CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH. NĂM C (Lòng Thương Xót Chúa)

919

CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH

(LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA)

Lời Chúa: Cv 5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20,19-31

——–

Mục lục

1. Cảm nhận và làm chứng cho lòng Chúa xót thương (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Lòng thương xót  (Lm. Thái Nguyên)

3. Lòng thương xót của Đức Giêsu Phục sinh (Jorathe Nắng Tím)

4. Chúa là Đấng giàu lòng thương xót (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

5. Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật II Phục sinh (Lm. Phạm Hồng Thái)

6. Lạy Chúa tôi  (Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)

7. Lạy Thiên Chúa của con! (Trầm Thiên Thu)

8. Bình an của Đức Kitô Phục sinh (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

9. Chúa giàu lòng thương xót (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

10. Bình an cho anh em (Lm. Vũ Đình Tường)

11. Còn đó lời Thầy (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

12. Trái tim chịu thương tích  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

13. Củng cố đức tin (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

14. Tình yêu Thiên Chúa (Anna Nguyễn Lan, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

15. Bình an từ lòng thương xót Chúa (Lm. Xuân Hy Vọng)

16. Niềm tin của tôi (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

17. Những vết sẹo  (Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)

18. Đức Giêsu Kitô, Ngài như thế đó! (Aug. Trần Cao Khải)

 

Mục lục

1. Giáo hội: Cộng đoàn nhân chứng cho Đấng Phục sinh (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Nỗi oan Tôma  (Gm. Giuse Vũ Duy Thống)

3. Gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

4. Phẫn nộ thì dễ, tha thứ mới khó  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Lòng Thương xót Chúa tồn tại đến muôn đời (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Lòng Thương xót Chúa biến đổi con người (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

7. Ơn bình an của Lòng Chúa Thương xót  (Trầm Thiên Thu)

8. Lòng từ bi  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

9. Chúa Nhật 2 Phục sinh_C (Lm. Antôn giáo xứ, Tulsa)

10. Dấu chỉ Phục sinh!  (P. Trần Đình Phan Tiến)

11. Thánh Tôma và Lòng Thương xót Chúa  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

12. Hồng ân đức tin (AM. Trần Bình An) 

13. Tha thứ là bản chất của Lòng Thương xót (Lm. Anthony Trung Thành)

14. Sống tin yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

15. Đức Giêsu mạc khải lòng thương xót qua ơn ban bình an (Vinc. Ngọc Biển)

16. Hãy đụng chạm tới lòng Chúa thương xót (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

17. Lòng thương xót của Thiên Chúa không bao giờ chết  (Lm. Giuse Trực)

18. Truyền đạt đức tin trong thế giới hôm nay (Lm. Đan Vinh)

19. Hãy trở thành hiện thân của Lòng Thương xót Chúa  (Huệ Minh)

20. Sống sứ mệnh nhận trao lòng thương xót  (Dã Quỳ)

 

CẢM NHẬN VÀ LÀM CHỨNG CHO LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được gọi là Tông đồ của Lòng Chúa thương xót. Ngài đã cổ võ lòng sùng kính Lòng Chúa thương xót và đã có sáng kiến thiết lập ngày lễ kính Lòng Chúa thương xót vào Chúa nhật II Phục sinh hằng năm. Trong một bài giảng về Lòng Chúa thương xót, vị Giáo Hoàng người Ba Lan đã tuyên bố như sau: “Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa về Tình Yêu của Ngài, Tình Yêu ấy mạnh hơn sự chết và tội lỗi. Tình Yêu ấy được mạc khải và được thực hành là Lòng Thương Xót, thúc giục mỗi người đáp lại tình yêu với Đấng bị đóng đinh… Với những tâm tình đó, chúng ta cử hành Chúa nhật thứ II sau lễ Phục sinh từ Năm Toàn Xá (năm 2000). Chúa nhật thứ II sau lễ Phục sinh được gọi là Chúa nhật Lòng Thương Xót (Divine Mercy Sunday)”.

