con người chúng ta. Có ai mà không có những lúc cầu nguyện? Chúa Giêsu là gương mẫu của đời sống cầu nguyện nên các môn đệ đã xin Chúa dạy về cầu nguyện. Chúa cũng cho biết là Thiên Chúa sẵn sàng và thích nghe lời chúng ta cầu nguyện cho nên Chúa dạy ta đừng ngại quấy rầy Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện của mình. Vì thế chúng ta hãy cầu nguyện cho mình và tiến thêm bước nữa là cầu nguyện cho tha nhân.

Kitô giáo chúng ta có kinh Lạy Cha là kinh nguyện do chính Chúa Giêsu dạy. Có hai bản văn về kinh Lạy Cha: một trong Tin Mừng Matthêô (6, 7-15) và một trong Tin Mừng Luca (11, 2-4): trong Tin Mừng Matthêô có 7 lời cầu, còn Tin Mừng Luca có 5 lời cầu: hôm nay chúng ta đọc trong Tin mừng Luca.

Có một chút khác biệt trong cách dịch Việt ngữ với nhiều bản dịch khác, thí dụ tiếng la tinh thì dịch là Pater Noster: “Cha chúng con” còn Việt ngữ là “Lạy Cha chúng con”. Cha ông chúng ta đã thêm chữ “Lạy” để tỏ sự kính trọng nhưng có lẽ nó cũng làm giảm đi phần nào sự thân thiết vì có nơi Chúa Giêsu còn dạy ta thưa với Thiên Chúa là “Abba: Cha ơi! (Rm 8, 15)” nữa cơ. Qua lời kinh này, chúng ta được thưa với Thiên Chúa là Cha và xưng mình là con.

Trước hết là hai lời xin thuộc về Chúa:

– “Nguyện xin Danh Cha cả sáng”. Dùng từ Danh để tránh gọi tên cực thánh của Thiên Chúa. Chúa Giêsu có lần cầu nguyện tương tự: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha (Ga 12,28)”

– “Nước Cha trị đến”: Nước hay triều đại có ý nghĩa như nhau vì thế lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu là: “Thời kì đã mãn và Triều đại Thiên Chúa đã gần đến … (Mc 1,14)”. Lời nguyện mà mọi Kitô hữu phải cầu xin là lời nguyện cuối cùng ghi trong sách Khải Huyền: “Manaratha “Lạy Giêsu xin ngự đến (Kh 22,20)”

Ba lời xin liên can đến chúng ta là :

– “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”: tức là xin ngày nào đủ lương thực cho ngày đó không xin để tích trữ nhưng để dùng đủ. Lương thực đây không những là cơm bánh vật chất mà trước hết phải hiểu là lương thực thần thiêng: Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh thể

– “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con”. Nợ đây trước hết chỉ những tội lỗi ta xúc phạm đến Chúa nhưng điều kiện để được Chúa tha là ta cũng phải tha cho anh em. Chúa Giêsu cũng dạy ta: “Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha (Lc 6, 37)”

– “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu dặn các môn đệ: “Hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Mc 14,38)”. Satan chính là tác giả các chước cám dỗ.

Tiếp đến qua dụ ngôn “Người bạn bị quấy rầy”, Chúa Giêsu dạy ta phải có lòng kiên trì khi cầu nguyện. Chúa nhận định: “Dù người ấy không dậy vì tình bạn để lấy bánh cho bạn, ít nữa là vì sự quấy rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần”. Kiên trì xin ơn để tăng lòng ước muốn nơi tâm hồn ta và để thêm giá trị ơn Chúa ban.

Tiếp đến là lời Chúa Giêsu: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho”. Qua lời này, Chúa khuyến khích chúng ta tích cực cầu nguyện: đừng có thái độ dửng dưng, bất cần, lơ là không muốn cầu nguyện. Nhưng hãy luôn có tâm tình là chúng ta cần đến Chúa như con cái cần đến cha mẹ mình.

Vậy khi ta xin mà không được thì sao? Có thể là ta xin Chúa những ơn không có ích mà có thể còn có hại cho phần rỗi linh hồn mình và nhiều khi Chúa đổi cho ta ơn khác có lợi cho ta hơn vì thế mà Chúa Giêsu nói: “Phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Người”. Chúa khuyến khích chúng ta cầu nguyện với tấm lòng khiêm tốn, nhưng bạo dạn, siêng năng và không trễ nải, kiên trì và không nản lòng.

Noi gương tổ phụ Abraham, chúng ta cũng cầu nguyện cho tha nhân nữa. Ông Abraham đã cầu xin cho thành Sôđôma bằng cách mặc cả so kè với Chúa từ con số: nếu có 50 người công chính, ông rút xuống 45, 40, 30, 20 rồi 10. Ông dừng lại ở con số 10 không dám rút xuống thêm nữa. Nếu ông có lòng tin mạnh hơn nữa vào Lòng Thương xót Chúa thì thậm chí ông có thể rút xuống con số 1 vì như lời sách tiên tri Isaia: người Tôi Trung của Thiên Chúa (Is 53, 4-12) có thể cầu thay nguyện giúp cho toàn dân và đó là hình ảnh về Chúa Giêsu bầu chữa và đền thay tội lỗi cho cả nhân loại.

Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “Chúng tôi có trên 1.000 nữ tu và mỗi ngày phải nuôi hơn 10.000 người nữa. Thế mà Chúa không để chúng tôi phải thiếu đói: Chúa luôn ban lương thực hằng ngày như chúng tôi tin tưởng cầu xin trong kinh Lạy Cha. Chúng tôi cũng chưa bao giờ phải từ chối bất cứ ai túng cực tới xin giúp đỡ vì Chúa luôn can thiệp kịp thời và Ngài không làm lơ trước lời cầu nguyện của chúng tôi”.

Được lời Chúa dạy về cầu nguyện hôm nay, chúng ta hãy sống tâm tình người con hiếu thảo đối với Cha trên trời và siêng năng cầu nguyện cùng Chúa mọi nơi mọi lúc trong đời sống chúng ta. Amen.

Về mục lục

 

ĐẤNG KIÊN NHẪN VÀ BAO DUNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Trong Tông huấn “Niềm vui Tin Mừng”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Thiên Chúa không bao giờ biết mệt khi tha thứ, chính chúng ta là kẻ cảm thấy mệt mỏi khi cầu xin lòng thương xót của Người. Người là Đấng mời chúng ta tha thứ “bảy mươi lần bảy” (Mt 18:22) và ban cho chúng ta một mẫu gương: Người tha thứ bảy mươi lần bảy. Hết lần này đến lần khác Người lại đến để vác chúng ta trên vai của Người. Không ai có thể lấy đi khỏi chúng ta phẩm giá mà tình yêu vô hạn và bền vững này đã ban cho chúng ta. Người cho phép chúng ta ngẩng cao đầu và bắt đầu lại một lần nữa, với một sự dịu dàng không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng nhưng luôn luôn đem lại cho chúng ta niềm vui” (Số 3). Quả vậy, lòng thương xót bao dung là danh xưng và là ưu phẩm cao cả nhất của Thiên Chúa. Ngài luôn kiên nhẫn chờ đợi chúng ta trở về để giang rộng vòng tay yêu thương đón nhận chúng ta.

Lịch sử cứu độ cũng là lịch sử ghi lại lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa trong cách đối xử với Dân riêng của Ngài, một dân được gọi là “dân cứng đầu cứng cổ” và “lòng chai dạ đá”. Lịch sử ấy đan xen giữa yếu đuối bất trung của con người với quyền năng tối cao của Thiên Chúa. Biết bao lần Israel sa ngã, Thiên Chúa trừng phạt và khi họ sám hối ăn năn, Ngài tha thứ cho họ.

Tác giả Sách Sáng thế diễn tả cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa với ông Abraham như một cuộc “mặc cả” giữa hai người mua bán. Từ con số 50 người công chính là điều kiện để Chúa không trừng phạt cho thành Sodoma, Thiên Chúa đã nhận lời giảm xuống còn 10 người. Cuộc “mặc cả” này cho thấy sự kiên nhẫn và lòng bao dung của Thiên Chúa trước tội lỗi của con người. Nếu đọc tiếp sách Sáng thế, chúng ta sẽ thấy con số 10 người công chính trong thành Sodoma cũng không thể tìm thấy. Vì vậy, thành này đã bị tiêu diệt.

Nếu Thiên Chúa kiên nhẫn và bao dung, con người cũng cần phải kiên nhẫn trong lời cầu nguyện và bao dung trong ứng xử hằng ngày. Hai hình ảnh được Đức Giêsu dùng để nói về sự kiên nhẫn và bao dung: hình ảnh người bạn và hình ảnh người cha. Người bạn cho vay bánh vì bất đắc dĩ và không muốn bị quấy rầy. Người cha cho con những điều tốt đẹp xuất phát từ tình thương. Từ hai hình ảnh đó, Chúa Giêsu đã kết luận: Nếu con người với nhau mà còn đối xử như thế, huống chi Cha trên trời lại không đối xử tốt hơn sao? “Hãy xin thì sẽ được; Hãy tìm thì sẽ thấy; Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho”. Lời khẳng định này đem lại cho chúng ta niềm vững tin và hy vọng nơi Thiên Chúa là Cha của gia đình nhân loại. Người là cội nguồn của muôn phúc lành. Ngài luôn lắng nghe và thấu hiểu nỗi lòng thầm kín riêng tư của chúng ta để ra tay cứu giúp và phù trợ. Cầu nguyện với Chúa không chỉ diễn tả những nhu cầu để xin Ngài ban ơn. Cầu nguyện còn là những dòng tâm sự nồng nàn của tình mến yêu và hiếu thảo, để sống trong mối liên hệ thân tình mật thiết với Chúa, Đấng mà chúng ta được phép gọi là “Cha”. Lời cầu nguyện không chỉ nhằm mục đích xin ơn cho cá nhân người cầu nguyện, mà còn cho những người xung quanh, đặc biệt những người đang rất cần ơn Chúa như những người ốm đau bệnh tật, người nghèo khó, người đang gặp thử thách gian nan và thất bại trong cuộc sống. Lời nguyện cần phải đi đôi với lòng kiên nhẫn, với niềm xác tín rằng Chúa luôn thấu hiểu chúng ta. Như người cha, Ngài luôn muốn cho chúng ta gặp những điều tốt lành.

Để lời cầu nguyện được Chúa nhận lời, người cầu nguyện cũng phải lo sống đạo đức đẹp lòng Chúa và cố gắng thực thi Lời của Ngài. Thánh Phaolô nhắc đến phép rửa của người Kitô hữu, tượng trưng cho cái chết của Đức Giêsu trên thập giá. Khi được dìm mình trong dòng nước thanh tẩy, người Kitô hữu chết với Chúa Giêsu và được sinh ra trong sự sống mới. Đó là đích điểm của đời sống Kitô hữu. Mọi cố gắng hy sinh đều nhằm đạt tới mục đích này. Mọi ơn Chúa ban cũng nhằm giúp chúng ta sống đúng ơn gọi của Bí tíchThanh tẩy.

Thiên Chúa là Đấng bao dung. Các tín hữu là con của Chúa cũng phải sống bao dung như Ngài. “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cùng tha kẻ có nợ chúng con”. Đó là lời kinh Chúa Giêsu dạy chúng ta, cũng là lời kinh chúng ta vẫn đọc hằng ngày. Tuy vậy, trong thực tế, ít khi chúng ta để ý đến việc thực thi lời kinh ấy.

Cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và ông Abraham kết thúc bằng lời cam kết: “Vì mười người đó (mười người công chính), Ta sẽ không phá hủy Sodoma.” Thế giới hôm nay đầy tràn tội ác. Nếu có những người công chính biết cầu nguyện và tôn vinh lòng thương xót của Chúa, Ngài sẽ ban ơn giúp sức để thế gian tránh khỏi những hình phạt, để được bình an. Ước chi mỗi tín hữu chúng ta hãy là những nhân tố tốt lành, như muối men và như ánh sáng cuộc đời hôm nay, để nhờ đó Thiên Chúa giáng muôn phúc lành cho nhân loại.

Về mục lục

.

ĐÚNG VÀ ĐẸP

Lm. Jos. DĐH.

Ngôn ngữ dễ hiểu, cụ thể, không quanh co nửa chừng, liệu đã đủ làm cho tương quan tình người sáng rõ, theo một xu hướng chung là đôi bên cùng có lợi: người có công, người có của ? Lý lẽ và chân tình, hẳn đang cho thấy một thực tế: khéo nói hơn liều mạng, ngoại giao tốt, bao giờ cũng là phương thế hữu hiệu hơn cả. Thực ra mỗi ngày sống, mỗi người đều có cơ hội thực thi bài học lý thuyết hay bài học rút từ kinh nghiệm bản thân, ít nhiều vẫn mang lại sự giầu sang phong phú cho hành trình tiến lên hạnh phúc ở phía trước. Cuộc sống đầy sắc mầu long lanh, nhưng không thiếu những ảo ảnh huyền bí, người ta không thể nhầm lẫn khi phân biệt “cục tiền với cục giấy”. Người ta không khó ghi nhận nét đẹp khả ái của một khuôn mặt, nhưng lại bất lực chịu thua, giữa thật giả, đúng sai hay độ lượng và ích kỷ !

Người xưa có câu: sang trọng đâu phải đợi khi có chức tước, giầu có đâu phải đợi khi có tiền. Theo Đức Giêsu làm môn đệ, đâu phải đợi khi túng thiếu sức khoẻ, mới kêu cầu khẩn, xin ban gấp. Đức Giêsu đã từng cầu nguyện, gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa là Cha, nhưng đến khi tình yêu của Chúa đủ thấm và thao thức của các học trò đủ dậy mùi, chúng ta mới thấy các ông xin Thầy dạy cầu nguyện cho xứng hợp với tình yêu của Chúa Cha. Bằng đời sống bác ái thân tình, Đức Giêsu còn hướng các học trò đi sâu vào mầu nhiệm Thiên Chúa, các ông được sống tình hiệp thông với Chúa là Cha, dù tính chuẩn mực và ý thức về lời cầu nguyện của các học trò lúc ấy còn nhiều tiêu cực. “Xin Thầy dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy các môn đệ của ông”.

Kinh nghiệm đời thường nơi mỗi chúng ta vẫn gặp: đâu phải cứ con cái khóc là cho bú cho ăn, sẽ đúng nhu cầu của chúng. Đâu phải cái “vương miện” đẹp, ta mang, ta đội, cho ai cũng xứng hợp ; không phải tâm tình cầu nguyện và lời cầu xin đúng, đẹp, là khi chúng ta thân thưa sẽ được Chúa đáp ứng ! Đúng ý Chúa và đẹp ý Chúa, không bao giờ là dễ dàng, nếu như cách sống của chúng ta chưa xác thực với lời chúng ta cầu nguyện. Chúa Giêsu đã minh chứng về tình yêu giữa Thiên Chúa và con người là một tình yêu không tính toán, hơn thiệt. Câu chuyện minh hoạ về người bạn vay mượn bánh giữa đêm khuya, hay ví dụ về người cha không nỡ cho con cái mình “con rắn”, khi nó đang thành khẩn xin cá ; nó xin trứng, không lẽ lại cho nó con bọ cạp, lần lượt đang lý giải nơi cuộc đời chúng ta !

Nếu như tập luyện, hy sinh hãm mình, là phương thế căn bản của các vận động viên muốn đoạt giải, hẳn người tín hữu, người môn đệ của Đức Kitô phải cầu nguyện đúng, cầu nguyện đẹp ý Cha trên trời, sẽ mãi là nhu cầu thiết thực. Người môn đệ, người tin theo Đức Giêsu, có thể chưa biết cầu nguyện sốt sáng, chưa biết đặt niềm tin thế nào là đúng là đẹp, là đủ, khi thông hiệp với Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu hằng lo liệu, hướng dẫn cho chúng ta. Dù chúng ta mù mờ không hiểu tường tận về Chúa Cha, nhưng bằng mẫu gương cầu nguyện, Đức Giêsu hằng thôi thúc để chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương. Mỗi chúng ta có thể gọi ba gọi bố, thưa má thưa mẹ, dễ dàng, vì ta là con ; nhưng chúng ta chỉ có thể gọi Thiên Chúa là Cha trong tình yêu Đức Kitô, vì Chúa biết ta giới hạn, bất xứng với Ngài.

Cầu nguyện đúng, cầu nguyện đẹp ý Chúa, không phải là lúc chúng ta thành đạt, có nhiều tài nhiều đức, cũng không phải lúc ta rảnh rỗi, đã dư thừa của ăn của để, thực ra là khi ta biết khiêm tốn để Chúa tẩy rửa tâm hồn của ta xứng hợp với Thiên Chúa là Cha hay thương xót. Thành công ở đời có thể do ta gặp thời gặp thế, ăn nên làm ra ; nhưng thành công trong đời sống siêu nhiên, là do biết kết hiệp cầu nguyện, biết sống đúng, sống đẹp ý Chúa từng giây phút trong đời. Cầu nguyện sao cho đúng, cho đủ và đẹp ý Chúa, chính là lời mời gọi ta liên đới với tình yêu Chúa, biết sống, biết chia sẻ, biết ý thức ơn gọi làm môn đệ Chúa và thích nghi mọi hoàn cảnh cuộc sống. Chúa Giêsu quả quyết: “chúng ta là kẻ xấu còn biết cho con cái mình của tốt, phương chi Cha chúng ta trên trời lại không ban Thánh Thần cho kẻ kêu xin Người sao ?”

Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện, đồng hành, và cho chúng ta nghe nhiều lời động viên: “hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ sẽ mở cho.” Chính vì thế mà lời cầu nguyện của chúng ta dù có vụng về nhất, Chúa vẫn hiểu, Ngài không nỡ từ chối lời kêu cầu chân thành của con cái. Cầu nguyện đúng, đẹp, là cầu nguyện trong tín thác, trưởng thành, là cầu nguyện để biết sự giới hạn tội lỗi của mình, bởi Thiên Chúa biết nhu cầu của con người, Ngài sẽ ban thứ tốt nhất, ban cơ hội rõ ràng nhất, hầu ta thật sự được hạnh phúc, được ơn cứu độ. Xin Chúa Giêsu tiếp tục đồng hành và giúp chúng con biết tin tưởng, kiên nhẫn cầu nguyện, dù chúng con chưa hiểu, chưa rõ đâu là phương thế tốt nhất Chúa dành cho chúng con. Amen.

Về mục lục

.

XIN CHO DANH CHA CẢ SÁNG

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Ở thời nào cũng có những người thích chơi ngông, chơi trội để đánh bóng tên tuổi của mình. Ngày xưa có Hắc –  Bạch công tử thi đốt tiền nấu chè để thể hiện sự giầu có của mình. Ngày nay cũng có những công tử đỏ thi nhau vất nhẫn xuống sông xem ai không tiếc tiền; Có người còn thuê cả chiếc Boeing cho bạn bè bay sang Mỹ mừng sinh nhật. .  . Hàng năm các chính khách chi cả hàng tỉ đồng để cho báo chí lăng xê mình trên truyền thông để củng cố quyền lực của mình. Đôi khi người ta cũng lợi dụng tôn giáo, lợi dụng những việc đạo đức hay từ thiện bác ái để đánh bóng tên tuổi của mình như thần thánh. Nhất là với công nghệ mạng xã hội hôm nay họ càng dễ dàng đánh bóng tên tuổi của mình bằng một tấm hình có minh hoạ, thế là được hàng ngàn người like dần dần trở thành người đức cao trọng vọng. . .

Rất nhiều vị quan chức đạo cũng như đời luôn được người đời ca tụng là có tấm lòng bác ái với người nghèo, nhưng thực chất có mấy ai dám trích từ đồng lương của mình để giúp đỡ anh em nghèo khó, hay  chỉ là quyên góp để lấy công cho mình? Cóngười thì luôn miệng kêu gào người khác đưa tiền để cha làm từ thiện, nhưng không phải để danh Chúa cả sáng mà chỉ tìm hư danh cho bản thân. Đôi khi còn có những mờ ám chung quanh khẩu hiệu từ thiện bác ái …  Bằng chứng là vẫn có những cá nhân đã dùng tiền quyên góp để mua nhà, mua xe làm của riêng, cuối cùng danh Chúa cũng bị hoen ố bởi những người thích hư danh và lừa dối này . . .

Hôm nay Chúa Giê-su dạy ta về kinh lạy Cha được khởi đầu bằng việc cầu cho danh Thánh Cha được cả sáng. Bởi lẽ, con người được Thiên Chúa tạo dựng để ca tụng và làm vinh danh Chúa. Vì trong muôn loài muôn vật chỉ có con người có khả năng nhận biết Thiên Chúa, nên cũng chỉ có con người mới có khả năng tôn thờ và làm vinh danh Chúa.

Trong thánh vịnh cũng từng xác tín: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo.Muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8,4-7).

Thực vậy, con người chẳng là chi so với muôn vàn tinh tú trên địa cầu, thế mà Chúa đã yêu thương tạo dựng giống hình ảnh Người, và còn ban cho quản lý công trình Ngài tạo dựng, đặc biệt là còn ban cho vinh dự là con cái Thiên Chúa.

Thế nên, con người cần phải hiểu rằng: mọi sự mình có là do Thiên Chúa thì con người phải dành mọi vinh quang danh dự cho Thiên Chúa. Con người phải phụng thờ Chúa trên hết mọi sự và làm mọi điều để danh Chúa được cả sáng.

Qua kinh lạy Cha Chúa Giê-su còn cho chúng ta biết khi chúng ta làm vinh danh Chúa, thì những lời xin của chúng ta sẽ được Chúa nhận lời và Ngài sẽ ban cho chúng ta lương thực hằng ngày; Ngài sẽ bảo vệ chúng ta khỏi muôn điều sự dữ.

Thật hạnh phúc cho chúng ta được làm con Thiên Chúa. Hãy đặt niềm tín thác nơi Chúa. Thiên Chúa như người Cha sẽ luôn lo lắng mọi sự cho con cái. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta vì chính Ngài đã nói: “hãy xin thì sẽ được, hãy gõ thì sẽ mở cho”.

Thật hạnh phúc cho chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Hãy làm mọi việc để vinh danh Chúa hầu đền đáp ân tình Chúa ban.

Xin cho mỗi người chúng ta luôn là con ngoan của Chúa, biết lắng nghe và thi hành lời Chúa để danh Chúa được cả sáng . Xin đừng lạm dụng danh Chúa để mưu ích cho bản thân làm hoen ô danh Chúa. Ước gì những điều mình nói, những việc mình làm luôn để ca tụng Chúa và làm rạng danh Chúa.Amen

Về mục lục

.

NƯỚC CHA TRỊ ĐẾN

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Nước Cha không như một hệ thống chính trị nào, mà cũng chẳng như quốc gia nào. Nước Cha đón nhận tất cả mọi người, mọi dân tộc và tồn tại đến muôn đời. Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, đó là ý định yêu thương của Chúa Cha. Chúa Cha nguồn mạch yêu thương, Chúa Thánh Thần là Đấng yêu thương và Chúa Con là Đấng tỏ bày yêu thương.

Chúa Cha nguồn mạch yêu thương.

Chúa Giêsu dạy lời kinh Lạy Cha, khi Chúa Giê su muốn cho con người được biết Chúa Cha là nguồn mạch của yêu thương. Chúa Cha đã yêu thương ngay cả trước khi con người được dựng nên. Trong tình yêu của Chúa Cha, con người được tạo dựng để tình yêu của Chúa Cha ở trong những người con nhân loại. Một tình yêu như Thánh Gioan diễn tả: “Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4, 16).

Cầu nguyện với Chúa Cha như một người con đến với cha thưa cha về những câu chuyện đời mình hoặc nghe lời cha dạy bảo. Tình yêu của Chúa Cha dành cho con người hơn cả những gì con người mong ước, bởi Cha là nguồn mạch yêu thương, đôi khi lại thấy tình Cha ấm áp yêu thương như tình yêu người mẹ dành cho nhân loại: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau ? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ. Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta” (Is 49, 15-16).

Trong tình yêu của đôi lứa, người ta hay khắc hình ảnh người mình yêu trên cánh tay hay bên trái tim để bày tỏ một tình yêu bền chặt, nhưng dẫu sao vẫn là tình yêu dễ đổ vỡ. Tình yêu Thiên Chúa yêu thương luôn yêu thương, dù nhân loại như thế nào chỉ một điều Thiên Chúa là tình yêu.

Cầu nguyện là diễn tả tâm tình người con kết nối tình yêu của Cha, cảm nhận được tình Cha yêu con, suy nghĩ tích cực về yêu thương như cách Cha mong muốn, để nước Cha trị đến trong từng tâm hồn mỗi con người trong nhân thế. Cầu nguyện như thế dẫn đến một thành tựu con người biết yêu thương nhau.

Chúa Thánh Thần Đấng yêu thương.

Ca tiếp liên ngày lễ kính Chúa Thánh Thần, gợi lên rất nhiều hoạt động của Chúa Thánh Thần nội tâm hoá nhân loại, đốt lửa yêu thương để xây dựng đời sống thương yêu. “Đấng an ủi tuyệt diệu, Đấng soi dẫn nhân tâm, hết những gì nhơ bẩn, rửa cho sạch trong”.

Trong Chúa Thánh Thần nhân loại được thưa lên: “Abba, lạy Cha” (Gl 4, 6). Tương quan trong cầu nguyện được thiết lập trong thời gian dành cho Chúa, như Chúa đã dành hết thời gian cho ta. Giống như một gia đình, cha mẹ, con cái dành thời gian nói chuyện, tâm sự với nhau, dành thời gian để thư giãn, nghỉ ngơi, vui chơi bên nhau, giữ sợi dây tình yêu bền chặt hơn theo thời gian. Cầu nguyện trong Chúa Thánh Thần, chính Ngài thánh hoá thời gian của con người kết nối với tình yêu Chúa Cha, được ở lại bên Cha.

Chúa Thánh Thần không những chỉ hoạt động trong từng cá nhân mà còn hợp muôn tâm hồn, cùng toàn thể Giáo Hội dâng lên Chúa Cha lời kinh nguyện dồi dào phong phú. Đức Maria tràn đầy Chúa Thánh Thần trong kinh nguyện, là Mẹ Giáo hội cùng dâng lên lời kinhh “Magnificat” chúc tụng hông ân yêu thương của Chúa Cha.

Chúa Giêsu dạy cầu nguyện.

Nhờ Con Thiên Chúa xuống thế làm người, kinh nghiệm mọi mặt về con người nhân thế, dạy cho con người quy hướng về Chúa Cha mà dâng lên lời kinh “Lạy Cha”. Lời kinh của một nhân loại khát khao hoà bình, yêu thương được triển nở. Với tất cả những người thực hiện cho công lý, đấu tranh xoá bỏ bất công, nâng đỡ cô nhi, quả phụ, băng bó chữa lành vết thương tâm lý, thể xác, những người xây dựng, kiến tạo, vun đắp yêu thương, để công bố “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.

Con đường kinh nguyện “Lạy Cha” còn kéo dài trong thời gian, cùng Chúa Giêsu, một lời kinh lâu ngày thấm dần trong lịch sử, cũng thấm dần vào từng tâm hồn theo thời gian. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “người cầu nguyện là người lèo lái lịch sử”.

Chúa Giê su là người trực tiếp ngự bên Chúa Cha trình bày tất cả những gìn con người kêu xin cùng Chúa Cha. Chúa Giê su là Đấng trung gian duy nhất giữa Chúa Cha và nhân loại. Chúa Thánh Thần là Đấng tháp nhập nhân loại vào trong Chúa Kitô, nhờ đó kinh nguyện trở nên kinh nguyện ca tụng, tạ ơn, cầu xin cùng Ba Ngôi Thiên Chúa.

Với lời kinh “Xin nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, một nhân loại không ngừng được đổi mới, cho dù sự dữ càng ngày càng thấy bùng phát, nhưng đó là dấu chỉ bùng phát trước khi tắt.

Xin cho Ý Cha được thực hiện nơi chúng con và chúng con luôn được can đảm, bền lòng thực hiện yêu thương để Nước Cha trị đến.

Về mục lục

.

CẦU NGUYỆN NHƯ THẦY GIÊSU

Bông hồng nhỏ 

Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt vời nhất về đời sống cầu nguyện. Ngài cầu nguyện ở mọi nơi mọi lúc: khi chữa lành bệnh tật, khi hóa bánh ra nhiều, Ngài đã cầu nguyện suốt đêm để tuyển chọn các Tông đồ… Ngài luôn luôn sống tâm tình con thảo đối với Chúa Cha. Ngài cũng mời gọi ta sống tâm tình hiếu thảo đối với Cha trên Trời.

Hôm nay, sau khi Thầy Giêsu cầu nguyện xong, có một người môn đệ đến thưa với Ngài: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông” (Lc 11, 1b). Chắc chắn rằng, chính Thầy Giêsu đã gợi hứng lên trong lòng người môn đệ khao khát thánh thiện này. Chính Ngài làm cho tâm hồn họ đầy thao thức muốn được trở nên giống Thầy của mình. Đáp lại lòng khao khát của người môn đệ, Thầy Giêsu đã dạy cho các ông những lời cầu nguyện rất tuyệt vời, những lời ấy chính là kinh Lạy Cha mà đến hôm nay ta vẫn đọc mỗi khi cầu nguyện.

Từ tấm bé, ta đã cầu nguyện nhưng ngày ấy ta chưa ý thức rằng mình đang cầu nguyện. Thế nhưng, chính Thánh Thần của Thiên Chúa vẫn hoạt động trong tâm hồn trẻ thơ. Khi đã lớn khôn rồi, ta được đi vào trong quan rất cá vị với Chúa. Chúa Thánh Thần đã mở trái tim ta, mở tâm trí cho ta cảm nhận và hiểu được phần nào tình yêu cao vời của Thiên Chúa. Lòng ta dần lớn lên, trưởng thành hơn trong những chọn lựa. Với ước ao được làm vui lòng Thiên Chúa và được ở trong tình yêu của Ngài, ta sống tương quan rất thiết thân với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là hồng ân Thiên Chúa đã ban tặng cách nhưng không cho ta. Đã không ít lần, ta ở trong cuộc chiến đấu cam go giữa những chọn lựa. Đâu là chọn lựa đẹp lòng Thiên Chúa? Phải chăng, ta đã chỉ sống theo ý riêng ta? Rất nhiều khi, ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Lời cầu xin tha thiết của một tấm lòng khiêm cung và chân thành sẽ được đền đáp cân xứng. Chính Thiên Chúa sẽ làm cho ta những điều Ngài muốn. Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của ta. Chúa Giêsu đã đảm bảo cho ta: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc11, 9-10). Đừng ngạc nhiên khi ta xin mà không nhận được điều mình muốn và cũng đừng thất vọng để rồi không cầu nguyện nữa. Thánh Giacôbê Tông đồ đã nhắn nhủ rằng: “Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4,3).

Nếu ta đang cầu nguyện, hãy ở lại trong Chúa với sự hiện diện của trái tim và toàn thể con người ta. Nếu ta đang làm việc, hãy mời Chúa Giêsu cùng làm việc với ta. Chính Ngài sẽ thánh hóa mọi công ăn việc làm của ta. Nếu ta đang  buồn sầu đau khổ, hãy nhìn lên Chúa Giêsu trên thập giá, chính Ngài đang đổ đến giọt máu cuối cùng vì ta và chính Ngài đang ở bên ta, trong nỗi đau khổ cùng cực để an ủi ta, chia sẻ với ta. Nếu ta đang yêu, hãy đặt tình yêu ấy vào trong tình yêu Thiên Chúa để Ngài hướng dẫn ta, để Ngài dạy ta hiểu thế nào là yêu. Trong tất cả mọi việc, hãy sống tương quan mật thiết với Thiên Chúa, Ngài ở rất gần ta, ngay trong chính con người ta và ở nơi người anh em ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con cầu nguyện. Nguyện xin Chúa cho con được lòng kiên trì và bền bỉ trong cầu nguyện, cầu nguyện với cả tình yêu mọn hèn của con. Con tin rằng Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót hằng ghé mắt nhìn đến người con bé nhỏ của Chúa. Xin giúp chúng con biết chiêm ngắm mẫu gương tuyệt vời của Chúa Giêsu để chúng con biết chuyên cần cầu nguyện, sống tâm tình con thảo với Cha trên Trời. Amen.

Về mục lục

.

PHÚT GIÂY YÊN TĨNH

Lm Vũđình Tường

Có những ngày đẹp trời, lại có những ngày xấu trời. Có ngày có mây xanh, nắng ấm, gió phe phẩy; lại có ngày lạnh lẽo, trời u ám, gió thốc từng cơn. Điều này cho thấy thế giới thiên nhiên có những đổi thay, từ trời cao đến biển xanh. Có lúc biển lặng yêu, gió đùa nuớc; lại có ngày gió to, sóng lớn, biển như lên cơn giận dữ, gầm thét. Con người là thành phần của thiên nhiên nên cuộc sống cũng có những ngày êm đềm, vui tươi lại cũng có ngày u sầm, ảm đạm, đất trời quay cuồng đến rợn người. Khi cuộc sống trở nên khó khăn, khủng hoảng, thì giây phút yên lặng, bình tâm, là điều cần thiết, bởi giây phút đó mang lại hy vọng và ban phát sự sống nội tâm. Để tìm giây phút an bình cho tâm trí, xã hội chế biến những phương pháp thiền, hay Yoga hay Tai Chi. Mục đích là đi tìm giây phút an bình cho con tim và giải toả tâm trí đang lo lắng đến khủng hoảng. Những điều này rất tốt và cần thiết cho cuộc sống. Một số khác lầm tưởng khi gặp u buồn, khó khăn, khủng hoảng, thuốc thang, rượu chè, ăn uống giúp an bình. Thực ra tất cả những hoá chất đó đều gây thiệt hại, con người trở nên nghiện ngập và cuối cùng trở thành nạn nhân của những thứ mà họ tin là giúp mang lại thoải mái.

Trong tôn giáo, phút giây yên tĩnh qua cầu nguyện, hoặc thiền nguyện, là cái khôn của người xưa. Cầu nguyện có lịch sử lâu dài và phương pháp này được người xưa áp dụng triệt để và họ đã thành công. Một số người sẵn sàng từ bỏ những gì đang có đi sâu vào sa mạc, rừng thẳm tìm nơi trú ẩn, sống cuộc sống thinh lặng, nguyện gẫm, âm thầm. Họ sống cuộc đời huyền bí và để lại những điều khôn ngoan cho hậu thế. Họ không sống cô đơn nhưng có Chúa là tri kỉ trong đời. Gioan Tiền Hô dùng chính kinh nghiệm sa mạc của ông để dậy các môn đệ. Một trong những điều đó là dậy các ông cầu nguyện, tìm giây phút yên lặng trong cầu nguyện. Môn đệ Đức Kitô biết thế, các ông xin Đức Kitô dậy cách cầu nguyện. Chính Đức Kitô sáng sớm thường tìm nơi thanh vắng, một mình cầu nguyện. Do các môn đệ yêu cầu, ngày nay Giáo Hội có kinh Lậy Cha được biết đến như là kinh nguyện của Đức Kitô.
Yoga và Tai Chi hoặc các cách khác có chung mục đích là tìm an bình cho con tim, thoải mái, thư giãn cho cơ thể. Kitô hữu không ngưng ở chỗ tìm an bình cho con tim và thoải mái, thư giãn cho cơ thể. Kitô hữu còn đi xa hơn nữa. Khi cầu nguyện, linh đạo có Thánh Thần Chúa hướng dẫn. Chúng ta phó thác phút giây đó trong đời, giao phó con người ta cho Thánh Thần Chúa hướng dẫn. Như thế khi cầu nguyện, con người được tự do hoàn toàn, do Thánh Thần hướng dẫn, chỉ bảo và dắt ta đi sâu vào tình yêu huyền bí, vô biên của Thiên Chúa. Thánh Phaolô còn dậy Thánh Thần biến đổi tâm tình bình thường của ta thành tâm tình hiến dâng cho Thiên Chúa (Rom 8,26). Chúng ta bước đi trong tin tưởng, tin yêu và phó thác vào tình yêu Chúa để cảm nghiệm được tình Chúa bao la, ngọt ngào. Giây phút này chính là giây phút ngắm nhìn, thả hồn ta vào cõi thinh không, bao la, hùng vĩ, của đất trời. Đây chính là lúc chúng ta nhìn thấy mục đích của cuộc sống và từ đó chúng ta đáp trả lại tình yêu Chúa.

Kinh Lậy Cha chính là mẫu mực của các kinh cầu. Kinh này dậy chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ vũ trụ, làm chủ đất trời. Tiếp theo chúng ta xin Thiên Chúa làm chủ đời ta bởi ta là tạo vật do Chúa tạo thành nên ca tụng Đấng dựng nên mình, ban cho sự sống, coi sóc, bảo vệ là điều chính đáng, cần phải làm và làm thường xuyên. Không những chúng ta ca tụng Danh Chúa và còn phải tôn kính Thánh Danh Ngài. Tiếp theo chúng ta xin sống sao cho mọi người nhận biết ta là con Thiên Chúa. Phần thứ hai của Kinh Lậy Cha, chúng ta xin cho đủ lương thực hàng ngày, xin những điều cần, không phải những điều muốn. Tiếp theo là lời ca tụng sâu thẳm từ tâm hồn bởi Thiên Chúa xoá bỏ tội, lỗi lầm của ta, tha chết và ban cho sự sống trường sinh. Xin học từ Ngài biết thứ tha cho anh em, người gây cho ta đau khổ, sầu thương. Ai không biết thứ tha, người đó không đáng nhận ơn tha thứ. Điều kiện để nhận ơn tha thứ là phải biết tha thứ. Sau hết chúng ta xin ơn tránh các cơn cám dỗ. Cơn cám dỗ mạnh nhất chính là cám dỗ làm biếng cầu nguyện, viện lí do này nọ tránh cầu nguyện, hay làm qua loa là một cám dỗ hàng ngày.

Về mục lục

.

CẦU NGUYỆN

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Van xin cầu khấn ơn trên,
Trời thương ban phước, đáp đền tri ân.
Tông đồ học hỏi bao lần,
Xin Thầy chỉ dậy, đôi phần khấn van.
Nguyện xin chúc tụng thiên nhan,
Nước Trời mau đến, tỏa lan cõi bờ.
Ý Cha thể hiện mong chờ,
Trên trời dưới đất, hưởng nhờ ân thiêng.
Xin Cha lương thực phần riêng,
Hằng ngày dùng đủ, nên siêng thực hành.
Chúng con tha nợ làm lành,
Như Cha tha thứ, sáng danh Chúa Trời.
Ban ơn thắng vượt sự đời,
Những cơn cám dỗ, gọi mời cuồng si.
Bạn bè thân hữu xin gì,
Rộng tay cứu giúp, ngại gì bóng đêm.
Chúa Cha rộng rãi ban thêm,
Những ai cầu cứu, êm đềm Chúa ban.
Ai xin sẽ được dư tràn,
Thánh Thần soi sáng, chứa chan phúc lành.

Kinh Lậy Cha là kinh cầu nguyện đẹp lòng Chúa nhất, chính Chúa Giêsu đã dậy cho các môn đệ của Ngài. Kinh gồm có ba lời chúc tụng, ngợi khen danh Chúa và bốn lời cầu xin dành cho chúng ta. Cầu cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý của Cha được thể hiện. Cầu cho chúng ta có lương thực mỗi ngày, cầu ơn tha tội và cầu ơn thắng vượt các cơn cám dỗ. Lời cầu nguyện này đẹp lòng Chúa vô cùng.

Chúng ta thường cầu nguyện hằng ngày, nhưng lời cầu nguyện của chúng ta có phần cầu xin nhiều hơn là lời nguyện. Chúng ta chạy đến với Chúa khi chúng ta cảm thấy cần thiếu điều gì hay để xin một điều gì. Đôi khi chúng ta nghĩ Chúa như ông chủ ngồi ban phát ơn lành. Nếu xin vài lần không được, chúng ta chán nản và bỏ cuộc. Thực sự việc cầu nguyện mang một ý nghĩa tích cực hơn. Cầu nguyện là hướng tâm hồn lên cùng Chúa, để thưa truyện với Chúa, để chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ hồng ân của Chúa, sau đó đền tội, xin Chúa thứ tha và sau cùng là xin ơn Chúa trợ giúp. Cầu nguyện như chiếc cầu nối giữa Chúa và chúng ta qua lời nguyện của Chúng ta và Chúa sẽ ban ơn.

Cầu nguyện cần sự kiên trì đừng chán nản. Chúa nói với các tông đồ rằng: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Câu truyện người bạn kiên nhẫn trông mong xin bánh trong bài Phúc âm là một hình thức cầu nguyện. Anh đã năn nỉ và chờ đợi lòng hảo tâm của người chủ nhà. Anh đã đạt được điều anh mong muốn. Chúa là Cha nhân lành chẳng lẽ Ngài không ban ơn cho con cái Ngài khi họ van xin sao. Điều quan trọng là xin Chúa ơn huệ có lợi ích cho đời sống và hằng tuân theo thánh ý Chúa.

Truyện kể: Có một bà cụ chứng kiến cảnh tù đầy, sát hại và đổ máu tang thương do lãnh chúa bạo quyền mê đắm danh lợi thú gây khổ đau cho rất nhiều người. Bà rất tin tưởng vào lời cầu nguyện. Bà nghĩ không có gì là không có thể làm được. Ngày ngày bà lên đền thờ cầu nguyện cho các nhà bạo chúa. Lúc đầu, bà cầu cho họ mau chết để nhân dân bớt khổ, nhưng rồi người này chết người khác lên kế vị còn tàn bạo hơn. Với kinh nghiệm, bà đổi lại lời cầu nguyện cho những bạo chúa sống lâu hơn để họ có thời gian thay lòng đổi dạ. Bà kể lại về kinh nghiệm mà người bạo chúa đã đích thân tra vấn bà, ông hỏi: Tại sao ngày ngày bà lên đền thờ cầu nguyện. Chính tâm sự của bà đã giúp mở đường biến đổi đời ông.

Chính Chúa Giêsu đã cầu nguyện hằng ngày cùng Chúa Cha. Chúa dậy các môn đệ hãy cầu nguyện luôn để khỏi xa chước cám dỗ. Chúa cũng dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện: Các con xin thì sẽ được. Lạy Chúa, xin cho lời cầu của chúng con bay lên trước nhan thánh Chúa. Chúng con dâng lời cảm tạ, tôn vinh danh Chúa đến muôn ngàn đời.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU DẠY CÁC MÔN ĐỆ CẦU NGUYỆN

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Cuộc đời của Chúa Giêsu là một bài ca tuyệt vời “ Tình Thương Chúa đời đời con ca ngợi “ (Tv 88 ).Do đó, cả đời  sống của Người là một lời kinh liên lỉ, lời kinh không dứt, không ngừng. Bất cứ làm công việc gì, đi đâu hay phải quyết định những gì quan trọng, Chúa Giêsu đều cầu nguyện và hỏi ý Chúa Cha. Trong những năm đi giảng, Chúa Giêsu chỉ dạy cho các môn đệ  một kinh duy nhất là kinh Lạy Cha.

Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ và cho nhân loại kinh Lạy Cha để nói cho mọi người hay cầu nguyện không có nghĩa là chỉ xin ơn và cũng chẳng có nghĩa là liệt kê những ước muốn, những kỳ vọng, những điều mà mình muốn xin. Cầu nguyện là tôn thờ, thống hối, tạ ơn và xin ơn. Chúa dạy mọi người qua kinh Lạy Cha phải có bốn tâm tình rõ ràng như thế.” Lạy Cha, xin làm cho Danh Thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến “ ( Lc 11,2 ). Đây là câu chúc tụng, tôn vinh của kinh Lạy Cha. Rồi mọi người chúng ta tỏ lòng ăn năn sám hối, thống hối lỗi mình bằng lời xin lỗi :” Xin tha tội cho chúng con, như cũng con cũng tha kẻ có tội mắc lỗi với chúng con “ ( Lc 11, 4). Sau đó, chúng ta cảm tạ những hồng ân Chúa đã tuôn đổ trên chúng ta. Và rồi, tâm tình cầu xin của chúng ta được biểu lộ trong câu :” Xin Cha chúng con hôm nay lương thực hằng ngày “ ( Lc 11, 3 ), và “ xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ “  Lc 11, 4 ). Lời kinh Lạy Cha là lời kinh của Chúa Giêsu. Đây là lời kinh tuyệt vời, hoàn hảo Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ của Ngài. Chúa không dạy các môn đệ, không dạy nhân loại, loài người nhiều kinh, Ngài chỉ dạy có một kinh Lạy Cha nhưng bao gồm tất cả lời cầu nguyện của Ngài. Nên, lời kinh Lạy Cha là lời kinh hoàn hảo nhất, tuyệt vời nhất.Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha, là Abba “ Cha ơi “. Chúng ta là con của Chúa, chúng ta cũng gọi Cha Ngài là Cha của chúng ta. Xưa Abraham là Cha của các kẻ tin, nhưng lời nguyện cầu của Abraham và của Chúa Giêsu hoàn toàn khác nhau.Abraham đã yêu thương dân của Chúa, Ông đã dám đến gần Thiên Chúa để nài van Ngài tha thứ cho dân thành Sođoma và Gomora. Abraham đã không ngại ngùng trả giá với Thiên Chúa.Nhưng Ông đã không dám gọi Thiên Chúa là Cha một cách thật thân thương và thân mật như Chúa Giêsu đã gọi Thiên Chúa là Cha của Ngài. Chính vì thế, chúng ta chưa thấy một người nào dám gọi Thiên Chúa là Abba “ Cha ơi “ như Chúa Giêsu đã làm.

Chúa Giêsu sau khi đã dạy các môn đệ và mọi người kinh Lạy Cha, Ngài lại còn khuyên mọi người và chúng ta hãy kiên nhẫn và cậy trông để cầu nguyện. Phải kiên nhẫn cầu nguyện vì có những điều chúng ta cầu xin chúng ta không được đáp ứng, như thế, không phải vì Chúa không muốn cho chúng ta những ơn ấy nhưng vì có lẽ đối với Chúa, ơn ấy không cần thiết cho linh hồn chúng ta, Ngài muốn dành cho chúng ta ơn khác lớn hơn, cần hơn. Chúa luôn yêu thương và tỏ lòng nhân hậu với chúng ta như một người cha đầy lòng nhân hậu. Chúng ta phải trông cậy vì Chúa đã hứa :” Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho “ ( Lc 11, 9).

Tất cả mọi Kitô hữu đều được mời gọi thưa với Thiên Chúa là Cha. Bởi vì chúng ta được hiệp thông trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, sự sống mới mà chúng ta lãnh nhận khi chúng ta được rửa tội. Qua Bí tích rửa tội chúng ta được trở nên chi thể của Hội Thánh, thuộc về gia đình của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Lời thân thưa của Chúa Giêsu với Thiên Chúa là Cha “ Abba” luôn phải là lời thưa của mỗi người chúng ta hằng ngày vì mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, chúng ta luôn được diễm phúc thưa với Thiên Chúa “ Abba “, Cha ơi.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết siêng năng dùng kinh Lạy Cha để cầu nguyện.Xin cho chúng con hiểu rằng thiếu cầu nguyện đời sống của chúng con sẽ hụt hẵng, không cầu nguyện cuộc đời của chúng con sẽ hư đi.Xin cho chúng con luôn biết cầu nguyện như Chúa Giêsu. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tại sao cuộc đời của Chúa Giêsu là một lời cầu nguyện liên lỉ, nhưng Người lại chỉ dạy các môn đệ mo65u ‘ Kinh Lạy Cha “  ?

2.Tại sao Chúa Giêsu lại gọi Thiên Chúa là “ Abba “ ( Cha ơi ! )?

3.Kinh Lạy Cha là kinh gì ?

4.Chúng ta có cần cầu nguyện không ? Tại sao ?

5.Cầu nguyện là gì ?

Về mục lục

.

CẦU XIN ƠN THA THỨ TỘI LỖI

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (St 18:20-32;  Cl 2:12-14;  Lc 11:1-13)

          Nếu chỉ đọc nguyên một bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ nghĩ rằng đề tài Phụng vụ Lời Chúa nói về việc Chúa Giê-su dạy ta cầu nguyện hoặc về ý nghĩa kinh Lạy Cha. Nhưng nếu kết hợp cả ba bài đọc lại, chúng ta nhận thấy có lẽ lời Chúa hôm nay nhấn mạnh nhiều hơn đến việc cầu xin ơn tha thứ.  Như thế cũng phải.  Vì chúng ta được kêu gọi trở nên hoàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện;  nhưng trên đường trở nên hoàn thiện, chúng ta lại phạm lỗi lầm quá nhiều đối với Chúa và với anh chị em.  Cho nên xin ơn tha thứ là điều cần thiết.  Bài trích sách Sáng thế kể lại việc ông Áp-ra-ham xin Thiên Chúa đừng tiêu diệt dân thành Xơ-đôm;  thánh Phao-lô thì quả quyết rằng nếu chúng ta cùng sống chết với Chúa Ki-tô, Thiên Chúa sẽ tha thứ cho ta mọi lỗi phạm;  còn chính Chúa Giê-su khi dạy ta cầu nguyện lại muốn nhấn mạnh đến việc cầu xin Thiên Chúa tha tội cho chúng ta.

          Trước hết sách Sáng thế kể lại việc ông Áp-ra-ham “mặc cả” với Thiên Chúa khi ông cầu xin Người đừng hủy diệt thành Xơ-đôm vì tội lỗi của dân chúng.  Chúng ta cảm phục ông Áp-ra-ham vì ông to gan, dám mặc cả với Thiên Chúa về việc tha thứ!  Sở dĩ ông to gan là vì ông rất thân mật với Thiên Chúa như đứa con vòi vĩnh cha mẹ.  Mặc cả mà không có tình yêu đích thực thì khác nào buôn bán.  Nhưng rõ ràng ông Áp-ra-ham đã dựa vào lòng yêu mến Chúa của ông và vào lòng yêu thương nhân từ của Chúa mà cò kè bớt một thêm hai với Chúa.  Có lẽ chúng ta phải bật cười, không ngờ Cha chúng ta lại dễ thương như vậy.  Nếu muốn diễn tả sự dễ thương này của Chúa, chúng ta cứ tưởng tượng ra hình ảnh một người cha âu yếm nhìn đứa con với ánh mắt hiền từ và mỉm cười vì nó ngây ngô đưa ra con số những người lành trong thành Xơ-đôm làm điều kiện cho sự tha thứ của Chúa!  Đầu tiên ông đưa ra con số năm mươi người lành, để nhân danh họ ông xin Chúa tha cho thành Xơ-đôm.  Ông tin chắc một thành đông dân như vậy, thế nào cũng kiếm đủ năm mươi người lành.  Vậy mà kiếm mãi chẳng đủ, ông rút con số xuống 45, rồi 40…, sau hết là 10 người lành.  Cuối cùng chỉ còn một mình ông Lót, cháu của ông Áp-ra-ham.  Ông Lót đem vợ và hai con gái trốn khỏi Xơ-đôm.  Nhưng bà vợ vì không nghe lời thiên sứ, ngoái nhìn lại đằng sau trong khi thành bị đốt cháy, nên bà biến thành cột muối mà chết.  Câu chuyện nói lên lòng nhân từ của Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ.

          Vậy mà bao nhiêu thế hệ sau đó, người ta vẫn không muốn nhận ra Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và luôn tha thứ lỗi lầm của họ.  Có thể đó chính là lý do Chúa Giê-su nhấn mạnh đến việc xin Thiên Chúa là Cha tha tội cho chúng ta khi chúng ta cầu nguyện.  Xét về cấu trúc của kinh Lạy Cha, chúng ta thấy một nửa kinh đã đề cập tới việc xin ơn tha thứ rồi!  Thêm vào đó, trong sách Tin Mừng Mát-thêu (6:14-15), ngay sau kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su còn giải thích thêm việc chúng ta phải tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta.  Điều này chứng tỏ Người muốn ta lưu ý nhiều hơn đến việc xin Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta và hệ quả chúng ta phải tha thứ cho anh chị em.  Câu chuyện Chúa kể về một người đã bị người bạn quấy rầy, nửa đêm đến xin ông ta giúp đỡ và đã được ông ta nhận lời, không vì tình bạn thì cũng vì muốn tránh khỏi bị phiền hà.  Chúng ta không khác nào “kẻ quấy rầy”, phạm tội làm phiền lòng Chúa.  Nhưng Chúa sẵn sàng tha thứ cho chúng ta vì Người là Cha nhân từ.  Ở đây, dường như Chúa Giê-su muốn dạy rằng:  anh em cứ xin “sự tha thứ” thì sẽ được tha thứ, cứ tìm “sự tha thứ” thì sẽ thấy được tha thứ, cứ gõ cửa lòng Chúa thương xót thì sẽ được Chúa xót thương tha thứ tội lỗi cho anh em.

          Với câu chuyện Áp-ra-ham và lời Chúa Giê-su dạy chúng ta kinh Lạy Cha, chúng ta đã hiểu được sự cần thiết xin ơn tha thứ khi chúng ta cầu nguyện.  Tuy nhiên thánh Phao-lô giới thiệu cho chúng ta một cách xin ơn tha thứ rất hữu hiệu, đó là hãy kết hợp với Chúa Giê-su Ki-tô.  Ngài dạy rằng Ki-tô hữu chúng ta dù là gốc Do-thái, dù là gốc dân ngoại, thì Thiên Chúa vẫn ban cho hết thảy chúng ta “được cùng sống với Đức Ki-tô”.  Tại sao phải được cùng sống với Đức Ki-tô?  Bởi vì nhờ Đức Ki-tô chịu chết trên thập giá, “Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta”.  Thánh tông đồ muốn nhắc nhở chúng ta về một chân lý căn bản trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, đó là vai trò trung gian của Chúa Ki-tô để Thiên Chúa tha tội cho chúng ta.  Chúa Ki-tô là sự tha thứ của Thiên Chúa biến thành người phàm ở giữa chúng ta.  Cho nên “được cùng sống với Đức Ki-tô” có nghĩa là được tiếp xúc và lãnh nhận sự tha thứ của Thiên Chúa.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Chúng ta thắc mắc mình sẽ học được điều gì từ câu chuyện ông Áp-ra-ham cầu xin Chúa tha thứ cho thành Xơ-đôm và kinh Lạy Cha nhấn mạnh việc xin ơn tha thứ tội lỗi. Chắc chắn câu chuyện Áp-ra-ham giúp ta nhận biết hình ảnh Thiên Chúa là Cha nhân từ và lời dạy của Chúa Giê-su cũng khẳng định lòng nhân từ của Cha trên trời.  Biết rõ như thế mà chúng ta không xin ơn tha thứ tội lỗi, thì quả thực chúng ta kiêu căng không nhận mình tội lỗi hoặc phụ lòng Chúa thương xót chúng ta vậy!

Về mục lục

.

LỰA CHỌN PHẦN TỐT NHẤT

Lm Trần Bình Trọng

Phụng vụ lời Chúa hôm nay nói lên tinh thần hiếu khách. Lòng hiếu khách đã thúc đẩy tổ phụ Áp-ra-ham dọn bữa cơm thịnh soạn, với sự tiếp tay của bà xã ông và người đầy tớ, rồi ông đích thân tiếp đãi ba vị sứ giả của Thiên Chúa.

Lòng hiếu khách của ông Ápraham đã được khen thưởng, khi sứ giả của Thiên Chúa loan báo là sang năm bà Xa-ra sẽ sinh hạ cho ông một con trai, mà sau này ông đặt tên là I-xa-ác (St 18:10a).

Còn hai chị em Mácta và Maria cũng tỏ ra tinh thần hiếu khách theo cách thế của mỗi người. Mác-ta tỏ ra tinh thần hiếu khách bằng cách sửa sọan thiết đãi Chúa một bữa cơm tươm tất. Bà đã có thể liếc mắt lườm người em là Maria, không chịu giúp việc bếp núc. Rồi bà xin Chúa can thiệp: Sao Thầy không bảo em con giúp con một tay? (Lc 10: 40). Chị em bà đã phải quen biết Chúa trước đó nên bà Mác-ta mới có thể nói với Chúa một cách chân thành như vậy. Ở đây ta phải thông cảm với bà Mácta vì bà phải sửa sọan bữa ăn một mình mà thiếu dụng cụ nhà bếp tân thời như ngày nay. Tuy nhiên yếu điểm của bà ta là bà quá lo lắng về những việc dọn cơm nước, đến nỗi bà đánh thấp giá trị của việc lắng nghe lời Chúa của em mình là Maria. Ta cũng có thể phản ứng giống như bà Mác-ta. Khi bận rộn với công việc làm, ta ưa phê bình người chỉ nói và ưa chuyện vãn mà không làm. Còn khi không chịu làm việc phục vụ, ta có thể dùng ví dụ về bà Maria để biện minh cho tính biếng nhác của mình.

Tuy nhiên Chúa lại khen bà Maria đã biết lắng nghe lời Chúa, biết chọn phần tốt nhất (c. 42). Khi Chúa nói bà Maria đã chọn phần tốt nhất, thì theo kiểu so sánh, phải hiểu rằng bà Mácta chọn phần không tốt bằng mà thôi, chứ không phải là chọn phần không tốt. Việc Chúa sinh ra làm người cũng đòi hỏi Chúa cần ăn uống. Ðể có của ăn lại cần phải có người nấu nướng. Hôm nay bà Mác-ta đã dọn cơm nước cho Chúa. Chúa chỉ nhắc nhở bà Mácta: Con băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện quá (c. 41). Chắc Chúa đã phải biết tính nết của hai chị em rồi vì nhà ba chị em – gồm ông Ladarô – thường là nơi Chúa và các tông đồ lui tới nghỉ chân và ăn uống miễn phí mỗi khi Thày trò về Giêsusalem. Có thể ý Chúa muốn nói rằng bà chỉ cần làm một vài món là đủ rồi, để lần sau làm món khác cho thay đổi. Rồi có lẽ Chúa cũng muốn kể cho cả bà chị nghe về việc Chúa đi rao giảng và chữa lành, dân chúng phản ứng ra sao, có nhóm nào chống đối hay nhóm nào ủng hộ không?

Vậy làm thế nào để dung hoà vai trò của hai chị em Mácta và Maria trong đời sống người tín hữu? Ðể dung hoà, ta vừa phải làm việc vừa phải cầu nguyện. Khi mẹ Têrêsa thành Calcutta được hỏi làm sao bà có đủ nghị lực để tiếp tục việc phục vụ trẻ nghèo bên Ấn độ một cách liên tục và hăng say như vậy? Bà trả lời: Chúa Thánh thể là sức mạnh của bà, và bà cầu nguyện hàng giờ trước Mình Thánh Chúa. Một cách dung hoà tốt nhất là làm việc trong bầu khí cầu nguyện, làm việc dưới sự hiện diện của Chúa. Ngày nay người ta bị chi phối bởi nhiều tiếng động và chia trí. Vì vậy ta phải học để lắng nghe tiếng Chúa. Ta phải tìm những giờ phút yên lặng để cầu nguyện, tìm cơ hội để hồi tâm, để ở một mình với Chúa và đặt mình dưới sự hiện diện của Chúa.

Ðó là lý do tại sao hôm nay sau những ngày giờ bận rộn với công ăn việc làm – việc nhà cũng như việc sở – ta tụ họp nơi đây trong nhà Chúa để thờ phượng và cầu nguyện, để xa tránh bầu khí náo nhiệt của cuộc sống, để tìm hiểu xem những màu nhiệm khổ hình, tử nạn và phục sinh của Chúa có ảnh hưởng tới đời sống mỗi ngưòi như thế nào?

Ðây cũng là cơ hội để giúp ta nhận ra Chúa đang mời gọi ta làm gì để tiếp tục sống làm môn đệ. Chúa hiện diện giữa ta khi ta họp nhau cầu nguyện và thờ phượng. Ta cần chuẩn bị sao cho được sẵn sàng để mở rộng tâm hồn đón nhận lời Chúa và lắng nghe tiếng Chúa trong Thánh kinh, qua Giáo hội và các phép bí tích mà ta lãnh nhận. Hôm nay mỗi người nên tự hỏi: ta đã sửa soạn cho việc thờ phượng ngày Chúa nhật như thế nào? Làm sao ta có thể lắng nghe tiếng Chúa khi ta bận tâm lo nghĩ xem hôm nay sau lễ ta phải làm gì, đi tiệm ăn món gì, đi chợ mua những gì?

Ðể cho tâm hồn được lắng dịu hầu có thể đặt mình dưới sự hiện diện của Chúa, trước lễ ta cần sửa soạn tìm ra phương thế để nhắc nhở cho mình những gì cần làm hay cần mua sau lễ, rồi ghi những thứ cần mua hay cần làm vào miếng giấy để trong túi thay vì để trong đầu óc khi dự lễ. Ðể áp dụng thực hành, những người có con nhỏ nên ước lượng xem trước khi đi lễ cần bao nhiêu thời giờ để sửa soạn cho mình và cho con cái. Rồi cắt đặt từ tối hôm trước xem xe còn xăng nhớt không, ai đặt đồng hồ báo thức, sáng hôm  sau ai đánh thức con cái dạy, ai tắm rửa cho con, ai thay quần áo, xỏ dày dép cho con. Con cái nhỏ cần ngủ cũng như cần ăn để khi đến nhà thờ con em khỏi quấy khóc làm chia trí cho người dự lễ. Ta không thể đợi tới nhà thờ mới cho con ăn uống, rồi còn thay tã cho con trong khu vực nhà thờ – trừ trường hợp khẩn thiết. Làm như vậy là mặc nhiên ghi vào ấn tượng con cháu ý tưởng coi thường nhà Chúa.

Trong tông thư về ngày Chúa nhật gửi toàn thế giới, Ðức Thánh cha Gioan Phaolo II nhắc lại: Chúa nhật là ngày của Chúa. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày và Chúa nghỉ ngơi một ngày. Chúa nhật còn là ngày Chúa phục sinh, ngày vui mừng. Ðức thánh Cha khẳng định lại: bỏ lễ Chúa nhật mà không có lý do chính đáng vẫn là tội nặng. Thánh lễ Chúa nhật là trung tâm điểm đời sống người tín hữu. Nói như vậy có nghĩa là mỗi tuần ta đến nhà thờ ít là một lần để được tăng sức và bổ dưỡng bằng lời Chúa và Mình thánh Chúa. Cuối tuần khi kiệt sức vì công việc làm, ta lại đến nhà thờ để được bổ dưỡng. Chúa nhật còn là ngày của Giáo hội. Theo Ðức thánh Cha, Giáo hội có bổn phận thánh hoá ngày Chúa nhật bằng cách nhắc nhở và khuyến khích giáo dân đi dâng lễ thờ phượng, nghỉ ngơi hoặc làm việc từ thiện bác ái.

Lời cầu nguyện xin cho được biết chọn phần tốt hơn:

Lạy Chúa, Chúa là Ðấng khôn ngoan thượng trí.

Xin dạy con biết tìm lắng nghe lời Chúa.

Xin ban cho con ơn khôn ngoan

để con biết chọn phần tốt nhất

cho con và con cháu con sau này.

Xin đừng để con quá bận tâm về những chuyện phụ thuộc,

khiến con quên lãng phần thiết yếu cho tâm hồn con. Amen.

Về mục lục

.

CẦU NGUYỆN, CẦU XIN

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Đọc bài Tin Mừng, chúng ta dễ dàng nhận ra đề tài Chúa Giêsu dạy là vấn đề cầu nguyện, đây cũng là điều chúng ta tìm hiểu. Trước hết là một hình ảnh, muốn đi từ bên đây sang bên kia sông, chúng ta phải qua một chiếc cầu, cầu là phương tiện nối hai bờ sông lại, sông càng lớn, cầu càng phải chắc và dài. Nếu bắc một chiếc cầu dài và chắc qua một con sông lớn, chắc chắn sẽ phải tốn phí rất nhiều, thí dụ như cầu Sài Gòn hay cầu Mỹ Thuận, vì hai bờ quá xa nhau. Cũng vậy, giữa con người với Thiên Chúa cũng có một khoảng xa phân cách, khoảng phân cách đó rộng hơn hai bờ bể xa hút ngàn trùng. Để đến với Chúa, con người cũng phải đi trên một chiếc cầu, chiếc cầu ấy mỗi người có thể tự bắc lấy, không tốn kém gì, không phải là cầu gỗ, cầu sắt hay cầu bê tông, nhưng là cầu nguyện, chiếc cầu làm bằng kinh nguyện. Đây là một việc không xa lạ gì đối với chúng ta, nhưng vì quá quen thuộc mà đôi khi chúng ta cần xem xét lại, kẻo nó trở thành việc máy móc, hoặc khi làm khi bỏ.

Chúng ta đều biết cầu nguyện là gặp gỡ thân mật với Chúa. Gặp gỡ ai là đầu tiên phải thấy người đó, gặp Chúa là nhìn thấy Chúa, không phải bằng mắt xác thịt nhưng bằng mắt linh hồn, mắt đức tin. Nhìn thấy Chúa ở đâu? Ở khắp nơi, nhưng cách riêng ở ba nơi sau: trên trời, phép Mình Thánh và trong chúng ta. Nhìn lên trời để cầu nguyện, đó là cử chỉ rất quen thuộc của Chúa Giêsu, nhìn lên trời, đó là thái độ hướng lòng lên Chúa. Nhìn vào phép Thánh Thể để cầu nguyện, đó là cử chỉ của chúng ta khi vào nhà thờ, vì dưới hình bánh trong nhà tạm có thực chính Chúa Giêsu. Thu lòng trí trở vào chính mình, chúng ta cũng sẽ tìm thấy Chúa, vì Chúa thích ngự đó hơn ở trong bình vàng để trong nhà tạm. Tóm lại, Chúa ở trên trời, Chúa ở nhà tạm, Chúa ở lòng chúng ta, đâu đâu Chúa cũng nhìn chúng ta, cũng đợi chúng ta, nhưng nếu chúng ta không nhìn lại, thì không bao giờ có sự gặp gỡ giữa đôi bên.

Nhưng gặp gỡ thân mật để làm gì? Để nói chuyện với Chúa, nói chuyện thì phải dùng lời: lời nói trên môi hay lời nói âm thầm trong lòng trí. Đối với Chúa, chúng ta có thể dùng cả hai cách, vì Chúa thấu suốt tận đáy tâm hồn. Nhưng chúng ta sẽ nói gì với Chúa? Chúng ta có gì, chúng ta muốn gì, chúng ta là ai, tâm hồn chúng ta thế nào, thì chúng ta cứ nói với Chúa như vậy. Nói về dĩ vãng, hiện tại, tương lai, nói về mình, về người khác, về Chúa… bộc lộ cả những âu lo, những niềm vui, những điều sầu muộn… giãi bày lòng mình với Chúa. Tất cả hãy tâm sự với Chúa, tâm sự tất cả với tấm lòng trên môi miệng, nói như con nói với cha, như kẻ thiếu thốn nói với người giàu có. Tâm sự như thế là một việc tin yêu: tin ở sự có mặt của Chúa đang nhìn chúng ta, nghe chúng ta và sẵn lòng đón nhận chúng ta. Tin nhận sự yếu hèn tội lỗi của mình, tin ở quyền năng và tình thương bao la của Chúa, tin ở sự khôn ngoan vô cùng của Chúa luôn biết sự gì tốt cho chúng ta. Cầu nguyện là như thế.

Chúng ta có thể cầu nguyện không? Nói không thể cầu nguyện được, là vì sao? Phải chăng vì không có thời giờ? Mỗi ngày có 24 giờ, tức 1440 phút, trong đó chúng ta có giờ ngủ, giờ ăn, giờ làm việc, giờ giải trí, có giờ để nói với người trong nhà, trong nơi làm việc, ngoài đường, nhỏ nhặt như việc xỉa răng cũng có thời giờ: sáng hai phút, trưa hai phút, tối hai phút, là sáu phút. Chỉ có việc cầu nguyện thì không có thời giờ. Như thế Chúa là một kẻ ăn xin sao? như thể cầu nguyện là một việc bố thí cho Chúa, dư giờ và tiện thì làm, không có giờ thì làm ngơ, thái độ đó có xứng đáng cho một người chịu ơn Chúa, gọi Chúa là cha, là Chúa, do Chúa sinh ra, và một ngày kia trở về với Chúa không? Không cần trả lời, ai cũng quá biết.

Có người lại chữa mình rằng: không thể cầu nguyện, vì không thể đi nhà thờ được, hay vì không thuộc kinh. Những lý do đó không đứng vững, nếu người ta hiểu cầu nguyện là gì như đã nói ở trên. Chúa ở trong nhà tạm, nhưng cũng ở trên trời và ở trong lòng ta, ở bên ta. Như thế, cầu nguyện ở đâu cũng được, ở đâu cũng có thể cầu nguện được. Đàng khác, cầu nguyện không lệ thuộc vào kinh, kinh in trong sách, kinh đọc nơi chung rất ích lợi để gợi ý gợi tình, giúp trí lòng chúng ta dễ cầu nguyện. Nên nhớ chỉ giúp cầu nguyện mà thôi, chứ không làm nên sự cầu nguyện. Sự làm nên việc cầu nguyện phát xuất tự lòng chúng ta. Gặp và nói chuyện với Chúa, đó là cầu nguyện: nói như con nói với cha, như bạn thân nói với kẻ mình thương yêu tin tưởng. Dễ như thế thì ai cũng có thể cầu nguyện được.

Nói rõ hơn, về cầu nguyện, chúng ta hãy nhớ hai điều: Thứ nhất, chúng ta đừng bao giờ coi cầu nguyện một số lúc nào đó là đủ, đừng nghĩ chỉ khi nào đến nhà thờ mới là cầu nguyện. Chúng ta đang ở nhà và đang làm việc vất vả ư? Hãy hướng tâm hồn lên với Chúa, hãy ngước mắt nhìn Ngài, như thế cũng đã là cầu nguyện rồi. Chúng ta đang đi đường ư? Hãy cùng đi với Chúa. Chúng ta đang vui ư? Hãy vui với Chúa. Chúng ta đang buồn khổ hay đang gặp khó khăn ư? Hãy trình bày với Chúa… Nói chung, trong mọi môi trường, mọi hoàn cảnh, mọi việc làm… chúng ta đều có thể cầu nguyện.

Một điều quan trọng nữa, là những điều chúng ta cầu xin Chúa, dù được hay không được, đó là quyền của Chúa, đó là ý Chúa. Chúng ta cho rằng những điều chúng ta cầu xin là tốt đẹp, là cần thiết, chúng ta muốn Chúa nhận lời hay ban cho chúng ta. Nhưng chúng ta có khôn ngoan và hiểu biết bằng Chúa không? Chúng ta phải tin rằng Chúa nhìn xa trông rộng, thông minh vô cùng, Ngài biết những gì tốt và cần cho chúng ta, do đó, nếu vì thương, Chúa đáp ứng lời chúng ta cầu xin , thì trái lại, cũng vì thương mà nhiều khi Ngài từ chối. Cả hai trường hợp, chúng ta đều phải xin vâng và cảm tạ Ngài.

Tóm lại, cầu nguyện là việc rất cần, nhưng cũng là việc rất dễ, ai cũng có thể làm được và cần làm thường xuyên, cho cả đời chúng ta thành một lời cầu nguyện liên lỉ, một cuộc sống thân mật với Chúa mỗi ngày, nhờ đó, như chiếc cầu linh thiêng, chúng ta đến với Chúa, gặp gỡ Chúa, tâm tình, tâm sự với Chúa.

Về mục lục

.

HÃY XIN THÌ SẼ ĐƯỢC

Lm. Anthony Đinh Minh Tiên

Có nhiều định nghĩa khác nhau về cầu nguyện. Có người định nghĩa đơn giản là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa. Người khác cho cầu nguyện là thương lượng với Thiên Chúa. Người khác nữa cho cầu nguyện là nói chuyện với Thiên Chúa như hai người bạn nói chuyện với nhau. Và cũng có những người cho cầu nguyện là cầu xin những gì mình đang túng thiếu và cần Thiên Chúa ban ơn. Tất cả những định nghĩa trên đây nói lên một khía cạnh của cầu nguyện, tổng hợp tất cả cho chúng ta cái nhìn toàn bộ về việc cầu nguyện.

Trong Phúc Âm, Thiên Chúa dạy cho các môn đệ biết cách cầu nguyện cách xứng hợp qua Kinh Lạy Cha, và hai thái độ cần có trong khi cầu nguyện là tin tưởng và kiên trì.

Có hai sự khác biệt giữa kinh Lạy Cha của Luca và Matthêu: Thứ nhất, trình thuật của Luca thiếu câu “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Thứ hai, trình thuật của Luca cũng thiếu câu “xin cứu chữa chúng con khỏi sự dữ.”

Cả hai trình thuật đều đặt sự quan trọng của việc cầu xin cho Danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa được trị đến, trước khi hướng tới những nhu cầu căn bản của con người. Lương thực hằng ngày, sự tha thứ, và sức mạnh để vượt qua mọi cơn cám dỗ là ba điều quan trọng trong đời sống thường nhật của một Kitô hữu.

– Kiên trì: Ví dụ Chúa Giêsu đưa ra có mục đích đòi hỏi con người phải có thái độ kiên khi cầu nguyện. Truyền thống Do-thái rất hiếu khách, nhất là những khách từ xa tới. Người kêu xin bị đặt trong thế kẹt: một là chịu thất lễ với khách, hai là chịu làm phiền hàng xóm, anh đã chọn giải pháp thứ hai để bảo vệ sự sống cho người bạn mình.

Nhà của người Do-thái ngày xưa không rộng mà nhân số trong nhà lại đông, nên cả gia đình thường ngủ chung dưới sàn trên chăn chiếu. Vì thế, nếu một người phải thức và ra mở cửa sẽ làm cho những người khác phải thức theo. Đó là lý do người hàng xóm từ chối lúc đầu; nhưng khi anh bạn có khách cứ gõ và nói mãi, anh phải chỗi dậy lấy bánh cho mượn, không phải vì tình bạn; nhưng vì sự lỳ lợm của anh. Lúc này, chắc những người trong gia đình đang ngủ chung cũng đã thức dậy hết!

– Tin tưởng: Thái độ này còn quan trọng hơn cả thái độ kiên trì, vì nó là động lực giúp con người chạy đến với Thiên Chúa. Hầu như trong tất cả các phép lạ, Chúa Giêsu chỉ làm khi Ngài nhận thấy có dấu chỉ của niềm tin. Ngài từ chối không làm bất cứ phép lạ nào khi chỉ thấy sự cứng lòng hay thử thách.

Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ so sánh người Cha trên trời với các người cha dưới đất: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta có bổn phận cầu xin Thiên Chúa cho những người tội lỗi được ăn năn trở lại, vì đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa.

– Đức Kitô là căn nguyên của tha thứ, hòa giải, và mọi ơn lành. Để lời cầu nguyện chúng ta được Thiên Chúa lắng nghe, chúng ta phải cầu xin nhờ danh và công nghiệp của Ngài.

– Để lời cầu nguyện có hiệu quả, chúng ta cần có thái độ tin tưởng và kiên trì nơi Thiên Chúa. Chúng ta cứ việc cầu xin mọi sự đẹp ý Thiên Chúa, nhưng phải sẵn lòng để chấp nhận thánh ý của Ngài.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU DẠY CẦU NGUYỆN

Lm. Simon Hồ Đức Minh

Chúa Giêsu đã cầu nguyện và Ngài cũng dạy các môn đệ cầu nguyện. Điều đó cho chúng ta thấy “cầu nguyện là một nhu cầu thiết yếu”. Và Kinh Lạy Cha trở thành lời cầu nguyện thật tâm tình của chúng ta đối với Thiên Chúa.

Được gọi Thiên Chúa là Cha. Một tiếng gọi thân thương dấu ái đầy kính tin yêu mến. Một lời thốt lên từ con tim, diễn tả một tấm lòng. Môt lời nói chào kính là ân huệ nhưng không ngà ngọc. Một bày tỏ khởi đầu với ý nghĩa thâm sâu từ tâm tình con thảo.

Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển và triều đại Cha dành cho. Sống cho danh thánh Cha, là tôn vinh Cha bằng những cố gắng và hy sinh của chúng ta. Sống cho danh thánh Cha, là nỗ lực sống tốt đời mình mỗi ngày để danh Cha luôn rạng rỡ vinh quang.

Khi sống, chúng ta phải sống thế nào để triều đại Cha mau đến?

Để triều đại Cha mau đến, chúng ta hãy sống với Chúa bằng tình con thảo, bằng tất cả lòng mến yêu. Với tha nhân, chúng ta hãy thể hiện yêu thương một cách cụ thể. Với tha nhân, chúng ta hãy làm những gì mang lại lợi ích phần rỗi cho họ. Chúng ta hãy làm cho xã hội mà chúng ta đang hiện diện luôn có được bình an, công bằng, chân lý và hạnh phúc thật sự.

Để triều đại Cha mau đến, mỗi người phải trả giá không ít. Giá phải trả càng cao thì việc làm đó luôn có giá trị càng lớn.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không quên cầu xin lương thực mỗi ngày, xin tha tội chúng ta và cũng xin cho mỗi người chúng ta cũng biết tha lỗi cho người khác, cuối cùng xin đừng để chúng ta sa chước cám dỗ.

Thực ra, những điều chúng ta xin chính đáng. Dầu vậy, mỗi chúng ta phải nỗ lực và cố gắng làm ra lương thực và của cải vật chất, biết đón nhận ơn tha thứ của Chúa thật lòng và cũng biết tha thứ cho người khác. Bởi vì biết đón nhận thì phải biết cho đi. Và điều kiện để được tha thứ thì phải biết thứ tha. Hơn nữa, trong cuộc đời, cạm bẫy và chước cám dỗ thì đầy dẫy! Vượt qua và không bị sa lầy là nhờ ơn Chúa giúp.

Hãy tin vào Chúa vì Ngài là Cha yêu thương. Hãy tựa vào Chúa vì Ngài là nguồn hy vọng. Hãy yêu mến Ngài bằng việc yêu mến tha nhân. Hãy ra sức sống tốt và không ngừng cầu nguyện.

Cầu nguyện liên lỉ và kiên trì, đó là thái độ của mỗi Kitô hữu chúng ta. Cầu nguyện liên lỉ và kiên trì, đó là lời mời gọi của Tin Mừng.

Vì Thiên Chúa là Cha yêu thương, nên chúng ta hãy cầu nguyện với Ngài như chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Cầu nguyện là nâng hồn lên cùng Chúa, là gặp gỡ Chúa với bày tỏ thực trạng đời mình, là hồng ân Chúa ban. Chính Chúa gặp gỡ mình hơn là mình gặp gỡ Chúa. Cầu nguyện là một kết ước, là tương giao sống động với Thiên Chúa, là đáp lại tình thương của Chúa, là lắng nghe Chúa nói, là kề sát lòng bên cạnh lòng Chúa, là đi tìm dung nhan Chúa, là yên lặng và vâng phục đức tin, là hợp tác với sự quan phòng của Thiên Chúa, là nói với Chúa bằng lời của Chúa.

Cứ xin thì sẽ được. Cứ tìm thì sẽ thấy. Cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Lời Chúa nói đã trở thành một xác quyết cho chúng ta. Chính vì vậy: Xin thì phải tin. Xin thì phải tin với cả tấm lòng. Xin thì phải phó thác và hy vọng. Bởi lẽ Thiên Chúa là Chúa của tình thương, nên Ngài luôn muốn nhiều điều tốt lành cho con cái mình. Tin tưởng vào Chúa. Hy vọng nơi Ngài, để rồi cũng cầu xin Thiên Chúa cho mỗi người chúng ta biết bày tỏ lòng tin yêu Chúa qua việc cầu nguyện và qua cách phục vụ tha nhân tận tâm tận tình của chúng ta.

Về mục lục

.

LỜI KINH ĐẦY TÂM TÌNH

G. Nguyễn Cao Luật

Không chỉ là một thái độ, nhưng là một tình trạng

Không xác định nơi chốn, thánh Lu-ca mô tả Ðức Giêsu đang cầu nguyện, có các môn đệ vây quanh. Ðâu là lời cầu nguyện đích thực của Vị Thầy? Khác với lời cầu nguyện của nhà khỗ chế Gio-an Tẩy Giả trong sa mạc, vị ngôn sứ rao giảng sự sám hối, lời cầu nguyện của Ðức Giêsu bày tỏ bí mật thâm sâu trong mối tương giao thân mật của Người với Chúa Cha. Ngoài việc tuân thủ nghi thức và thói quen của người Do-thái, Ðức Giêsu cho thấy lời cầu nguyện còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều.

Ðức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha rất lâu giờ và cũng tràn đầy tình yêu mến. Sau cả ngày mệt nhọc với những hành trình rao giảng, chữa bệnh, Ðức Giêsu vẫn thường rút lui vào chốn thinh lặng để cầu nguyện. Dường như Người có thể bỏ việc này việc khác, nhưng không thể bỏ việc cầu nguyện. Ðó là những thời khắc Người tiếp xúc thân mật, tiếp xúc rất riêng tư với Chúa Cha; trong đó Người thông hiệp trọn vẹn với Chúa Cha, đi sâu vào chương trình huyền nhiệm, và gắn bó trọn vẹn với thánh ý của Chúa Cha. Có lần, dân chúng và cả các môn đệ, đi tìm Ðức Giêsu. Các ông gặp thấy Người trong trạng thái đầy vui mừng, hân hoan… Các ông không dám đến gần, không dám lên tiếng… nhưng cuối cùng các ông cũng xin Người chỉ cho cách thức cầu nguyện.