Thực ra, giáo huấn về Lòng Chúa thương xót không phải là một khám phá mới của Thánh Gioan Phaolô II. Lòng Chúa thương xót được thể hiện trên từng trang của Kinh Thánh, Cựu ước cũng như Tân ước. Lịch sử Thánh, hay lịch sử Cứu độ ghi lại một chuỗi liên hoàn những phản bội của con người và lòng bao dung của Thiên Chúa. “Ngài là Đấng chỉ nổi giận trong giây lát, nhưng yêu thương suốt cả đời” (Tv 29,6). Hôm nay cũng vậy, con người lãng quên Thiên Chúa, thậm chí muốn gạt bỏ Ngài ra khỏi cuộc đời, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương, vì yêu thương là bản chất của Ngài. Thánh Gioan Phaolô đã có công khơi gợi lại hình ảnh của Lòng Chúa thương xót, dựa vào nền tảng Kinh Thánh và những mạc khải tư Chúa tỏ cho thánh nữ Faustina, người đồng hương với Ngài, và cũng là người tông đồ được Chúa chọn làm sứ giả của Lòng Chúa thương xót.

Một ngày nọ, Chúa Giêsu đã nói với nữ tu Faustina: “Nhân loại sẽ không có hòa bình cho đến khi biết tin vào Lòng Thương Xót của Chúa” (Nhật Ký, 300). Bối cảnh xã hội hiện tại cho thấy nhiều lo âu: Đại dịch Covid-19 chưa chấm dứt, thì lại nổ ra cuộc chiến tranh tàn khốc tại Ucraina. Trong thời đại vẫn được mệnh danh là thời hoà bình, mà cuộc chiến sát nhân vẫn xảy ra. Mặc dù biết bao lời kêu gọi, phê phán và lên án, cuộc chiến vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, trái lại còn đang nguy cơ leo thang và lan rộng. Tôn vinh Lòng Chúa thương xót và thiết tha cầu nguyện sẽ giúp cho thế giới tìm lại hoà bình. Chúa đã hứa với chúng ta như vậy, qua thánh nữ Faustina.

Thánh Gioan Phaolô II đã gọi Lòng Chúa thương xót là tặng phẩm Phục Sinh. Trong Mùa Chay và Tuần Thánh, chúng ta đã cử hành và suy niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Thập giá diễn tả một cách hoàn hảo Lòng Chúa thương xót. Hình ảnh người Tôi tớ đau khổ của Đức Giavê được mô tả trong sách Ngôn sứ Isaia đã thực hiện nơi Đức Giêsu: Người không còn hình dạng cho chúng ta nhìn ngắm. Người mang lấy trên thân mình tất cả tội lỗi nhân gian. Thiên Chúa đã “đánh phạt” Người (x. Is 52,13-53,12). Quả vậy, trên cây thập giá, Đức Giêsu như một tội nhân khốn khổ và như một người nghèo khó tới mức tột cùng. Dường như Thiên Chúa cũng bỏ rơi Người: “Lạy Thiên Chúa! Lạy Thiên Chúa! sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27, 46).

Khi tôn vinh Lòng Chúa thương xót, chúng ta hãy nhận ra Người đang hiện diện giữa chúng ta. Đức Giêsu Phục sinh không phải một câu chuyện huyền thoại, cũng không phải một câu chuyện của thời xa xưa. Trái lại, Đấng Phục sinh đang sống và hiện diện giữa chúng ta. Ngỏ lời với người trẻ trong Tông huấn “Chúa Kitô đang sống”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định: “Chúng ta cần luôn tự nhắc mình là Chúa Kitô đang sống, bởi vì chúng ta có nguy cơ coi Chúa Giêsu Kitô chỉ như một mẫu gương trong quá khứ, như một kỷ niệm, như một Đấng đã cứu chúng ta cách nay hai ngàn năm. Điều này không ích gì cho chúng ta, vì nó sẽ để chúng ta cũ kỹ y như trước, nó sẽ không giải thoát chúng ta. Đấng đổ đầy ân sủng của Người trên chúng ta, Đấng giải thoát chúng ta, Đấng biến đổi chúng ta, Đấng chữa lành và an ủi chúng ta là Đấng đang sống. Người là Đức Kitô Phục Sinh, tràn đầy sức sống siêu nhiên, mặc lấy ánh sáng vô hạn. Vì thế Thánh Phaolô đã nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền” (1 Cr 15,17) (số 124).