Một tư cách mới, một ý nghĩa mới

Lời cầu nguyện Ðức Giêsu đưa các ông vượt khỏi suy nghĩ bình thường của các ông. Lời cầu nguyện có vẻ như cao ngạo, gây gương mù: Ðức Giêsu truyền cho các ông gọi Thiên Chúa là Cha, Ðấng mà xưa nay họ vẫn hết mực tôn kính, ngay cả việc gọi tên, các ông cũng không dám.

Từ nay trở đi, người nào liên kết với tiếng kêu đầy yêu thương của Ðức Giêsu, hướng về Chúa Cha, người đó đã làm cho Nước Thiên Chúa được thực hiện. Họ cũng làm cho danh Thiên Chúa được hiển thánh khi họ biết trao đổi với Thiên Chúa trong tình yêu, một cuộc trao đổi đưa họ vào chính trung tâm của lòng thương xót được tặng ban cho hết mọi người.

Bài suy niệm này không đề cập đến các lời cầu xin trong lời kinh Ðức Giêsu dạy cho các môn đệ, mặc dù những lời cầu xin ấy có nhiều ý nghĩa. Ðiều muốn nói đến ở đây là một mối tương giao, một tinh thần mới giữa con người và Thiên Chúa. Trong Ðức Giêsu, con người được biết Thiên Chúa là Cha của mình, và họ phải đến với Thiên Chúa trong tâm tình của một người con. Trong Ðức Giêsu, Ðấng nhập thể làm người, nhân loại được gọi Thiên Chúa là Cha, Cha của tất cả mọi người. Ðầy cũng là mặc khải mấu chốt trong sứ điệp của Ðức Giêsu, là chìa khoá cho tất cả cuộc đời và hoạt động của Người. Trong mặc khải này, lề luật của Ít-ra-en được hoàn tất và nảy sinh một giao ước mới: Thiên Chúa trở thành người Cha thân yêu của tất cả mọi người.

Như vậy, so với Cựu Ước, lời kinh của Ðức Giêsu mở ra một viễn tượng lớn lao, hoàn toàn mới mẻ. Thiên Chúa đến với con người không phải để dò xét, để trừng phạt, nhưng là để đem ơn cứu độ, đem ơn tha thứ và tình yêu thương. Ngược lại, con người đến với Thiên Chúa không phải với tâm tình sợ hãi, e dè, cũng không phải là để tìm lợi ích cho riêng cá nhân mình, nhưng là hiện diện trước Thiên Chúa với tâm tình của một người con, sẵn sàng trình bày với người Cha tất cả những gì liên quan đến mình. Và hơn thế nữa, con người hiện diện trước Thiên Chúa để tìm hiểu chương trình của Người, sẵn sàng tuân phục và cộng tác để thánh ý của Thiên Chúa được thể hiện. Sự hiện diện như thế vượt lên trên mọi suy tính cá nhân, ích kỷ, để thở thành một sự hiện diện trong quan điểm của lịch sử cứu độ, trong tương quan mật thiết với Thiên Chúa đang muốn cứu độ tất cả mọi người.

Ngày nay, sau hai mươi thế kỷ, vẫn có những người quan niệm Thiên Chúa theo kiểu Cựu Ước, vẫn có những người tìm đến Thiên Chúa mà chỉ mong tìm lợi cho mình. Lời kinh Lạy Cha vẫn được đọc lên nhưng không thấm sâu, không làm thay đổi cái nhìn của con người về Thiên Chúa. Người ta không cảm thấy vinh hạnh, không cảm thấy sung sướng khi mình được gọi Thiên Chúa là Cha, khi mình là con Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha – loài người là con: đó không phải là kiêu ngạo, nhưng là ý nghĩa đích thực và sâu xa nhất của Ki-tô giáo.

Trong kiên trì và tín thác

Tiếp đó, Ðức Giêsu nói lên điều cốt yếu của việc cầu nguyện. Người nhấn mạnh những đặc tính hết sức quan trọng là kiên trì và tín thác.

Thiên Chúa biết rõ mọi nhu cầu của con người. Không cần họ phải lên tiếng, Thiên Chúa cũng đã thấu suốt mọi điều họ xin. Nhưng tại sao Thiên Chúa lại để cho người ta phải cầu nguyện, phải năn nỉ?

Thật ra, dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay chỉ là một hình ảnh. Việc cầu nguyện liên lỉ nối kết con người với Thiên Chúa cách sâu xa hơn, khiến họ ý thức rõ hơn về sự thiếu thốn, sự bất lực của mình. Khi đó họ sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa và sau khi được Thiên Chúa nhận lời, họ nhận biết Người cách rõ ràng hơn. Bởi đó, việc cầu nguyện liên lỉ, việc chờ đợi không phải là điều đau khỗ, nhưng lại là một hổng ân lớn lao, một sự vươn tới Thiên Chúa cách quyết liệt và cũng là một tâm tình đích thực.

Ngoài ra, Thiên Chúa là Ðấng thông suốt, Người cũng biết con người cần gì. Lòng thương xót của Người thật vô biên, nhưng Người lại muốn con người phải hoàn toàn tín thác, trông cậy nơi Người. Tại sao vậy?

Thiên Chúa không chỉ đáp ứng những nhu cầu vật chất của con người – trong thực tế, lời cầu nguyện của con người thường chỉ có những điều này. Nếu con người hiện diện trước Thiên Chúa một cách đích thực, nếu mối tương giao của họ với Thiên Chúa không phải để tìm lợi ích cá nhân, thì hẳn việc cầu nguyện chân thành sẽ phải là để cho Thiên Chúa hoạt động, là mở lòng đón nhận Thiên Chúa, hơn là buộc Thiên Chúa phải chiều theo những suy nghĩ, những tính toán tầm thường của mình. Nếu Người có làm thinh như không nghe thấy, chính là để con người đạt tới một điều rất cần thiết, một hổng ân lớn lao mà Ðức Giêsu hứa ban, đó là Chúa Thánh Thần. Hổng ân này vượt lên trên cả nhu cầu về bánh ăn cũng như mọi nhu cầu tinh thần khác.

Mở rộng tâm hồn và sẵn sàng

Hãy xin thì sẽ được – không phải lúc nào cũng như thế.

Việc cầu nguyện khởi đi từ những nhu cầu cụ thể, nhưng sẽ hướng tới điều bất ngờ, hướng tới sự vô biên của Thiên Chúa. Theo thánh Augustino, “Việc cầu xin không nhằm thông báo cho Thiên Chúa, nhưng là huấn luyện con người.” Khi cầu xin, chúng ta thú nhận sự bất lực của mình và công nhận Thiên Chúa là Ðấng Toàn Năng, là Ðấng Chí Ái. Một lời cầu xin với Chúa Cha bao hàm hai cuộc hoán cải.

Thứ nhất, với lời cầu xin cho lợi ích của Nước Thiên Chúa, chúng ta thấy rằng không thể xem xét những điều đó theo quan điểm của mình. Vậy, khi cầu xin, tức là để cho thánh ý Thiên Chúa được thể hiện.

Thứ hai, vì ý thức rõ ràng về lời cầu xin của mình với Thiên Chúa, người Ki-tô hữu khám phá ra một khát vọng nền tảng: gặp gỡ Thiên Chúa tình yêu. Lúc ấy, từ những nhu cầu, chúng ta chuyển sang khát vọng, một cuộc chuyển dịch dần dần và đau đớn.

Người cầu xin là người có thái độ của “kẻ đứng trên con tàu, nắm chắc sợi dây cột tàu vào bờ. Họ không kéo tảng đá về phía mình, nhưng mình tiến dần tới tảng đá, họ và con tàu” (Denys l’Arépagite).

Cầu nguyện, đó không phải là áp đặt ý muốn của mình trên Thiên Chúa, nhưng là xin Thiên Chúa cho chúng ta sẵn sàng tuân theo thánh ý, theo kế hoạch cứu độ của Người đối với thế giới.

Cầu nguyện, đó không phải là làm Thiên Chúa thay đổi, nhưng là xin Thiên Chúa thay đổi chúng ta, và biến tâm hổn chúng ta thành tâm hổn của người con.

Nếu chúng ta kiên trì, chúng ta sẽ được, sẽ tìm thấy và cánh cửa sẽ mở ra. Vì thế, chúng ta không được quyền nản chí. Cầu nguyện, trước hết là kiên trì.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN_C

Lm Giuse Đinh tất Quý

Kính thưa anh chị em

Chúng ta vừa được nghe những lời dạy của Chúa Giêsu về sự cầu nguyện. Có rất nhiều đề tài chúng ta có thể khái thác qua bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng ở đây tôi chỉ xin được dừng lại một vài điều tôi muốn chia sẻ với anh chị em.

1. Trước hết khi cầu nguyện Chúa dạy chúng ta phải nói với Thiên Chúa như thế nào?

Chúa bảo phải thưa với Thiên Chúa là Cha.

Thiên Chúa là Cha. Chúa Giêsu muốn chúng ta gọi Thiên Chúa như thế.

+ Thế nhưng có nhiều người đã không có được một quan niệm như thế về Thiên Chúa.

+ Trong một lá thư gửi cho các tín hữu thuộc tổng giáo phận Saint Étiene bên Pháp, các Đức Giam mục trong giáo phận này đã phải phàn nàn là: “Có nhiều người ngày nay đã biến Thiên Chúa thành một nhà phù thủy hay một người giữ kho”

Biến thành phù thủy với hy vọng có thể được thỏa mãn những gì mình mong muốn  nhưng không được thỏa mãn

Biến thành người giữ kho để khai thác kiếm chác.

Nếu quan niệm về một Thiên Chúa như thế thì việc nói chuyện với Ngài sẽ chẳng khác gì một cuộc săn lùng, trả giá hay xin xỏ.

Điều đó chắc chắn không làm Chúa bằng lòng.

+ Trong bài Tin Mừng hôm nay một cách gián tiếp Chúa bảo chúng ta không được coi Thiên Chúa như vậy. Người dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là “Ab-ba! Cha”.

+ Danh từ Abba mà Chúa dùng trong bài Tin Mừng hôm nay cũng có một ý nghĩa rất đặc biệt. Thường thì trong ngôn ngữ thông thường, người ta thường dùng từ Pater, tiếng Latinh – tiếng Père trong Pháp ngữ để xưng với một người có phúc được gọi là Cha. Còn trong bài Tin Mừng hôm nay dùng tiếng Abba – Abba là Cha hay tương tự như Im-ma là Má. Đây là từ ngữ của một đứa trẻ Do thái mới tập nói gọi Cha hay Mẹ của mình.

Trong tiếng Việt chúng ta cũng thấy tương tự như thế. Một đứa trẻ khi mới bắt đầu tập nói muốn gọi tên Cha hay Má của nó thì thường nó phải bụm môi lại rồi mới có thể phát âm tiếng Ba và Má. Ừm-ba, Ừm-má: Ba – Má.

+  Vậy thì khi xử dụng kiểu nói như vậy rõ ràng là Chúa Giêsu cố dạy cho chúng ta biết khi đến với Thiên Chúa chúng ta phải đến với tâm tình nào: Đó là tâm tình của một trẻ thơ.

+ Khi Thánh Phanxicô khó khăn trình lên Đức Thánh Cha Honnriô II bản qui luật của Dòng để xin Ngài phê chuẩn thì Đức Thánh Cha có hỏi thánh nhân:

– Có bao giờ con thấy Chúa chưa?

Phanxicô:

–  Dạ thưa có. Con  vừa thấy đêm hôm qua.

Đức Thánh Cha:

–  Người có nói gì với con không?

Phanxicô:

– Người và con ở bên nhau suốt đêm mà không nói được gì. Tuy nhiên mỗi lần con nói “AB-BA” với Người thì Người lại trả lời với con: “CON TA”. Cứ  thế …chẳng có gì hơn cho tới sáng.

Hãy đến với Thiên Chúa trong tâm tình của một người con và Thiên Chúa là Cha của mình.

2. Thế như thế nào là tâm tình của một người con còn trẻ?

Thánh nữ Têrêxa trả lời thay cho tôi: Đó là luôn tin tưởng vào tình thương và sự tốt lành của Thiên Chúa.

Cũng trong buổi yết kiến Đức Thánh Cha ở trên, sau khi Đức Thánh Cha đã xem lướt qua bản qui luật, Ngài dừng lại hơi lâu một chút ở chỗ nói về sự nghèo khó, Đức Thánh Cha rất lấy làm ngạc nhiên vì những khoản luật ấy khắt khe quá. Ngài thắc mắc hỏi Phanxicô:

– Con ơi! Anh em con sẽ lấy gì mà sống?

Phanxicô trả lời:

– Dòng tu của con là một bà mẹ nghèo nhưng Thiên Chúa là một người Cha giầu có. Sau cuộc sống này Người đã hứa cho chúng con cả Thiên đàng- Vậy lẽ nào Người lại có thể có thể từ chối chúng con, những con người đang ở dưới thế này, những gì nhỏ bé theo nhu cầu của chúng con.

Qua thí dụ hai người bạn trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng muốn nói với chúng ta tương tự như thế. Con người với con người mà còn biết đối xử với nhau như vậy, chẳng lẽ Thiên Chúa là Cha mà lại thua con người hay sao. Chính vì thế mà Chúa bảo: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mới cho” và Chúa còn nhấn mạnh: “Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ thì sẽ mở cho”  (Lc 10,9-10)

Phải biết tin tưởng vào tình thương và sự tốt lành của Thiên Chúa mỗi khi chúng ta đến với Ngài.

3. Đó là nguyên tắc nhưng trong thực tế có nhiều khi chúng ta không thấy hay chưa thấy được tình thương cũng như sự tốt lành của Thiên Chúa.

Có nhiều anh chị em phàn nàn với tôi: “Con xin hoài mà chẳng thấy Chúa cho. Con đi tìm đến mỏi cả mắt mà con cũng chẳng tìm ra; gõ đến mỏi cả tay mà cũng chẳng thấy cửa mở ra đâu”.

Quả thực là nhiều lúc cũng có như vậy thật.

Tại sao thế?

Thay vì đi tìm một câu trả lời ở đâu đâu thì chúng ta hãy bình tĩnh đọc tiếp lời Của Chúa Giêsu: “Ai trong anh em là một người Cha, khi con của mình xin bánh mà lại cho nó đá sao? Khi con mình xin cá..lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó sao? Hoặc nó xin trứng mà lại cho nó con bò cạp sao?”

Chắc chắn những người làm cha sẽ không bao giờ làm như thế. Nếu con người còn biết đối xứ tốt với con cái của mình như thế thì không lẽ Chúa là Cha mà lại đối xử tệ hơn con người sao. Chắc là không thể. Tôi tin như thế.

Trong cuốn sách Giáo Lý Mới tôi đọc thấy những lời rất hay như thế này: “Bạn đừng buồn nếu bạn không được Thiên Chúa ban ngay điều bạn xin, vì Người muốn cho bạn được nhiều lợi ích hơn nữa, nhờ bạn kiên trì kết hợp với Người trong cầu nguyện. Người muốn tôi luyện những ước muốn của chúng ta trong cầu nguyện, để chúng ta có khả năng đón nhận những gì Người sẵn lòng ban” (GLM số 2737).

Thiên Chúa là Cha, Người sẽ làm những gì tốt nhất cho chúng ta. Hãy tin tưởng vào Người.

Trong truyện tích của Thánh Thomas More, một trong những vị thánh rất nổi tiếng về lòng trung thành đối với Chúa, người ta có đọc được một mẩu truyện nhỏ này:

Có một người mù kia là một người rất đạo đức thường khi cầu nguyện người đó luôn kết thúc ý nguyện bằng một câu như thế này: “Nếu điều đó có ích cho phần rỗi của con.”

Một hôm kia người đó được dẫn đến trước mộ thánh Thomas More thành Cantobury. Trước mộ thánh nhân, người mù cầu xin cho mình được nhìn thấy. Lời cầu nguyện của anh được nhậm lời ngay. Anh được sáng mắt, nhìn thấy tất cả. Anh vô cùng sung sướng thế nhưng khi về đến nhà anh sực nhớ ra là mình quên câu kết thúc lời cầu nguyện như anh vẫn luôn làm. Anh cảm thấy hối hận về việc đó. Sau đó anh lại ra trước mộ thánh Thomas More để cầu nguyện lại. Lần này anh cầu xin để anh mù trở lại và không quên kết thúc lời cầu nguyện của mình bằng câu: “Nếu điều đó có ích cho Linh hồn của con”. Vừa kết thúc lời cầu nguyện đó anh bị mù trở lại thật. Mù trở lại nhưng anh lại rất vui. Khác hẳn với trước kia nhiều khi anh buồn anh nản về số phận hẩm hiu của mình. Bây giờ thì khác hẳn, anh sống can đảm, yêu đời, vui tươi vì anh biết rằng Chúa luôn làm  những gì tốt đẹp nhất cho anh.

Về mục lục

.

KINH LẠY CHA

               Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

 Thưa anh chị em,

Khi xuống trần gian, Đức Giêsu không dạy điều gì mà Ngài không làm gương trước cho chúng ta. Cả cuộc đời Đức Giêsu là một chuỗi cầu nguyện liên lỉ không ngừng. Ngài cầu nguyện mọi lúc, mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh.

Nhìn Thầy Giêsu cầu nguyện, các môn đệ cũng muốn học cách cầu nguyện của Thầy: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ của ông”. Và Đức Giêsu chỉ dạy một lời kinh duy nhất, đó là kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện kiểu mẫu, để giúp chúng ta biết cầu nguyện thế nào cho đúng ý Chúa. Bởi vì đến với Chúa, nhiều khi chúng ta cầu xin hơn là cầu nguyện.

Vậy thế nào là cầu nguyện và thế nào là cầu xin? Nếu chúng ta để ý thì trong kinh Lạy Cha có hai phần: phần đầu là cầu nguyện, còn phần hai là cầu xin.

Cầu nguyện là chúng ta dâng lên Chúa những tâm tình thờ lạy, chúc tụng, cảm tạ, ngợi khen. Chúng ta đọc “Lạy Cha, chúng con ở trên trời”, là chúng ta nói lên mối tương quan tình nghĩa Cha con. Chúa là Cha còn chúng ta là con của Ngài. Thế thì, chúng ta có cảm thấy hạnh phúc vì được gọi Chúa là Cha, và chúng ta là con của Ngài không?. Đồng thời, người con hiếu thảo là người con cầu mong cho danh Cha mình được cả sáng, có nghĩa là được mọi người nhận biết Chúa là Cha, và tất cả mọi người đều là anh em với nhau. “Tứ hải giai huynh đệ”.

Thật vậy, Đức Giêsu dạy: Lạy Cha chúng con… Xin Cha cho chúng con… Chứ Chúa không dạy: Lạy Cha của con…Xin Cha cho con… Nghĩa là tất cả mọi người có cùng một Cha. Mọi người đều thuộc về gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi. Là anh em con cùng một Cha, nên phải sống hiệp nhất yêu thương, liên đới với nhau trong đời sống, và liên đới với nhau trong cả lời cầu nguyện. Như trong bài đọc I, tổ phụ Abraham đã nêu gương sống tình liên đới khi tha thiết cầu nguyện cho thành Sôđôma khỏi bị phạt.

Phần thứ hai Chúa dạy chúng ta cầu xin: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Có nghĩa là xin Chúa ban cho lương thực phần hồn, phần xác. Xin Chúa cho mọi người trên trái đất này có công ăn việc làm, nghề nghiệp ổn định. Biết chạnh lòng thương chia cơm xẻ áo cho những người kém may mắn. Chúa không muốn một số người cứ phòng cơ tích trữ, hay sống xa hoa lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, trong khi đồng loại còn thiếu nhà ở, còn phải đói khát ăn xin, nằm đầu đường xó chợ…

Có những người xin Chúa ban lương thực hằng ngày mà cứ mãi mê ăn chơi, hoặc nằm ngửa chờ sung rụng, thì làm sao có lương thực được?.

Rồi có những lời cầu xin hết sức vụ lợi. Chẳng hạn như: xin cho con trúng số; xin cho con mua may bán đắc, bạc cắc không cần nhưng cần đôla. Xin cho con cái này, xin cho con cái nọ, xin vài lần mà không thấy Chúa nhúc nhích, thì đâm ra chán nản thất vọng bỏ Chúa đi coi thầy xem bói.

Cuối cùng, với tâm tình sám hối, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta sẵn sàng tha thứ để được Chúa thứ tha. Và xin ban Thánh Thần xuống để Người cầu nguyện trong chúng ta và giúp chúng ta luôn sống theo lời của Chúa.

Anh chị em thân mến,

Ngoài kinh Lạy Cha, Chúa còn dạy chúng ta cầu nguyện phải kiên trì tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Thiên Chúa là Cha đầy quyền năng sẽ ban cho chúng ta những gì tốt đẹp nhất, và Ngài còn là Người Cha khôn ngoan, biết những gì cần thiết ích lợi cho chúng ta. Người cha ở đời mà còn biết cho con cái mình những cái tốt lành, huống chi là Thiên Chúa. Ngài là người Cha giàu lòng thương xót sẽ rộng ban những điều hữu ích cho chúng ta. Vì Chúa hứa: “Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ thấy; hãy gõ, sẽ mở”.

 Chúa là Cha nhân lành luôn làm điều tốt lành cho con cái. Nhưng điều chúng ta cầu xin phải phù hợp với thánh ý Chúa, vì Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta “bánh” chứ không cho “hòn đá”; muốn ban “cá” chứ không cho “con rắn”, muốn ban “trứng” chứ không cho “bọ cạp”.

 Cử hành Thánh lễ là dịp tốt nhất giúp chúng ta cầu nguyện đẹp lòng Chúa. Vì chúng ta cầu nguyện chung với cả Giáo Hội. Cầu nguyện nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, chính nhờ Người với Người và trong Người.

 Xin cho chúng ta biết cầu nguyện theo tinh thần Chúa dạy, và xin Chúa nhận lời cầu xin của chúng con dâng lên Chúa hôm nay. Amen.

Về mục lục

.

CẦU NGUYỆN CÙNG CHA TRÊN TRỜI

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP

          Chỉ xét trên bình diện con người với nhau, chúng ta thấy các chuyện như thỉnh cầu, thỉnh nguyện, kêu cầu, đơn xin, nguyện vọng… là chuyện thông thường. Đối với Thiên Chúa. Đấng mà từ xưa dân Do thái đã có liên hệ mật thiết với Ngài – Và khi Đức Kitô giáng thế  khởi đầu “dân mới” thì những điều Ngài thực hiện giữa loài người  đã trở nên cụ thể và hiển nhiên với biết bao con người.  Có một lời kinh đã đáp lại lời thỉnh cầu của các tông đồ.

          Theo lời thỉnh cầu của một Tông đồ, Đức Giêsu đãõ dạy các ông một lời kinh tuyệt vời mà ta gọi là kinh Lạy Cha. Đây là một kinh nguyện khuôn mẫu của lời cầu nguyện cùng Cha trên trời. Với lời cầu nguyện này, chắc chắn những ước nguyện của chúng ta  sẽ được Cha trên trời chấp nhận :”Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho”.  Lời thỉnh nguyện của ông Abraham dâng lên Thiên Chúa để xin tha thứ cho dân thành Sôđôma và Gômôra đã chứng tỏ điều đó (bài đọc 1).

          Đức Giêsu, trong bài Tin mừng hôm nay, còn dạy chúng ta phải có thái độ kiên trì trong khi cầu nguyện với dụ ngôn “người bạn bị quấy rầy”. Ngoài ra, Ngài cũng dạy chúng ta phải lấy tình con thảo mà cầu nguyện với Cha trên trời là Người Cha vô cùng nhân ái.  Nếu người cha trần thế chẳng tốt lành gì mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, huống chi Cha trên trời lại không đáp ứng cho con cái Ngài những điều tốt lành sao ? Hơn nữa, Ngài còn ban cho con người một điều vô cùng tốt lành nữa, đó là ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          +  Bài dọïc 1 : St 18,20-32.

          Thiên Chúa cho ông Abraham biết dân thành Sôđôma và Gômôra phạm tội quá nhiều, Ngài định sai lửa trên trời thiêu rụi thành này. Ông Abraham đứng làm trung gian xin Thiên Chúa tha thứ cho dân thành này vì sự hiện diện của một số người công chính. Ông biết Thiên Chúa rất yêu thương : yêu thương chính ông và yêu thương con người.

          Vì thế ông dám “mặc cả”û với Thiên Chúa, từ con số 50 đến con số 10. Mỗi lần mặc cả của ông là mỗi lần tỏ ra  rằng Chúa chỉ muốn cứu vớt hơn là trừng phạt. Qua câu chuyện này chúng ta rút ra được hai điều quan trọng :

a) Lòng thương xót của Chúa vì những người công chính mà sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi.

b) Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho con người, nhất là qua trung gian của các thánh.

          +  Bài đọc 2 : Cl 2,12-14.

          Có những người cứ muốn cho tín hữu Côrintô tuân thủ các lề luật Đạo cũ. Thánh Phaolô nhắc lại cho họ biết rằng phép rửa tội trong Đức Kitô đã làm cho họ phục sinh, làm cho họ khỏi chết vì tội. Như vậy, qua phép Thánh Tẩy một Kitô hữu chết cho các tội lỗi trước đây, và bắt đầu sống một đời sống mới.

          Còn Đức Giêsu, bằng cái chết trên thập giá, đã trở thành vị Trung gian duy nhất đưa lại ơn tha thứ  của Thiên Chúa cho chúng ta.

          +  Bài Tin mừng : Lc 11,1-13.

          Abraham đã tin tưởng chuyển cầu cho người tội lỗi vì ông biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nhưng ông không dám đi xa hơn mức. Còn Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta tình thương vô biên của Thiên Chúa Cha, và khuyến khích chúng ta tuyệt đối tin tưởng vào Cha, với niềm tín thác của một trẻ thơ khi có những nhu cầu về tâm linh cũng như trần thế.

          Kinh Lạy Cha của Luca trong bài Tin mừng hôm nay khác với kinh Lạy Cha của Matthêu (6,9-13) : điều đó cho chúng ta biết khi cầu nguyện, điều quan trọng không phải là hình thức, nhưng quan trọng là nội dung : trước hết, xin cho Nước Cha trị đến, sau đến những nhu cầu của con người; và xin thì sẽ được nhận lời vì Cha trên trời không nỡ từ chối.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. KINH LẠY CHA CỦA CHÚNG TA.

  1. Cơ hội đưa đến Kinh Lạy Cha.

          Các môn đệ ở gần Đức Giêsu, thấy Ngài cầu nguyện nhiều, cầu nguyện lâu giờ, nhất là trước những biến cố trọng đại.  Ngài là bậc Thầy của sự cầu nguyện. Các môn đệ đã được chứng kiến tận mắt những lần Ngài cầu nguyện, không những bằng mắt thấy mà còn bằng tai nghe. Vào thời đó, cầu nguyện, theo tiếng Do thái, có nghĩa là “kêu lên”, và như vậy các môn đệ đã nghe tiếng Đức Giêsu cầu nguyện.

          Cha George viết :”Các môn đệ phải nghe Đức Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho một ý tưởng cầu nguyện riêng. Đức Giêsu đã muốn người ta nghe Ngài cầu nguyện, Ngài muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Ngài”(Cahiers-Évangiles”, số 5, tr 43).

          Thời Đức Giêsu có nhiều nhóm tu đạo khác nhau do hình thức hay kinh kệ của họ, trong trường hợp ở đây, chúng ta có nhóm Gioan Tẩy giả. Cách cầu nguyện riêng của mỗi nhóm diễn tả mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa là mối dây hiệp nhất của nhóm.

          Hôm nay, một môn đệ được ảnh hưởng do việc Đức Giêsu cầu nguyện và vì thấy Gioan Tẩy Giả đã dạy các đệ tử của ông cầu nguyện, nên đã xin Ngài dạy về sự cầu nguyện :”Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”.

  1. Đức Giêsu dạy Kinh Lạy Cha.

a) Hoàn cảnh của kinh Lạy Cha.

          Đức Giêsu đã dạy các môn đệ kinh Lạy Cha, nhưng chúng ta không biết rõ ở nơi nào. Thánh Matthêu đặt kinh Lạy Cha trong bài giảng trên núi. Đây chắc là do sự sắp xếp lại để dạy giáo lý cho Kitô hữu. Thánh Luca nói một cách trống : Ngày kia.

          Thánh Luca đặt kinh Lạy Cha này sau câu chuyện xẩy ra ở Bêtania. Như vậy, ta có thể biết được rằng kinh Lạy Cha này Chúa dạy ở chung quanh Giêrusalem, không xa Bêtania, trong cuộc hành trình lên Giêrusalem lần thứ nhất.

          Kinh Lạy Cha được lưu truyền từ thế kỷ thứ 9 rằng Chúa dạy trên núi Cây Dầu đối diện với Giêrusalem theo như những điều kiện kể trên kia có lẽ đúng.

          So sánh hai kinh Lạy Cha của Matthêu và Luca, ta thấy kinh Lạy Cha của thánh Matthêu dài hơn kinh Lạy Cha của thánh Luca. Trong thánh Luca không có lời nguyện :”Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” và không có lời xin :”Xin cứu chúng con khỏi sự dữ”. Kinh Lạy Cha của thánh Luca tuy ngắn hơn, nhưng cũng đầy đủ ý nghĩa không thiếu gì. “Vâng ý Cha” gồm trong lời nguyện “Nước Cha trị đến”, và “Cứu chúng con cho khỏi sự dữ” gồm trong lời cầu :”Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.

b) Nội dung kinh Lạy Cha.

          Kinh Lạy Cha gồm hai phần với 5 lời xin :

          * Phần I : hướng về Chúa với hai lời cầu :

                   – Xin cho danh Cha cả sáng.

                   – Nước Cha trị đến.

          * Phần II : hướng về lợi ích của chúng ta với 3 lời cầu :

                   – Xin cho chúng con lương thực hằng ngày.

                   – Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.

                   – Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.

          Kinh Lạy Cha là kinh khuôn mẫu Chúa dạy chúng ta hãy dùng mà cầu nguyện. Theo đó, nội dụng sự cầu nguyện có ba phần : Phần thứ nhất là những lời Chúa dạy phải cầu xin mỗi khi cầu nguyện. Phần thứ hai là lời khuyên hãy kiên trì trong khi cầu nguyện. Phần thứ ba là hiệu nghiệm của lời cầu xin đích thực.

II. CẦU NGUYỆN VÀ KINH LẠY CHA.

  1. Cầu nguyện là điều cần thiết.

          *  Cầu nguyện nơi các tôn giáo.

          Mọi tôn  giáo đều có sự cầu nguyện, nhưng hình thức thì khác nhau, rất đa dạng. Mỗi tôn giáo đều có hình thức cầu nguyện đặc biệt, như Gioan Tẩy giả  hình như cũng có cho các người theo ông. Chính vì vậy, các môn đệ của Đức Giêsu cũng muốn cho mình phải có một hình thức cầu nguyện riêng của mình nên mới thưa với Ngài :”Xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”. Đức Giêsu đáp ứng lời cầu xin ấy và ban cho các ông một công thức kiểu mẫu độc nhất vô nhị, rồi khích lệ với lời hứa bảo đảm rằng lời cầu nguyện sẽ được nghe. Bài cầu nguyện được Luca ghi lại có ngắn hơn của Matthêu nhưng cũng chứa đủ những điều cần biết để cầu nguyện thế nào và phải cầu nguyện những gì.

          *  Chúa dạy chúng ta cầu nguyện.

          Trong sách Tin mừng, rất nhiều lần Đức Giêsu đã truyền cho chúng ta phải cầu nguyện và cầu nguyện liên, ví dụ :”Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”. Trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài cũng khuyên bảo chúng ta hãy cầu nguyện và cầu xin cùng Cha trên trời :”Hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì cửa sẽ mở ra cho”(Lc 11,10).

          Ngày xưa, có người đặt vấn đề với thánh Augustinô:”Nếu Thiên Chúa biết những nhu cầu của chúng ta trước cả khi chúng ta xin, thì tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện” ? Ngài đã trả lời :”Bởi vì Đức  Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện”. Có lẽ không có câu trả lời nào hay hơn câu trả lời này.

          * Một vấn nạn cho việc cầu nguyện.

          Ngày nay, có một sự phục hồi việc cầu nguyện ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, phần lớn con người thời này, nam cũng như nữ đều có khó khăn khi cầu nguyện. Vô số những lời phê phán của tâm thức hiện tại ảnh hưởng đến tất cả chúng ta một cách vô thứùc : cầu nguyện là đào nhiệm :  đừng xin Chúa làm thay cho bạn, bạn hãy xắn tay áo mình lên… cầu nguyện là một hành động ma thuật của những người sơ khai không biết những qui luật chính xác của tự nhiên… cầu nguyện là một sự tha hoá; bạn hãy đảm nhận tầm vóc của con người… không Chúa, không Thầy… bạn hãy gạt bỏ những điều mê tín tối tăm (Noel Quesson). Chúng ta nghĩ thế nào ?

          Ông Blaise Pascal, nhà toán học nổi tiếng vào thế kỷ 17 đã nói về vấn đề ấy :”Cầu nguyện là một trong những phương cách Chúa chọn để chia sẻ quyền năng vô biên của Ngài với chúng ta. Giống như ơn hiểu biết của Chúa đã ban quyền năng cho mỗi người chúng ta thế nào thì lời cầu nguyện cũng ban quyền năng cho mỗi người chúng ta như thế. Nói cách khác, Chúa đã sắp xếp vũ trụ theo một cách thức mà chúng ta có thể gây được ảnh hưởng trên vũ trụ  không phải chỉ bằng việc sử dụng trí thông minh của mình mà còn bằng việc sử dụng  cả sức mạnh do lời cầu nguyện của mình nữa.

          Không phải ai cũng có thể gây ảnh hưởng đến đời sống con người bằng quyền năng của trí thông minh mình, nhưng trái lại dù ngu dốt mấy đi nữa, ai cũng có thể ảnh hưởng đến đời sống con người bằng sức mạnh của lời cầu nguyện, sức mạnh do chính Chúa chia sẻ cho chúng ta.

          Chúa đã tạo dựng chúng ta  không phải để chúng ta làm khán giả đứng ngắm nhìn quyền năng tạo dựng của Ngài, mà trái lại Ngài cho chúng ta thông phần vào quyền năng tạo dựng ấy. Đây chính là một phần ý nghĩa của câu “Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa”.

  1. Hiệu lực của việc cầu nguyện.

        Trong bài đọc thứ nhất (St 18,20-32) chúng ta nghe một câu chuyện thật hấp dẫn về sự tin tưởng của Abraham vào lòng tốt lành và nhân từ của Thiên Chúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không dung tha hình phạt cho hai thành Sôđôma và Gomôra  nếu có 50 người công chính trong thành sao ?  Thiên Chúa trả lời :”Tha chứ” ! Nếu chỉ có 45 thì sao ? Hay 30 ? hay 10 thì sao ? Thiên Chúa cũng vẫn đồng ý tha thứ. Thật đáng tiếc, vì 10 người vô tội thôi vẫn không thể tìm thấy, mà chỉ có 4 người là ông Lót, vợ ông, và hai người con gái. Thiên Chúa đã giữ lời hứa với Abraham vì ông tin tưởng nơi Ngài mà cứu 4 người khỏi bị tiêu diệt. Nếu chúng ta đặït tất cả sự tin tưởng ở Thiên Chúa, lòng bao dung của Ngài sẽ ban cho chúng ta rộng rãi hơn là điều chúng ta nghĩ tưởng.

          Xưa kia thánh Gioan Vianney đã nói :”Tôi biết có một quyền lực nào đó còn mạnh hơn cả Thiên Chúa; một người cầu nguyện làm cho Thiên Chúa phải nói “Yes”, khi Ngài đã nói “No”.

          Và thánh Gioan Chrysostômô đã nói về sức mạnh của sự cầu nguyện bằng những từ này :”Thiên Chúa điều khiển thế giới, nhưng cầu nguyện điều khiển Thiên Chúa”.

  1. Cầu nguyện và khoa học.

          Sự cầu nguyện cũng có ảnh hưởng tới khoa học. Sức mạnh của lời cầu nguyện cũng đang được khoa học hiện đại kiểm nghiệm qua những hiệu quả lạ lùng. Bác sĩ Alexis Carrel (18173-1944), người đoạt giải Nobel về y khoa năm 1912 đã viết trong cuốn sách nhan đề “Man, the Unknown” như sau :

          “Cầu nguyện là hình thức mạnh mẽ nhất của nghị lực  mà chúng ta có thể phát sinh ra được. Ảnh hưởng của sự cầu nguyện trên thân thể và tâm trí giống như những tuyến hạch nằm kín đáo trong cơ thể tạo nên sức mạnh đề kháng. Chỉ trong sự cầu nguyện, chúng ta có được sự hiệp nhất thật hoàn hảo và nhịp nhàng giữa thân xác, tâm trí và tinh thần. Nó làm cho thân phận cỏ cây yếu đuối của con người trở thành một sức mạnh không thể lay chuyển được”.

          Vào tháng 5 năm 1998, tại Houston, Texas, một cuộc hội thảo lớn về Y học và Đức tin với sự tham dự của hơn 700 bác sĩ, điều dưỡng, dược sĩ, nha sĩ. Những báo cáo cho thấy là những người có Đức tin và được cầu nguyện cho thì mau lành bệnh gấp 12 lần những người không có Đức Tin sau khi được giải phẫu tim.  Một cuộc khảo cứu kéo dài 28 năm trên một số người lớn tuổi cho thấy là  những người chăm đi lễ nhà thờ để cầu nguyện thì  ít bệnh tật từ 25% đến 35% so với những người không có tôn giáo. Những người đi lễ nhà thờ thường xuyên có một hệ thống miễn dịch, dễ đề kháng bệnh tật mạnh hơn mức bình thường.

                   (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 261)

III. THÁI ĐỘ KHI CẦU NGUYỆN.

  1. Phải kiên trì.

          Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta : khi cầu nguyện phải biết kiên trì, và để minh hoạ cho thái độ đó, Ngài đưa ra một dụ ngôn về “Người bạn bị quấy rầy”. Nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn mình, ngay “lúc giữa đêm”, và không ngại nằn nì đến độ sỗ sàng, để giúp đỡ, người bạn khác ở xa mới đến.

          Việc chủ nhà cuối cùng đã cho anh bạn vay bánh có thể vì một trong hai lý do : cho để khỏi bị quấy rầy nữa, hoặc là vì tình bạn… Sau khi kể dụ ngôn, Đức Giêsu lý luận theo kiểu  a fortiori (huống chi) : người đời dù quen hành động theo lý do ích kỷ (để khỏi bị quấy rầy) thế mà cũng phải chịu thua thái độ kiên trì của người xin. Huống chi Thiên Chúa vốn tốt lành  quen đối xử với chúng ta theo tình thương. Bởi thế, nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.

          Có người thắc mắc hỏi :”Thiên Chúa đã biết tất cả mọi sự ngay trước khi chúng ta cầu xin, tại sao Đức Giêsu còn nhắc bảo chúng ta :”Hãy xin, hãy tìm, hãy gõ” ? Ba động từ như ba lệnh truyền lặp đi lặp lại. Đành rằng Chúa thông biết mọi sự, cần gì phải xin, phải tìm, phải gõ ? Thánh Augustinô giải thích “Hãy xin, Ngài sẽ cho. Những điều Ngài cho, Ngài chưa cho ngay để càng làm tăng thêm ước muốn của chúng ta và làm tăng giá trị  cho của Ngài ban cho”.

          Tiếp theo lời giải thích của thánh Augustinô, chúng ta có thể lý luận thêm :

          Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Ngài sẽ ban. Nếu chúng ta chưa nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Ngài muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy lòng nhân ái (Carôlô).

          Một hôm thánh Phanxicô Salêsiô nói :”Nếu một em bé thấy con chó dữ đàng xa, hung hăng nhào tới em thì em bé sẽ làm gì? Chạy trốn ư ? Không thể được vì em chưa đủ sức. Vậy em phải làm sao ? Chỉ còn một cách là  em la lên thật to cầøu cứu cha mẹ. Và cha mẹ em sẽ chạy đến để bênh vực em và cứu sống em”.

          Em bé đó chính là hình ảnh mỗi người chúng ta với sức riêng yếu đuối không thể tự mình bước tới được một bước trên con đường cứu rỗi. Và con chó đó chính là ba địch thù lợi hại của con người : ma quỉ, thế gian và xác thịt. Phải làm gì đây ? Phải kêu cứu, phải cầu nguyện với Chúa, nếu không, đời ta sẽ gặp nguy khốn.

       Phải cầu nguyện, nhưng phải cầu nguyện thế nào để đạt hiệu quả tối ưu ? Ta hãy nghe thánh Phanxicô Salêsiô trả lời tiếp :”Con ruồi đậu trên đoá hoa này liền vội vãø bay sang đoá hoa khác, luôn hay thay đổi, còn con ong mật thì lặng lẽ hoạt động, dừng lâu, hút cạn nhụy hoa rồi đem về tổ làm thành mật ngon ngọt. Không nên có thứ Kitô hữu-ruồi, mà phải là Kitô hữu-ong mật, nghĩa là phải kiên trì cầu nguyện”.

  1. Cầu nguyện trong tình nghĩa cha con

        Dân Do thái đã gọi Thiên Chúa là “Cha” như nhiều tôn giáo khác (Osée 11,3; Giêrêmia 3,19; Isaia 63,16 ; Khôn ngoan 5,5vv..)

          Tuy nhiên Đức Giêsu đã đổi mới từ này, khi Ngài dám thưa cùng Thiên Chúa :”Abba, Cha ơi”… từ ngữ chỉ sự thân mật mà trước Ngài ít khi người ta dùng đến. Chính khi các môn đệ nhận thức được kinh nghiệm độc nhất của Đức Giêsu, họ mới khẳng định  Ngài là “Con Thiên Chúa” trong một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Khi chúng ta lặp lại lời “cầu nguyện của Đức Giêsu”, đến lượt mình, chúng ta dám nghĩ rằng “Chúa Cha yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Ngài yêu mến Con Một của Ngài” (Quesson).

          Cha Jean-Luc Vesco nói thêm :”Lời cầu nguyện Kitô giáo, giúp môn đệ Đức Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha.Trong lời cầu nguyện của người con thảo,  người Kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô:”Lạy Cha” (Ga 4,6; Rm 8,15). Tiếng kêu Cha đó có tính cách riêng biệt, cá nhân. Nó diễn tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con  có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ  nối kết tất cả các Kitô hữu với Thiên Chúa”(Jérusalem et son prophète, Cerf, tr 72).

          Trong khi cầu nguyện, chúng ta hãy mang lấy tâm tình của Đức Giêsu đối với Cha Ngài, chúng ta hãy lấy tư cách của người con nói chuyện với cha. Cha trên trời luôn luôn là người Cha thương yêu của chúng ta, Ngài thích chúng ta nói chuyện với Ngài trong tư cách của một người con.  Ngài sẽ lấy làm vinh dự  khi chúng ta kêu Ngài bằng “Abba, Cha ơi”.

          Tướng Marc Arthur nói lên tâm sự của ông là một người cha :”Tôi là một chiến binh chuyên nghiệp. Và tôi rất hãnh diện về điều ấy, nhưng tôi còn vô cùng hãnh diện hơn vì được làm một ông bố. Tôi hy vọng rằng một mai khi tôi qua đời, đứa con trai của tôi sẽ không nhớ đến tôi như một chiến binh lúc nào cũng ở trận địa, mà là một ông bố hiện diện trong gia đình đang cùng nó đọc kinh nguyện đơn sơ hằng ngày : Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng…. Xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.

          Hôm nay Chúa dạy chúng ta hãy cầu nguyện trong kiên trì và trong tinh thần con thảo. Cầu nguyện ! Đó là một từ ngữ của đức tin. Một Kitô hữu mà không cầu nguyện thì còn nghĩa gì nữa .Thế nhưng, phải nhận là điều đó không dễ dàng, cầu nguyện cũng là một thử thách.

         Ngày nay có người cho việc cầu nguyện là đào nhiệm; đừng xin Chúa làm thay, hẵy xắn tay áo lên. Cầu nguyện là một ma thuật của những người sơ khai không biết những qui luật chính xác của tự nhiên… Cầu nguyện là một sự tha hoá; hãy đảm nhận tầm vóc của con người… không Chúa, không Thầy… hãy gạt bỏ những điều mê tín.

          Trái ngược với khẳng định của một số người, bác sĩ Alexis Carrel, trong cuốn sách nhan đề“Man, The Unknown” đã không tiếc lới ca tụng giá trị và sự cần thiết của việc cầu nguyện. Ông nói :”Cầu nguyện là một hành vi sáng suốt của con người”. Theo bác sĩ, cầu nguyện đúng nghĩa là thực thi cái chức năng “con người thụ tạo” con người của ta với Đấng Sáng Tạo Tối cao, tức là Thiên Chúa.

Truyện : Một đứa bé cầu nguyện.

          Một đứa bé nọ có thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày kia bị bệnh nặng phải vào nhà thương. Các bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật. Trước khi cho thuốc mê, các bác sĩ cho em biết em sẽ ngủ một giấc dài. Nghe đến ngủ, em bé đã xin quỳ gối cầu nguyện và kết thúc bằng lời “Xin Chúa cho con chóng lành bệnh”. Sau đó em nằm xuống và xin bác sĩ tiến hành giải phẫu.  Hôm sau thức dậy câu hỏi đầu tiên của em là “Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không” ?  Bác sĩ nhìn em bé cảm động nói :”Cháu hãy để cho Chúa liệu… Điều bác tin chắc là lời cầu nguyện của cháu có hiệu nghiệm : cháu đã cứu được một người là chính bác. Từ lâu bác không còn đến nhà thờ, không nhớ đến Chúa. Nhưng hôm qua khi cháu cầu nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động bác. Sáng nay bác đã đến nhà thờ xưng tội, rước lễ” (Mỗi ngày một tin vui”.

Về mục lục

.

TÂM NGUYỆN LUYỆN TÂM LINH

Trầm Thiên Thu

Đấng đáng kính GM Aloysius Schwartz (1930-1992, Hoa Kỳ) khuyên: “Khi cầu nguyện, hãy cầu xin hai điều: xin soi sáng để nhận biết ý Chúa, và xin can đảm để làm theo ý Chúa”. Thế thôi, không cần lải nhải lắm lời, nhiều chuyện, bởi vì Thiên Chúa thấu suốt mọi sự nên Ngài biết hết rồi!

Cuộc sống rất cần cầu nguyện, người nào cũng cần – kể cả người vô thần, dù chỉ là “tĩnh lặng” trong “khoảng sa mạc” của tâm hồn. Cầu nguyện là hướng tâm hồn lên Chúa, tâm sự thân mật với Ngài về mọi sự, cả điều to lẫn điều nhỏ, cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Cầu nguyện làm cho con người hèn mọn trở nên vĩ đại, vì được trực tiếp nói chuyện với Thiên Chúa. Nhưng cần lưu ý “phong cách cầu nguyện”, điển hình là hai động thái của hai người cùng cầu nguyện tại Đền Thờ: Người Pharisêu và người thu thuế (x. Lc 18:9-14). Người Pharisêu ỷ mình được “biệt phái” nên khinh người khác, đó là “phạm tội ngay trong lúc cầu nguyện”. Thật đáng sợ!

Chắc chắn rằng cầu nguyện là thời gian tốt lành, thế nhưng đôi khi người ta lại kỷ hoặc bất nhân trong “giờ vàng” đó. Thật vậy, người ta ích kỷ vì chỉ cầu cho mình chứ không cầu cho người khác, và rồi còn có thể bất nhân – bởi vì lải nhải với Chúa về tội người khác để tự biện minh cho mình là chân chính. Tinh vi lắm!

Con người có xu hướng trọng hình thức, ưa bề ngoài – tức là dạng giả hình. Giả hình là giả dối. Thánh Gioan tông đồ cảnh báo: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính. Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1 Ga 1:8-10). Giả dối với người khác là mù quáng, giả dối với chính mình là tự lừa mình, rõ ràng là ngu xuẩn.

Thực sự rất quan trọng về “thái độ cầu nguyện”, bởi vì hiệu quả hay không hoàn toàn tùy thuộc phong cách cầu nguyện của mỗi người. Con người đầy tham-sân-si, thế nên phải vượt lên chính mình. Vì tà tâm nên khi thấy kẻ ác lộng hành, có người đã từng nói: “Sao Chúa không cho nó chết đi, phạt nhãn tiền cho cuộc sống bình yên”. Ý tốt đó có thực sự tốt chưa, hay chính là sự bất nhân? Thử hỏi: “Nếu Chúa áp dụng thẳng thắn nghiêm luật thì chúng ta còn sống tới hôm nay?”. Giữa sự thiện và sự ác chỉ có một khe nhỏ bé lắm. Tưởng như vậy mà không như vậy, tưởng không như thế mà lại như thế!

Càng ưa bề ngoài thì càng dễ giả hình, càng giả hình thì càng mù quáng. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã phải nói thẳng với nhóm người Biệt Phái: “Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này:Ta muốn LÒNG NHÂN chứ đâu cần LỄ TẾ, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội” (Mt 12:8). Con người rất dễ ảo tưởng, thế nên ngay khi chính mình là “Pharisêu chính hiệu” (được biệt phái, được đặc cách, được may mắn,…) mà cứ tưởng mình đang hành động vì Chúa. Sự mù quáng đáng cảnh giác, vì Kinh Thánh nói rõ: “Kẻ thiếu lương tri mới khinh khi người khác, người giàu hiểu biết thì ngậm miệng làm thinh” (Cn 11:12).

Thiên Chúa chí thánh, cực lành, Ngài không thể chấp nhận vết hoen ố nào, và Ngài đã quyết định: “Tiếng kêu trách Xơđôm và Gômôra thật quá lớn! Tội lỗi của chúng quá nặng nề! Ta phải xuống xem thật sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết” (St 18:20-21). Đó là cách thể hiện sự công minh và chính trực của Thiên Chúa – Thẩm Phán tối cao và duy nhất. Ông Bao Công đã khiến người ta tâm phục khẩu phục về cách xử án công minh chính trực, không thiên vị bất cứ ai. Nhưng như thế cũng chẳng là gì đối với Thiên Chúa, Ngài còn vượt trội hơn hẳn, còn nghiêm minh hơn Bao Công nhiều.

Kinh Thánh cho biết: Khi hai người kia bỏ nơi đó mà đi về phía Xơđôm, Đức Chúa còn đứng lại với ông Ápraham. Ông lại gần và “đặt vấn đề” với Chúa: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao? Ngài làm như vậy, chắc không được đâu! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao?” (St 18:23-25). Tổ phụ Ápraham cầu nguyện mà như “mặc cả” với Chúa, nhưng ông không mặc cả để tự biện hộ mà ông mặc cả vì công ích, vì lợi ích của người khác. Đó là sự mặc cả được Thiên Chúa cho phép. Và rồi Đức Chúa đáp: “Nếu Ta tìm được trong thành Xơđôm năm mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó” (St 18:26). Ôi, Thiên Chúa vô cùng nhân từ và dạt dào thương xót!

Thế thì tốt quá. Nhưng ông Ápraham chưa an tâm, vẫn áy náy, ông lại nói: “Mặc dầu con chỉ là thân tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với Chúa: Giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất năm, vì năm người đó, Ngài sẽ phá huỷ cả thành sao?” (St 18:27-28a). Ôi, giả thuyết của ông rất độc đáo. Và Chúa lại thản nhiên đáp: “Không! Ta sẽ không phá huỷ, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người” (St 18:28b). Thật tuyệt vời biết bao! Nhưng rồi ông vẫn chưa an tâm, ông lại mạnh dạn thưa thêm lần nữa: “Giả như trong thành tìm được bốn mươi người thì sao?”. Thiên Chúa vẫn không nổi nóng, mà lại cười hiền và đáp: “Vì bốn mươi người đó, Ta sẽ không làm” (St 18:29). Ôi chao, Chúa thật là hiền, hiền ơi là hiền, nhân hậu quá chừng luôn!

Thấy Chúa nhân từ quá nên ông Ápraham có vẻ hơi ngại, dù ông có ý “làm tới”, và rồi ông khép nép thưa: “Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp: Giả như ở đó có ba mươi người thì sao?” (St 18:30a). Chúa vẫn thản nhiên, bình tĩnh và xác định: “Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không làm” (St 18:30b). Ông vẫn cố mặc cả, ông giả định còn hai mươi người, rồi chỉ còn mười người, nhưng Chúa vẫn nói: “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá huỷ Xơđôm” (St 18:32b). Ông Ápraham không dám mặc cả gì thêm nữa. Thiên Chúa biến đi, còn ông trở về nhà.

Quả thật, chẳng ai có thể nhân từ và “mát tính” như Chúa, người ta có tốt chăng thì cũng chỉ “quá tam ba bận”. Thiên Chúa là tình yêu nên Ngài yêu điên cuồng đến nỗi chết vì chính những người xúc phạm và giết chết Ngài, con người có tốt thì cũng chỉ dám chết cho người mình yêu mà thôi. Vì thế, chúng ta chỉ còn biết ngước nhìn Ngài, rồi dang tay lên và thân thưa: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự” (Tv 138:1-2). Lòng Chúa Thương Xót vượt lên khỏi trí tuệ của phàm nhân chúng ta, đúng như Thánh Vịnh gia đã cảm nghiệm: “Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn” (Tv 138:3). Thật vậy, nếu Ngài không kịp thời cứu chữa thì chúng ta không còn hiện hữu tới hôm nay.

Là tình yêu và giàu lòng thương xót, Thiên Chúa cũng cho phép chúng ta mặc cả vì tình yêu, vì sám hối, và dù “Chúa thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; còn ai ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết” (Tv 138:6). Đừng ảo tưởng mà đối nghịch với Ngài. Thánh Vịnh gia đã bày tỏ thay cho chúng ta: “Cho dù con gặp bước ngặt nghèo, Chúa vẫn bảo toàn mạng sống con. Địch thù đang hằm hằm giận dữ, Ngài ra tay chận đứng, lấy tay uy quyền giải thoát con” (Tv 138:7). Do đó, chúng ta phải tự hứa với Ngài và xưng tụng: “Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang” (Tv 138:8).

Có thể nói rằng cuộc đời con người có hai cột mốc, như sợi dây có hai đầu: Khởi sự và kết thúc – khi sinh và lúc chết. Thiên Chúa là Nguồn Sống, là Alpha và Omega, là Đầu và là Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 1:17; 2:8; 22:13). Thánh Phaolô giải thích: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. Trước kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã, và vì thân xác anh em không được cắt bì, nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Kitô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta” (Cl 2:12-13).

Không phàm nhân nào tinh tuyền, nghĩa là ai cũng sai lầm, ngay cả người tốt cũng sai lỗi mỗi ngày bảy lần (x. Cn 24:16), vì đã mang tội ngay khi hình thành trong bụng mẹ (x. Tv 51:7). Thế nhưng Thiên Chúa vẫn đại lượng tha thứ, nếu tội nhân biết sám hối chân thành. Điều rất quan trọng là đừng mất niềm tin vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, dù chúng ta có tội lỗi lút cổ ngập đầu: “Dù tội đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Mỗi khi chúng ta sám hối là chúng ta lại “mặc cả” với Chúa, nhưng Ngài cho phép vì lợi ích của chúng ta. Quả thật, chúng ta không thể nào hiểu thấu!

Thánh Phaolô cho biết: “Người đã xoá sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã huỷ bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá” (Cl 2:14). Và Thánh Phêrô nói: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1 Pr 2:24). Còn Thánh Mark khổ tu khuyên: “Ai đã phạm tội thì đừng bao giờ thất vọng. Chúng ta không bị đoán phạt vì số lượng tội lỗi đã phạm, nhưng vì chúng ta không muốn sám hối và không nhận biết các phép lạ của Chúa Kitô”.

Thánh Gioan Eudes (1601–1680) phân tích: “Không khí chúng ta thở, cơm bánh chúng ta ăn, trái tim đập trong lồng ngực chúng ta cũng không cần thiết để giúp chúng ta có thể sống đúng là một con người cho bằng lời cầu nguyện, vì cầu nguyện giúp chúng ta có thể sống đúng là một tín hữu”. Còn nhà vật lý André-Marie Ampère (1775–1836, Pháp) nói: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện”. Rõ ràng và chắc chắn rằng cầu nguyện là việc làm quan trọng, nhưng phong cách cầu nguyện còn quan trọng hơn nhiều.

Một lần nọ, Chúa Giêsu vừa cầu nguyện xong thì có một người trong nhóm môn đệ nói: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông” (Lc 11:1). Đây cũng là điều cần thiết mà chúng ta phải biết xin Chúa mỗi khi chúng ta cầu nguyện – dù chung hay riêng. Cầu nguyện là hơi thở của tín nhân, không cầu nguyện là “chết tâm linh” mặc dù thân xác còn sống.

Nghe các trò hỏi, Sư Phụ Chúa Giêsu ân cần hướng dẫn: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11:2-4). Đó là Đệ Nhất Kinh. Mỗi ngày chúng ta đọc Kinh Lạy Cha nhiều lần, nhưng có thể quen quá hóa thường, đôi khi không khác kiểu đọc vẹt. Nếu xét sâu và sát theo lời kinh thì thấy mình còn thiếu sót nhiều lắm. Đọc là một chuyện, hiểu đúng và thực hành là chuyện khác.

Sau đó Ngài còn nói với các ông một chuyện rất đời thường: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: ‘Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’; mà người kia từ trong nhà lại đáp: ‘Xin anh đừng quấy rầy tôi, cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được?’. Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó” (Lc 11:5-8). Ví dụ rất cụ thể, rạch ròi, dễ hiểu. Nhưng Ngài muốn dạy chúng ta phải biết kiên trì chứ đừng lải nhải (Mt 6:7). Chúa Giêsu rất trầm tính, không thích những người nói nhiều, lắm chuyện, lẻo mép!

Đọc kinh là cầu nguyện, nhưng cầu nguyện không hẳn là cứ phải đọc kinh. Cầu nguyện không là trình bày cho xong lần, cũng không là “ra lệnh” cho Chúa, mà phải cầu nguyện bằng cả niềm tin tưởng và phó thác. Ngài trọng chữ tín, không bao giờ sai lời hứa: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11:9-10). Xin chưa được, tìm chưa thấy, gõ chưa mở, đó là do lỗi của chúng ta, vì có thể lời cầu xin của chúng ta còn ích kỷ hoặc thực dụng.

Thật vậy, Thánh Gioan Eudes cho biết: “Có những ân sủng của Thiên Chúa toàn năng KHÔNG ĐƯỢC BAN khi anh em ngỏ lời xin lần thứ nhất, lần thứ hai, hoặc lần thứ ba, bởi vì Người muốn anh em PHẢI CẦU NGUYỆN trong một thời gian lâu dài và thường xuyên. Người muốn trì hoãn để giữ anh em trong tình trạng KHIÊM CUNG và TỰ HẠ, đồng thời làm cho anh em NHẬN THỨC được giá trị những ân sủng của Người”. Ý Chúa mầu nhiệm, không thể hiểu, nhưng người ta lại chỉ muốn xin “như ý” của mình mà thôi.

Về việc cầu nguyện, chính Chúa Giêsu cũng đã phân tích rất cụ thể rằng không cha mẹ nào lại lấy rắn cho con khi nó xin cá, hoặc lấy bò cạp cho con khi nó xin trứng. Rồi Ngài kết luận: “Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11:13). Một câu nghi vấn để nhấn mạnh điều xác định. Thiên Chúa tốt lành nên Ngài chỉ làm điều ích lợi cho chúng ta, Ngài không thể muốn điều xấu cho ai hoặc cám dỗ ai.

Người ta nói: “Vô tri bất mộ”. Yêu thì phải biết – biết rõ chứ không mơ hồ, không biết thì không thể yêu. Biết rõ rồi cảm thấy yêu mến, yêu mến nên mới tin tưởng, tin tưởng nên muốn cầu nguyện. Cầu nguyện không chỉ là lẽ sống mà còn thể hiện Đức Tin và Đức Mến (bao hàm cả Đức Cậy). Thánh Gioan Tông Đồ lý luận: “Nếu ai nói ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Rất lô-gích và chí lý!

Lạy Thiên Chúa, xin ban Thần Khí đốt Lửa Mến trong lòng chúng con, để chúng con nói với Ngài và nói về Ngài, đồng thời càng ngày càng hoàn thiện mà nên giống Ngài hơn. Xin cho mọi người sống đúng bổn phận và trách nhiệm của mình để vinh danh Ngài và sinh ích lợi cho tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-

CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN_C

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Chủ đề của Chúa Nhật hôm nay là nhu cầu thiết yếu của cầu nguyện. Bài Đọc I và Tin Mừng nêu bật sự kiện Thiên Chúa vui thích lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta, sự kiện này được mặc khải cả trong Cựu Ước lần trong Tân Ước.

St 18: 20-32

Sách Sáng Thế thuật lại lời cầu bầu thật cảm động của tổ phụ Áp-ra-ham cho dân thành Xơ-đôm tội lỗi. Thiên Chúa lắng nghe lời khẩn nguyện của người công chính.

Cl 2: 12-14

Đoạn trích Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô đề cập đến thành quả của Phép Rửa là đem lại cho chúng ta ơn tha thứ tội lỗi và sự sống đời đời, vì bí tích này được tháp nhập vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su Ki-tô.

Lc 11: 1-13

Tin Mừng Lu-ca thuật lại giáo huấn của Chúa Giê-su về cầu nguyện: cầu nguyện chính là thân thưa với Thiên Chúa là Cha. Đừng ngại quấy rầy Thiên Chúa, vì Người là Cha đầy lòng yêu thương và chúng ta là con cái của Người.

BÀI ĐỌC I (St 18: 20-32)

Chuyện tích Kinh Thánh nổi tiếng này tiếp nối chuyện tích Kinh Thánh tuần trước thuật lại việc ba nhân vật mầu nhiệm viếng thăm ông Áp-ra-ham dưới cụm sồi Mam-rê, không xa thành Khép-rôn.

  1. Bối cảnh

Bản văn ở đây nói rõ cho chúng ta biết rằng một trong ba vị khách là chính Đức Chúa. Đức Chúa đã thân hành đến trần gian không chỉ để báo tin vui cho ông Áp-ra-ham biết rằng vào độ này sang năm bà Xa-ra sẽ sinh hạ một quý tử cho ông, nhưng còn có một mục đích khác nữa là trừng phạt hai thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra tội lỗi. Tuy nhiên, hai thành này ở cách xa cụm sồi Mam-rê, vì thế Đức Chúa sai hai người bạn đồng hành của Ngài đến hai thành đó trong khi Ngài còn đứng nán lại chuyện trò với ông Áp-ra-ham.

Tuy nhiên, Đức Chúa xem ra chưa quyết định dứt khoát: “Ta phải xuống xem thực sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết”, vì thế vẫn còn dành chỗ cho lời cầu bầu của ông Áp-ra-ham. Ông Áp-ra-ham là một con người quảng đại, thường hằng quan tâm đến những người khác. Ông đã cảm nghiệm tấm lòng từ bi nhân hậu của Đức Chúa. Ông cũng biết rằng ơn gọi của ông có tầm mức phổ quát: “Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (12: 3). Vì thế, ông thu hết cam đảm cầu bầu cho hai thành ngoại quốc đó.

  1. Vai trò cầu bầu của người công chính

Tiến trình mặc cả của ông Áp-ra-ham với Đức Chúa mang tính chất rất Đông Phương, nhưng nó dâng hiến một chiều kích tinh thần với một cung giọng đặc biệt, nhất là nếu chúng ta nghĩ đến niên biểu rất cổ xưa của chuyện tích này (có thể vào thế kỷ thứ mười trước Công Nguyên, vào triều đại vua Sa-lô-môn). Chuyện tích này âm vang lời phản kháng đầu tiên chống lại khái niệm trừng phạt tập thể, khái niệm này dần dần nhường chỗ cho lời khẳng định về trách nhiệm cá nhân vào những thế kỷ sau này: “Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử tử về tội của mình” (Đnl 24: 16).

Ngoài ra, lời cầu bầu trên môi miệng của ông Áp-ra-ham khơi nguồn cảm hứng cho các ngôn sứ. Ông Áp-ra-ham không dám mặc cả với Đức Chúa xuống dưới con số mười người công chính: “Xin Chúa Thượng đừng giận, cho con nói một lần nữa thôi: giả như tìm được mười người thì sao?”. Rồi sẽ đến một ngày, viễn cảnh của ơn cứu độ được dự kiến đạt được nhờ chỉ một người công chính duy nhất, như ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo: “Hãy rảo quanh đường phố Giê-ru-sa-lem mà xem cho biết. Trên các quảng trường thành phố ấy, hãy tìm xem có gặp được một người, một người biết thi hành luật pháp, biết sống cho chân thật, Ta sẽ dung tha cả thành” (Gr 5: 1). Và chẳng bao lâu sau, một vị ngôn sứ khác, I-sai-a đệ nhị, sẽ mô tả dung mạo Người Tôi Trung, nhờ nỗi thống khổ của chính bản thân mình “sẽ làm cho muôn người nên công chính” (I s 53: 11). Đức Ki-tô sẽ thực hiện những sấm ngôn này; Ngài sẽ là Người Công Chính thập toàn, vì thế lời cầu bầu của Ngài sẽ là độc nhất vô nhị và khôn sánh.

  1. Thiêu hủy thành Xơ-đôm

Đoạn trích dẫn hôm nay không nói cho chúng ta biết phần tiếp theo, vì không gặp thấy mười người công chính ở thành Xơ-đôm nên thành Xơ-đôm cũng như thành Gô-mô-ra bị thiêu hủy. Chỉ ông Lót và gia đình ông thoát nạn nhờ hai sứ thần của Đức Chúa can thiệp. Tác giả đặt việc ông Lót và gia đình ông được cứu thoát trong mối liên hệ với lời cầu bầu của ông Áp-ra-ham: “Khi Thiên Chúa phá hủy các thành trong cả Vùng, Thiên Chúa đã nhớ đến đến ông Áp-ra-ham và đã cứu ông Lót khỏi cuộc tàn phá, khi Người phá đổ các thành nơi ông Lót ở” (St 19: 29).

BÀI ĐỌC II (Cl 2: 12-14)

Trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô ngỏ lời với cộng đoàn Ki-tô hữu hiện đang hoang mang trước những đạo lý sai lạc làm lu mờ đi đức tin chính truyền và đặc biệt làm giảm thiểu vai trò cứu độ của Đức Ki-tô. Vì thế, sứ điệp cốt yếu của Thư này nhắm đến tính ưu việt của Đức Ki-tô và phẩm tính trung gian duy nhất của Ngài.

Bấy giờ, thánh Phao-lô khai mở cuộc bút chiến quyết liệt: “Hãy coi chừng chớ để ai gày bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Ki-tô” (Cl 2: 8). Trong số những đạo lý sai lạc mà Thư nêu lên là phép cắt bì và vai trò trung gian của ơn cứu độ được ban cho các thiên thần. Trong đoạn trích Thư hôm nay, thánh Phao-lô minh chứng sự cao vời khôn ví của Phép Rửa so với phép cắt bì, vì Phép Rửa là phép cắt bì trong tinh thần, nhờ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô.

  1. Phép Rửa, chính là cùng chết và sống lại với Đức Ki-tô

Vào thời kỳ Giáo Hội tiên khởi, Phép Rửa được thực hành qua việc dìm mình vào trong nước. Người chịu phép rửa, cởi bỏ quần áo, bước vào trong bể nước thanh tẩy; sau đó, bước ra khỏi bể nước trong bộ áo quần mới. Đây là nghi thức mai táng theo đó tội nhân cởi bỏ con người xác thịt, tức là con người tội lỗi của mình để được tái sinh trong một đời sống ân sủng và trở thành một tạo vật mới. Cũng thế, người chịu Phép Rửa được mai táng với Đức Ki-tô và chết cho con người tội lỗi để được sống lại với Ngài, được tinh tuyền, được ban ơn tha thứ mọi tội lỗi nhờ quyền năng của Chúa Cha; cũng với quyền năng này, Chúa Cha đã phục sinh Con của Người từ cõi chết.

Thần học về Phép Rửa này cũng đã được thánh Phao-lô diễn tả như vậy trong Thư gởi tín hữu Rô-ma: “Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Ngài sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Ngài, chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Ngài đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Ngài, nhờ được sống lại như Ngài đã sống… Chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài” (Rm 6: 3-8). Tuy nhiên, chúng ta lưu ý đến nhịp điệu tăng dần trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê. Trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê thánh Phao-lô không còn đặt động từ “sống lại” ở thì tương lai như trong Thư gởi tín hữu Rô-ma, nhưng ở thì quá khứ: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại cùng được phục sinh với Ngài”; thậm chí thánh nhân còn khai triển xa hơn nữa trong Thư gởi tín hữu Ê-phê-xô: “Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô… Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời” (Ep 3: 5-6). Vị thế Đức Ki-tô ngự trị bên cạnh Chúa Cha đó cũng là vị thế của chúng ta rồi cho dù chúng ta hiện nay đang sống trên cõi thế.

  1. Đức tin

Mặt khác, trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh nhân nhấn mạnh sự tất yếu của đức tin, niềm tin vào Thiên Chúa phải là hàng đầu, vì Ngài là căn nguyên của ơn cứu độ: chính Thiên Chúa đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết, chính Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta và chính Thiên Chúa đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta. Quả thật, niềm tin vào Đức Ki-tô phát xuất từ niềm tin vào Chúa Cha này, vì chính nhờ thập giá mà ơn tha thứ và sự sống đến với chúng ta.

Hình ảnh sau cùng thánh Phao-lô dùng thật thấm thía. Nếu Phi-la-tô đã cho đóng một tấm bảng trên đỉnh thập giá để chỉ bản án, thì Thiên Chúa đã đóng đinh vào chính thập giá này “các giới luật”: phép cắt bì, những điều khoản giam hãm chúng ta trong vòng tội lỗi, như những lời thánh Phao-lô ngỏ với các tín hữu Rô-ma (Rm 4: 15; 7: 7-25). Như vậy, Phép Rửa là ơn giải thoát, cuộc tái sinh, sự sống đời đời, được khởi sự rồi ngay cả hiện nay chúng ta đang sống tại thế này, vì Đức Ki-tô đã cho chúng ta được liên đới với vận mệnh Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.

TIN MỪNG (Lc 11: 1-13)

Khi Chúa Giê-su cầu nguyện chính là giờ phút Ngài gặp gỡ thân tình với Cha Ngài. Vì thế, việc Chúa Giê-su cầu nguyện nơi thanh vắng vào lúc sáng sớm tinh sương cũng như khi chiều hôm buông xuống là “chuyện hằng ngày”. Thánh Mát-thêu đặt giáo huấn này vào trong bối cảnh Diễn Từ Trên Núi, trong khi thánh Lu-ca đặt giáo huấn này ngay liền sau khi Ngài cầu nguyện xong. Chúng ta có thể nói, Chúa Giê-su dẫn đưa các môn đệ của Ngài vào trong chính lời cầu nguyện của Ngài; Ngài cho họ thân thưa với Thiên Chúa là “Cha” như Ngài.

  1. Kinh Lạy Cha (11: 2-4)

Kinh Lạy Cha của thánh Lu-ca ngắn hơn bản văn của thánh Mát-thêu. Trong khi Kinh Lạy Chúa của thánh Mát-thêu có đến bảy lời nguyện, thì Kinh Lạy Cha của thánh Lu-ca thiếu lời nguyện thứ ba và thứ bảy chỉ còn lại năm lời nguyện, tuy nhiên dù bảy hay năm, thì các lời nguyện đều làm thành một tổng thể trọn vẹn, ôm trọn đời sống con người đang bị phân cực giữa hạ giới và thiên giới, giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống và sự chết. Trong hai bản văn này, thật khó mà biết chính xác hình thức nào cổ xưa nhất; chắc chắn có hai truyền thống.

“Thưa Thầy, xin dạy cho chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy các môn đệ của ông”. Quả thật, thánh Lu-ca ám chỉ đến việc thánh Gioan Tẩy Giả huấn luyện các môn đệ của ông về việc cầu nguyện cùng với đời sống khổ hạnh của thánh nhân: “Môn đệ ông Gioan năng ăn chay và cầu nguyện” (Lc 5: 33). Ở thánh Lu-ca, Chúa Giê-su bảo các môn đệ là khi cầu nguyện, anh em hãy nói “Lạy Cha”, còn thánh Mát-thêu thì viết: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời” (Mt 6: 9). Phải chăng thánh Lu-ca, vì ngỏ lời với người Ki-tô hữu gốc lương dân nên xem ra đã không muốn định vị Đấng Siêu Việt vào một nơi chốn nhất định nào?

Kinh Lạy Cha bao gồm hai phần: phần thứ nhất hướng về vinh quang của Thiên Chúa, phần thứ hai liên quan đến những nhu cầu phàm nhân của chúng ta.

A-Hướng về vinh quang của Thiên Chúa

a- “Xin làm cho danh Cha vinh hiển”:

Theo văn hóa Do thái, “Danh” được áp dụng cho Thiên Chúa là một trong cách thức tránh gọi “tên” cực thánh của Thiên Chúa. Ngoài ra, hình thức thụ động của động từ: “Xin danh Cha được vinh hiển” là cách thức kinh điển để nói đến hành động của Thiên Chúa mà không phải chỉ ra chủ từ là Thiên Chúa. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su ngỏ lời trực tiếp với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12: 28), nghĩa là “xin Cha làm thế nào sự thánh thiện của Cha được nhận biết, được công bố, được hiển lộ”.

Cung giọng của lời khẩn cầu hoàn toàn là cung giọng Kinh Thánh. Nhiều bản văn Cựu Ước nêu lên sự thánh thiện của Thiên Chúa và mời gọi con người noi gương sự thánh thiện của Người: “Các ngươi không được xúc phạm đến thánh danh Ta… Ta là Đức Chúa, Đấng thánh hóa các ngươi” (Lv 22: 32), hay “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19: 2). Chúa Giê-su cũng sẽ nói: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5: 48). Vì thế, thay vì chúng ta nguyện xin Chúa Cha bày tỏ sự thánh thiện của Ngài, chúng ta phải có tấm lòng con thảo bằng góp phần vào sự bày tỏ này bằng đời sống thánh thiện của chúng ta.

b- “Triều đại Cha mau đến”:

Triều đại này là triều đại mà thánh Gioan Tẩy Giả đã loan báo: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3: 2). Đó cũng là triều đại mà Chúa Giê-su đích thân công bố: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1: 15). Đó không gì khác hơn là ý định cứu độ của Thiên Chúa trên nhân loại.

Ở đây lời khẩn nguyện vẫn còn thuộc Kinh Thánh. Chúng ta đọc thấy lời khẩn nguyện này tại I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ đặt trên miệng của sứ giả loan báo Tin Mừng “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” (Is 52: 7). Tại các thánh vịnh gia,  Đức Chúa ngự đến, xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người (Tv 96, 97, 98, vân vân).

Chúa Giê-su bảo chúng ta cầu xin cho triều đại Cha mau đến, không loại trừ rằng lời khẩn nguyện này nhắm đến việc Nước Trời ngự đến một cách vĩnh viễn. Đây là điểm nhấn ở nơi lời cầu nguyện của các Ki-tô hữu tiên khởi: “Marana Tha!”, nghĩa là “Lạy Ngài, xin hãy đến” (1Cr 16: 22; Kh 22: 20).

B-Liên quan đến những nhu cầu phàm nhân của chúng ta

a- “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy”:

Lời khẩn nguyện của Tin Mừng Lu-ca hơi khác với lời khẩn nguyện của Tin Mừng Mát-thêu. Lời khẩn nguyện của Lu-ca này cầu xin cho ngày nào có đủ lương thực ngày ấy; không được tích trử như Đức Chúa đã căn dặn đối với bánh man-na trong sa mạc: “Đừng có ai để dành cho đến sáng” (Xh 16: 19). Có lẽ rất nhạy bén trước tiếng kêu của người nghèo, thánh Lu-ca diễn tả ở nơi lời khẩn nguyện này nỗi xao xuyến của ngày mai: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy”. Chúng ta lưu ý rằng lời khẩn nguyện của thánh Mát-thêu: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” chỉ một hành động tái diễn hằng ngày, trong khi lời khẩn nguyện của thánh Lu-ca chỉ một hành động đúng thời đúng buổi.

Vấn đề được đặt ra ở đây: lời khẩn nguyện này nhắm đến lương thực vật chất hay lương thực tinh thần?

Có hai cách giải thích. Theo cách giải thích thứ nhất, lương thực mà chúng ta cầu xin ở đây nhằm cuộc sống hằng ngày; cách giải thích này được tăng cường bởi sự hiện diện của đại từ ngôi thứ nhất số nhiều (chúng con), nghĩa là lương thực của con người. Theo cách giải thích thứ hai, lương thực chúng ta cầu xin ở đây là lương thực thần thiêng nhắm đến Nước Trời; cách giải thích này được ủng hộ bởi văn mạch của phần thứ hai Kinh Lạy Cha, trong đó rõ ràng những lời khẩn nguyện đều thuộc lãnh vực tinh thần: “xin tha tội cho chúng con”“xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”; vì thế, lời khẩn cầu này chỉ nhằm lương thực vật chất thì thật khó hòa hợp với toàn bộ bản văn. Cuối cùng, về phương diện lịch sử, các Giáo Phụ đã giải thích lương thực mà chúng ta cầu xin Chúa ban cho hằng ngày là Thánh Thể.

b- “Xin tha tội cho chúng con…”:

Chúa Giê-su đã truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ” (Lc 6: 36-38). Chính ở nơi thái độ này mà Ngài mời gọi chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa tha thứ.

Điều kiện để xin Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, chính là chúng ta phải tha thứ cho anh chị em mình: “Vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”. Ở đây, lời khẩn nguyện này của thánh Lu-ca hơi khác với lời khẩn nguyện của thánh Mát-thêu. Cả hai thánh ký đều sử dụng hình ảnh pháp lý:“mắc nợ”, nhưng thánh Lu-ca dùng từ “mắc lỗi” để nhấn mạnh việc tha thứ cách tổng quát.

c- “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”:

Trong bản văn Mát-thêu, lời khẩn nguyện này không chỉ cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ, nhưng còn chỉ ra cho biết chước cám dỗ này từ đâu đến: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” (Mt 6: 13). Ở tại vườn Ô-liu, Chúa Giê-su bảo các môn đệ: “Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22: 46). Thánh Lu-ca xác định rằng chính Xa-tan là tác giả của những chước cắm dỗ này: “Si-mon, Si-mon ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22: 31). Thánh Gia-cô-bê trong thư của ngài xem ra ám chỉ đến cách giải thích sai lạc về lời khẩn nguyện này của Kinh Lạy Cha: “Khi bị cám dỗ, đừng ai nói: ‘Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ’, vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu , và chính Người cũng không cám dỗ ai” (Gc 1: 13).

  1. ĐỪNG SỢ QUẤY RẦY THIÊN CHÚA (11: 5-13)

Tiếp liền theo sau lời dạy về Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su kể cho chúng ta dụ ngôn về người bạn quấy rầy để mời gọi chúng ta đừng sợ quấy rầy Thiên Chúa. Chắc chắn lời nguyện xin của chúng ta được Thiên Chúa lắng nghe và nhận lời. Còn lời nào có thể thuyết phục chúng ta siêng năng cầu nguyện với Thiên Chúa cho bằng những lời này: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”, có nghĩa “Anh em cứ xin, Thiên Chúa sẽ ban cho; cứ tìm, Người sẽ cho thấy; cứ gõ cửa, Người sẽ mở cho”, bởi vì Đấng mà chúng ta cầu xin là Cha chúng ta ở trên trời, Ngài sẽ ban cho chúng ta điều thiện hảo nhất, đó là: “Thánh Thần”. Trong bản văn tương ứng, thánh Mát-thêu đơn giản nói về “những của tốt lành” mà Chúa Cha sẽ ban cho những ai cầu xin Người (Mt 7: 7-11), còn thánh Lu-ca thì kể ra “Thánh Thần”, mà thánh ký sẽ nêu bật nhiều lần tác động của Ngài trong Giáo Hội trong sách Công Vụ Tông Đồ. Thánh Phao-lô nói với các tín hữu Rô-ma về vai trò không thể thiếu của Thần Khí trong đời sống của mỗi người Ki-tô hữu: “Phần anh em, anh em đã không lãnh nhân Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8: 15) và “Thần khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8: 27). 

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN_C.