Tông đồ Tôma đại diện cho trường phái hoài nghi, chỉ tin vào những gì cảm nghiệm bằng giác quan và sẵn sàng thách thức những điều kiện để tin. Cuộc gặp gỡ với Đấng Phục sinh đã cho ông một kinh nghiệm: Không phải chỉ những gì động chạm được bằng chân tay hay nhìn thấy tận mắt, thì mới đáng tin. Hơn nữa, “phúc cho những ai không thấy mà có lòng tin”. Cuộc gặp gỡ này giúp ông tin mà không cần “thấy dấu đinh ở tay Người, xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Người”. Đứng trước Đấng Phục sinh, những thách thức này trở nên vô nghĩa.

Cùng với Tôma, chúng ta hãy tôn thờ Đấng Phục sinh và tuyên xưng Đức tin: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Câu tuyên xưng này cũng đồng nghĩa với lời kinh chúng ta vẫn đọc khi tôn vinh Lòng Chúa thương xót: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa!”. Hãy để Đấng Phục sinh đi vào cuộc đời chúng ta, để Người thay đổi tận căn trái tim và hành động của chúng ta. Nhờ được thấm nhuần Lòng Chúa thương xót, người Kitô hữu trở nên chứng nhân của Lòng Chúa xót thương.

Về mục lục

LÒNG THƯƠNG XÓT

Lm. Thái Nguyên

Đức Giêsu Phục Sinh bất ngờ xuất hiện giữa các tông đồ. Ngài trao ban bình an và cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến thắng của Chúa vẫn mang dấu tích của cuộc khổ nạn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Thầy, và hơn nữa còn được Thầy ủy thác sứ mạng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.

Chỉ có một người không vui là ông Tôma, vì ông vắng mặt khi Chúa hiện ra. Có vẻ giữa ông và nhóm anh em có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn. Ông không tin vào ai khác, chỉ tin vào giác quan của mình. Trước sự thách thức và cố chấp của ông, Chúa Giêsu lại hạ mình để hiện ra một lần nữa. Ngài trách ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em. Rõ ràng con người Tôma có cái gì bất ổn, bất thường, lập dị, tách biệt. Nhưng may là ông trở về với đời sống cộng đoàn, nên đã chứng kiến việc Chúa phục sinh.

Tám ngày sau, Chúa Giêsu lại hiện đến với nhóm Mười hai, có cả Tôma, Ngài nói với ông: “Đặt ngón tay vào đây…”. Tôma kinh hoàng thưa với Chúa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Ông thấy nên ông tin, điều ấy không lạ gì, “Phúc thay những người không thấy mà tin!”. Việc minh chứng phục sinh không phải là vinh quang chói lọi mà là chính những dấu đinh. Chúa đã muốn minh chứng như thế cho sự phục sinh của Ngài, thì chúng ta cũng vậy, không có dấu chứng nào hơn là những vết thương của những thập giá hằng ngày, để làm chứng cho sự phục sinh của Chúa. Cũng vậy, từ hai ngàn năm nay, thánh giá Chúa mới thực sự là biểu hiện vinh quang, chứ không phải là những gì hoành tráng cao sang bên ngoài. Đó mới là biểu hiện và dấu chỉ cao độ nhất của lòng thương xót Chúa, để cứu chữa nhân loại trước bao nhiêu đau thương khốn khổ.

Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy Chúa, đã sờ chạm vào Chúa. Tất cả các tông đồ đều đã hy sinh mạng sống mình để làm chứng là Đức Kitô đã sống lại, Ngài là Đấng cứu độ duy nhất cho loài người… Tiếp nối các tông đồ đã có hàng triệu người cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, đã dâng hiến đời mình vì niềm tin ấy, trong số đó có hằng ngàn cha ông chúng ta đã hiên ngang đổ máu mình để lưu truyền đức tin lại cho con cháu hôm nay, cụ thể là 118 thánh tử đạo Việt Nam.

Quanh chúng ta cũng vẫn có nhiều anh chị em đạo đức, đầy lòng tin mến. Họ đã được ơn “thấy và chạm đến” Chúa một cách nào đó, nên họ rất chuyên chăm trong đời sống cầu nguyện, sốt sắng trong thánh lễ, và tích cực làm việc tông đồ. “Thấy và chạm” đến Chúa nghĩa là “cảm nghiệm” hay “cảm nhận” về sự hiện diện của Chúa khi nghe Lời Chúa, khi Rước Mình Chúa, khi phục vụ anh chị em, khi thăm viếng và cứu giúp những người bệnh tật, nghèo hèn, khốn khó…

Để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta cũng không cần phải nổi bật cái gì hết, mà chỉ cần nổi bật lòng thương xót của Chúa. Thương xót nói theo thánh Phaolô là: đón nhận tất cả, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Tuy nhiên, thương xót không có nghĩa là làm ngơ trước tội lỗi và sai lạc của người khác, cũng không phải là dung túng hay nhượng bộ cho những xấu xa vẫn xảy ra trong đời ta. Thương xót là muốn cho nhau một cuộc sống tốt hơn, là tìm cách dẫn đưa anh em về đường ngay nẻo chính. Muốn vậy, nhiều khi chính mình phải hy sinh và chấp nhận thương đau.