Lm. Antôn

Có câu chuyện về một em bé được cha mẹ dạy đọc kinh trước khi đi ngủ, và đã trở thành thói quen của em.  Ngày kia em bị bệnh nặng và phải vào nhà thương. Các bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc giải phẫu.  Trước khi cho thuốc mê, các bác sĩ cho em biết em sẽ ngủ một giấc ngủ dài.  Nghe đến ngủ, em vội vàng quỳ gối cầu nguyện: “Xin Chúa cho con được chóng lành bệnh.  Sau đó em nằm xuống và xin bác sĩ tiến hành cuộc giải phẫu.  Hôm sau khi thức dậy câu hỏi đầu tiên của em là: “Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không?”  Bác sĩ nhìn em cảm động và mỉm cười nói : “Cháu hãy để cho Chúa lo liệu.  Bác tin chắc là lời cầu nguyện của cháu có hiệu nghiệm, vì cháu đã cứu được một người là chính bác. Vì từ lâu bác không còn đến nhà thờ, không nhớ đến Chúa. Nhưng hôm qua khi cháu quì cầu nguyện sốt sắng và nhiệt thành, Chúa đã đánh động tâm hồn bác. Sáng nay bác đã đến nhà thờ xưng tội và tham dự Thánh lễ.

Câu chuyện em bé có thói quen cầu nguyện trước khi đi ngủ trên đây là một sự khích lệ cho chúng ta, và cho chúng ta biết ảnh hưởng tốt đẹp của sự cầu nguyện như thế nào.  Cầu nguyện rất cần thiết cho đời sống tinh thần Kitô hữu, như thân thể cần thức ăn, nước uống để sống.

Tin mừng cho chúng ta biết Chúa Giêsu luôn đặt sự cầu nguyện ưu tiên trên hết trong đời sống của Ngài.  Trước khi thi hành sứ vụ công rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu đã vào sa mạc 40 đêm ngày để ăn chay, cầu nguyện. Chúa đã dành nhiều giờ để cầu nguyện với Cha của Ngài sau mỗi lần rao giảng và làm phép lạ. Chúa đã thức thâu đêm cầu nguyện và hỏi ý Chúa Cha trước khi tuyển chọn các môn đệ.  Trước khi chịu chết, Chúa đã vào vườn cây dầu để cầu nguyện.  Chúng ta thấy trong ba năm rao giảng, Chúa Giêsu đã dành rất nhiều thời giờ để cầu nguyện tâm sự với Thiên Chúa Cha. Có lẽ các môn đệ đã cảm nghiệm được lòng sốt sắng và cần thiết cầu nguyện của Thầy, cho nên sau khi thấy Chúa cầu nguyện, các ông đã mạnh dạn xin Chúa dậy các ông cầu nguyện.  Và như chúng ta vừa được nghe trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu đã dậy các môn đệ cầu nguyện bằng những lời kinh mà chúng ta gọi là Kinh Lạy Cha.  Thật vậy, ngoại trừ Kinh Lạy Cha, Chúa không dậy bất cứ một lời cầu nguyện nào khác nữa, vì thế chúng ta tin Kinh Lạy Cha rất quan trọng và thiết yếu.

Qua Kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta cách tâm tình với Chúa Cha, cách sống thế nào cho đáng là con cái và xin điều gì.  Phân tích ra chúng ta thấy trong Kinh Lạy Cha gồm có một lời mở đầu, ba lời ước nguyện và 4 điều cầu xin.  Mở đầu, Chúa Giê-su dạy chúng ta thưa “Lạy Cha” với Thiên Chúa.  Đây là một điều tự nhiên mà con người chúng ta thường làm khi thưa hay xin gì cùng ai. Thí dụ như khi con cái xin sự gì cùng cha mẹ, thì thường bắt đầu bằng câu nói: “Thưa ba hay thưa má.”  Hay khi chúng ta đối thoại hay muốn xin sự gì cùng ai thì thường nói rằng: “Thưa ông, thưa bà hay thưa cha.”  Ở đây chúng ta thấy câu: “Lạy Cha chúng con” đặt chúng ta vào tâm tình tôn kính và yêu mến vì Chúa là cha chúng ta, chúng ta là con cái Chúa và chúng ta là anh chị em với nhau.

Tiếp đến là 3 lời ước nguyện.  Trước hết, chúng ta mong ước cho mọi người nhận biết danh Chúa, nhìn nhận Chúa là Đấng tạo dựng và là người cha nhân từ.  Thứ hai, chúng ta cầu nguyện Danh Cha luôn được vinh hiển và Nước Cha trị đến, lan rộng ra khắp nơi.  Có nghĩa là chúng ta nguyện xin cho số người nhận biết và tin vào Chúa tăng lên đông đảo. Và thứ ba, chúng ta xin cho mọi người trong đó dĩ nhiên là có cả chúng ta biết vâng theo ý Chúa, có nghĩa là sống những điều Chúa dạy bảo, để qua cuộc sống của chúng ta những ước nguyện được thể hiện.

Ở phần cuối của Kinh Lạy Cha, Chúa dạy chúng ta cầu xin với Chúa Cha những điều cần thiết cho chúng ta và cho mọi người: xin lương thực hằng ngày, xin ơn tha thứ và xin sức mạnh tránh xa điều tội lỗi.

Sau khi dạy các môn đệ Kinh Lạy Cha, Chúa đã dùng dụ ngôn “Xin Bánh Ban Đêm” để nhắc nhở chúng ta về sự kiên trì và nhẫn nại trong sự cầu nguyện.  Có thể nói nhiều người chúng ta thiếu kiên trì, tin tưởng và kiên nhẫn trong khi cầu nguyện.  Nhiều khi chúng ta đợi đến những lúc gặp khó khăn, trở ngại trong cuộc sống, mới chạy đến Chúa hay Mẹ Maria để cầu nguyện và xin ơn và muốn Chúa, muốn Mẹ phải trả lời và ban cho chúng ta những điều chúng ta xin ngay tức khắc.  Nhiều khi chúng ta cầu nguyện nhưng thiếu tin tưởng và phó thác vào sự quan phòng và yêu thương của Chúa.  Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với thái độ kiên trì và nhẫn nại như vậy, không phải là Chúa không nghe hay biết chúng ta kêu xin, hay làm ngơ hay không muốn ban cho chúng ta, nhưng Chúa muốn tăng thêm đức tin, muốn đức tin của chúng ta trở nên trưởng thành hơn. Chúng ta cần phải phân biệt 2 điều quan trọng này trong sự cầu nguyện, đó là: “Chúa nghe lời chúng ta” và “Chúa cho điều chúng ta xin.”  Chúa có thể không ban điều chúng ta xin, mà vẫn nghe lời chúng ta. Bởi vì khi chúng ta cầu xin, Chúa đáp ứng bằng nhiều cách: hoặc ban điều chúng ta xin, hoặc chúng ta xin một ơn, Chúa ban cho chúng ta một ơn khác. Vì lẽ điều chúng ta xin sẽ không đem lại lợi ích thiêng liêng, nhiều khi còn có hại cho cuộc sống bây giờ hay trong tương lai.  Cũng có khi chúng ta không xin điều gì đó mà chúng ta cảm thấy xảy ra trong cuộc sống.  Chúa biết chúng ta cần gì và Người nhìn xa trong cuộc sống.  Chúa ban cho chúng ta nhiều ơn lành hồn xác cần thiết mà chính chúng ta không nghĩ tới hay không xin. Cũng có thể chúng ta cầu hoài mà Chúa chưa cho, là vì Chúa muốn tăng thêm đức tin và dạy chúng ta biết phó thác.

Bởi thế khi cầu nguyện điều quan trọng là luôn tin tưởng, cậy trông, phó thác vào tình thương và sự quan phòng của Cha chúng ta.  Chúa yêu thương và muốn chúng ta có cuộc sống tràn đầy vui mừng và hy vọng, trở thành những khí cụ làm Danh Chúa cả sáng, và Nước Chúa trị đến. Đây là tin mừng.  Đây là lý do và ý nghĩa của Thánh lễ chúng ta cử hành hôm nay. Xin Chúa chúc lành và ban nhiều ơn lành cho tất cả chúng ta để chúng ta sống xứng đáng là con của Chúa, sinh nhiều hoa trái tốt đẹp, làm sáng danh Chúa.

Về mục lục

.

 

 

CẦU NGUYỆN LÀ NỐI LIỀN NHỊP CẦU YÊU THƯƠNG

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Đức Thánh Cha Benêđictô XVI, khi nói về cầu nguyện, đã viết: “Nếu không còn ai lắng nghe tôi nữa, thì vẫn còn Chúa lắng nghe tôi. Nếu tôi không còn có thể nói chuyện với ai, nếu tôi không còn có thể kêu cầu đến bất cứ người nào, tôi vẫn luôn có thể thưa chuyện cùng Chúa. Nếu không còn ai giúp đỡ, khi nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người, thì Thiên Chúa vẫn có thể giúp tôi” (Thông điệp Spe salvi, số 32).

Cầu nguyện đem lại cho chúng ta những điều kỳ diệu. Con người phàm hèn có thể ngỏ lời với Đấng Tối cao và có thể  lắng nghe Lời của Ngài. Cầu nguyện bắc một nhịp cầu nối liền trời với đất, xóa tan khoảng cách xa xôi và làm cho con người được nên một với Thiên Chúa trong những dòng tâm sự thân thương.

Sự “mặc cả” của ông Abraham với Đức Chúa được diễn tả rất “con người”. Điều đó cho ta thấy mục đích của lời cầu nguyện là làm nguôi cơn giận của Thiên Chúa. Sự năn nỉ của ông cũng diễn tả một quan niệm bình dân về Thiên Chúa. Ngài cũng giống như một con người. Ngài mềm lòng trước lời than van và dường như Ngài nhượng bộ họ.

Một Thiên Chúa “không vui khi thấy tội nhân phải chết”, “chậm bất bình và hết sức khoan dung” là Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta. Ngài là Cha yêu thương và muốn cho chúng ta được những điều tốt lành. Chúng ta không còn phải ngần ngại e dè khi đến với Chúa. Chúa Giêsu đã cho chúng ta quyền được thân thưa “Lạy Cha” với Đấng Tối cao. Kinh Lạy Cha là lời nguyện hoàn hảo, cũng là lời nguyện duy nhất mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Đó là lời tâm sự rất thân tình như con thảo nói với cha mẹ. Mặc dù ngắn gọn, nhưng Kinh Lạy Cha đã gồm tóm tất cả giới răn của Chúa là mến Chúa yêu người. Kinh Lạy Cha không nặng về lý thuyết, nhưng rất cụ thể và là phương châm sống cho mỗi tín hữu để nối kết với tình Cha, cảm thông với tình người.

Kiên trì nhẫn nại là một điều kiện cần thiết khi cầu nguyện. Với cách diễn tả bình dân và dễ hiểu, Chúa Giêsu đã dùng một dụ ngôn để khẳng định điều này. Người cha thế gian mà còn biết thương con cái và chọn lựa những điều tốt cho con mình, huống chi là Thiên Chúa, Đấng quyền năng và nhân hậu vô cùng.

Một tác giả tu đức đã giải thích về lời cầu nguyện như sau: “Mỗi khi bạn cầu nguyện, Chúa sẽ trả lời bằng một trong ba cách này:
-OK, Ta đồng ý ban cho con điều con xin ngay lập tức.
-OK, Ta đồng ý ban cho con điều con xin, nhưng hãy thư thả chờ đợi một chút.
-OK, Ta biết rằng điều con xin là hợp lý, nhưng Ta có điều này tốt hơn cho con, và ta muốn ban cho con điều tốt hơn ấy.
Bạn thấy không, bao giờ Chúa cũng trả lời bằng sự đồng ý – OK”.
 
Mẹ Têrêsa Calcuta đã chia sẻ về cầu nguyện như sau: “Có những lúc bạn cảm thấy  phân tâm không thể cầu nguyện được, đơn giản thôi: bạn hãy để Chúa Giêsu cầu nguyện cùng với Chúa Cha trong sự tĩnh lặng của tâm hồn bạn. Nếu tôi không thể nói, Chúa Giêsu sẽ nói thay tôi. Nếu tôi không thể cầu nguyện, Chúa Giêsu sẽ cầu nguyện thay tôi” (Trích từ La prière, fraicheur d’une source, tr. 15).
 
“Cầu nguyện là thứ rượu làm vui thỏa tâm hồn con người” (Thánh Bernard). Phải chăng nhiều người tín hữu không thiết tha với việc cầu nguyện là vì họ không cảm thấy sự dịu ngọt khi nghe Chúa nói và tâm sự với Ngài. Mỗi chúng ta khi đến với Chúa hãy giữ tâm hồn thinh lặng để cảm nghiệm hạnh phúc nơi sâu thẳm tâm hồn. Chính trong thinh lặng mà ta khám phá ra Thánh ý của Chúa và thực hiện ý Ngài trong đời.
 
Với lối so sánh rất đơn sơ mà sâu sắc, Thánh Gioan Maria Vianay chia sẻ kinh nghiệm với chúng ta: “Càng cầu nguyện, chúng ta càng ước muốn cầu nguyện. Như một con cá lúc đầu bơi trên mặt nước, sau đó, lặn xuống và càng lặn sâu hơn nữa thế nào, thì linh hồn cũng bơi, lặn và mất hút trong hương vị ngọt ngào của cuộc chuyện vãn với Thiên Chúa như vậy”.
 
Cầu nguyện là kiếm tìm và cảm nghiệm sự ngọt ngào của ân sủng cho đời sống tín hữu. Cầu nguyện còn hướng tới tha nhân, mang lại cho họ những điều tốt đẹp và giúp họ tránh những tai ương có nguy cơ xảy đến. Tác giả sách Sáng thế kể với chúng ta, nếu có mười người công chính trong thành Xơđôm, là những người biết cầu nguyện và sống đẹp lòng Chúa, thì thành ấy không bị tiêu diệt. Tiếc thay, một điều kiện rất đơn giản mà không có được. Thành Xơđôm đã bị lửa thiêu thành đống tro tàn.
 
Thế giới hôm nay cũng rất đang cần đến những người cầu nguyện và sống đạo đức công chính để nhờ đó mà Thiên Chúa không giáng phạt, nhưng chúc lành và cứu rỗi thế gian.

Về mục lục

.

LẠY CHA CHÚNG CON

Tgm. Jos. Ngô Quang Kiệt

Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu cầu nguyện. Có lẽ khi Người cầu nguyện, có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn toả ra. Vì thế, các Tông đồ xin Người dạy cách cầu nguyện. Và Người đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha mạc khải cho ta hai điều quan trọng.

  1. Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Có lẽ vì đã đọc thuộc lòng Kinh Lạy Cha một cách máy móc nên ít khi ta cảm nhận được hết ý nghĩa thâm sâu nằm trong từ ngữ “Cha”.

Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sự: “Lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi “Ba ơi”, tôi bủn rủn cả tay chân. Một luồng điện cực mạnh chạy khắp thân thể. Tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng”. Quả thực, mối liên hệ Cha-Con là một mối liên hệ rất thâm sâu, huyền bí và thân thiết.

Gọi ai là Cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ Cha, ta nhận được món quà tặng quí giá nhất đó là sự sống. Có những người cha không chỉ sinh con về mặt thể xác mà còn cho con một đời sống tinh thần. Đó là những người Cha có nhân cách lớn, kiên trì đúc nặn nên những đứa con có tâm hồn cao đẹp, có lý tưởng, có tư cách làm người.

Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Nói tóm lại, từ ngữ “Cha” gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm không bút nào tả xiết được.

Khi mạc khải cho biết Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh về Thiên Chúa hoàn toàn khác với hình ảnh các vị thần của các tôn giáo khác. Không những Người cho ta thấy Thiên Chúa Cha yêu thương ta vô cùng, mà còn muốn ta đi vào tình nghĩa thâm sâu, tha thiết với Cha. Vì thế, Người đã dạy ta tiếng “Abba” là tiếng gọi “Ba ơi” rất thân thương của một đứa trẻ vừa nũng nịu, vừa tin tưởng, phó thác mọi sự trong tay Cha.

  1. Mọi người là anh em

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện: Lạy Cha chúng con… Xin Cha cho chúng con… Chứ không dạy ta đọc: Lạy Cha của con… Xin Cha cho con… Nghĩa là tất cả mọi người có cùng một Cha. Mọi người đều thuộc về một gia đình Thiên Chúa. Là anh em nên phải có tình yêu thương đoàn kết, liên đới với nhau. Liên đới trong đời sống, liên đới trong cả lời cầu nguyện.

Một lần dâng lễ chung với những người bạn Mỹ, tôi đã hỏi họ trong giờ chia sẻ: Hằng ngày các bạn vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Vậy khi đọc câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” các bạn cầu xin điều gì? Vì ở Mỹ tôi thấy lương thực dư thừa, không ai phải chết đói. Họ trả lời: Chúng tôi vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Và với câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày” chúng tôi vẫn cầu xin tha thiết. Vì tuy chúng tôi đã đủ ăn đủ mặc, chúng tôi vẫn nhớ đến những anh em bên Phi châu, bên Àu châu đang phải đói khát khổ sở.

Câu trả lời thật chính xác. Vâng, chúng ta là anh em nên phải liên đới, có trách nhiệm về nhau. Trong bài đọc 1 hôm nay, tổ phục Abraham đã nêu gương liên đới khi tha thiết cầu nguyện cho thành Sođoma khỏi bị phạt.

Nếu trong gia đình đứa em út yếu đuối bệnh tật luôn được thương yêu cưng chiều, thì trong kinh nguyện, ta cũng phải ưu tiên cầu nguyện cho những anh em bé nhỏ trước hết.

Nếu lời cầu nguyện của ta là lời của đứa con nhỏ nói với Cha, và là tâm tình liên đới yêu thương với mọi anh em trên khắp thế giới, lời cầu nguyện ấy sẽ rất đẹp và Thiên Chúa sẽ hài lòng.

Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin thương xót chúng con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1-   Bạn có thực sự cảm thấy Chúa là Cha và sống với Người như người con hiếu thảo không?

2-   Thiên Chúa là Cha tốt lành. Người chỉ ban cho ta những điều tốt. Có khi nào Bạn gặp thất bại khổ đau mà bạn thấy lòng tốt của Thiên Chúa không?

3-   Bạn cầu nguyện cho người kém may mắn, nhưng bạn có sẵn sàng chia sẻ với họ không?

Về mục lục

.

CẦU NGUYỆN KIÊN TRÌ

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Khi tổng thống Washington của nước Mỹ còn là một cậu bé 15 tuổi đang chạy chơi trong nông trại của cha thì bị vấp ngã.
Vết thương lúc đầu không nặng lắm, nhưng vì bất cẩn nên 2 ngày sau bị nhiễm trùng. Chân cậu bé sưng vù lên, phải đưa đến bác sĩ. Bác sĩ thất vọng nói:

  • Vết thương đã trở nên quá trầm trọng. Nếu muốn cứu cậu bé thì phải cưa chân thôi.

Washington sốt dữ dội. Bác sĩ cho biết chỉ có phép lạ mới cứu nổi. Nghe vậy cả nhà hoảng sợ. Nhưng tin vào lời cầu nguyện như Chúa đã hứa: “Xin thì sẽ được”. Thế là bố mẹ và mấy người chị bắt đầu cầu nguyện. Họ cầu nguyện sốt sắng và liên lỉ. Họ tha thiết vững tin vào tình thương Chúa.
Hai ngày sau mấy cậu con trai theo gương bố mẹ và các chị cũng quỳ gối cầu nguyện cho em.
Sáng ngày thứ 3 bác sĩ đến thăm, ông ngạc nhiên khi thấy vết thương bớt hẳn. Cậu bé đã ăn được, ngủ được.
Người ta tiếp tục cầu nguyện. Vài ngày sau đó cậu bé lành bệnh hẳn.
Khi bác sĩ tỏ ra hết sức ngạc nhiên về loại thần dược đã cứu sống bệnh nhân cách lạ lùng như thế thì được gia đình cho hay:
Chúng tôi cầu nguyện và vững tin vào lời Chúa:
“Hãy xin thì sẽ được.”
Con người thường có xu hướng “có bệnh vái tứ phương”, nhưng thường họ thất bại vì thiếu kiên trì. Thầy thuốc có giỏi cũng cần thời gian. Nhất là trong lời cầu nguyện với Chúa. Con người cũng có xu hướng nhanh – gọn – lẹ. Họ muốn Chúa làm ngay điều họ xin. Họ xem Chúa như một ngân hàng cần là có thể lấy ra ngay để dùng. Thế nên, họ thường thất vọng khi thấy lời cầu của mình chưa được nhận lời. Đôi khi họ còn trách móc Chúa vì không đáp ứng ngay điều họ xin.
Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta. Thiên Chúa là Đấng quan phòng giầu tình thương và rất mực từ bi. Đây phải là một xác quyết của chúng ta. Khi tin tưởng phó thác vào Chúa thì dầu việc ta xin chưa được, điều ta muốn chưa thành thì vẫn tin tưởng vào Chúa. Xác tín rằng Thiên Chúa có muôn ngàn cách để hỗ trợ chúng ta, để ban ơn tuỳ thuộc hoàn cảnh sống của từng người chúng ta. Chắc chắn Thiên Chúa sẽ cứu giúp vì Ngài đã là Cha giầu lòng xót thương. Một người Cha sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái đang trong tình trạng nguy nan.
Quả thực, chúng ta thật hạnh phúc vì có một Thiên Chúa được gọi là Cha. Thiên Chúa không xa lạ. Thiên Chúa trở nên gần gũi với chúng ta. Gần gũi như một người cha luôn ở gần con cái mình, luôn gìn giữ bảo vệ con cái mình. Thiên Chúa như một người cha luôn làm mọi sự để con cái được ấm êm, được hạnh phúc. Thiên Chúa là một người cha hết lòng yêu thương con người. Vì yêu thương con người Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài. Ngài còn ban tặng mọi gia sản trên trái đất cho con người hưởng dùng. Ngài còn dùng tình thương qua việc cứu chuộc con người dù con người có cố tình quay lưng lại với tình yêu của Thiên Chúa.
Vì thế, hãy tin tưởng chạy đến với Chúa trong mọi nỗi khổ đau. Hãy tin tưởng để cầu xin cùng Chúa. Lời cầu xin thiết yếu vẫn phải là kiên nhẫn và hết lòng tin tưởng cậy trông. Kiên nhẫn để không nản lòng trước thử thách. Kiên nhẫn cùng với lòng phó thác sẽ giúp chúng ta an vui sống trong sự che chở của Ngài.
 Ước gì chúng ta luôn biết cầu nguyện cùng Chúa, luôn biết tín thác vào Chúa như con thơ luôn tin tưởng phó thác nơi cha mình. Xin Chúa giúp chúng ta luôn kiên nhẫn trong lời cầu xin, vì xưa Chúa đã nói : “Hãy xin sẽ được” chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

HIỆU QUẢ

Lm. Jos. DĐH

Muốn ôtô tăng tuổi thọ, tham gia giao thông hiệu quả nhất, các “bác tài” cần thường xuyên đưa xe tới trung tâm bảo dưỡng, để các chuyên viên kỹ thuật kiểm tra máy định kỳ. Là ca sĩ, diễn viên, họ thừa biết, muốn giữ chất giọng, vẻ đẹp duyên dáng trước công chúng, họ phải chuyên chăm tập luyện, kiêng khem. Sự thành công của bậc cha mẹ không hệ tại là giầu sang địa vị, mà chính là các thành viên gia đình hiện tại có hạnh phúc không, liệu con cháu của tôi có nên người hữu ích không ? Người ta có thể dựa vào câu tục ngữ làm thước đo: trên thuận dưới hòa là nhà có phúc.

Những kiến thức mà Đức Giêsu truyền dạy các học trò là cần thiết, song niềm tin yêu cũng rất quan trọng, nghĩa là để trở nên môn đệ, các ông phải đủ tâm, đủ đức. Cây có thể gẫy đổ vì gió bão, người có thể vấp ngã, hư hỏng, vì những lạc thú của thế gian, nếu thiếu sự che chắn, liên lạc thường xuyên với “sư phụ”. Những khái niệm mà con người mơ ước bao giờ cũng là chất lượng cao, hiệu quả nhất, an toàn là trên hết. Để có sức thuyết phục người nghe, các ca sĩ không chỉ hát đúng cao độ, mà họ còn phải hát có hồn, mới áp đặt được các “fan” hâm mộ.

Rất đáng nể cho số học trò của Đức Giêsu, các ông không ảo tưởng, không xin được giảng dạy hay, giỏi, như Thầy mình, các ông thật khôn ngoan khi nói : “xin Thầy dạy chúng con biết cầu nguyện…”. Để đáp ứng nhu cầu thiết thực mà người học trò cần phải được trang bị, Thầy Giêsu đã chia sẻ với các môn đệ một kinh nghiệm : đơn giản, chân thành, hiệu quả, đó là cầu nguyện. Để tăng thêm chiều sâu cho sự kết hiệp với thánh ý Cha, Đức Giêsu kể câu chuyện về một người kêu xin không ngừng giữa đêm hôm, hầu như là “lì lợm”, miễn sao có được thứ bánh cần dùng.

Người thời nào cũng chú trọng đến hiệu quả, bằng cách nào để học giỏi, ra trường làm việc ở đâu có thu nhập cao, phải cân nhắc lập gia đình với mẫu người nào, hầu hôn nhân có được hạnh phúc ? Chúa Giêsu cũng hướng các môn đệ tới hiệu quả, nhưng không phải chỉ dạy các học trò tìm kiếm cái được của thế gian, hiệu quả của cầu nguyện là biết đặt tình yêu trong tương quan với Thiên Chúa là Cha.

Trong ca dao có câu : chữ nhẫn là chữ tượng vàng, ai mà nhẫn được thì càng hiển vinh. Nhẫn để đạt đạo, nhẫn để thành công; hoặc nhẫn một chút sóng yên biển lặng, lùi một bước biển rộng trời cao. Nói chung, kiên nhẫn luôn là yếu tố cần thiết của một thiên tài. Xa hơn “cái được” của thế giới tự nhiên, Đức Giêsu chỉ cho các học trò một cảm nhận sâu rộng hơn về chữ nhẫn, nhẫn để minh chứng lời tạ ơn, biết ơn, và sống trọn vẹn ý Chúa Cha. Chăm chỉ cầu nguyện là có phúc rồi, mà cầu nguyện đúng, đẹp, thánh ý Cha trên trời, sẽ thật là hiệu quả biết bao, khi “danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến”.

Mang thân phận con người, chúng ta xin “trời phật” ban ơn vật chất, vì đó là nhu cầu; chỉ người môn đệ Đức Giêsu mới hiểu, nên cầu ơn bình an để đi đúng đường Chúa, sống yêu thương và tín thác. Xin ơn biết cầu nguyện, cũng là xin ơn nên hoàn thiện, xin cho tình yêu của Thiên Chúa Cha được lan tỏa. Những người làm con, không lạ gì khi thưa ba gọi má, không phải chưa được dạy về cụm từ : ơn cha nghĩa mẹ, nhưng chúng ta có tin mẹ dạy con khéo, bố dạy con khôn ? Chúng ta có ý thức sống hiếu, sống thảo, là sống tình làng nghĩa xóm, là biết sống như cây có cội, như nước có nguồn không ?

Người học trò luôn ý thức : không thầy đố mày làm nên, người Kitô hữu hàng ngày vẫn đọc “Kinh Lạy Cha”, nhưng tin yêu thầy, và đọc với tâm tình cầu nguyện, lại mang một ý nghĩa khác. Làm việc hiệu quả, sống niềm tin chắc chắn, để lời “Kinh Lạy Cha” sẽ đúng, đủ, đẹp, có lực, có tầm hơn, nhất định không thể thiếu Thầy Giêsu. Biết cách cầu nguyện, sẽ có ngày đạt đến tầm mức như Chúa Giêsu yêu, cầu nguyện trong tín thác kiên trì, để biết sống đức ái trọn vẹn giống Chúa Giêsu.

Cổ nhân có câu : vải tốt xem biên, người hiền xem mặt. Nhờ khả năng chuyên môn, người ta phân biệt được tốt xấu, thật giả. Hiệu quả công việc không đến từ thông minh sáng suốt, nhưng còn đến từ người có tài có đức. Các bậc khôn ngoan cho rằng : tiền bạc có thể mở được mọi cánh cửa, nhưng trừ cửa thiên đàng. Chính tình yêu thương, mới mang lại bình an, mở cho người ta được cánh cửa hạnh phúc. Chúa Giêsu dạy cầu nguyện, Ngài còn chi tiết hơn khi chúng ta phải kiên nhẫn, tín thác vào tình yêu của Chúa Cha : “ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ sẽ mở cho”. Amen.

Về mục lục

.

TIN TƯỞNG VÀO CHÚA VÀ THA THIẾT NGUYỆN CẦU

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng vào Chúa và tha thiết nguyện cầu. Bài đọc I (St 18, 20-32) là một minh họa đầy đủ  ý nghĩa nhất. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã van nài Chúa, thậm trí mạc cả với Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính, Abraham đã tìm thấy tột đỉnh của lòng thương xót Chúa là tha thứ. Tin Mừng (Lc 11, 1-13) thuật lại cho chúng ta lời nguyện cầu của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa dạy các môn đệ. Người không dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ hướng về Thiên Chúa là Cha bằng tình con thảo với trọn niềm tin vì : “Kẻ cô thân Thiên Chúa cho nhà cửa, chính Người ban tặng cho dân dũng lực uy quyền.”( Ca nhập lễ).

Gương của tổ phụ Abraham

Từ cây sồi ở Mambrê Thiên Chúa tỏ ý định của Ngài cho Abraham (x. St 18,1), và Abraham nhận ra lòng thương xót Chúa. Khi tội lỗi tràn ngập xứ Sôđôma, Abraham đã dám thưa cùng Chúa : “Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao?” (St 18, 24-25) Và ông tiếp tục mạc cả với Thiên Chúa cho đến khi có được lời Chúa hứa là không tiêu diệt thành Sôđôma nữa nếu như tìm thấy mười người công chính. Vấn đề là Thiên Chúa không bao giờ muốn tiêu diệt thành Sôđôma. Abraham sợ chứng kiến cảnh Thiên Chúa trừng phạt Sôđôma và Gômôrrha. Với lòng thương dân sẵn có, Abraham đã nguyện cầu, đến nỗi táo bạo can thiệp cả Thiên Chúa. Ông tin vào Thiên Chúa, nhưng giờ đây niềm tin đó đang bị thử thách, ông tự hỏi : Liệu Thiên Chúa có trung thành với lời Giao ước tình thương với dân Ngài không? Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, nếu nói rằng Abraham mặc cả với Chúa, không có sai, vì ông đã giảm giá dần, từ năm mươi người xuống còn mười người. Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”. Abraham thấy các thành rơi vào cảnh bi đát, sắp bị Chúa tàn phá và ông tìm kiếm một con đường giải thoát cho hai thành. Ông kêu van, mặc cả nhưng không nói lộng ngôn phạm đến Chúa, Chúa lắng nghe, và nhận lời ông cầu xin.

Cầu nguyện như Đức Giêsu dạy

Niềm tin vào Thiên Chúa của Abraham bị thử thách, đó cũng là niềm tin của chúng ta nói chung. Vì nhiều khi chúng ta xin mãi mà không được, nên chán nản. Chúng ta cùng xem Chúa Giêsu cầu nguyện thế nào và dạy các môn đệ ra làm sao (x. Lc 11, 1-13).

Chuyện là khi các môn đệ chiêm ngắm Thầy cầu nguyện thì một trong số họ thưa: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã đã dạy các môn đệ ông”. Chúa Giêsu đáp ứng lời xin và dạy : “Khi anh em cầu nguyện, thì hãy cầu nguyện như thế này : ‘Lạy cha…”. Người mời gọi các môn đệ hướng về Cha, Người không dạy họ một công thức cầu nguyện cho bằng dạy họ cầu nguyện. Cầu nguyện trước hết phải đi vào trong tương quan thân tình với Thiên Chúa là Cha. Bởi lịch sử cứu độ con người là một chuỗi dài của tình phụ tử giữa Thiên Chúa với lòng hiếu thảo của con người. Thiên Chúa cất tiếng gọi con người đáp trả và tìm thấy lòng tốt hảo của Thiên Chúa là Cha. Con người khát khao Thiên Chúa gặp gỡ lòng trùi mến của Thiên Chúa đối với con người, con người được Chúa ban ơn.

Chúa Giêsu dạy chúng ta thưa cùng Thiên Chúa “Lạy Cha” là Người đưa chúng ta vào trong tương quan diện đối diện với Thiên Chúa, khiêm tốn, tin tưởng bước vào với tình con thảo. Tuy lời cầu nguyện tạ ơn dài trong Thánh Vịnh thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa: “Lạy Chúa, con tạ ơn danh Chúa vì tình thương và chân lý” ; “Nếu tôi đi giữa cảnh gian truân, Chúa giữ gìn tôi sống” ; “Chúa ra tay phản đối quân thù tôi giận giữ” ; “Chúa sẽ hoàn tất cho tôi những điều Ngài đã khởi sự! Lạy Chúa, lòng nhân hậu Chúa tồn tại đến muôn đời” (Tv 137, 1-8)… Nhưng, thánh vịnh gia còn phải đương đầu với quân thù và những cám dỗ đang rình rập, lúc mà Thiên Chúa trung thành hình như vắng mặt.

Thiên Chúa luôn giữ lời hứa, muôn đời không hề thay đổi. Vậy, tại sao ta lại nghi ngờ về tình phụ tử của Thiên Chúa? Chúa Giêsu bảo đảm rằng những lời nguyện cầu mà chúng ta dâng lên Chúa Cha sẽ luôn được nhận lời : “Và Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,10). Người lưu ý chúng ta : “Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.” (Lc 11,10) Người làm cho chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đấng không chỉ sẽ nhận lời mà còn trao ban cho chúng ta những điều tốt hơn điều chúng ta cầu xin.

Chúng ta đã chẳng đọc những lời của Chúa Giêsu rằng, Đấng trao ban còn quí trọng hơn những gì là ân huệ Ngài trao ban sao ? Chính Chúa, là kho tàng quí giá nhất mà chúng ta nhận được trong lời cầu nguyện ; Lời cầu nguyện đưa chúng ta vào trong sự hiệp thông với Chúa, đặt mình trước mặt Chúa là Đấng ba lần Thánh và hiệp thông với Ngài. Cầu nguyện, là để Thiên Chúa đến ở với chúng ta và biến đổi chúng ta. Dần dà, chúng ta tìm thấy những gì tội lỗi đã làm hư mất. Và khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm cho mình trở lên trung gian của tình yêu Thiên Chúa giữa anh em.

Để trở nên môn đệ đích thực của Chúa, chúng ta không chỉ cầu nguyện trong tình con thảo mà lời cầu nguyện còn đưa chúng ta vào trong niềm tin hòa giải : “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha, kẻ có nợ chúng con”.

Lấy lại những lời nguyện cầu của Chúa Giêsu, chúng ta thưa: “Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Lúc đó, chúng ta sẽ thực sự trở nên môn đệ Đức Giêsu, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, và nên những sứ giả mang lòng thương xót của Chúa Cha đến với muôn người. Amen.

Về mục lục

.

CẦU XIN VỚI THÁI ĐỘ CON THẢO

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Thời buổi buôn bán cạnh tranh, các công ty không chỉ chú ý đến chất lượng hàng hóa mà còn phải chú ý đến các dịch vụ để đáp ứng nhu cầu khách hàng cách nhanh chóng nhất. Phía người tiêu dùng, họ cho mình có quyền tối thượng ra lệnh, muốn là phải được đáp ứng ngay, dẫn đến dễ mất kiên nhẫn khi không được đáp ứng nhanh chóng các yêu cầu. Biểu hiện này không chỉ có trong cuộc sống thường ngày, nhưng nó cũng đang ảnh hưởng trong đời sống đức tin. Người ta nhìn Thiên Chúa như một nhà cung cấp dịch vụ,  hàng hóa. Khi cần, họ gọi điện đặt hàng và muốn Thiên Chúa phải đáp ứng ngay cho họ. Vì thế, nhiều người tín hữu theo đạo nhưng không có thói quen cầu nguyện hoặc không kiên nhẫn khi cầu xin cùng Thiên Chúa, họ chỉ đến với Thiên Chúa giống như một khách hàng khi có nhu cầu, chứ không có tâm tình của một người con đến với Cha, một thụ tạo đến với Thiên Chúa của mình.
Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta một thực hành không thể thiếu, như con người không thể thiếu hơi thở, đó là cầu nguyện ; đồng Thời, Chúa Giêsu cũng chỉ cho chúng ta cách cầu nguyện và thái độ phải có khi cầu nguyện.
Bài đọc một cho thấy Apbraham đã cầu xin với Chúa như nói chuyện, trao đổi với một người bạn và Chúa cũng coi ông như một người bạn thân. Khi tội lỗi của dân thành Sodoma và Gomora đã lan tràn, Thiên Chúa muốn hủy diệt cả dân đó. Trước khi thực hiện việc này, Chúa đã kể cho Apbraham nghe về ý định của mình như bạn hữu kể chuyện cho nhau. Lợi dụng tình bạn này, Apbraham đã lên tiếng cầu xin Chúa dung tha cho dân thành Sodoma. Chuyện kể cho thấy, Apbraham đã mặc cả với Chúa : Chẳng lẽ Chúa muốn tiêu diệt kẻ lành chung với kẻ dữ sao ? Giả như trong thành có năm mươi người công chính, họ cũng phải chết cùng kẻ dữ sao ? Chúa có vì họ mà tha cho cả thành không ? Chúa trả lời : Nếu Ta tìm được năm mươi người công chính, Ta sẽ tha cho cả thành.
Ông Apbraham lại trả giá lần thứ hai : Nếu năm mươi người mà thiếu năm người thì sao ? Ông lại trả giá tiếp : Xin Chúa đừng giận, cho con nói thêm một lần nữa thôi, nếu chỉ tìm được ba mươi người, hoặc được mười người thì sao ? Chúa trả lời : Vì mười người đó, Ta cũng không phá hủy thành. Câu chuyện cho thấy giữa Thiên Chúa và Apbraham vừa có sự thân tình, vừa có sự kính sợ. Vì thân tình, ông năn nỉ như  trả giá với Chúa. Vì kính sợ, ông xin Chúa đừng nổi giận với ông. Về phía Thiên Chúa, Ngài coi Apbraham như một người con nhõng nhẽo và như một người bạn để tâm sự trò chuyện. Hơn nữa, Apbraham đã không xin điều gì cho mình, nhưng ông cầu xin điều có ích cho người khác.
Cầu xin Thiên Chúa với thái độ con cái đến với cha mẹ, đó là thái độ Thiên Chúa mong đợi. Thiên Chúa không muốn biến mình thành một vị thần oai phong hung dữ, nhưng Ngài luôn muốn thể hiện mình như một người cha yêu thương con cái. Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu đã sống tâm tình con thảo với Thiên Chúa Cha, Ngài gặp gỡ với Chúa Cha mỗi ngày trong cầu nguyện. Ngài khởi đầu ngày mới bằng việc gặp gỡ Thiên Chúa và kết thúc mọi công việc và ngày sống với Thiên Chúa Cha.
Từ kinh nghiệm bản thân, khi các tông đồ đề nghị : Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, Chúa đã dạy các ông thưa chuyện với Thiên Chúa qua kinh Lạy Cha. Trong lời kinh này, Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta đi vào một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, đó là tương quan Cha-Con. Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ xưng hô với Thiên Chúa một cách thân tình như chính Ngài đã sống thân tình với Thiên Chúa : Lạy Cha chúng con ở trên trời. Với lời thân thưa này, chúng ta được bước vào cung lòng của Thiên Chúa như người con gieo mình vào lòng cha mẹ để thỏ thẻ, thân thưa. Lời thưa này còn nâng chúng ta lên một phẩm giá cao trọng, một tư cách đặc biệt vượt trên tất cả mọi vật mọi loài, đó là được trở nên con Thiên Chúa, gọi Chúa là “Bố ơi !”. Giống như cha mẹ ở trần gian không thể từ chối những lời kêu xin của con cái, thì Thiên Chúa là Cha toàn năng, Ngài không những không thể từ chối lời cầu xin của những đứa con nhỏ bé, mà Ngài còn làm tất cả những gì tốt đẹp nhất cho con của Ngài.
Kế đến, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết phải đặt thứ tự ưu tiên trong việc cầu xin cùng Thiên Chúa. Trước hết, chúng ta phải cầu xin cho Danh Cha được rạng sáng, Nước Cha hiển trị, Ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Tại sao phải dành thứ tự trước tiên cho những lời cầu xin này ? Giống như Apbraham ngày xưa đã cầu xin Chúa khoan dung với dân Sodoma, với lời xin cho Danh Cha được rạng sáng, tức là xin cho mọi người, mọi dân tộc được biết Thiên Chúa là Cha, được đón nhận tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa. Danh Chúa được tỏa sáng khắp nơi nghĩa là Thiên Chúa được mọi người nhận biết, tôn thờ và tình yêu thương, quyền năng của Ngài được đón nhận và sinh hiệu quả tốt đẹp cho cả vũ trụ. Cũng vậy, lời cầu xin cho Nước Chúa hiển trị, Ý Chúa được thực hiện có nghĩa là tình yêu của Chúa sẽ phủ kín vũ trụ này, ma quỷ và sự dữ, kẻ gây ra đau khổ, chết chóc, sẽ không còn làm gì được con người và vũ trụ nữa.
Kế đó là những lời cầu xin cho các nhu cầu chung và riêng, của linh hồn và thể xác mỗi người và cộng đoàn. Xin Cha cho chúng con lương thực hàng ngày, xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có lỗi với chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ. Ở bốn lời cầu xin này, trước hết là xin cơm bánh no đủ hàng ngày. Với nhu cầu hàng ngày này, Chúa Giêsu không dạy chúng ta xin nhiều đến dư thừa, cũng không xin “trúng quả, trúng kèo” để thỏa mãn sự tham lam của con người, nhưng chỉ xin để chúng ta biết sử dụng vừa đủ cho mình và cho anh chị em. Xin no đủ hằng ngày giúp cho mỗi người có thể sống thanh thoát với vật chất, sống phù hợp với phẩm giá con người và còn biết sống sẻ chia khi gặp những anh chị em thiếu thốn.
Kế đến là xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng con như chúng con cũng tha kẻ có lỗi với chúng con. Lời cầu xin này thể hiện thái độ khiêm tốn nhìn nhận sự bất toàn của thân phận con người đã xúc phạm đến Thiên Chúa và làm tổn thương lẫn nhau. Hơn thế nữa, lời cầu xin tha thứ này còn là quyết tâm của mỗi người sẽ tha thứ khi có anh em xúc phạm đến mình và lấy sự tha thứ của mình dành cho anh em là vạch mực để cầu xin sự tha thứ của Thiên Chúa. Như thế, lời cầu xin này đặt thái độ tha thứ của mỗi người như một chuẩn mẫu, chúng ta sẽ chỉ nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa khi chúng ta biết tha thứ cho anh chị em. Chúng ta được Thiên Chúa tha thứ nhiều hay ít tùy thuộc việc chúng ta có thật lòng tha thứ cho anh chị em hay không.
Như đã nhắc ở trên, con người ngày nay tự cao tự mãn, nghĩ rằng mình có thể làm được tất cả mà không cần đến Thiên Chúa, vì thế, họ không quan tâm đến việc cầu xin. Có những người rơi vào tình trạng ích kỷ không chỉ trong đời sống tự nhiên mà còn ích kỷ trong đời sống đạo. Những người này chỉ đến với Thiên Chúa khi gặp khó khăn thử thách, họ chỉ cầu xin Thiên Chúa cho những nhu cầu vật chất trước mắt, muốn Chúa giải quyết ngay những khó khăn, mà không mấy khi cầu nguyện cho các nhu cầu của Thiên Chúa, của linh hồn, của anh em và của thế giới.
Cũng từ thái độ cao ngạo, nhiều người tự cho mình là thượng đế và tự đặt mình ngang hàng với Thiên Chúa. Nhiều người tin Chúa, nhưng lại không có tâm tình của người con thảo đối với Cha như Thiên Chúa mong đợi, cũng không có thái độ khiêm tốn cầu xin và không đủ kiên nhẫn để tin tưởng, phó thác cho Chúa các khó khăn và cả cuộc sống của mình.
Lời Chúa hôm nay tái khẳng định cho chúng ta : Thiên Chúa là Cha yêu thương và chúng ta là con của Ngài. Chúng ta được mời gọi sống thân tình với Chúa như con với cha và như bạn hữu với nhau, để trong mọi hoàn cảnh, chúng ta luôn chạy đến sà vào lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài không bao giờ có thể từ chối lời cầu xin của ta. Xin cho chúng ta luôn sống xứng đáng là con của Chúa và luôn tự hào thể hiện mình là những người con ngoan của Thiên Chúa. Amen.