Cũng như xưa, con người ngày nay làm sao có thể tin Chúa được, nếu họ không thấy chứng tích của những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, hay của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu nơi Giáo hội, nơi các bạn trẻ. Đạo của bạn là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chững chứng tích tình yêu của bạn đi! Mahatma Gandhi đã từng tuyên bố với người Công Giáo như thế.

Ước gì mỗi người chúng ta nhận ra rằng mình được diễm phúc trở nên Kitô hữu là nhờ lòng thương xót Chúa, để suốt đời ta biết sống cho mọi người, nhất là những người bé nhỏ nghèo hèn, là đối tượng ưu tiên của lòng Chúa xót thương. Quả thật “Phúc thay ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được Chúa xót thương”.

Cầu nguyện

Lạy Cha!
Thương xót là hành động của Cha,
là tiêu chuẩn biết ai là con cái,
nhờ sống với tất cả lòng nhân ái,
nhưng không loại công bằng và sự thật.
Thương xót không dung túng điều xấu xa,
nhưng cho con biết kiên nhẫn vượt qua,
để đón nhận những hồng ân cao cả,
xứng đáng với những gì con người “là”.
Thương xót là hành động cao quí nhất,
là phẩm chất sâu nhất của con người,
là hành vi thờ phượng cao hơn cả,
vì điều Chúa muốn không phải là lễ vật,
mà trước tiên là sống với lòng nhân,
chứ không thể cân phân theo lý lẽ.
Đức Giê-su đã trở nên người thế,
để thể hiện lòng thương xót của Cha,
trên thập giá Ngài cũng đã thứ tha,
trước lòng dạ bạc ác của con người,
ngay cả ông Tô-ma cứng lòng tin,
Ngài cũng đã hạ mình cho xem thấy.
Chúa muốn con nên hoàn thiện như Cha,
không phải là không còn gì thiếu sót,
mà là sống nhân từ và tha thứ,
không xét đoán và càng không lên án,
luôn bao dung và đại lượng vô vàn,
vì thương xót là tình yêu vô giới hạn.
Xin cho con được đầy lòng thương xót,
dù nhiều khi rất đắng đót trong đời,
nhưng nhờ vậy phát sinh con người mới,
để tình Chúa sáng tỏa khắp muôn nơi,
là niềm vui ơn cứu độ cho đời. Amen.

Về mục lục

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH

Jorathe Nắng Tím

Đã hẳn lòng thương xót của Thiên Chúa đã được thể hiện trước  muôn dân qua mầu nhiệm Thánh Giá của Đức Giêsu chịu đóng đinh, nhưng xem ra Đấng chịu đóng đinh ấy, sau khi sống lại từ cõi chết vẫn không muốn rời xa lòng thương xót bao la, đời đời của Ngài, qua những lần  hiện ra với các môn đệ với thân xác còn nguyên vẹn những thương tích cuộc tử nạn.

Không rời xa lòng thương xót khi Ngài đến và đứng giữa các môn đệ, trong lúc cửa nhà các ông  đóng kín, vì sợ người Do Thái với thân xác còn nguyên vẹn các dấu đinh trên tay chân và dấu đòng hoắm sâu bên cạnh sườn còn rướm máu.

Sở dĩ Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra với các môn đệ với thân xác tuy đã sống lại vinh hiển nhưng vẫn loang lổ những thương tích cuộc tử nạn, vì Ngài muốn tỏ cho các ông biết đây mới thực là giờ chiến thắng của lòng thương xót, mới là thời đại huy hoàng của lòng thương xót, mới là mùa rực rỡ hoa Lòng Thương Xót, vì nhờ Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa mà sự sống đã hoàn toàn chiến thắng thần chết, và thập giá đã vĩnh viễn chiến thắng địa ngục, như được ghi trong sách Khải Huyền: “Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chià khóa của Tử Thần và Âm Phủ” (Kh 1, 17-18).

Mang trên mình đầy thương tích của lòng thương xót, Đức Giêsu sống lại từ cõi chết đã không chỉ ban bình an phục sinh của Ngài cho các môn đệ khi nói với các ông: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19), như chiến công hiển hách sau trận chiến chống lại ganh ghét, hận thù, bạo lực, mà còn ban ơn tha tội cho mọi người, khi “thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 22), là Thánh Thần Tình Yêu, Thần Khí hoan lạc, hy vọng của Thiên Chúa, và sai các ông ra đi với sứ vụ  thực hiện lòng thương xót của Thiên Chúa, khi nhân danh Thiên Chúa tha tội cho mọi người (x. Ga 20,23).

Lòng thương xót ở Đức Giêsu phục sinh còn được bày tỏ khi Ngài nhẫn nại chịu đựng sự cứng lòng của tông đồ Tôma, người đã khăng khăng phủ nhận sự việc “Chúng tôi đã được thấy Chúa” (Ga 20, 25) của toàn thể anh em, và ngạo nghễ tuyên bố: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).

Và lòng thương xót một lần nữa được Đức Giêsu quả quyết là ơn đổi mới tâm hồn, có sức làm cho qủa tim chai đá biến thành qủa tim bằng thịt (x. Ed 36,) khi  âu yếm bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20, 27).

Quả thực, phần đông chúng ta ít quan tâm đến những “phép lạ” kín đáo, âm thầm, nhẹ nhàng của lòng thương xót được Chúa thực hiện một cách sống động, cụ thể trong đời sống, qua những người anh em bé nhỏ, yếu đuối ở ngay bên cạnh, mà  chỉ háo hức đi tìm những “điềm thiêng dấu lạ” mang tính ma mị, giả tạo, hoành tráng, ồn ào bên ngoài của thế gian, như Tôma đã cứng lòng không tin vào lời của anh em tông đồ kể cho ông về một Thiên Chúa phục sinh với thân xác còn nguyên vẹn những vết thương của cuộc tử nạn, bởi ông không mong chờ một Thiên Chúa phục sinh “yếu đuối và mang đầy thương tích của lòng thương xót như thế”, nhưng ngóng đợi một Thiên Chúa phục sinh hiển hách, oai hùng, không còn dấu tích tang thương của Thánh Giá lòng thương xót.

Biết Tôma cứng lòng không hẳn vì không tin anh em, nhưng vì điều anh em nói về Thầy trái với điều ông mong ước và suy nghĩ: nếu Thầy thực sự sống lại, Thầy sẽ không còn mang thân xác đầy thương tích của cuộc tử nạn, vì đó là dấu chứng của yếu đuối, thất bại, nên Đức Giêsu đã nói riêng với Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy”, như muốn nhắc nhở ông: Thầy vẫn mãi mang thân xác đầy thương tích Thánh Giá để nói lên lòng thương xót vô cùng, vô tận, không bao giờ lay chuyển, và tồn tại muôn đời của Thầy để mọi người nhận được ơn cứu sống, nếu tin vào lòng thương xót của Thầy, và chính lòng thương xót ấy đang đổi mới trái tim chai đá, cứng cỏi, ương ngạnh của con.

Ước gì chúng ta cũng được phúc như tông đồ Tôma nhờ lòng thương xót Chúa mà thay lòng đổi dạ, để không còn chai lì thách thức, nhưng mang lấy tâm tình  của người môn đệ đang ngụp lặn trong hạnh phúc được Thầy cảm thông phận yếu đuối, thương xót thân tội lụy, khi sấp mình thân thưa: “Lạy Chúa của con, lậy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28) và khiêm hạ, tín thác lắng nghe Chúa nhủ bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên con tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29).

Về mục lục

CHÚA LÀ ĐẤNG GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

1- Chúa Phục Sinh, chuyện có một không hai

Câu chuyện đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm mà chúng ta đang tưởng nhớ và cử hành hôm nay là câu chuyện Đức Giêsu thành Nadarét chết và sống lại, chuyện thật như bịa, chuyện có một không hai trong lịch sử nhân loại, chuyện quá mới mẻ gây ngạc nhiên đến mức không thể tưởng tượng, không thể tin nổi!