Về mục lục

.

KINH LẠY CHA – LỜI KINH CỦA CHÚA

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trong Thánh Lễ, trước khi đọc Kinh Lạy Cha, chủ tế mời gọi: Vâng lệnh Chúa Cứu Thế và theo lời Người dạy, chúng ta dám nguyện rằng. Động từ “dám” diễn tả một thái độ kính sợ đối với Chúa. Thái độ này bắt nguồn từ truyền thống lâu dài trong Kinh Thánh, được minh họa tuyệt vời trong cảnh Môsê gặp Thiên Chúa trong bụi gai bốc cháy: “Chớ lại gần. Cởi dép ra, bởi đất ngươi đang đứng là đất Thánh” (Xh 3,5). Chỉ nhờ Đức Giêsu Kitô – Thiên Chúa làm người – chúng ta mới dám đến gần Thiên Chúa là Cha, trong niềm tin yêu thảo hiếu: “Trong Ngài, ta được tự do dạn dĩ và được đến cùng Cha, đầy lòng tín thác vì đã tin vào Ngài” (Ep 3,12).

Kinh Lạy Cha là bản kinh tóm lược toàn bộ Tin Mừng, là lời kinh của Chúa, lời kinh duy nhất mà Chúa Giêsu đã trực tiếp dạy các môn đệ. Kinh Lạy Cha còn là lời kinh của Hội Thánh, trong Phụng vụ, Kinh Lạy Cha luôn chiếm ưu thế đặc biệt trong các Giờ kinh Nhật tụng, trong Thánh lễ và trong các Bí tích gia nhập Kitô giáo.

Thánh Luca xếp hoàn cảnh Kinh Lạy Cha ngay sau trình thuật bữa ăn ở nhà Matta, Maria. Câu chuyện xảy ra ở vùng núi Ôliu. Nơi chốn và thời gian của Kinh Lạy Cha là: “Mọi người trở về nhà mình, còn Chúa thì đến và qua đêm ở núi Ôliu”. Cả ngày Chúa giảng trong đền thờ. Đêm đến, Thầy trò kéo nhau về núi Ôliu. Bấy giờ các môn đệ hỏi Chúa cách cầu nguyện. Chúa đã dạy Kinh Lạy Cha. Trong chuyến hành hương Đất Thánh, tôi có đến thăm Nhà Thờ Kinh Lạy Cha tại Giêrusalem. Tảng đá Chúa ngồi dạy Kinh Lạy Cha vẫn còn đó. Nhà thờ này do các Soeur Dòng Kín Cát Minh người Pháp coi sóc. Nơi đây có 114 phiến đá ghi Kinh Lạy Cha bằng 114 ngôn ngữ. Có bản kinh bằng tiếng Việt do Đức cố Giám mục Phạm Ngọc Chi đặt từ năm 1959.

Kinh Lạy Cha là lời kinh duy nhất Chúa để lại. Kinh Lạy Cha, một lời kinh tuyệt vời và phong phú vì chất chứa bao điều huyền nhiệm.Kinh Lạy Cha bao gồm: một lời thân thưa, hai lời nguyện ước và ba lời cầu xin.

  1. Lời thân thưa

Thiên Chúa được gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau : Thiên Chúa vĩnh cửu, Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa tạo dựng, Thiên Chúa thánh thiện… Mỗi danh hiệu nói lên một ưu phẩm, một đặc tính của Thiên Chúa.

Nhưng không một danh hiệu nào lại đậm đà, trìu mến, ý nghĩa, hy vọng cho bằng danh hiệu Cha. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ là mỗi khi cầu nguyện hãy thân thưa :  Lạy Cha chúng con ở trên trời.

Lời mạc khải mối liên hệ chiều sâu giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha. Lời diễn tả một chiều kích thiêng liêng, các môn đệ được đi vào đời sống thân mật, liên kết với Chúa Cha và Chúa Con.

Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Từ ngữ Cha gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm vô cùng.

Từ đây, lời thân thương “Lạy Cha” luôn vang vọng mãi nơi môi miệng của người Kitô hữu. Lời gắn kết họ với Thiên Chúa. Lời nối kết tương quan cha con trong tình yêu. Hồng ân thật cao quý Chúa muốn ban cho con người. Được gọi Thiên Chúa là Cha, được làm con cái của Thiên Chúa. Đó là tư cách rất riêng của những ai là môn đệ Đức Giêsu. Ơn gọi làm con là ơn gọi căn bản nhất, ơn gọi cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Đức Giêsu. Vì thế chúng ta phải sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha, luôn tín thác vào Cha, thực thi ý Cha, và sống tình huynh đệ với tha nhân là anh chị em. Vì chưng toàn thể nhân loại chỉ có một Cha và tất cả đều là anh em chị em của nhau. Khi đọc Kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đọc với tâm tình khiêm tốn và biết ơn: khiêm tốn nhận ra sự thật về con người bất xứng của mình, tạ ơn vì biết rằng tất cả đều là ân huệ Thiên Chúa ban.

  1. Hai lời nguyện ước

“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiểnTriều đại Cha mau đến” là hai lời nguyện ước của những người con thảo hiếu hướng về Cha của mình.

Thiên Chúa không cần đến lời chúng ta cầu nguyện để nhờ đó danh Người và triều đại Người mới được hiển thánh, được tôn vinh. Tự bản chất, Thiên Chúa không cần đến những lời cầu xin của chúng ta, có hay không, danh Người mãi mãi vẫn rạng ngời vinh hiển.

Vậy thì chúng ta cầu nguyện như thế để làm gì? Chắc một điều đó là vì phần ơn ích cho chúng ta.

Hai lời nguyện ước là xin cho danh Thiên Chúa được hiển thánh nơi chính con người chúng ta. Thiên Chúa là Đấng Thánh. Là con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, người con xin Cha thánh hoá, xin Cha kiện toàn mỗi ngày để con được nên thánh, được tham dự vào sự sống thần linh với Cha. Người con cần sống hiếu thảo, biết quan tâm, chăm lo đến những công việc thuộc về Cha của mình. Là con của Cha trên trời, chúng ta phải làm cho Danh Cha được cả sáng và Nước Cha trị đến, Ý Cha được thực hiện. Cha rất vui, hài lòng khi có những người con biết sống hiếu thảo như thế.

  1. Ba lời cầu xin.

“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày; xin tha tội cho chúng con, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”.

Xin cho những nhu cầu chính đáng phần xác phần hồn: lương thực hằng ngày, ơn thứ tha tội lỗi, ơn vượt thắng cám dỗ và ơn thoát khỏi sự dữ. Thân xác cần cơm bánh lương thực. Linh hồn cần ơn thánh. Ba lời cầu xin rất thiết thực đối với sự sống của nhân loại. Lời cầu xin cho có cơm bánh hằng ngày, thiết thực và hữu ích cả trên bình diện thiêng liêng lẫn cuộc sống đời thường. Bởi ngoài nhu cầu thiết yếu của con người là cơm bánh ra, người Kitô hữu cần đến một thứ thần lương tuyệt vời khác chính là Bánh Hằng Sống, là Thánh Thể Chúa Kitô.

Ơn tha thứ thật cần thiết. Trước mặt Thiên Chúa, con người là tội nhân. Tha thứ cho nhau là điều kiện cần và đủ để Chúa tha thứ cho mình. Được Cha yêu thương chăm sóc và thứ tha các lỗi lầm, con noi gương Cha sống yêu thương tha thứ cho anh em của mình. Như thế mới trọn vẹn tình con thảo hiếu.

Cạm bẫy và cám dỗ vẫn bủa vây tư bề. Cần tỉnh thức trước mọi cơn cám dỗ. Ơn Chúa là nguồn trợ lực là sức mạnh để con người vượt thắng mọi cám dỗ.

Phân biệt “thử thách” và “cám dỗ”. Thánh Phaolô tự hào vì những thử thách gian truân gặp phải trong đời: “Gian truân tạo kiên nhẫn, kiên nhẫn tạo nhân đức” (Rm 5,3-5). Còn cám dỗ là sự xúi giục điều xấu, đưa đến tội và sự chết, và Thiên Chúa không cám dỗ ai cả: “Bị cám dỗ, đừng ai nói: Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ. Vì Thiên Chúa không thể bị điều dữ cám dỗ Người, và Người cũng không cám dỗ ai. Mỗi người có bị cám dỗ là do đam mê của mình” (Gc 1,13-14).

Phân biệt “bị cám dỗ” và “sa chước cám dỗ”. Bị cám dỗ là chuyện tự nhiên của thân phận con người. Chính Chúa Kitô cũng bị cám dỗ (Mt 4,1-11). Và vì thế, không có tội lỗi gì khi bị cám dỗ. Vấn đề là ở chỗ chiều theo cơn cám dỗ. Ở đây, ta cần được ơn biện phân các thần khí để nhận diện sự ác, xuất hiện với dáng vẻ bên ngoài “tốt đẹp … nhìn thật hấp dẫn” (St 3,6), nhưng bên trong lại ẩn chứa nọc độc tội lỗi và sự chết. Có chiều theo cơn cám dỗ hay không, điều đó tùy thuộc tâm hồn ta: “Kho tàng, của người ở đâu, lòng người ở đó … Không ai có thể làm tôi hai chủ … ” (Mt 6,21-24). Chúng ta cần sự trợ giúp của Thiên Chúa để hướng lòng về điều thiện: “Chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (GI 5,25).Thánh Phaolô quả quyết: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức chịu đựng” (1Cr 10,13). Chính vì thế, cần tỉnh thức và cầu nguyện liên lỉ (x,Mc 13,9; Cl 4,4; 1Pr 5,8-10).

Nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ“. Sự dữ chính là Satan, kẻ đối nghịch với Thiên Chúa,“kẻ chuyên mê hoặc toàn thể nhân loại”  (Kh 12, 9); “Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” ( Ga 8,44). Chúa Kitô phục sinh đã chiến thắng “Ðầu mục của thế gian này” (Ga 14, 30). Chúa Kitô trấn an chúng ta: “Ðừng sợ, Thầy đã thắng thế gian“. Và vì thế, trong thánh lễ, chúng ta luôn cầu xin cho cả gia đình nhân loại được giải thoát khỏi Satan và mọi việc làm của nó, chúng ta cũng cầu xin hồng ân quý giá là sự bình an và ân sủng để kiên trì chờ đợi Đức Kitô lại đến, Đấng giải thoát chúng ta khỏi sự dữ cách dứt khoát: “Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời“.

Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Vinh danh và thánh ý Chúa được đặt trên hết. Các nhu cầu của con người được đặt sau.

Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Con người được gọi Thiên Chúa là Cha. Mỗi người là con cái của Thiên Chúa.

Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa chước cám dỗ ở tương lai.

Kinh lạy Cha là lời kinh tuyệt vời và huyền nhiệm nối kết con người với Thiên Chúa. Đây là lời kinh đến từ Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Chính vì thế, Thiên Chúa ưa thích và không ngừng ban muôn ơn cho con người thông qua lời kinh thân thương, đơn giản và dễ hiểu này.

Kinh Lạy Cha, lời kinh Chúa dạy, nhờ Chúa Giêsu mà chúng ta “dám” thân thưa lời cầu nguyện hàng ngày với Cha trên trời. Trong thánh lễ, trước khi đọc Kinh Lạy Cha, vị chủ tế nâng cao Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, tuyên xưng rằng:

Chính nhờ Ðức Kitô,

Cùng với Ðức Kitô,

Và trong Ðức Kitô,

Hiệp nhất với Chúa Thánh Thần,

Mọi vinh quang và danh dự,

Ðều thuộc về Cha,

Là Thiên Chúa toàn năng,

Ðến muôn thuở muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

CẦU NGUYỆN CỦA TÔI CÒN THIẾU ĐIỀU GÌ?

 Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Quan sát Đức Giê-su cầu nguyện, các môn đệ nhận ra một nét gì đó rất mới mẻ, rất đặc trưng. Nét này các ông không thấy có trong thói tục của người Do Thái nói chung, đặc biệt của nhóm Biệt Phái, cũng không thấy trong lối cầu nguyện mà Gio-an tẩy giả và nhóm ông ta thường làm. Người Do Thái cầu nguyện dựa trên việc cất cao giọng đọc các thánh vịnh, các lời tiên tri hay sách luật…; chính vì thế mà một vài đại diện trong nhóm môn đệ khẩn khoản xin Đức Giê-su dạy cho biết cầu nguyện, cầu nguyên theo cách thức riêng của Người. Lời thỉnh cầu đó quả là chính đáng, và Đức Giê-su sẵn sàng đáp ứng vì nó liên quan tới điều quan trọng nhất mà người đang muốn khảng định: Cầu nguyện chính là đi vào tương quan phó thác với Cha nhân ái.

Điều mà các môn đệ mong đợi chắc hẳn không phải là: được Thầy dạy cho một công thức cầu nguyện, thứ mà ngày nay chúng ta quen gọi là ‘kinh đọc’. Thời đó người Do Thái vẫn có thói quen sử dụng các thánh vịnh như công thức cầu nguyện; tuy nhiên khi quan sát Đức Giê-su cầu nguyện, các môn đệ đã nhận ra một kiểu cách không giống ai; một nét khác xa với lề thói các Pha-ri-sêu vẫn thường làm nơi công cộng, hoặc các tu sĩ Et-sê-ni làm tại Qum-ram. Hơn thế nữa, điều làm các ông ngạc nhiên nhất khi phát hiện, đó là: tâm tình thâm sâu và con thảo Người có đối với Đức Chúa, Đấng mà Người coi như Cha của mình. Xét cho cùng thì Thánh Vịnh cũng không phải là những ‘kinh đọc’ theo nội dung bổn đạo chúng ta vẫn hiểu ngày nay. Tự nó Thánh Vịnh là những tâm tình rất chân thành mà mỗi người Do Thái dùng để diễn tả tương quan của mình với Đức Chúa, tùy theo hoàn cảnh đổi thay. Trong tương quan đó, các Biệt Phái dành ưu tiên nhấn mạnh trên lòng trung thành nắm giữ lề luật hầu thực hiện giao ước mà tổ phụ họ đã ký kết với Đức Chúa Gia-vê; về phần mình nhóm Gio-an lại quan tâm nhiều hơn tới thái độ thống hối thanh tẩy; vậy thì những khi sử dụng thánh vịnh và các tiên tri để cầu nguyện, Thầy Giê-su nhấn mạnh trên nét chuyên nào nhất?

Đức Giê-su lên tiếng dạy lối cầu nguyện mà sau này các Ki-tô hữu biết đến qua tên gọi ‘kinh Lạy Cha’, rất phổ biến vì nhiều sách đặt cho đoạn Tin Mừng này tiêu đề đó. Thật ra thì điều Người dạy không phải là một ‘kinh’! Ngay trong câu mở đầu, Đức Giê-su đã nói: “Khi cầu nguyện anh em hãy thưa (thay vì nói hoặc đọc) thế này: ‘Lạy Cha, nguyện (thay vì xin làm) cho danh Cha vinh hiển…’ điều này làm cho ta nhận ra ngay: nổi cộm một tâm tình tín thác. Tiếp theo đó, ngay cả những điều ‘xin’ cũng toát ra niềm tin tưởng phó thác sâu đậm nhất. Phải! cái tâm tình này mới chính là chất tố cốt lõi của lối cầu nguyện mà Đức Ki-tô đang muốn truyền đạt cho các môn đệ.  

Đương nhiện, mọi lời cầu nguyện đều ít nhiều phải mang tâm tình này: trong mọi tôn giáo khi tín đồ khấn vái, họ cơ bản tin tưởng sẽ được thần thánh phù trì. Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ: dựa trên cơ sở nào mà họ đặt niềm tin tưởng phó thác? Người Do thái có cơ sở của Cựu Ước: một giao ước sòng phẳng giữa Đức Chúa với dân riêng của Ngài; Gio-an thì nhấn mạnh trên nền tảng thống hối và lãnh phép rửa để được tha tội (xem Lc 3:3-18); các lương dân nói chung thì dựa trên qui luật ‘có đi có lại’ của giao tế xã hội, thờ cúng dâng hương để được thần thánh phù trì…; thế còn Ki-tô hữu, tin tưởng phó thác khi cầu nguyện dựa trên cơ sở nào?

Đức Giê-su dùng hai hình ảnh để quảng diễn cơ sở của tín thác trong cầu nguyên Ki-tô hữu: người bạn và người cha; hai hình ảnh này có tác dụng trước hết làm triệt tiêu toàn bộ các cơ sở được đề cập tới ở trên. Nếu cầu nguyện là ‘nguyện xin’ với bạn và cha, thì sẽ không còn sự sòng phẳng của giao kèo ký kết, không còn sự cách biệt trên dưới, và cũng không còn lễ vật quà cáp lót đường…, chỉ còn một điều duy nhất tồn tại đó là tin tưởng hầu như mù quáng, cố chấp tới độ không ngại gây phiền hà. Câu chuyện gõ cửa nhà bạn vay bánh giữa đêm khuya, hay xin ‘bố’ của ăn, phải chăng là để nêu rõ thái độ rất ‘độc’ của cầu nguyện Ki-tô hữu?

Và điều này không chỉ đơn thuần là một khảng định trên lý thuyết! Có lẽ vào thời điểm Đức Giê-su trả lời câu hỏi của môn đệ, nó còn có vẻ lý thuyết xa vời, gượng gạo nữa là đàng khác: Thiên Chúa mà so sánh được với cha và bạn sao? Thế nhưng sau biến cố Thập Giá và Phục Sinh, thì điều này đã trở thành một thực tế rõ ràng và hiển nhiên. Thực vậy, niềm tin Thập Giá và Phục Sinh trở thành cơ bản trong tương quan (Giao Ước Mới) giữa người môn đệ với Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô. Họ đã nắm bắt được bằng chứng không thể chối cãi về một Thiên Chúa từ nhân tới độ không tiếc bất cứ điều gì đối với những ai kêu cầu Người, ngay cả hy sinh tới Người Con yêu quí nhất Người cũng chẳng từ. Do vậy bất cứ ai tự cho mình là môn đệ Đức Giê-su, mà không biết chất tố này khi cầu nguyện, thì chưa thể được kể là Ki-tô hữu chân chính.

Như vậy, tin tưởng tuyệt đối trong cầu nguyện có thể được coi như thước đo niềm tin Ki-tô hữu. Thánh Phao-lô xác quyết: chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải lẽ, nếu Thần Khí không rên xiết trong ta (xem Rm 8:18-27). Phải chăng Đức Giê-su cũng đã có cùng một ý tưởng đó khi hứa hẹn: ‘Cha trên trời ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người’? Thế thì, một chút chiêm ngắm Thập Giá, một chút đi sâu hơn vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa, là điều rất cần thiết để mọi Ki-tô hữu có thể tiến hành cầu nguyện. Tuy nhiên thật không may, ‘cái chút’ này trên thực tế xem ra vẫn còn thiếu trầm trọng trong cầu nguyện của nhiều người chúng ta. Chính vì lẽ đó mà lời khẩn cầu: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con biết cầu nguyện!” vẫn cứ tiếp tục phải là điệp khúc khởi đầu cho mọi tâm tình cầu nguyện của chúng ta.

Lạy Thầy Giê-su, xin dạy con cầu nguyện! Xin hãy dạy con cầu nguyện với một Thiên Chúa không tiếc xót con bất cứ điều gì, kể cả phó nộp Người Con yêu quí nhất. Xin cho con biết dành chút thời giờ cho việc chiêm ngắm tinh yêu nhân ái và lòng thương xót bao la của Chúa Cha trước khi tiến hành cầu nguyện. Xin Thần Khí Chúa luôn nhắc nhở con rằng: dấu Thánh Giá mà con làm trước giờ cầu nguyện chính là để giúp đưa con vào tâm tình cơ bản và thiết yếu này: trọn vẹn đặt tin tưởng phó thác con thảo nơi lòng Chúa cứu độ xót thương. Chỉ như thế lời cầu nguyện của con mới đạt được tâm tình như Chúa muốn. A-men 

Về mục lục

.

KINH LẠY CHA: LỜI KINH CAO ĐẸP VÀ HOÀN HẢO NHẤT

Lm. GB. Trần Văn Hào

Có một vị giáo sĩ nọ đến chủ tọa buổi cầu nguyện chung với dân chúng. Ông mở đầu với lời phát biểu như sau: “Kính thưa quý vị, quý vị đã đọc nhiều lời kinh, đã nghe nhiều câu kinh đến độ thuộc lòng. Hôm nay tôi muốn quý vị thưởng lãm một bài kinh đặc biệt. Vừa dứt lời, bức màn được vén ra, đàn nhạc trổi lên và một điệu múa được bắt đầu. Vị giáo trưởng say sưa nhảy múa và dân chúng cũng hoan vui cùng nhau múa nhảy để chúc tụng Thiên Chúa. Tất cả hội trường biểu tỏ niềm vui và sự hiệp thông trong vũ điệu, biến thành những tâm tình cầu nguyện sống động để ca khen Chúa.

Các bài đọc lời Chúa hôm nay đều nói về việc cầu nguyện. Lời cầu nguyện chân thành không phải là những sáo ngữ rỗng tuếch bên ngoài, nhưng phải phát xuất từ sâu tận, bên trong tâm hồn. Đặc biệt trong bài Tin mừng, chính Chúa Giêsu đã dạy các học trò cầu nguyện với lời kinh lạy Cha. Đây là lời cầu nguyện hoàn hảo nhất và ý nghĩa nhất để chúng ta diễn bày tâm tình con thảo đối với Cha, đấng ngự trên trời.

Kinh Lạy Cha: Bản tổng lược những định hướng của ơn gọi làm con.

Thánh Phanxicô Salê, Giám mục Thành Genève trong một lần thăm viếng mục vụ, đã hỏi một cụ già rất đạo đức xem cụ thường đọc những kinh gì khi cầu nguyện. Cụ già đơn sơ trả lời: “Thưa Cha, con quê mùa dốt nát, kinh kệ chẳng thuộc nhiều, chỉ biết những câu kinh đơn giản, ví dụ kinh Lạy Cha. Nhưng chưa lần nào con đọc hết lời kinh này được. Khi bắt đầu mở miệng gọi Thiên Chúa là Cha, con xúc động quá, nước mắt cứ tuôn trào. Con nghĩ rằng mình là một người tội lỗi mà được gọi Thiên Chúa là Cha thì con không thể nào cầm trí để đọc tiếp”.

Kinh Lạy Cha mà chính Chúa Giêsu đã dạy, tóm kết những định hướng của cuộc sống ơn gọi Kitô hữu chúng ta. Nó khơi dậy tâm tình con thảo, tín thác vào Thiên Chúa là Cha yêu thương, đấng luôn săn sóc và thấu tỏ những nhu cầu của từng người. Nó cũng dạy chúng ta phải yêu mến tha nhân, quảng đại tha thứ cho họ mỗi khi chúng ta bị xúc phạm. Nó khai mở ý thức làm tông đồ để mở rộng Vương quốc Nước Trời, tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa chứ không phải hư vinh trần thế. Lòi kinh cũng nhắc cho chúng ta biết rằng, cuộc sống Kitô hữu là một cuộc hành trình đi tìm kiếm và thực hành những điều Thiên Chúa mong muốn. Nói tóm lại, kinh Lạy Cha là một hệ thống chính trị, không phải chính trị theo kiểu thế gian, nhưng là chính trị của Vương quốc Nước Trời.

Con gái ông Karl Marx, một triết gia vô thần, đã thú nhận rằng ngay từ nhỏ cô ta đã được giáo dục để trở nên một người vô tín, không tin vào Thiên Chúa. Nhưng tình cờ có lần cô ta xem một bản kinh mà cô thấy rất thâm thúy. Các bạn hỏi cô xem đó là kinh gì, cô dõng dạc đọc một mạch kinh Lạy Cha bằng tiếng Đức. Rất có thể lời kinh đã tạo nên âm hưởng mạnh mẽ trong cuộc đời của cô, cho dù bề ngoài cô ta vẫn tỏ vẻ như là một người vô thần.

Tâm tình khiêm tốn và tín thác.

Một Cha già nọ đã chua chát nhận xét rằng, có nhiều linh mục thời nay khi được giáo dân gọi là ‘Cha’, lại quên mất ơn gọi làm ‘con’ của mình. Đây là ơn gọi căn bản của mọi Kitô hữu, từ các linh mục, tu sĩ đến giáo dân. Mỗi khi dâng Thánh lễ, cả cộng đoàn cùng đọc lên lời kinh mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin mừng hôm nay để hướng lòng chúng ta về Thiên Chúa là Cha chung của mọi người. Chính Chúa Giêsu đã nói : “Đừng gọi ai dưới đất là cha, vì anh em chỉ có một Cha đấng ngự trên trời” (Mt 23,9). Với kinh Lạy Cha, chúng ta mặc lấy tâm tình con thảo để thưa lên với Chúa ‘Abba, Cha ơi’. Cha Thánh Gioan Bosco cũng dạy các con cái mình, đặc biệt các bạn trẻ, phương cách cầu nguyện với 3 sắc nét căn bản: sự đơn sơ (simplicity), tính sống động (liveliness) và lòng chân thành (authenticity). Sự đơn sơ trong phong cách cầu nguyện chính là tâm tình của một người con đang thưa chuyện với ‘bố’ của mình. Vì thế khi cầu nguyện, không cần trưng ra những ngôn từ bác học kiêu sa, không cần phô diễn những sáo ngữ rỗng tuếch hay những nghi thức cồng kềnh. Chính Chúa Giêsu cũng dâng lời cầu nguyện tạ ơn Chúa Cha, vì đã mặc khải những mầu nhiệm cao sâu cho những người đơn sơ nhỏ bé (Mt 11,25). Cũng vậy, sự sống động trong cầu nguyện biểu tỏ thái độ vui tươi khi đến với Chúa, bởi vì cầu nguyện là đối thoại với Thiên Chúa, là Chúa của niềm vui. Nhưng quan trọng hơn cả, lời cầu nguyện của chúng ta phải luôn chân thành, không giả dối, không quá câu nệ vào những nghi tiết trang trọng mang nặng tính hình thức (formalities). Nếu kinh nguyện của chúng ta không gắn kết với cuộc sống, đặc biệt thể hiện qua những nhiệt tình tông đồ để phục vụ cho ‘Nước Cha trị đến’, thì những lời cầu nguyện chúng ta dâng lên Chúa chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch mà thôi. Cha Julius Barberis trong cuốn ‘Vade me cum’ đã viết: “Lòng đạo đức chân thật không hệ tại ở việc đọc kinh nhiều hay ít, nhưng cần nhất là thái độ tâm hồn luôn biết quy hướng về Thiên Chúa (x. chương 35).

Kết luận

Có một bác nông dân nọ quê mùa chất phác ra đồng làm việc. Ông ta vẫn thường mang theo sách kinh để đọc. Một bữa kia vì lơ đễnh, ông để quên sách kinh ở nhà. Đến giờ cầu nguyện như thường lệ, ông bối rối không biết phải làm sao và phải đọc những kinh gì. Ông thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con thật đáng trách. Sáng nay vì vội vàng con quên mang theo sách kinh. Trí nhớ con lại quá kém, chẳng thuộc kinh nào cả. Nhưng con biết Chúa rất thông minh và tốt lành, chẳng chấp lỗi lầm của con. Con sẽ chầm chậm đọc 24 chữ cái từ A đến Z 5 lần. Xin Chúa cứ việc ghép những chữ đó thành một bài kinh như thế nào tùy ý Chúa”. Nghe vậy, Chúa nói với các Thiên Thần: “Trong các lời kinh mà ta nghe hôm nay, đây là lời nguyện hay nhất vì nó xuất phát từ một tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn và rất chân thành.

Mỗi khi mở miệng cầu nguyện với kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu dạy hôm nay, chớ gì chúng ta cũng đọc lên với tất cả sự đơn thành, phát xuất từ tấm lòng con thảo nơi mỗi người.

Về mục lục

.

XIN

Trm Thiên Thu

Vì không có nên mới “xin”, nhưng có khi chúng ta đã có mà vẫn phải xin: Xin lỗi. Thật vậy, “một lời xin lỗi vụng về vẫn tốt hơn là im lặng” (Stephen Gosson, 1554-1624, văn sĩ trào phúng người Anh). Nói đến động thái xin lỗi thì không thể không nhắc tới động thái tha thứ.

Xin lỗi và tha thứ là hai động thái luôn cần thiết và cấp bách, vì đó là động thái của tình yêu thương, của lòng trắc ẩn, của lòng thương xót, đặc biệt là trong năm 2016 này – Năm Thánh LÒNG THƯƠNG XÓT.

Nhân vô thập toàn. Ai cũng là tội nhân, ai cũng cần xin lỗi, và tất nhiên ai cũng cần tha thứ. Vả lại, tất cả chúng ta đều là huynh đệ trong Đại Gia Đình của Thiên Chúa, không thể không yêu thương hoặc không tha thứ.

Tại sao phải xin lỗi? Người ta đưa ra 10 lý do:

  1. Vì những lúc tôi hứa mà không thực hiện cho tha nhân.
  2. Vì những lúc tôi thờ ơ, vô cảm với nỗi đau của tha nhân.
  3. Vì những lúc tôi ích kỷ, vụng về, hiểu lầm nên làm phiền tha nhân.
  4. Vì những lời nói, hành động của tôi, dù vô tình hay cố ý, đã làm tổn thương tha nhân.
  5. Vì những lúc tôi không giúp đỡ tha nhân, và vì những điều tôi muốn mà hèn nhát, không dám làm.
  6. Vì những mối bất hòa, cãi vã, mâu thuẫn,… với tha nhân.
  7. Vì những lúc tôi làm cho chính mình đau khổ và nghĩ xấu về tha nhân.
  8. Vì những lúc tôi cố gắng mà vẫn chưa làm được điều tốt đẹp cho cuộc đời và xã hội.
  9. Vì những lúc tôi đã làm cho tha nhân thất vọng, hụt hẫng, mệt mỏi,…
  10. Vì những lúc tôi đã thay đổi thất thường, đòi hỏi người khác phải theo ý mình.

Tại sao phải tha thứ? Người ta cũng đưa ra 10 lý do:

  1. Tha thứ cho người khác về điều dối gian mà họ dành cho tôi.
  2. Tha thứ cho người khác về những gì xấu xa nhất mà họ nghĩ về tôi.
  3. Tha thứ cho người khác vì họ đã làm tôi phải khóc, đau lòng.
  4. Tha thứ cho người khác về sự không chân thành, lãnh đạm, xa lánh,… mà họ dành cho tôi.
  5. Tha thứ cho người khác về sự vô tâm của họ trước những nỗi khó khăn của tôi.
  6. Tha thứ cho người khác về sự giả dối, chỉ giả vờ quý mến tôi mà thôi.
  7. Tha thứ cho những lỗi lầm của tha nhân để có thể cùng nhau sống tích cực và hướng tới điều tốt đẹp hơn.
  8. Tha thứ cho bất cứ ai làm tôi tổn thương, tự giải thoát mình để có thể sống thanh thản.
  9. Tha thứ cho chính mình, vì đôi khi chính mình sống thật tồi tệ.
  10. Tha thứ cho mọi người, bất kỳ ai, về bất cứ lỗi lầm nào.

Đôi khi “xin” có thể là năn nỉ hoặc mặc cả. Trình thuật St 18:20-32 cho biết về việc Tổ Phụ Ápraham “mặc cả” với Thiên Chúa vì lòng thương xót tha nhân.

Chính Thiên Chúa đã lên tiếng: “Tiếng kêu trách Xơđôm và Gô-mô-ra tht quá ln! Ti li ca chúng quá nng n! Ta phi xung xem tht s chúng có làm như tiếng kêu trách đã thu đến Ta không. Có hay không, Ta s biết.

Ông Áp-ra-ham thưa với Đức Chúa: “Chng l Ngài tiêu dit người lành mt trt vi k d sao? Gi như trong thành có năm mươi người lành, chng l Ngài tiêu dit h tht sao? Chng l Ngài không dung th cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao? Ngài làm như vy, chc không được đâu! Giết chết người lành mt trt vi k d, coi người lành cũng như k d, chc không được đâu! Đng xét x c trn gian li không xét x công minh sao?. Đức Chúa đáp: “Nếu Ta tìm được trong thành Xơđôm năm mươi người lành, thì vì h, Ta s dung th cho tt c thành đó”.

Ông Áp-ra-ham “mặc cả” với Thiên Chúa, ông hạ từ năm mươi người lành xuống còn bốn mươi lăm người, rồi bốn mươi người, ba mươi người, hai mươi người, thậm chí chỉ còn mười người. Dù là con số ít ỏi, Thiên Chúa vẫn chấp nhận mà không nỡ phá huỷ thành Xơ-đôm. Vâng, Thiên Chúa luôn nhẫn nại và muốn tha thứ. Thế nhưng cả thành phố đó cũng không có được mười người lành. Nhân loại vẫn bướng bỉnh, cố chấp, ỷ lại và làm ngơ với lòng thương xót của Ngài. Làn ranh giữa “mặc cả” và “lợi dụng” rất mong manh. Chắc chắn ông Áp-ra-ham không có ý lợi dụng Lòng Chúa Thương Xót, nhưng chúng ta phải lưu ý: Đừng bao giờ lợi dụng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa!

Ma quỷ rất ranh mãnh, sợ nhất là nó cám dỗ chúng ta ảo tưởng về sự thánh thiện của mình. Thật vậy, Thánh Tiến sĩ Têrêsa Hài Đồng (1873-1897) cho biết: “Ma qu thường hay đánh la nhng linh hn qung đi bng cách thúc đy h bước vào nhng hy sinh thái quá, va làm hi sc khe va khiến h không th chu toàn bn phn, đng thi li ly đó làm t mãn. Kinh khủng thật! Thế nên Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Đng đ ma qu tha cơ li dng! (Ep 4:27).

Ước gì chúng ta khả dĩ cảm nghiệm được Thiên Chúa như tác giả Thánh Vịnh để có thể thân thưa chân thành: “Ly Chúa, con hết lòng cm t, Ngài đã nghe li ming con xin. Gia chư v thiên thn, xin đàn ca kính Chúa, hướng v đn thánh, con ph phc tôn th. Xin cm t danh Chúa, vì Ngài vn thành tín yêu thương, đã đ cao danh thánh và li ha ca Ngài trên tt c mi s. Ngày con kêu cu, Chúa đã thương đáp li, đã gia tăng ngh lc cho tâm hn (Tv 138:1-3).

Thiên Chúa thấu suốt mọi sự (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6), không gì có thể che giấu Ngài, dù là điều nhỏ nhoi nhất và tinh vi nhất. Ngài biết chúng ta vốn dĩ xấu xa (x. Lc 11:13) nhưng Ngài vẫn đại lượng: “Chúa tuy tht cao c, nhưng vn nhìn đến k thp hèn; đa ngo mn ngông nghênh, t xa Ngài đã biết. Cho dù con gp bước ngt nghèo, Chúa vn bo toàn mng sng con. Đch thù đang hm hm gin d, Ngài ra tay chn đng, ly tay uy quyn gii thoát con (Tv 138:6-7). Ngài luôn quan phòng, che chở, giữ gìn chúng ta dù có lúc chúng ta không nhớ đến Ngài. Nếu Ngài nhắm mắt làm ngơ chúng ta chỉ trong giây lát thôi, chúng ta sẽ không thể sống nổi. Thế mà chúng ta vẫn luôn muốn nổi loạn!

Hôm nay và bây giờ, hơn bao giờ hết, chúng ta hãy cùng nhau thân thưa với Ngài: “Vic Chúa làm cho con, Ngài s hoàn tt; ly Chúa, muôn ngàn đi Chúa vn trn tình thương. Công trình do tay Ngài thc hin, xin đng b d dang (Tv 138:8).

Thánh Phaolô nói rõ về thân phận của chúng ta: “Anh em đã cùng được mai táng vi Đc Kitô khi chu phép ra, li cùng được tri dy vi Người, vì tin vào quyn năng ca Thiên Chúa, Đng làm cho Người tri dy t cõi chết. Trước kia, anh em là nhng k chết vì anh em đã sa ngã, và vì thân xác anh em không được ct bì, nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sng vi Đc Kitô: Thiên Chúa đã ban ơn tha th mi sa ngã li lm ca chúng ta (Cl 2:12-13).

Thiên Chúa vô cùng đại lượng, cao thượng, từ bi và nhân hậu, chúng ta chỉ là những “con nợ”, chúng ta chưa mở miệng cầu xin mà Ngài đã tha thứ rồi, tha thứ vô điều kiện: “Người đã xoá s n bt li cho chúng ta, s n mà các gii lut đã đưa ra chng li chúng ta. Người đã hu b nó đi, bng cách đóng đinh nó vào thp giá” (Cl 2:14). Vì thế, chắc chắn chúng ta cũng phải sẵn sàng tha thứ cho nhau, không còn cách nào khác.

Cầu xin là điều cần thiết, cầu nguyện là lương thực hằng ngày. Có một lần, sau khi Đức Giêsu cầu nguyện xong, có một môn đệ nói xin Ngài dạy cách cầu nguyện, và Ngài đã dạy Kinh Lạy Cha (Lc 11:2-4; Mt 6:9-13). Đó là “Đệ Nhất Kinh”, là lời kinh cao cả được chính Chúa Giêsu truyền dạy. Chúng ta vô cùng diễm phúc, vì chỉ là tội nhân khốn nạn mà hằng ngày chúng ta nhiều lần được tôn xưng Thiên Chúa là Cha: “Ly Cha chúng con trên tri…”.

Để minh họa lòng thương xót, Ngài kể cho họ nghe câu chuyện về “người bạn quấy rầy và việc cầu xin”. Ngài nói với họ: “Ai trong anh em có mt người bn, và na đêm đến nhà người bn y mà nói: Bn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bn l đường ghé li nhà, và tôi không có gì dn cho anh ta ăn c; mà người kia t trong nhà li đáp: Xin anh đng quy ry tôi: ca đã đóng ri, các cháu li ng cùng giường vi tôi, tôi không th dy ly bánh cho anh được. Thy nói cho anh em biết: du người kia không dy đ cho người này vì tình bn thì cũng s dy đ cho người này tt c nhng gì anh ta cn, vì anh ta c lì ra đó”.

Chỉ là tội nhân, là phàm nhân mà người ta còn thế, huống chi Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Anh em c XIN thì s ĐƯỢC, c TÌM thì s THY, c GÕ ca thì s M cho. Vì h ai xin thì nhn được, ai tìm thì thy, ai gõ ca thì s m cho. Nhưng cũng cần lưu ý: Đừng lải nhải, chớ lẻo mép, lắm lời! (x. Mt 6:7).

Và để tái xác nhận, Chúa Giêsu nói thêm: “Ai trong anh em là mt người cha, mà khi con xin cá, thay vì cá li ly rn mà cho nó? Hoc nó xin trng li cho nó bò cp? Vy nếu anh em vn là nhng k xu mà còn biết cho con cái mình ca tt ca lành, phương chi Cha trên tri li không ban Thánh Thn cho nhng k kêu xin Người sao?. Tin sao, được vậy (x. Mt 8:13; Mt 9:29). Đó là hệ lụy tất yếu vậy. Đúng như Thánh LM Don Bosco (1815-1888) xác định: “Chính đc tin hoàn thành tt c mi s.

Ly Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin giúp con biết vng tin khi cu xin, và luôn biết mau mn tha th cho người khác. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cu đ nhân loi. Amen.

Về mục lục

.

LỜI KINH TUYỆT DIỆU CỦA MUÔN THẾ HỆ

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong cuộc sống, chúng ta thấy có nhiều mối liên hệ được thiết lập. Nào là mối liên hệ anh em, bạn bè, đồng nghiệp, cha mẹ, vợ chồng, con cái…, từ đó nảy sinh các mối tương quan như: thỉnh nguyện, kêu cầu, đơn xin, nguyện vọng… Đó là các mối liên hệ tự nhiên. Tuy nhiên, ngoài các mối liên hệ thông thường trên, nơi các tôn giáo và trong đời sống tâm linh, chúng ta cũng có những mối liên hệ và tương quan với Đấng Siêu Việt. Vì thế, với người tín hữu Kitô, chúng ta luôn cầu nguyện với Thiên Chúa là điều không thể thiếu trong đời sống đức tin của mỗi tín hữu.

  1. Kinh lạy Cha, khuôn mẫu cầu nguyện

Với người Công Giáo, tâm tình đó được khởi đi từ chính mẫu gương của Đức Giêsu khi Ngài thường cầu nguyện với Thiên Chúa Cha. Không những thế, Ngài còn dạy cho các môn đệ của mình cầu nguyện khi một người trong số họ lên tiếng ngỏ lời: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông”. 

Khi được môn sinh bày tỏ ước nguyện, Đức Giêsu đã hướng dẫn các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha.

Qua kinh nguyện này, trước tiên, Đức Giêsu đã giúp cho các môn đệ đi vào mối liên hệ thân tình Cha – con với Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Đây chính là lời nguyện mà chính Đức Giêsu đã thường xuyên thưa lên với Cha Ngài. Ngài cũng muốn cho các môn đệ có được tâm tình ấy như chính Ngài với Thiên Chúa.

Đây là một hồng ân đặc biệt mà chỉ nơi Kitô Giáo mới có. Từ đây, chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha và mỗi người đều được trở thành nghĩa tử của Người.

Khi đã đi vào mối tương quan Cha – con với Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn dẫn các môn đệ đến thái độ tôn vinh Thiên Chúa: “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” “Triều đại Cha mau đến”.

Thật ra, Danh Thiên Chúa mãi mãi rạng ngời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận. Vì thế, không cần đến lời tôn vinh của chúng ta thì những điều đó mới được hiện diện và tồn tại. Không! Nhưng khi chúng ta tôn vinh Thiên Chúa như thế, một lần nữa nói lên sự kết hiệp sâu xa giữa ta với Thiên Chúa và từ đó nảy sinh ơn cứu chuộc nhờ được thánh hóa trong Danh Cha.

Tiếp theo, Đức Giêsu hướng các môn đệ đến những nhu cầu của chính mình. Những lời nguyện đó là: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Đây chính là nhu cầu thiết thực, gắn liền với đời sống thường nhật của con người. Lời nguyện này muốn bày tỏ tâm tình phó thác nơi Thiên Chúa là Đấng An Bài và Quan Phòng cho con cái của Người. Vì thế, đây là lời nguyện vừa mang tính thiết thực, vừa mang tâm tình cậy trông.

Kế đến là lời nguyện xin tha thứ: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con”.

Lời nguyện này nhắc cho người môn đệ biết rằng: mang trong mình thân phận yếu đuối của kiếp người, nên không ai là người không có những sai phạm với Chúa và với nhau. Vì thế, xin ơn tha tội là điều không thể thiếu trong tâm tình cầu nguyện. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể được Thiên Chúa thương xót và tha thứ khi chính ta cũng phải rộng lòng xót thương và tha thứ cho anh chị em đã xúc phạm đến mình. Bởi vì: nếu chúng ta không tha thứ cho nhau, thì Thiên Chúa cũng không tha thứ cho chúng ta.

Cuối cùng, lời kinh hướng các môn đệ ý thức sự giới hạn của bản thân, bởi lẽ, con người thường hướng chiều về tội lỗi hơn là điều thiện. Hơn nữa, trước những bẫy cám dỗ đầy hấp dẫn và bắt mắt, khiến con người chẳng khác gì con thiêu thân lao mình vào đống lửa. Trước dịp tội và cám dỗ, người môn đệ cần phải có ơn Chúa trợ giúp thì mới có thể chiến đấu và chiến thắng được ba thù.

Khi dạy các môn đệ xong, Đức Giêsu đảm bảo cho những lời nguyện xin ấy nếu phát xuất từ sự chân thành, tin tưởng, phó thác thì chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời, vì: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho”.

Như vậy, có thể nói, không có lời kinh nào ý nghĩa và giá trị cho bằng Kinh Lạy Cha, bởi vì kinh này do chính Đức Giêsu dạy cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta. Vì thế, đây là lời kinh tuyệt vời trên hết mọi lời kinh.       

  1. Thực trạng đời sống cầu nguyện nơi chúng ta

Trong đời sống đạo của chúng ta ngày nay, nhiều người đã bỏ cầu nguyện, hay cầu nguyện chẳng khác gì cái máy, hoặc cầu nguyện là trao phó mọi sự nơi Chúa theo kiểu đào nhiệm. Trong khi đó, tâm hồn chúng ta không có tâm tình chi cả. Vì thế, không lạ gì khi thấy nhiều người và có thể chính chúng ta, mỗi khi cầu nguyện là kể ra một dãy dài dằng dặc những nhu cầu của bản thân mà không hề tôn thờ, tạ ơn cũng như hướng tha. Hay nhiều khi chúng ta lại quá tập trung vào nhu cầu thể xác mà quên mất nhu cầu tâm linh.

Lại có những lúc chúng ta cầu nguyện theo kiểu mì ăn liền, tức là: mong sao Chúa phải là người đáp ứng theo lời nguyện xin càng nhanh càng tốt.

Cầu nguyện như thế, vô hình trung, chúng ta biến Thiên Chúa trở thành đối tượng chỉ để đáp ứng nhu cầu của mình, mà không hề nghĩ đến chuyện kết hợp nên một với Người để trở nên giống Người.

Một tâm tình phù hợp với đức tin, ấy là: khi cầu nguyện, không có nghĩa chỉ là xin ơn và cũng chẳng có nghĩa thuần túy là liệt kê những ước muốn, những kỳ vọng, những điều mà mình muốn xin. Nhưng cầu nguyện trước hết là tâm tình tôn thờ, thống hối, tạ ơn rồi mới đến xin ơn. 

Tuy nhiên, cần phải kiên trì trong lời cầu nguyện. Chính vì thế, Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn: “Người bạn bị quấy rầy” và chưng ra hình ảnh trai lỳ của người làm phiền trong đêm.

Cuối cùng, ông chủ khó tính cỡ nào cũng phải mủi lòng và thi ân cho người bạn sỗ sàng này.

Nói thế, không có nghĩa Thiên Chúa như ông chủ trong dụ ngôn, nhưng đây là hình ảnh biểu đạt một vị Thiên Chúa luôn luôn xót thương con người. Thế nên, nếu ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.

Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, thánh Augustinô đã giải thích: “Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Chúa sẽ ban. Nếu chúng ta chưa nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Ngài muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy lòng nhân ái”.

Tắt một lời, kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt hảo. Chính lời kinh này đã liên kết chúng ta nên một với Đức Giêsu và với nhau để dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện xin trong tâm tình Cha – con.

Cũng chính trong mối liên hệ thân thương này, mà Thiên Chúa không ngừng thi ân giáng phúc cho những ai thành tâm, tin tưởng, phó thác và chạy đến với Người.

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con! Xin ban cho chúng con biết năng chạy đến với Chúa như con thơ bên lòng mẹ hiền, để được Chúa yêu thương, ban ơn và tha thứ cho những thiếu xót của chúng con. Amen.

Về mục lục

.

PHẢI CẦU NGUYỆN NHƯ THẾ NÀO?

Lm. Giacôbê Tạ Chúc

Các môn đệ cũng đã nhiều lần thắc mắc, họ không biết phải thân thưa làm sao, hay phải nói thế nào khi cầu nguyện. Rất nhiều lần, các ông thấy Chúa Giêsu đắm mình trong thinh lặng: khi sáng sớm, lúc hoàng hôn, nơi hoang địa, trên biển hồ… Và rồi để giải tỏa những nỗi khắc khoải trong lòng họ, Đức Giêsu đã dạy các học trò cầu nguyện.

Người bảo các công: “Khi cầu nguyện anh em hãy nói Lạy Cha…”

Cha ơi! Như một em bé mới bập bẹ tập nói, nó gọi baba, và lập tức người cha sẽ chạy đến và ẵm em vào lòng. Thiên Chúa là Cha. Thật vậy người Ki-tô giáo luôn tuyên tín vào Mầu nhiệm Thiên Chúa là Cha. Ngài đón nhận con cái mọi người với tình yêu Phụ tử. Mỗi lần con cái kêu lên thì không bao giờ người Cha lại ngoảnh mặt làm ngơ. Trái lại, người cha sẵn sàng và chờ đợi để ban xuống muôn ơn lành cho con cái của mình. Và hơn thế nữa, bao giờ người Cha cũng luôn trao cho con những món quà tốt đẹp nhất.

Và Người nói: “Ai trong anh em là người cha, mà khi con cái xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? (Lc 11, 11). Thiên Chúa nhân từ, Ngài luôn rộng mở và quảng đại trao ban cho mọi người tất cả. Miễn là chúng ta kiên tâm và vững lòng như hình ảnh một người bạn đi đường, giữa đêm khuya gõ cửa nhờ đến một người bạn khác của mình vậy: “Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta lì ra đó” (Lc 11, 8).

Cầu nguyện là tạo một mối liên hệ thâm sâu và vững bền với Chúa, bằng lời, bằng con tim và bằng cả trí hiểu. Như thế cầu nguyện không chỉ là mong muốn và đạt thấu những điều thuộc về mình, nhưng là một khám phá trong tình yêu với Đấng mà mình cậy trông.

Đức Giêsu dạy kinh nguyện cầu nguyện, và chính Ngài cũng đã trải nghiệm qua từng phút giây trong cuộc đời. Anh em hãy tỉnh thức và cầunguyện. Như một thong điệp cho mọi người. Kinh Lạy Cha, một lời nguyện xin chân thành và đầy đủ ý nghĩa cho bất cứ ai, muốn gặp gỡ Đức Giêsu, trong cuộc đời của mình.

Về mục lục

.

ABBA, CHA ƠI!

AM. Trần Bình An

Đức Thánh Cha Phanxicô kể: “Tôi nhớ đến một Linh mục giải tội, là một cha dòng Capuchinô, phục vụ ở Buenos Aires, thủ đô Achentina. Một lần, cha ấy đến gặp và muốn nói chuyện với tôi. Cha ấy nói: “Con cần sự giúp đỡ của Đức Hồng Y (khi ấy Đức Thánh Cha Phanxicô đang là Hồng Y Tổng Giám mục giáo phận thủ đô Buenos Aires). Luôn luôn có rất nhiều người đến xưng tội với con; đủ mọi hạng người, những người khiêm nhường, cũng như người thiếu khiêm nhường, cũng như nhiều Linh mục…. Con đã tha tội cho rất nhiều người và thỉnh thoảng con lo lắng, vì con đã tha quá nhiều.” Chúng tôi đã nói về lòng thương xót và tôi hỏi cha ấy là cha đã làm gì khi cha cảm thấy bối rối như thế. Cha đã trả lời: “Con đến trước nhà Tạm Thánh Thể trong ngôi nhà nguyện bé nhỏ của chúng con và con nói với Chúa Giêsu: Chúa ơi xin tha tội cho con, vì con đã tha tội quá nhiều. Nhưng chính Chúa đã làm gương xấu cho con!” Tôi không bao giờ quên câu chuyện này. Khi một Linh mục cảm thấy được sự thương xót này ngay trên chính da thịt mình, thì Linh mục ấy có thể trao ban sự thương xót cho người khác”.

Vị Linh mục dòng Capuchinô mà Đức Thánh Cha Phanxicô kể, đến chính là Cha Luis Dli, 89 tuổi. Cha đã dùng hết thời gian của mình để ngồi tòa giải tội, ở trong một khu phố ngoại ô thủ đô Buenos Aires. Trong một cuộc phỏng vấn, được hỏi tại sao cha trả lời Đức Hồng Y Bergoglio, như Đức Thánh Cha đã kể, cha Luis trả lời rằng, cha đã rất tin tưởng Đức Hồng Y Bergoglio và một lần Đức Hồng Y đã bảo cha: “Hãy tha thứ! Hãy tha thứ! Điều quan trọng là tha thứ!” Và cha đã trả lời Đức Hồng Y, như Đức Thánh Cha đã kể lại. Chúa Giêsu làm gương xấu, vì Chúa tha thứ tất cả; Chúa không bao giờ đẩy ai ra xa Ngài. Đức Hồng Y Bergoglio, là Đức Thánh Cha bây giờ, đã bị ấn tượng với câu trả lời này. Ngài biết cha Luis ngồi giải tội nhiều giờ sáng, chiều. Nhiều lần ngài đã khuyên các Linh mục đến xưng tội với cha Luis, khi họ gặp những vấn đề. Cha đã lắng nghe họ và đã trở thành bạn với nhiều người trong số họ. Đến với cha họ được lắng nghe và cảm thấy tốt hơn về tinh thần cũng như về mục vụ. Cha Luis chia sẻ thêm: “Cha cám ơn Đức Thánh Cha đã đặt tin tưởng nơi cha, dù cha không xứng đáng. Cha không phải là một Linh mục hay tu sĩ học cao và có bằng cấp, nhưng cuộc sống đã dạy cho cha rất nhiều; cuộc sống đã ghi dấu trên cha, vì cha sinh ra trong sự nghèo khó và cha cảm thấy cha nên luôn luôn trao ban lời thương xót, sự giúp đỡ và gần gũi với những ai đến với cha. Không ai phải bỏ đi với ý nghĩ, là họ không được hiểu hay họ bị hất hủi khinh bỉ.”

Với kinh nghiệm của một Linh mục 89 tuổi đã dành cả cuộc đời để giải tội, Cha Luis khuyên các Linh mục như sau: “Tôi không có gì khác để nói ngoài điều Đức Thánh Cha nói, vì tôi cảm và sống nó. Lòng thương xót, sự thông hiểu, dành cuộc đời mình để lắng nghe, hiểu và thử đặt mình trong “đôi giày” của người khác, để hiểu những gì đang diễn ra. Chúng ta, các Linh mục không nên giải tội như những vị công chức: “Tôi ban cho họ ơn tha tội”, thế là xong, nhưng trái lai, tôi tin là chúng tôi cần tỏ sự gần gũi và đặc biệt đối  xử tốt với họ, vì thường có những người không biết xưng tội là gì. Hãy nói với họ: “Đừng sợ! Đừng lo lắng! Tất cả những gì bạn cần làm khi xưng tội, là mong muốn được trở nên tốt hơn.” Chúng ta hãy quên họ thường pham tội thế nào, hay với ai, hay điều gì, vì những điều này dường như đẩy họ ra xa chúng ta. Và công việc của tôi là mang con người đến gần Thiên Chúa, gần Chúa Giêsu hơn.”

Còn đối với những tội nhân đến xưng tội, cha Luis thường khuyên họ đừng sợ. Cha thường trình bày hình ảnh người cha nhân từ ôm chầm đứa con hoang đàng. Họ thường hỏi cha là Thiên Chúa sẽ tha thứ cho con không. Cha nói với họ: “Thiên Chúa ôm lấy chúng ta, Ngài chăm sóc, yêu thương và đồng hành với bạn. Thiên Chúa đến để tha thứ chứ không để xử phạt. Người từ trời xuống để ở với chúng ta, vậy tại sao chúng ta có thể sợ hãi Thiên Chúa!” (Hồng Thủy OP, Linh mục Luis Dli, cha giải tội giàu lòng thương xót, Vatican Insider 09/05/16)

Linh mục Luis Dli vừa tái xác nhận nhiệm vụ cao cả của Đức Giêsu nhập thể: “Người từ trời xuống để ở với chúng ta, vậy tại sao chúng ta có thể sợ hãi Thiên Chúa!” Người hoàn toán xoá tan đi nỗi sợ hãi bắt nguồn từ Adam, kiêu căng, phản bội, tạo nên hố ngăn cách với Thiên Chúa. Nay Người đưa nhân loại trở về cội nguồn, dẫn dắt những con chiên lầm lỡ đi lạc, trở về đàn chiên duy nhất.

Trích thuật Tin Mừng Chúa nhật 17 thường niên hôm nay, thánh sử Luca tường thuật Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện qua Kinh Lạy Cha, một mạc khải rất quan trọng cho tất cả tín hữu Kitô, cũng như một mẫu mực cho tất cả nội dung cầu nguyện sâu sắc, từ tuyên xưng và bảy ý nguyện đến lời bảo chứng bền vững.

“Abba, Cha ơi!” Lời tuyên xưng thân ái

Sang đến thời Tân Ước, Đức Giêsu là Người đầu tiên khởi xướng, thân thưa gọi Đức Chúa Cha là Abba, Cha ơi!, qua lời mào đầu Kinh Lạy Cha. Như vậy, nhờ Đức Giêsu nhập thế, hạ mình, khiêm nhường mặc lấy thân phận làm người, cứu chuộc con người, nhân loại mới được nâng cao, trở nên nghĩa tử ưu ái của Thiên Chúa Cha. Đồng thời Người cũng trở nên huynh đệ với tất cả những ai thực hành Thánh Ý Chúa. “Ai vâng theo ý Cha Ta ở trên trời, thì kẻ ấy là anh em Ta, là chị em Ta và là Mẹ Ta vậy.” (Mt 12, 50) 

Với lời tuyên xưng thân ái “Abba, Cha ơi,” Người tái khẳng định mối giao hảo yêu thương tuyệt vời giữa Đấng Tạo Hoá với loài thụ tạo thấp hèn, tội lỗi đáng thương. Người không những giải thoát con người khỏi hệ luỵ thế gian, mà còn dẫn loài người trở về thượng giới, khi tuyên dương: “Lạy Cha chúng con ở trên trời.”

Hơn nữa, Người còn hoà giải nhân loại, triệt tiêu đi mâu thuẫn, xóa bỏ nạn đối xử phân biệt, kỳ thị, đố kỵ, oán ghét, thù hằn, chia rẽ, bất đồng, bất mãn, để tất cả mọi người trở nên anh chị em của nhau, cùng tuyên xưng hai chữ chúng controng Kinh Lạy Cha.

Bảy ý nguyện

Ý nguyện đầu tiên: “Danh Cha cả sáng.” Xin Cha thể hiện sự toàn năng của Cha qua lòng nhân hậu vô cùng, qua lòng thương xót vô biên, qua tình phụ tử vô tận. Cha vốn quyền năng, vinh quang tột bực, không cần đến con người can dự, cũng chẳng cần nhờ đến thụ tạo tôn vinh. Chúng con trân trọng biết ơn, cảm tạ Cha. Xin Cha chiếu toả ánh sáng tình yêu, chân lý và công chính trên mọi sự, để thế gian có thể nhận ra Đấng Tạo Dựng muôn loài. 

Ý nguyện thứ hai: “Xin Nước Cha trị đến,” Nước Trời là“nước công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14, 17). “Khi con người ở trong ân sủng của Thiên Chúa, khi thế giới ở trong trật tự của Thiên Chúa: Đó là Nước Trời.” (Lm Alfred Delp)

Ý nguyện thứ ba: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Thánh Ý Chúa muốn ban phổ quát ơn cứu độ, trao bình an, hạnh phúc, hoan lạc đến mọi người, không phân biệt dân tộc, màu da, ngôn ngữ, cũng không loại trừ bất cứ ai.

Ý nguyện thứ tư: “Xin cho chúng con lương thực hằng ngày.” Xin Cha ban đủ dùng hằng ngày, chẳng dư thừa, cũng chẳng thiếu thốn. Không những lương thực nuôi thân xác, mà cả lương thực thiết yếu cho phần hồn được sống, đó là Lời Chúa và Thánh Thể.

Ý nguyện thứ năm: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.” Chúng con đều là kẻ phàm hèn, tội lỗi, xin Cha thương tình thứ tha, cũng như chúng con quyết tâm tha thứ cho tất cả những ai xúc phạm đến chúng con.

Ý nguyện thứ sáu: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.” Từng giây phút trong đời, chúng con phải gay go chiến đấu những cám dỗ của ba thù, thân xác, thế gian và ma quỷ, xin Cha cứu thoát chúng con.

Ý nguyện thứ bảy: “Xin cứu chúng con cho khỏi mọi sự dữ.” Tội lỗi là sự dữ nguy hiểm nhất, thâm độc nhất, luôn đe doạ hãm hại chúng con. Tội lỗi là một lực lượng rất mạnh, rất lớn, rất gần. Thánh Phêrô tông đồ coi tội lỗi chính là sự dữ, là “ma quỉ, thù địch của loài người, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi để cắn xé.” (1 Pr 5, 8)

Kiên trì & tín thác

Xin Cha cho chúng con luôn vững vàng cậy trông và phó thác vào tình Cha nhân từ, giàu Lòng Thương Xót. Cha luôn thấu hiểu và ban cho chúng con những gì cần thiết để sống và sống dồi dào. Nhất là vào những lúc gian nan, thử thách, xin Cha giúp chúng con biết chấp nhận, biết chịu đựng, biết thánh hoá đau khổ, cũng như luôn bền vững Tin Cậy Mến.

Lời bảo chứng

“Nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người.” Chúa Thánh Thần trong chúng con chính là bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa. Đồng thời chính Ngài là động lực thúc đẩy chung con yêu mến Cha tha thiết, đắm say hơn.

Thánh Phaolô giải thích tầm hoạt động quan trọng của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn mỗi người: “Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn. Vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. Và Thiên Chúa, Ðấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho các thánh theo đúng ý Thiên Chúa.” (Rm 8, 26-27)

Chúa dạy đọc kinh để giúp con cầu nguyện, nhưng việc chính là gặp gỡ, nói chuyện giữa Cha và con: “Khi con cầu nguyện, đừng lo phải nói gì! Hãy vào phòng đóng cửa, cầu nguyện với Cha của con cách kín đáo, và Cha con thấy mọi sự, sẽ nghe lời con.” Không cần hình thức, chỉ cần tâm tình phụ tử.” (Đường Hy Vọng, số 127)

Lạy Chúa Giêsu, xin soi sáng cho chúng con dần dần cảm nhận, lãnh hội và thấu hiểu ý nghĩa thâm sâu từng ý nguyện của Kinh Lạy Cha, để chúng con có thể sốt sắng hiệp ý cùng Chúa Thánh Thần dâng lên lời biết ơn, cảm tạ, ca ngợi, tôn vinh Thiên Chúa.

Khấn xin Mẹ cầu bầu, dẫn dắt cho chúng con noi theo Mẹ cầu nguyện, luôn biết tạ ơn, ngợi khen và chúc tụng Chúa trong mọi nơi, mọi lúc. Amen.

Về mục lục

.

THƯA THẦY, XIN DẠY CHÚNG CON CẦU NGUYỆN

Fx. Đỗ Công Minh

   Năm Thánh Lòng Thương Xót, ngẫu nhiên chăng khi Hội Thánh cho người tín hữu được đón nhận Tin Mừng Thánh Luca, trong suốt những Chúa nhật thường niên, để mỗi người càng cảm nhận được Lòng thương xót của Thiên Chúa với con người qua Đức Gie6su Kitô.

   Chúa nhật XVII Thường niên, Thánh Luca ghi lại những đối thoại của Thầy Giêsu với các môn đệ sau khi Người vừa cầu nguyện xong. Chắc hẳn người môn đệ đã chứng kiến những giây phút Thầy mình đang cầu nguyện. Một sự sốt sắng, thánh thiện, một cung cách khiêm tốn, nhẫn nại; một lòng cậy trông tin tưởng tuyệt đối tưởng chừng như Thầy làm một với Cha mình. Có được điều đó hẳn không dễ dàng. Người môn đệ cũng ao ước có những giây phút như thế, cũng muốn được lần nào đó nhận biết được Thiên Chúa là Cha một cách thân mật, thân tình như Thầy vừa nói chuyện với Cha trên trời. Ông không kìm hãm nổi cảm xúc của mình nên đã thốt lên :” Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện , như ông  Gioan đã dạy các môn đệ của ông “ .Câu nói phát xuất từ một thái độ chân thành , một lời cầu xin” thứ thiệt”. Đức Giêsu hẳn đã thấy được tấm lòng của ông, Người đã dạy cho các ông điều Người vẫn thưa với Cha.

       “Khi cầu nguyện anh em hãy nói :

     “ Lạy Cha, xin làm cha Danh Thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến. Xin Cha cho chúng con, ngày nào có lương thực ngày ấy.

       Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con,

      Và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Bản dịch của nhóm CGKPV ).

Những lời cầu nguyện ấy không dài lê thê nhưng chất chứa tất cả những gì người con muốn thưa với Cha của mình.Đức Giêsu cũng nhân lúc này cho các ông thấy thái độ cần có khi cầu nguyện, đó là cần có sự tin tưởng tuyệt đối vào Lòng Thương Xót của Cha, Ngài luôn luôn lắng nghe những thỉnh cầu của con cái mình.Cha trên trời thấu suốt mọi nhu cầu của người con vả sẽ ban Thánh Thần của Ngài cho những người xin. Thái độ thứ hai cần có đó là cầu nguyện luôn, liên lỉ trong khiêm cung nhẫn nhục. Sở dĩ như thế vì con người dễ sa chước cám dỗ, nản chí, nản lòng.

    Lạy Chúa,

Cầu nguyện như Chúa dạy không khó khăn gì, nhưng bấy lâu nay con vẫn không thấm nhuần được bài học Chúa dạy con. Con chỉ biết kêu xin, đòi hỏi là chính. Con chưa biết tìm xem ý Chúa muốn con điều gì, con chưa biết ngợi khen và tôn vinh Danh Chúa cùng ước mong cho Thánh ý Chúa thực hiện nơi con. Cầu nguyện như con vẫn đang làm mới chỉ là mong muốn cho ý con được Chúa đáp lời, được toại nguyện mà không thấy được điều con cầu xin có đẹp lòng Chúa ?  Con chưa tin vững nơi Người.

“Con tưởng rằng con vững tin, tin vào Chúa là Cha nhân hiền,khi đời sống nhẹ trôi êm đềm, với tháng ngày lặng lẽ bình yên. Nhưng khi đường đời gieo nguy khó, bên trời ngập tràn cơn giông tố, con lo âu lạc bến xa bờ, con mới biết rằng con chưa vững tin

Thì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay, con luôn cần đến Chúa từng phút giây Nhờ ơn Chúa con kiên trì tín thác kể từ đây, khi an vui cũng như khi sầu đầy.( Cho con vững tin- Nguyễn Duy )

     Xin  Chúa giúp con  cũng biết thưa lên cùng Chúa như người môn đệ: “Thưa Thầy,Xin dạy con biết cầu nguyện “. Đức tin của con còn non yếu, xin cho con biết vững tin vào Người, để mỗi khi con cầu nguyện, con biết tín thác vào Chúa,  con biết đón nhận ý Chúa hơn là ý con và như thế  con sẽ được Chúa thương nhận lời . AMEN.

Về mục lục

.

BIẾN ƯỚC MƠ THÀNH HIỆN THỰC

Lm. Inhaxio Trần Ngà

Trên đời có nhiều giá trị vật chất hoặc tinh thần rất cao đẹp và quý báu khiến lòng người ước mơ khao khát. Ai cũng mong ước chiếm hữu chúng nhưng rồi mỗi người cảm thấy khả năng của mình có giới hạn, phương tiện của mình còn thiếu thốn, nên người ta đành chào thua. Thế là những giá trị cao quý đó chỉ xuất hiện trong ước mơ của mọi người một thời gian rồi tan biến. Thật đáng tiếc!

Vậy thì tìm đâu ra bí quyết để đạt được ước mơ của mình?
 

Trong câu chuyện cổ Ali Baba và bốn mươi tên cướp, chàng Ali Baba nghèo khổ vào rừng lượm củi kiếm sống qua ngày, vô tình phát hiện bốn mươi tên cướp mang tài sản cướp được về cất giấu trong kho tàng bí mật nằm sâu trong rừng. Lối vào kho tàng được che chắn bằng một phiến đá khổng lồ. Khi tên tướng cướp đứng trước khối đá ấy và đọc câu: “Vừng ơi! mở ra”, thì lạ lùng thay, một cánh cửa bí mật mở ra dẫn lối cho lũ cướp đem của cải cướp được vào kho báu nằm bên trong hang.

Khi bọn cướp đi ra, chúng lại đọc câu thần chú: “Vừng ơi! đóng lại!” thì cánh cửa đá từ từ đóng lại che khuất lối vào kho tàng bí mật.  

Chờ cho bọn cướp ra đi, Ali Baba tiến lại khung cửa bí mật và đọc lại câu thần chú đó. Thật nhiệm mầu, tấm cửa đá nặng nề mở ra, đưa anh vào một kho tàng chứa đầy báu vật và nhờ đó, Ali Baba chiếm hữu được nhiều châu báu trong kho tàng và trở nên giàu có.

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy chúng ta một một bí quyết quan trọng giúp chiếm hữu những kho báu lớn lao. Đây không phải là câu “Vừng ơi! Mở ra!” để đưa chúng ta vào kho báu huyền thoại, nhưng là câu: “Xin thì sẽ được, tìm thì sẽ thấy, gõ cửa thì sẽ mở cho.”

Bí quyết nầy giúp mở ra nhiều kho tàng vật chất cũng như tinh thần, tự nhiên cũng như siêu nhiên. Bí quyết được tóm lại trong ba điều rất đơn giản: “xin – tìm – gõ.”

Thật là điều khó tin! Làm sao mà chỉ cần ba việc đơn giản là xin, tìm, gõ lại có thể giúp người ta đạt được những giá trị lớn lao và cao quý?

Chúa Giê-su biết các thính giả của Ngài đầy ngờ vực khi nghe những lời dạy ấy nên Ngài mới thuyết phục như sau:

Có người kia đến gõ cửa nhà người bạn láng giềng giữa đêm đen và lên tiếng nài xin : “Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả.” Từ trong nhà có tiếng đáp: “Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được?”

Thế rồi Chúa Giê-su kết luận: “Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.”

Với những lời trên đây, Chúa Giê-su nhấn mạnh với chúng ta rằng: Người phàm còn biết đáp ứng lời kêu xin của bạn bè, cho dù trong lòng chẳng muốn, thì huống gì Thiên Chúa là Cha nhân lành, tốt lành gấp trăm lần người cha trên thế gian, lẽ nào Ngài lại không đáp ứng lời con cái nài van.

Theo dòng tư tưởng ấy, Chúa Giê-su nói tiếp: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ư?  Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp sao? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Ngài sao?”

Thế ra lâu nay chúng ta không chiếm hữu được những giá trị cao quý là vì chúng ta chưa tin tưởng nài xin, chưa bền chí kiếm tìm và chưa nhẫn nại gõ cửa đó thôi. Còn ai liên lỉ xin, kiên quyết tìm, nhẫn nại gõ thì thế nào cũng đạt được giá trị cao đẹp mình mong muốn.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúng con cảm tạ Chúa đã dạy chúng con bí quyết quan trọng để đạt được những giá trị cao quý trên đời. Với bí quyết nầy, chúng con có thể biến những ước mơ thành hiện thực.

Vậy thì từ đây, xin cho chúng con đừng dại khờ ngồi ước mơ suông, nhưng phải áp dụng bí quyết này để đạt được những ơn phúc chúng con hằng khao khát, nhất là liên lỉ cầu xin Chúa Cha ban cho chúng con Chúa Thánh Thần là ân huệ quý báu nhất trong cuộc đời. Amen.

Về mục lục

.

KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN

Lam Thy ĐVD.

Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay (CN XVII/TN-C) nói đến sức mạnh của sự cầu nguyện, đặc biệt của những người công chính, của những tâm hồn thiện chí, chân thật. Bài Đọc I (St 18, 20-32) trình thuật: Ông Ap-ra-ham cầu nguyện cùng Đức Chúa, can thiệp cho thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra để khỏi bị thiêu hủy vì “Tội lỗi của chúng quá nặng nề” và được Đức Chúa hứa chỉ cần có ít ra là 10 người công chính trong thành, Người sẽ không thiêu hủy thành. Bài đọc II (Cl 2, 12-14) tuy không nói trực tiếp vào cầu nguyện, nhưng đề cập đến mầu nhiệm Tử nạn Chúa Giê-su đã thực hiện trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn và ngay khi đã bị treo trên thập giá, Đức Ki-tô vẫn luôn là mẫu gương cực thánh về cầu nguyện: Người cầu nguyện cùng Chúa Cha cho tất cả mọi người, kể cả kẻ thù (những kẻ đã lên án rồi bắt trói, đánh đập, đóng đinh Người vào thập giá cho đến chết). Bài Tin Mừng (Lc 11, 1-13) trình thuật: Sau khi Người cầu nguyện thì có một môn đệ xin Người dạy về cầu nguyện. Đức Giê-su liền dạy các môn đệ cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha. Đồng thời Người còn kể thêm các dụ ngôn để nhấn mạnh: “Hãy kiên trì cầu xin thì sẽ được”.

Để vấn đề được sáng tỏ, xin cùng tìm hiểu xem cầu nguyện là gì và vì sao Đức Giê-su Ki-tô lại dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha?

1- Cầu nguyện là gì? Giáo Lý HTCG (số 2557-2647) đã giải thích: Cầu nguyện là hồng ân của Thiên Chúa. Cầu nguyện là giao ước: Khi cầu nguyện, người Ki-tô hữu sống tương quan giao ước với Thiên Chúa trong Đức Ki-tô. Cầu nguyện là hiệp thông: Trong Giao Ước Mới, khi cầu nguyện, người tín hữu sống tương quan sinh động của con cái Thiên Chúa với Người Cha nhân lành vô cùng của mình, với Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô và với Chúa Thánh Thần. Sống đời cầu nguyện là luôn hiện diện trước tôn nhan Thiên Chúa Chí Thánh và hiệp thông với Người. Sự hiệp thông đời sống này lúc nào cũng có thể thực hiện được, vì chính nhờ bí tích Thánh Tẩy chúng ta đã được nên một với Đức Ki-tô (x. Rm 6, 5). Lời cầu nguyện mang đặc tính Ki-tô giáo khi được hiệp thông với lời nguyện của Chúa Ki-tô và được triển khai trong Hội Thánh là Thân Thể Người. Cầu nguyện có cùng kích thước như tình yêu Chúa Ki-tô (Ep 3,18-21).

Như thế, cầu nguyện được gắn liền với lịch sử loài người, và là tương quan giữa con người với Thiên Chúa trong các biến cố lịch sử. Truyền thống linh đạo của Hội Thánh, xem biểu tượng của cầu nguyện như một cuộc chiến đức tin và chiến thắng dành cho người kiên trì ( x. St 32, 25-31; Lc 18, 1-8). Thiên Chúa không ngừng kêu gọi mỗi người đến gặp Người cách huyền nhiệm trong cầu nguyện. Suốt dòng lịch sử cứu độ, chúng ta thấy cầu nguyện như Lời Thiên Chúa và con người mời gọi nhau. Chúa Thánh Thần là Đấng dạy dỗ và nhắc lại cho Hội Thánh tất cả những gì Đức Giê-su đã nói, chính Người dạy Hội Thánh cầu nguyện bằng cách khơi lên những cách diễn tả mới cho các hình thức kinh nguyện quen thuộc: chúc tụng, khẩn cầu, chuyển cầu, tạ ơn và ca ngợi. Chuyển cầu là cầu xin cho người khác. Lời cầu nguyện của Ki-tô hữu không có biên giới: chúng ta cầu nguyện cho mọi người, kể cả kẻ thù.

2- Cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha: Còn vì sao Đức Ki-tô lại dạy môn đệ cầu nguỵên bằng kinh Lạy Cha? Trước khi dạy cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, Đức Giê-su đã dạy: “Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.” (Mt 6, 6). Ấy cũng bởi vì: “bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi Người Con. Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.” (Ga 14, 13-14). Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, vâng lệnh Chúa Cha xuống thế thực thi sứ vụ cứu độ nhân loại, nên bất cứ việc gì Người thực hiện nơi trần thế đều vâng theo Thánh ý Chúa Cha. Cứ nghe Lời Người cầu nguỵên nơi vườn Ghết-sê-ma-ni thì đủ rõ: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26, 39). Thậm chí trước khi chết treo trên thập giá, Người còn cầu nguyện cùng Chúa Cha để xin tha cho những kẻ đã làm khốn mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ; vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23:43).

Trong Thông điệp Ánh sáng Đức tin “Lumen Fidei” (số 46), ĐGH Phan-xi-cô viết: “Trước hết là Kinh Nguyện của Chúa, kinh “Lạy Cha”. Trong kinh này các Ki-tô hữu học cách thông phần vào cảm nghiệm tâm linh của Đức Ki-tô và nhìn mọi sự bằng cặp mắt của Người. Từ Người, Đấng là Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Con Một Đức Chúa Cha, chúng ta biết Thiên Chúa và do đó có thể làm dấy lên trong những người khác ao ước đến gần Người.” Quả thế, khi cầu nguyện chính là lúc người tín hữu giao tiếp, giao hòa với Thiên Chúa, là trực tiếp thông phần vào cảm nghiệm tâm linh của chính Con Người đã dạy phương thức “cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha”, để có thể “nhìn mọi sự bằng cặp mắt của Người” (cũng tức là “được Đấng Toàn Năng cho nhìn linh thị, của người ngủ mà mắt vẫn mở trong lúc xuất thần.” – Ds 24, 16); ngõ hầu “được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3, 10-11).

Nội dung kinh Lạy Cha bao hàm điều răn trọng nhất của Ki-tô Giáo là “Mến Chúa + yêu người”. Khi người tín hữu đã thật sự “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực” thì đương nhiên “có tin thật trong lòng mới xưng ra ngoài miệng” (Rm 10, 10) lời chúc tụng, ngợi khen “danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Và nếu quả thật người tín hữu “yêu người thân cận như yêu chính mình”, thì những lời khấn xin Thiên Chúa ban cho bản thân thế nào thì cũng cầu xin Người ban cho tha nhân (là những “người thân cận” của mình) như vậy. Xin luơng thực hàng ngày cho mình, chẳng lẽ lại để cho anh em đói hay sao? Như thế thì có còn là yêu người như yêu mình (“ái nhân như ái thân”) nữa không? Xin tha nợ cho chúng con thì chúng con cũng phải tha kẻ có nợ chúng con mới là phải lẽ. Cuối cùng thì xin không chỉ cứu “một mình con” mà là cứu tất cả “chúng con” cho khỏi sự dữ.