Quả thế, sau khi thấy thầy Giêsu bị treo trên cây thập giá và chết một cách nhục nhã đau đớn, các Tông Đồ trong đó có Tôma thất vọng và bỏ cuộc. Niềm tin của họ bị khủng hoảng. Chỉ có con đường duy nhất là “về vườn” để kiếm sống. Việc Chúa sống lại là chuyện “động trời,” không ai dám nghĩ tới.

Tuy nhiên, chính Đấng Phục Sinh đã hiện ra với các phụ nữ, với hai môn đệ trên đường Emmaus, và với nhiều Tông Đồ khác khi họ họp mặt. Trong những lần đó, Tôma (biệt danh là Điđimô) không có mặt. Họ kể lại: “Chúng tôi đã được thấy Chúa” (Ga 20,22). Nhưng Tôma vẫn không tin nếu không trực tiếp nhìn thấy các dấu đinh của Người (x. Ga 20,24). Tám ngày sau, họ lại họp nhau và có Tôma ở đó. Chúa hiện ra và tỏ cho ông thấy các dấu đinh. Tôma mới tin và tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,29).

2- Ý nghĩa của biến cố phục sinh

Qua biến cố phục sinh, chúng ta rút ra những ý nghĩa sau đây:

1) Việc Chúa Giêsu chết bày tỏ tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa. Còn việc Chúa sống lại minh chứng quyền năng cứu độ của Người. Thiên Chúa chiến thắng sự dữ và thần chết. Nhờ sự vâng phục, Đức Kitô được Thiên Chúa Cha siêu thăng, tặng ban danh hiệu là “Đức Chúa và là Đấng cứu độ duy nhất và phổ quát” của nhân loại. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ cho chúng ta (x. Cv 4,12).

Vì thế, trong Thông Điệp Dives in Misericordia, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Chúa Giêsu Kitô bị hành hạ và chịu đau khổ vì xót thương chúng ta, thật quá mọi mức độ có thể tưởng nghĩ được. Cả sau biến cố phục sinh, thập giá không ngừng nói về Thiên Chúa là Cha, Ðấng tuyệt đối trung thành với tình thương muôn đời của Người đối với con nguời. Tin vào tình thương này có nghĩa là tin vào lòng nhân từ của Thiên Chúa” (số 7).

2) Đức Kitô Phục Sinh củng cố niềm tin cho các môn đệ và cho chúng ta. Như thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả Đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15,14). Nếu Chúa không sống lại, sẽ không có Giáo Hội và không có cộng đoàn chúng ta như hôm nay.
3) Đức Kitô Phục Sinh chính là sứ giả của Lòng Thương Xót Chúa. Người mang đến cho các môn đệ và cho chúng ta những ân huệ mới: đó là sự bình an, Chúa Thánh Thần và ơn tha thứ.

Vì thế, mỗi lần Chúa hiện ra đều nói: “Bình an cho anh em” (Ga 20,21). Có Chúa Phục Sinh là có sự bình an. Có bình an là có tất cả. Sự bình an này quý giá, giúp chúng ta vững vàng trước mọi gian nan thử thách.

Đức Giêsu thổi hơi và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Chúng ta nhớ lại, khi sáng tạo con người, Thiên Chúa thổi hơi vào Ađam, nhờ đó, ông có sự sống. Cũng vậy, trong những lần hiện ra, Đấng Phục Sinh thổi hơi và ban Thánh Thần cho các Tông Đồ, để họ có sự sống mới. Đây quả là cuộc tạo dựng mới. Chúa Thánh Thần là Quà Tặng của Đấng Phục Sinh. Việc Chúa “thổi hơi và ban Thánh Thần” là ban cho Giáo Hội sự sống mới và sức mạnh mới.

Đấng Phục Sinh còn sai Giáo Hội ra đi với quyền tha tội: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha” (Ga 20,23). Tha thứ là dấu chỉ rõ ràng về lòng thương xót vô bờ bến của Chúa, được thể hiện qua bí tích Hòa Giải.

3- Sứ giả lòng Thương Xót Chúa

Chúa Nhật II Phục Sinh là Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa. Một ngày nọ, Chúa Giêsu đã nói với nữ tu Faustina Kowalska, sứ giả của Lòng Thương Xót, rằng: “Nhân loại sẽ không có hòa bình cho đến khi biết tin vào Lòng Thương Xót Chúa” (Nhật Ký, 300). Lòng Thương Xót là tặng phẩm mà Giáo Hội nhận từ Đức Kitô Phục Sinh và trao ban cho nhân loại ngay khi khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba. Mầu nhiệm của Lòng Thương Xót đã thay đổi tận gốc số phận của nhân loại.

Thánh nữ Faustina thấy phát ra hai tia sáng từ Thánh Tâm Chúa chiếu tỏa thế gian một cách dịu dàng. Theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ: “Hai tia sáng này tượng trưng cho máu và nước.” Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, là bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Ga 3,5; 4,14). Những tia sáng từ lòng nhân từ Chúa ban là niềm hy vọng đặc biệt cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi.

Mỗi Chúa Nhật đều là Chúa Nhật Lòng Thương Xót. Mỗi thánh lễ là nguồn mạch của Lòng Thương Xót. Bởi vì, thánh lễ tái hiện cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô để đền bù tội lỗi của chúng ta và toàn thế giới. Chúng ta được mời gọi hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để đón nhận Lòng Thương Xót Chúa. Hãy đến với bí tích Hòa Giải để lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nếu có ai cảm thấy mình quá yếu đuối và tội lỗi, thì hãy nhớ đến Lòng Thương Xót Chúa bao giờ cũng lớn lao hơn tội lỗi chúng ta. Chỉ có lòng thương xót Chúa ban cho chúng ta hy vọng chỗi dậy và tiến bước. Chúng ta hãy tín thác vào Chúa, đừng bao giờ sợ hãi, đừng bao giờ thất vọng!

Lạy Chúa, nhờ sự chết và sự sống lại, Chúa đã mạc khải Lòng Thương Xót Chúa cho loài người. Chúng con tín thác vào Chúa: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa, xin thương xót chúng con và thế giới. Amen!

Về mục lục

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT II PHỤC SINH

 Lm. Phạm Hồng Thái 

          Chúa nhật II Phục sinh có nhiều tên gọi như “Chúa nhật áo trắng” vì các tân tòng mặc áo trắng từ đêm Vọng Phục sinh tới hôm nay, cũng còn gọi “Chúa nhật của ông Tôma” vì Chúa hiện ra cho các tông đồ đặc biệt là cho ông Tôma, còn Đức giáo Hoàng Yoan Phaolô II đặt tên là “Chúa nhật về Lòng Thương xót Chúa”.

          Tin mừng hôm nay ghi nhận hai lần hiện ra của Chúa Giêsu đều vào chiều ngày thứ nhất trong tuần: lần I vào chiều ngày Chúa sống lại và lần II đúng một tuần lễ sau cũng trong khung cảnh như Chúa nhật trước. Vì thế mà ngày nay chúng ta giữ ngày Chúa nhật: Ngày Chúa sống lại và cũng là ngày Chúa hiện ra với tập thể các tông đồ.

          – Lần I: chỉ có 10 tông đồ: Giuđa đã tự tử, Tôma không biết lí do gì vắng mặt. Các tông đồ họp lại trong căn phòng cửa đóng then cài: Tin mừng Gioan nói vì các ông sợ người Do thái, nói rõ hơn là vì sợ giáo quyền Do thái khi đó. Chúa Giêsu  hiện ra đứng giữa các ông. Lúc này thân xác Chúa Giêsu Phục sinh đã trở nên thân xác thần thiêng nên cửa đóng, Chúa vẫn đi qua được. Chúa chúc bình an cho các ông. Điều đặc biệt trong lần hiện ra này là Chúa Giêsu  cho các ông xem tay và cạnh sườn Chúa: xem tay và cạnh sườn tức là Chúa cho xem các vết thương do cuộc tử nạn mà chúng ta thường gọi là năm dấu đinh để cho các tông đồ biết rằng Chúa Giêsu  Phục sinh cũng là chính Chúa Giêsu  đã chịu đóng đinh thập giá. Các ông vui mừng vì được gặp lại và xem thấy Chúa. Chúa Phục sinh là niềm vui cho chính Chúa và Chúa lan tỏa niềm vui đó trước hết cho các tông đồ rồi cho mọi người tin Chúa.