Như vậy là đã rõ vì sao Đức Giê-su lại dạy môn đệ cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha. Duy có một điều cần lưu ý là khi cầu nguyện, người tín hữu cần thực hiện việc cầu nguỵên theo đúng nội dung Người Thầy Chí Thánh đã truyền dạy; chớ không chỉ là đọc thuộc lòng kinh Lạy Cha như cái máy, hoặc lải nhải tràng giang đại hải xin hết ơn này tới ơn khác (“Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin.” (Mt 6, 7-8). Và nhất là “khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.” (Mt 6, 5-6). Khi đã toàn tâm toàn ý “tâm sự với Chúa” thì những cử điệu bên ngoài – nếu có – cũng phải xuất phát từ trong thằm sâu tâm hồn của tín hữu, chớ không phải là a dua, bắt chước người này, người khác (bặm môi, méo miệng, nhăn mặt, chau mày, sùi sụt … cho “ra vẻ”).

Để khỏi sa vào thói quen máy móc khi cầu nguyện, hãy lắng nghe Lời Chúa: Đức Giê-su đã dạy chúng ta phải nói gì khi cầu nguyện, nhưng Người cũng chỉ cho ta một phương thức cầu nguỵên đặc biệt là: “quấy rầy Thiên Chúa”. Vâng, xin hãy cầu nguyện như “người bạn quấy rầy”. Lần giở lại từ đầu bài Tin Mừng, Đức Giê-su dạy chúng ta cầu nguyện, mà ở đây là cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha. Tiếp liền đó, Người kể câu chuyện một người bạn đến xin bạn bánh vào nửa đêm. Từ chối, nhưng ngưới bạn ấy cứ lì ra đó, chắc chắn cuối cùng cũng phải cho bạn bánh. Sau câu chuyện này, Đức Ki-tô khẳng định chắc nịch: ”Cứ xin thì sẽ được”. Mấu chốt vấn đề chính là ở điểm này. Rõ ràng Người muốn dạy chúng ta cứ xin, xin mãi, xin đến độ “lì” ra đó, thì dù Chúa Cha có không muốn cho chăng nữa, nhưng rồi Người cũng phải cho vì cái đức “lì” của chúng ta. Ấy là nói cho vui vậy, chớ Chúa Cha thương chúng ta như con cái, thì dù có tội lỗi thế nào mặc lòng, Người cũng vẫn thương. Người đã thương chúng ta như vậy, thì chẳng lẽ chúng ta xin mà Người lại không cho, chẳng lẽ khi chúng ta “xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho” (Lc 11, 12) hay sao?

Ăn thua là người xin có thực sự tin rằng những điều họ xin sẽ được Thiên Chúa ban cho hay không, nhất là mục đích nhắm tới của việc xin đó (xin cho bản thân cũng như tha nhân sống Lời Chúa một cách chân thành, hay chỉ xin cho bản thân được “vinh thân phì gia”?). Cũng cứ theo thường tình mà nói thì mục đích nhắm tới của việc xin, chắc chắn phải là xin cho bản thân. Xin cho bản thân thì chẳng nói làm gì, vì bản thân vốn chỉ thích chọn cho mình phần tốt nhất, mà khi đã ao ước được phần tốt nhất, lẽ tự nhiên là sẽ “lì có hạng” được ngay. Nhưng ở đây, Đức Ki-tô kể câu chuyện “người bạn quấy rầy” không phải xin bánh cho bản thân anh ta, mà là xin cho một người bạn khác nữa. Thế thái nhân tình xưa cũng như nay, xin cho mình, cầu cho bản thân, thì khó khăn cách mấy, cực nhọc thế nào cũng chẳng ngại, nhưng xin cho người khác, dù cho người đó có là người thân cận ruột thịt của mình đi chăng nữa, thì cũng xin… hãy đợi đấy! Nói ra thì có vẻ chua chát, nhưng thực tình nếu có phải xin cho ai khác, thì cũng chỉ “được chăng hay chớ”, “cho cũng tốt mà không cho cũng chẳng sao, có thiệt hại gì đến mình đâu”! Có lẽ cũng chính vì thế, nên Đức Ki-tô mới khuyên dạy là cứ “lì” thì sẽ có kết quả.

Cuối cùng thì chắc ai cũng đồng ý là – thông qua dụ ngôn “Người bạn quấy rầy” – Chúa dạy chúng ta đức tính kiên trì và nhẫn nại (“cứ lì ra đó” – Lc 11, 8). Kiên trì và nhẫn nại như tổ phụ Ap-ra-ham xin cho thành Xơ-đôm (St 18, 20-32), như chính Người Thầy Chí Thánh đã vì tội lỗi loài người mà kiên nhẫn đến độ bị đánh đòn, tra tấn, bị treo trên thập tự, đến gần tắt thở mà vẫn xin cùng Chúa Cha tha tội cho kẻ đóng đinh mình; kiên nhẫn đến độ đã tắt thở còn tiếp tục bị lưỡi đòng đâm thấu con tim. Kiên nhẫn ư? Từ Hán Việt “kiên nhẫn” ( 堅 忍 ) có nghĩa: Vững vàng, bền bỉ (kiên) chịu đựng (nhẫn). Riêng chữ “nhẫn” (忍) gồm 2 chữ: chữ “đao” (刀) ở trên và chữ “tâm” (心) ở dưới, ngụ ý: nhẫn nại là chịu đựng như bị dao đâm vào tim. Lì chịu đòn, chịu dao đâm vào tim – như xưa Đức Giê-su Thiên Chúa đã chịu vì tội lỗi loài người – để xin Chúa Cha “tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ”. Ấy mới là người môn đệ đích thực của Đấng Cứu Thế, và chỉ có như vậy thì việc xin mới có kết quả, “Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11, 10). 

Ôi! “Lạy Chúa! Mũi đòng nào đâm thấu con tim, đinh nhọn nào còn loang máu đào, sỉ nhục nào còn vương trên mắt. Lạy Chúa! Những buớc nào gục ngã đau thương, bao roi đòn hằn vết thê lương, đường tình đó Ngài dành cho con. Lạy Chúa! Xin cho con bước đi với Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài thập giá trên đường đời con đi. Lạy Chúa! Xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con cùng chết với Ngài, để được sống với Ngài vinh quang.” (Văn Chi – “Con đường Chúa đã đi”). Amen.  

Về mục lục

.

CẦU NGUYỆN HAY CẦU XIN?

Lm .Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Một thực tế trong đời Kitô hữu đó là hễ cầu nguyện thì không thể không cầu xin. Hễ nói đến cầu nguyện là người ta nghĩ ngay đến những ơn cần cầu xin. Có lẽ vì cuộc sống con người lắm gian truân và đầy dẫy những bất an, gian khổ, bên cạnh đó thì khát vọng cũng như nhu cầu của con người thì dường như vô tận. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ một chút thì việc cầu xin cũng là một cách thế cầu nguyện mang tính hiện sinh. Dù rằng theo cái nhìn tu đức truyền thống thì khi cầu nguyện, việc cầu xin xem ra không bằng việc tạ ơn, ngợi khen hay chúc tụng Thiên Chúa.

Lần kia một môn đệ nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy các môn đệ của ông.” Và Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha, xin làm cho thánh danh Cha vinh hiển…; xin tha tội cho chúng con…” (x.Lc 11,1-4). Tin Mừng Matthêu cũng tương thuật việc Chúa Giêsu dạy cầu nguyện với “Kinh Lạy Cha” bằng những lời cầu xin (x.Mt 6,9-13). Qua những lời cầu xin chúng ta nhận ra một vài tâm tình vừa chính đáng vừa phải đạo và cũng vừa rất “dễ thương” như sau:

1. Tâm tình tin tưởng, cậy trông vào tình yêu và quyền năng của Đấng chúng ta cầu xin: Đã cất lời cầu xin với ai, thì dĩ nhiên ít nhiều đã có sự tin tưởng và cậy trông vào người ấy. Xin với ai điều gì, thì giả thiết đã tin tưởng người ấy có khả năng thực hiện điều chúng ta xin. Xin điều gì với ai là giả thiết đã cậy trông vào tình yêu của người ấy dành cho mình. Dưới một góc độ nào đó, thì lời cầu xin cũng là một lời tuyên xưng đức tin.

2. Tâm tình thống hối, ăn năn: Nếu điều cầu xin là ơn tha thứ thì người cầu xin không chỉ bày tỏ lòng tin vào sự khoan dung của người mình xin mà còn bày tỏ sự ăn năn thống hối về lỗi lầm mình đã phạm. Theo cái nhìn này thì lời cầu xin cũng là lời xưng thú tội lỗi.

3. Tâm tình khiêm hạ nhìn nhận sự hạn chế, bất toàn và cả bất lực của mình: “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ…”(x.Lc 11,3-4; Mt 6,11.13). Nội hàm những lời cầu xin trên đây quả là một lời thú nhận sự bất toàn, bất lực của người xin. Không có ơn Chúa thì chúng ta không thể làm được sự gì tốt đẹp. Nếu Chúa không nâng đỡ thì chúng ta không thể đứng vững trước mãnh lực của thần dữ, như “sư tử luôn rảo quanh chúng ta để rình chờ cắn xé, phân thây”(x.1P5,8).

4.Tâm tình thảo hiếu: “Nguyện cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”(x.Mt 6,9-10; Lc 11,1). Một người con biết nghĩ đến Danh, Vương quyền, Ý, Lời của Cha là một người con sống đạo thảo hiếu đúng phận.

5. Sự liên đới, tương thân tương ái trong nghĩa tình huynh đệ: Chúng ta nhận ra sự thật này qua hai từ “chúng con” của lời kinh “Lạy Cha”. Hơn nữa, khi đã tuyên xưng, nhìn nhận Thiên Chúa là Cha, thì một cách nào đó đã nhìn nhận tha nhân là anh chị em của mình. Sự tương thân tương ái được biểu hiện cách rõ nét và thiết thực bằng sự liên đới.

Câu chuyện Abraham cò kè bớt một thêm hai để xin Thiên Chúa tha thứ cho dân hai thành Sôđôma và Gômôra là một minh hoạ. Lòng hiếu thảo luôn sánh đôi với nghĩa tình huynh đệ. Một người sống có tình với mẹ cha, thì hẳn luôn có lòng với anh chị em. Ngược lại khi đã biết sống có tình với huynh đệ thì luôn làm đẹp lòng mẹ cha. Và các đấng bậc sinh thành vốn nhận tình nghĩa huynh đệ của đàn con như là một trong những cách thế đẹp nhất mà đàn con bày tỏ lòng thảo hiếu với mình. Chúng ta nhận ra sự thật này khi cha ông chúng ta đã gắn kết hai mối tình ấy bằng hạn từ ghép “tình hiếu đễ”.

Mối tình của Abraham dành cho dân hai thành Sôđôma và Gômôra một cách nào đó còn bị giới hạn. Dù rằng đã dùng hết cách để có kè bớt dần con số người công chính để xin Thiên Chúa thứ tha cho họ, thì Abraham đã không vượt qua con số “mười”. Điều này cho chúng ta thấy rằng mặc dù tình thân của Abraham đối với Thiên Chúa thật đậm đà, nhưng vẫn còn bị hạn chế cách nào đó vì sự mạc khải thời Cựu Ước chưa hoàn hảo. Chắc hẳn Abraham luôn mong ước được thấy ngày của Con Người, ngày mà chân lý được tỏ bày cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu Kitô (x.Ga 8,56). Giả như ông chứng kiến ngày ấy thì ông đã bớt dần con số xuống chỉ còn một người công chính. Quả vậy, “cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng đã được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (Rm 5,18).

Tuy nhiên, có thể nói rằng cầu xin không phải là để Thiên Chúa biết các nhu cầu của chúng ta, vì chính Người đã biết rõ những gì chúng ta cần trước khi chúng ta cất lời khẩn xin (x.Mt 6,8). Và dĩ nhiên, đã là người Cha trên các người cha và là nguồn gốc của mọi tình phụ tử, thì Thiên Chúa sẵn sàng ban mọi sự tốt lành cho chúng ta. Và cần phải khẳng định rằng nội hàm những lời cầu xin là để giúp chúng ta nhận biết những gì chúng ta cần, và để chúng ta sẵn sàng đón nhận cũng như sẵn sàng thực thi.

“Xin cho danh Cha cả sáng”. Chúng ta không xin thì trời xanh vẫn phản ánh vinh quang của Người. Chúng ta xin là để biết cách cộng tác với ơn Chúa làm cho Thánh danh Người tỏ rạng nơi cuộc đời con người chúng ta. “Xin Cha tha nợ cho chúng con”. Chúng ta chưa xin thì Đức Kitô đã chết để ban ơn tha thứ cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Cầu xin là để biết cách thế đón nhận hồng ân tha thứ Chúa đã tặng ban. Một trong những cách thế để đón nhận hồng ân thứ tha của Thiên Chúa đó là quảng đại tha thứ cho tha nhân (x.Mt 6,14-15).

Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để tiếp xúc, gặp gỡ Thiên Chúa. Tiếp xúc, gặp gỡ Chúa để biết Chúa, yêu mến Chúa và để thực hiện thánh ý của Người. Như thế, cầu nguyện, cầu xin không phải là để bắt Thiên Chúa thực hiện đièu chúng ta muốn, nhưng là để bắt chính mình thực thi điều Thiên Chúa muốn. Vấn đề đặt ra đó là cần phải biết cầu xin những gì đẹp ý Chúa. Một trong những điều đẹp ý Chúa nhất đó là tôi và mọi người cùng được hưởng ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc ngay hôm nay và ngày sau.

Về mục lục

.

KINH LẠY CHA – LỜI CẦU NGUYỆN PHONG PHÚ

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG : Lc 11,1-13

(1) Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người : “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông”. (2) Người bảo các ông : “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói”. “Lạy Cha, xin làm cho Danh thánh Cha vinh hiển, Triều đại Cha mau đến. (3) Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy. (4) Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con. Và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”. (5) Người còn nói với các ông : “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói : “Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, (6) vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả. (7) Mà người kia từ trong nhà lại đáp : “Xin anh đừng quấy rầy tôi : Cửa đã đóng rồi. Các cháu lại ngủ cùng giường với tôi. Tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được”. (8) Thầy nói cho anh biết : Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh cần, vì thể diện”. (9) Thế nên Thầy bảo anh em : anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho. (10) Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. (11) Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó ? (12) Hoặc nó xin trứng, mà lại cho nó con bò cạp ? (13) Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời. Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người ?”

  1. Ý CHÍNH :

Theo đề nghị của môn đệ, Đức Giêsu đã dạy các ông Kinh Lạy Cha và 3 lời khuyên về sự cầu nguyện như sau : Một là lời cầu nguyện phải vừa tâm tình lại vừa ngắn gọn phong phú. Hai là phải kiên trì cầu xin. Ba là phải vững tâm và phó thác cho Chúa quan phòng định liệu.

  1. CHÚ THÍCH :

– C 1-2a : + Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia : Thánh Mat-thêu đặt Kinh Lạy Cha trong khung cảnh Bài giảng trên núi” (x. Mt 6,5-15). Còn ở đây thánh Luca không nói về thời gian và nơi chốn của Kinh Lạy Cha, mà chỉ cho thấy có liên quan giữa gương cầu nguyện của Đức Giêsu với việc Người dạy môn đệ cầu nguyện.

C 2b-4 : + Lạy Cha : Lời xưng hô mở đầu đơn giản hơn trong Tin mừng Mát-thêu. Khi gọi Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu muốn dạy môn đệ khẩn cầu với Thiên Chúa như với một người Cha rất gần gũi thân thương. + Xin làm cho Danh thánh Cha vinh hiển : Xin cho Danh Cha được nhìn nhận là thánh, vì Cha là Đấng Thánh. Đây là lời ước nguyện cho hết mọi người được nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa. + Triều đại Cha mau đến : Triều đại ám chỉ Hội thánh trần thế hữu hình. Ở đây xin cho Hội thánh được lan truyền khắp nơi, cho Vương quốc của Thiên Chúa được mọi người đón nhận.- Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy : Xin Chúa ban thực phẩm cần dùng hằng ngày. Của ăn nuôi thể xác là cơm ăn áo mặc và của nuôi linh hồn là Lời Chúa, Mình Thánh Chúa và Thánh Ý Chúa (x Ga 6,34). + Xin tha tội cho chúng con : Luca đổi chữ “lỗi” trong Mát-thêu (x. Mt 6,12) thành chữ “tội”. Hai từ “tội, lỗi” tiếng Hy lạp còn có nghĩa là “nợ”. Tội là trở ngại lớn nhất cho Triều Đại của Thiên Chúa cũng như cho sự chia sẻ yêu thương, nên cần phải xin Cha tha tội. + Vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con : Tha thứ cho người mắc lỗi với mình là điều kiện để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho mình (x Lc 23,34; Mt 6,14; Mc 11,25). + Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ : Cám dỗ nguy hiểm nhất của ma quỷ là xúi người ta chối bỏ đức tin. Do đó Đức Giêsu kêu gọi “Hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22,40).

C 5-8 : + Người còn nói với các ông: “Ai trong anh em có một người bạn.” : Đức Giêsu dùng dụ ngôn về người bạn quấy rầy để dạy môn đệ phải kiên nhẫn nài xin và đừng bao giờ ngã lòng khi xin mà chưa nhận được. Kiên trì xin đi xin lại là điều kiện để lời cầu của ta được Thiên Chúa chấp nhận. Thiên Chúa sẽ không ban ơn để khỏi bị quấy rầy giống như người chủ nhà trong bài dụ ngôn. Khi không ban ngay điều ta xin là Người để ta có dịp tỏ ra kiên nhẫn tin tưởng cậy trông và phó thác hơn vào Người. + Vì thể diện : Câu chuyện dụ ngôn xoay quanh ba nhân vật như sau: Nhân dịp có một anh bạn A lỡ đường ghé lại trọ tại nhà của bạn mình là B. Anh B liền chạy sang nhà anh C cũng là bạn để xin vay ba cái bánh về nhà đãi khách. Anh C khi ấy đã vào giường ngủ rồi và rất ngại phải ra khỏi giường lấy bánh cho bạn mình. Nhưng vì anh B cứ kêu nài mãi nên cuối cùng anh C đành phải ra khỏi giường thỏa mãn tất cả những gì anh B cần, với lý do: dù không phải do tình thân hữu thúc đẩy thì cũng vì sợ sẽ bị mất thể diện, sợ bị mang tiếng là ích kỷ vì đã từ chối giúp đỡ bạn bè trong lúc khó khăn. Từ đó Đức Giêsu muốn các môn đệ nhớ đến Thiên Chúa là Cha. Người sẽ ban điều tốt lành và cần thiết là ơn thánh hóa của Thánh Thần, cho những kẻ thành khẩn và kiên trì cầu xin Người.

C 9-13 : + Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho… : Lời cầu nguyện là điều kiện cần để được Chúa nhậm lời: Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho ai xin, ban đức tin cho những ai đi tìm, và sẵn sàng rộng mở Nước Trời cho những ai kiên trì gõ cửa nhà Người. + Ai trong anh em là một người cha mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó ? : Đức Giêsu cho biết Thiên Chúa sẽ chấp nhận lời cầu nguyện của chúng ta, vì Người là Cha nhân hậu và hay thương xót hơn các người cha thế gian bội phần. + Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời : Đức Giêsu so sánh giữa tình thương có giới hạn của các bậc cha mẹ thế gian vốn gian ác, với tình thương vô biên của Thiên Chúa là Cha thánh thiện và đầy từ tâm. + Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người : Ơn Thiên Chúa ban cho những kẻ kêu xin Người là “Thánh Thần”, tương đương với “những của tốt lành” trong Mát-thêu (Mt 7,11). Chính “Thánh Thần làm cho ta nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8,15).

  1. CÂU HỎI : 1) Dựa theo lời Đức Giêsu dạy trong kinh Lạy Cha, bạn hãy cho biết : Cầu nguyện là gì ? Phải cầu nguyện với ai và cầu khi nào ? Nên cầu xin những gì ? 2) Có được cầu xin ơn với Đức Mẹ và các thánh không ? 3)Trong thực tế có nhiều người không có đức tin chẳng cần cầu xin mà thi cử vẫn đậu, buôn bán vẫn thành công, uống thuốc vẫn khỏi bệnh, gieo trồng đúng thời vụ vẫn bội thu… Đang khi nhiều tín hữu siêng năng cầu khấn mà vẫn không đạt được kết quả như ý. Như vậy phải chăng chẳng có Chúa Mẹ nào hết và cầu nguyện chỉ là một sự mê tín và là điều vô ích ?

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA : “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9).
  2. CÂU CHUYỆN :

1) SỨC MẠNH CỦA LỜI CẦU NGUYỆN :

Có một bác sĩ gốc công giáo, nhưng đã bỏ không cầu nguyện và không đến nhà thờ dự lễ từ năm lên 10. Một hôm bệnh viện của ông ta tiếp nhận một cô bé 8 tuổi mắc bệnh đau ruột thừa cần phải được mổ cấp thời. Trước khi đưa em lên bàn mổ, viên bác sĩ căn dặn em rằng : “Này em, bệnh em cần phải mổ. Bây giờ em sẽ phải uống một liều thuốc mê để thiếp ngủ trong lúc tôi giải phẫu cho em”. Em bé này từ nhỏ đã được bà mẹ có lòng đạo đức huấn luyện thói quen cầu nguyện mỗi tối trước khi đi ngủ. Khi nghe bác sĩ nói sắp phải đi ngủ, em liền xin bác sĩ cho phép và quì gối đọc kinh rồi cuối cùng kết thúc bằng lời cầu nguyện như sau : “Xin Chúa chúc lành cho chú bác sĩ và xin Chúa cho con được mau khỏi bệnh”. Vị bác sĩ giải phẫu cho em thuật lại rằng : chiều hôm đó ông đã cầu nguyện thật sốt sắng, một việc làm mà sau ba mươi năm trời lãng quên, đến nay ông mới bắt đầu làm lại.

2) CẦU NGUYỆN VỚI LÒNG TÍN THÁC CẬY TRÔNG :

Vào cuối thập niên 80, tại Rumani, một trận động đất lớn đã xảy ra làm hơn 10 ngàn người chết. Ngay sau trận động đất, một người cha đã chạy đến nhà trường tìm đứa con trai của mình.

Ngôi trường nhiều tầng đã sập đổ, nhưng người cha định hường lớp học của con và cố đào bới trong đống gạch vụn để tìm kiếm con. Những người cứu hộ và cảnh sát bảo ông hãy về nhà và đừng đào bới nữa vì rất nguy hiểm. Nhưng ông không nghe và cứ tiếp tục đào bới.

Ông đào trong suốt 12 tiếng đồng hồ cũng chẳng thấy tăm hơi con đâu. Ông vừa đào vừa nghĩ: “Mình đã hứa thì phải thực hiện, biết đâu nó còn sống trong đống gạch này thì sao?”

Nghĩ thế rồi, ông lại tiếp tục đào, 24 tiếng rồi 48 tiếng đồng hồ trôi qua… ông chợt nghe có tiếng động. Ông gọi tên người con và ông nghe thấy có tiếng kêu rất nhỏ từ xa vọng lại : “Ba ơi ! “. Nước mắt tuôn trào và ông hăng hái đào tiếp cho đến tận lớp học của đứa con.

Thằng bé còn sống cùng với 20 đứa khác đang ngồi trong một góc phòng lớp học chưa bị sập. Nó ôm chầm lấy cha và nói : “Con đã bảo với các bạn của con rằng : “Ba tôi đã hứa, dù thế nào ba cũng sẽ đến đón tôi. Các bạn cứ yên tâm đi, chắc chắn ba tôi sẽ đến”.

Tiếng kêu gọi ba của đứa con giống như lời kinh Lạy Cha : “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.

3) VỮNG TIN VÀO TÌNH THƯƠNG CỦA CHA :

Giữa đêm khuya, một căn nhà bằng gỗ ở nơi hẻo lánh đột nhiên bốc cháy. Trong cơn hoảng hốt, vợ chồng con cái ngủ ở tầng trệt đều mau chạy thoát ra ngoài và đành bất lực đứng nhìn ngọn lửa đang bốc cháy ngôi nhà. Rồi mọi người sực tỉnh nhớ ra vẫn còn một đứa con trai út năm tuổi còn ngủ trên tầng gác. Phải làm gì đây ? Không ai có thể vào nhà được. Giữa lúc mọi người đang bấn loạn thì từ cánh cửa sổ trên gác, cậu bé đã thò đầu ra và kêu thất thanh : “Ba ơi cứu con”. Từ phía dưới, người cha nói với cậu : “Con hãy nhảy xuống đi”. Nhưng làm sao cậu bé dám nhảy xuống theo lời cha, bởi vì nhìn xuống, cậu chỉ thấy khói và lửa. Cậu bé thốt lên trong tuyệt vọng: “Làm sao con dám nhảy xuống vì không nhìn thấy ba”. Thế nhưng người cha đã trấn an : “Con không thấy ba nhưng ba thấy rõ con. Con cứ yên tâm nhảy xuống đi”. Thế là với lòng tin cậy phó thác, cậu nhảy từ trên gác xuống và đã nằm gọn trong cánh tay của cha.

  1. SUY NIỆM:

1) Cầu nguyện là gì ? :

Cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa, như tổ phụ Ápraham trong bài đọc một hôm nay, hoặc như Đức Giêsu đã dành lúc sáng sớm tinh sương hoặc đêm khuya thanh vắng để đàm đạo với Chúa Cha, Đấng đã sai Người đến. Cả đời sống của Đức Giêsu là một lời cầu nguyện liên lỉ. Khi làm bất cứ việc gì, hay trước khi quyết định điều gì quan trọng, Đức Giêsu đều cầu nguyện để tìm biết ý Chúa Cha và thi hành. Khi đựoc môn đệ yêu cầu, Đức Giêsu đã dạy các ông cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, trong đó hàm chứa những tâm tình như sau:

2) Nội dung lời cầu Chúa dạy trong kinh Lạy Cha :

– Qua lời thưa : “Lạy Cha”, Đức Giêsu dạy môn đệ phải thưa chuyện trực tiếp với Thiên Chúa như đứa con hiếu thảo tâm sự với người cha thân yêu của mình.

– Nội dung lời cầu nguyện Chúa dạy bao gồm bốn tâm tình chính yếu : Một là Chúc tụng tôn vinh Thiên Chúa qua câu : ”xin làm cho Danh thánh Cha vinh hiển, Triều đại Cha mau đến“ ( Lc 11,2 ). Hai là tâm tình ăn năn sám hối vì những tội ta đã xúc phạm đến Chúa trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót qua câu : ”Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con“ ( Lc 11, 4). Ba là cảm tạ hồng ân Chúa đã thương ban, và bốn là xin Chúa ban các ơn lành hồn xác qua câu : ”Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy“ ( Lc 11,3), và “xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ“  (Lc 11,4).

3) Cần cầu xin với lòng cậy trông phó thác :

Sau khi dạy môn đệ kinh Lạy Cha, Đức Giêsu còn khuyên họ phải kiên nhẫn cầu nguyện với lòng cậy trông và hòan tòan tín thác vào tình thưong của Thiên Chúa là Cha.

  • Kiên nhẫn nài xin Chúa : như dụ ngôn hai người bạn mà người này giữa lúc đêm khuya tìm đến nhà người kia yêu cầu được giúp đỡ. Lúc đầu bị chủ nhà từ chối với lý do cả nhà đã ngủ. Nhưng cuối cùng chủ nhà cũng phải trỗi dậy lấy bánh cho người kia để tránh khỏi bị quấy rầy.
  • Tín thác vào tình thương của Chúa : Có những điều chúng ta cầu xin mà xem ra đã không được Chúa đáp ứng. Thực ra Chúa chưa ban là do chúng ta còn thiếu sự kiên trì và thành tâm. Hoặc Chúa không ban không phải vì không muốn, nhưng có thể Ngài thấy điều đó không có lợi thực sự cho ta. Bù lại, Ngài sẽ ban những ơn khác mang lại hạnh phúc đời đời cho ta như lời Đức Giêsu : ” Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó ?… Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” ( Lc 11,11.13).

 4) Áp dụng thực hành :

-Phải làm mọi việc với hết khả năng của mình : Thiên Chúa là Cha chung của mọi người lành kẻ dữ (x Mt 5,45b). Ngài muốn mọi người cộng tác bằng việc tuân theo các quy luật tự nhiên do Ngài sáng tạo là các luật tự nhiên như: Phải học hành chăm chỉ mới mong thi đậu, phải uống thuốc đúng liều lượng theo toa bác sĩ mới hy vọng được khỏi bệnh, phải gieo trồng đúng thời vụ và đúng kỹ thuật mới hy vọng đạt một mùa gặt bội thu… Trừ ra trong vài trường hợp vì ích lợi thiêng liêng mới được Ngài can thiệp để làm phép lạ mà thôi. Do đó chúng ta không được ỷ lại vào tình thương và quyền năng của Chúa và lười biếng làm việc, chỉ biết cầu xin Chúa ban theo ý riêng của mình.

-Phải vừa cầu nguyện vừa vâng theo ý Chúa : Chúng ta vừa phải làm việc vừa phải cầu nguyện, và hãy phó thác kết quả thành bại cho Chúa, noi gưong Đức Giêsu trước giờ chịu khổ nạn đã cầu xin Chúa Cha : “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Trong kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cũng dạy môn đệ cầu nguyện theo ý Chúa Cha : “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Chúng ta cần vâng theo ý Thiên Chúa vì chỉ Ngài mới biết điều nào tốt nhất cho ta. Nhiều khi chúng ta xin được trúng số mà không biết tiền bạc chính là rắn độc làm hại linh hồn của mình sau này. Nhiều khi chúng ta cầu xin Chúa ban ơn lành mà trái lại chúng ta lại gặp tòan các tai ương họan nạn… Nhưng thực ra các tai ương đó chính là thuốc đắng chữa lành thói hư như người ta thường nói : “Thuốc đắng dã tật”. Đó cũng là phương cách Chúa thường dùng để dạy chúng ta bỏ đường gian ác để đi theo con đường thánh thiện đẹp lòng Chúa.

-Phải mở lòng đón nhận Thánh Thần : Cần có đức tin chúng ta mới hiểu rằng : khi thành tâm cầu nguyện là ta đã được Thiên Chúa nhậm lời rồi. Nhưng Chúa thường ban ơn khác với điều ta nghĩ. Phải sau một thời gian, chúng ta mới có thể nhận ra các biến cố kia đều là hồng ân Thánh Thần, được Chúa thương ban để đem lại phần rỗi là hạnh phúc đời đời cho chúng ta.

  1. THẢO LUẬN : 1) Gặp một người đau khổ, bạn nên khuyên giải họ dưới lăng kính đức tin như thế nào ? 2) Bạn nên phản ứng thế nào khi cầu xin những điều chính đáng mà lâu ngày vẫn không được Chúa ban như ý ?
  2. NGUYỆN CẦU :

– LẠY CHÚA GIÊSU. Con xin thú thật là con ít cầu nguyện. Con chưa cảm nghiệm được giá trị của lời cầu nguyện và thường tỏ ra ngần ngại mỗi khi phải đến nhà thờ dự lễ đọc kinh.

– LẠY CHÚA. Xin cho con biết noi gương Chúa: luôn sống hiếu thảo với Chúa Cha, năng dành thời gian thưa chuyện với Cha, lắng nghe lời Cha trong Sách Thánh và sẵn sàng vâng theo thánh ý Cha, tránh lợi dụng lòng khoan dung của Cha. Xin cho con luôn sẵn sàng cộng tác cho Nước Cha mau đến. Con xin phó thác cậy trông vào lòng nhân hậu của Cha luôn ban ơn lành hồn xác cho con, nhất là ban Thánh Thần để giúp con đón nhận được hồng ân cứu độ và được hạnh phúc đời đời trong Nước Cha.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN_C

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Chúng ta nhận thấy rõ ràng Lời Chúa của Chúa nhật tuần thứ 17 hôm nay muốn dạy chúng ta không những về cầu nguyện, mà còn phải kiên trì, nhẫn nại trong sự cầu nguyện. 

Xin kể câu truyện vui. Một người đàn ông lái xe loanh quanh tìm một chỗ trong bãi đậu xe. Mồ hôi tóat ra ướt đẫm vì gần đến giờ của buổi họp rất quan trọng mà chưa tìm được một chỗ đậu.  Nhìn lên trời ông cầu nguyện “Lạy Chúa xin giúp con tìm được một chỗ đậu xe, con hứa sẽ đi tham dự Thánh lễ Chúa nhật hàng tuần ở nhà thờ thánh Giuse suốt đời con.”  Lạ lùng thay, ông nhìn thấy một chỗ ngay trước tòa nhà của buổi họp.  Người đàn ông ngước mắt lên trời và nói “Thưa Chúa, thôi con không muốn làm phiền Chúa nữa, con đã tìm ra một chỗ.”

Trước hết, để hiểu rõ thánh ý Chúa muốn nói và dạy chúng ta điều gì, chúng ta trở lại bài Tin mừng Chúa nhật 2 tuần trước đây.  Một người thông luật đến hỏi Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được đời sống đời đời?”  Chúa đã dạy ông “Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình.”  Sau đó Chúa đã dùng câu truyện người Samarita nhân từ, tốt lành và quảng đại để dạy cho ông biết anh chị em mình là ai.  Trong bài Tin mừng tuần trước, chúng ta nghe câu truyện hai chị em Mát-ta và Maria đón mời Chúa vào nhà.  Bà Maria dành thời giờ ngồi dưới chân Chúa chú ý lắng nghe lời Chúa dạy.  Có lẽ 2 bài Tin mừng này muốn cho chúng ta biết là Ki-tô hữu muốn có sự sống đời đời, chúng ta phải thứ nhất làm việc tốt, có lòng bác ái và quảng đại với tha nhân, và thứ hai phải trở nên tốt lành, có một sự liên hệ mật thiết với Chúa qua sự lắng nghe Lời Chúa.

Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo ngay sau bài Tin mừng tuần trước, vì vậy thánh Luca muốn nhấn mạnh cho chúng ta biết tầm quan trọng và cần thiết của việc hy sinh dành thời giờ lắng nghe Lời Chúa, cho nên thánh Luca muốn dạy chúng ta một bài học về cầu nguyện, bởi vì cầu nguyện là nền tảng đời sống KI-tô hữu.  Nếu không có đời sống cầu nguyện, thì không phải là Ki-tô hữu chân chính, không biết Chúa là ai. / Tin mừng cho chúng ta biết hôm ấy, Chúa Giêsu vừa cầu nguyện xong, Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa mà còn cầu nguyện để làm gương cho chúng ta, các môn đệ đến hỏi Ngài: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện.”  Chúa đã dạy các môn đệ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Chúng ta rất quen thuộc với Kinh Lạy Cha trong Tin mừng của thánh Mát-thêu mà chúng ta thường đọc.  Kinh Lạy Cha trong Tin mừng thánh Lu-ca hôm nay ngắn gọn hơn. Trước hết, Chúa dạy các môn đệ cầu nguyện để biết chủ đích sống đời sống đức tin của mình làm sáng danh Chúa và làm cho Nước Cha trị đến, cộng tác với Chúa trong kế hoạch cứu độ nhân loại như chính Chúa đang thực hiện. Thứ hai, cầu nguyện để xin Chúa Cha ban cho những nhu cầu cần thiết cho thân xác, mà còn nhận ra và “ăn” những nhu cầu cần thiết cho đời sống tinh thần, đó là, Lời Chúa dạy và siêng năng, sốt sắng lãnh nhận Thánh Thể. Thứ ba, biết sống nhân từ, tha thứ những lỗi lầm cho người khác như Chúa đã thương xót tha thứ tội lỗi chúng ta.  Và sau cùng, cầu nguyện để có can đảm và sức mạnh tránh xa những sự dữ, gian dối và cám dỗ của ma quỉ, thế gian và bởi cái tôi của mình. Sau khi đã dạy các môn đệ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu còn đưa ra dụ ngôn “Xin bánh ban đêm” để dậy chúng ta phải có niềm tin vững chắc vào tình yêu thương của Chúa Cha cho chúng ta, do đó phải có thái độ kiên trì, nhẫn nại trong cầu nguyện.

Ông bà anh chị em thân mến.  Kiên trì và nhẫn nại cũng là ý nghĩa của bài đọc một hôm nay.  Bài đọc 1 Chúa nhật tuần trước cho chúng ta biết ông Abraham đã tiếp đón 3 người khách lạ một cách thân tình.  Sau đó, Abrahan biết 1 trong 3 người khách lạ là chính Thiên Chúa đang trên đường tới 2 thành phố gần Biển Chết.  Sau đó Chúa đã mời ông cùng đi và trên đường đi, Chúa cho ông biết 2 thánh phố Sô-đô-ma và Gô-mô-ra sẽ bị tiêu diệt vì đời sống sa đọa, vô luân lý và tội lỗi quá nặng nề. Chúng ta nhận thấy Abraham kiên trì nài nỉ cầu xin Chúa tha thứ nếu ông tìm thấy chỉ có mấy người công chính trong thành.  Chúng ta hãy tưởng tượng Chúa sẽ làm gì, hay 2 thành phố đó sẽ ra sao nếu ông Abraham không dừng lại ở con số 10, mà còn kiên trì nài nỉ xuống những con số thấp hơn!

Kiên trì cầu nguyện là một bài học rất quan trọng mà chúng ta cần phải học để trưởng thành trong đời sống tinh thần.  Trong đời sống hàng ngày, chúng ta học bài học kiên nhẫn chờ đợi tại ngã tư đường, tại văn phòng bác sĩ, tại các chỗ buôn bán, shopping centers hay tại các tiệm ăn. Chúng ta biết trong nhiều công việc hay nhiều hoàn cảnh, nếu muốn thành công hay đạt được những gì chúng ta mong ước phải có sự kiên nhẫn chờ đợi.  Hơn nữa kiên nhẫn tăng phẩm giá con người và giúp chúng ta trở thành những người văn minh.  Thế nhưng nhiều khi trong đời sống tinh thần, chúng ta lại không có đức tính kiên trì trong sự cầu nguyện, hay cầu xin.  Chúng ta cho rằng chúng ta không cần phải kiên trì cầu nguyện “thông báo” cho Chúa biết những gì chúng ta muốn, cần, hay không phải đánh thức Chúa dậy vì Chúa biết tất cả mọi sự trong đời sống chúng ta.   Chúng ta muốn Chúa phải trả lời những gì chúng ta thắc mắc, hay phải ban ngay cho chúng ta những gì chúng ta muốn hay cầu xin.  

Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với thái độ kiên trì và nhẫn nại, không phải là Chúa không yêu thương, hay không biết, hay không nghe những lời chúng ta cầu nguyện hay kêu xin, cũng không phải Chúa làm ngơ hay không muốn ban, nhưng Chúa muốn tăng thêm và muốn đức tin của chúng ta trưởng thành hơn. Chúng ta cần phải biết 2 điều quan trọng.  Một là phải có niềm tin vững chắc vào tình yêu, lòng thương xót và sự quan phòng của Chúa cho chúng ta, và thứ hai là điều chúng ta cầu xin. Chúa có thể không ban điều chúng ta xin, mà vẫn nghe lời chúng ta và ban cho chúng ta một ơn khác. Vì lẽ điều chúng ta xin có thể sẽ không đem lại lợi ích thiêng liêng, nhiều khi còn hại cho cuộc sống hiện tại, hay tương lai, hay cuộc sống đời đời của chúng ta. Ngoài ra, Chúa biết chúng ta cần gì và ban cho chúng ta những ơn chúng ta không nghĩ tới hay không xin. Chúng ta phải luôn ý thức Chúa yêu thương và quảng đại với chúng ta như người chủ vườn gieo giống ban ơn một cách rộng rãi.

Phần cuối bài Tin mừng, Chúa nói “Các con hãy xin thì sẽ được”, có nghĩa là chúng ta sẽ nhận được điều chúng ta xin. Chúng ta Cầu xin Chúa giúp chúng ta biết lắng nghe và sống Lời Chúa dạy, cũng như nhận ra sự quan trọng và cần thiết của sự cầu nguyện trong đời sống đức tin, trong đời sống Ki-tô hữu, để chúng ta sống mật thiết với Chúa đời này, và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu đời sau như lời Chúa hứa.

Về mục lục

.