          Trong lần hiện ra đầu tiên cho tập thể các tông đồ, hai lần Chúa chúc bình an cho các ông. Chúng ta liên tưởng tới Đêm Giáng Sinh, các thiên thần Chúa cũng chúc bình an cho người thiện tâm, để rồi cùng với lời chúc bình an, Chúa sai các ông đi trong sứ mạng làm chứng cho Chúa: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” đồng thời Chúa ban Chúa Thánh Thần qua lời: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần” Các tông đồ nhận Chúa Thánh thần kèm theo quyền được tha tội và quyền cầm buộc: “Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha, các con cầm buộc ai thì tội người ấy bị cầm lại” Như vậy Chúa Giêsu hiện ra không chỉ để các ông được nhìn thấy Chúa sống lại mà còn để trao sứ mạng làm chứng, cùng với quyền tha tội cho các tông đồ nữa.

          Lần II: Có ông Tôma. Tôma không tin Chúa Giêsu đã sống lại dù các bạn đã làm chứng: “Chúng tôi đã thấy Chúa”. Ông đòi chính ông phải được kiểm chứng bằng mắt thấy và  tay sờ vào các vết đinh của Chúa. Yêu sách của ông có phần gay gắt nhưng Chúa Giêsu vẫn chấp nhận đòi hỏi này. Chiều Chúa nhật sau, Chúa lại hiện ra cũng trong khung cảnh như chiều Chúa nhật trước: là cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu vào và đứng giữa các ông cũng với lời chào chúc:”Bình an cho các con”.  Rồi Chúa kêu ông Tôma tới và cho ông làm theo yêu sách của ông như lời Chúa nói: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng nhưng hãy tin” Tôma đã được thấy Chúa. Chắc chắn ông xúc động vì Chúa yêu thương và quan tâm tới mình. Không biết lúc này ông có làm như ông đã yêu sách không nhưng ông đã tin và xưng ra đức tin bằng lời tuyên xưng rạng rỡ: “Lạy Chúa con, Lạy Thiên Chúa của con” Qua lời này chúng ta thấy không những ông tin Chúa sống lại mà còn tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa và là Thiên Chúa của mình tức là ông nhận ra Thần tính của Chúa Giêsu. Như thế Tôma là người tin Chúa sống lại sau các tông đồ khác nhưng ông lại là người đầu tiên xưng ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa.

          Điều rất khích lệ và an ủi cho chúng ta là sau khi Chúa Giêsu chấp nhận lòng tin của Tôma, Chúa hướng về các thế hệ sau khi nói: “Tôma vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.

          Ngày nay chúng ta không đòi phải được nhìn thấy Chúa Giêsu  Phục sinh như các tông đồ nhưng chúng ta vẫn tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại thật và đó là mối phúc lớn cho chúng ta vì đức tin của chúng ta là đức tin tông truyền tức là do các tông đồ truyền lại. Các tông đồ cả ông Tôma nữa vì là nhân chứng nên họ cần phải nhìn thấy Chúa Giêsu sống lại: như lời thánh Phêrô: “Chúng tôi là những chứng nhân Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với người sau khi Người từ cõi chết sống lại (Cv 10,41)”

          Ngày 30/4/2000 nhân lễ phong thánh cho chị nữ tu M. Faustina Kowalska, Đức giáo hoàng Yoan Phaolô II đã tuyên bố Chúa Nhật II Phục sinh sẽ được gọi là Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa. Nên nhớ năm 1931, thánh M. Faustina được Chúa Giêsu mặc khải về Lòng Thương xót. Chúa dạy chị vẽ tấm hình Chúa mặc áo dài trắng, bàn tay phải dơ lên ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực: từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ tượng trưng bí tích Thánh Thể và bí tích Rửa tội cùng với hàng chữ: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Người”.

           Chúng ta kính nhớ Lòng thương xót Chúa và noi gương Chúa, chúng ta thể hiện Lòng thương xót đối với anh em như lời Chúa dạy: “Phúc cho những ai thương xót người vì họ sẽ được xót thương (Mt 5,7)”. Amen.

Về mục lục

LẠY CHÚA TÔI

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Khi nói về thánh Tôma, thường chúng ta hay gán cho ngài là kẻ cứng lòng tin. Chính vì thế, trong đời thường, gặp một ai còn xa rời đức tin, hay lạnh nhạt khi được nói về đức tin, hay tỏ ra ngoan cố trong việc lười biếng, bỏ bê việc đạo hạnh, người ta thường ví von so sánh họ: “Cứng lòng như Tôma”.

Thật ra, nơi đức tin và lòng mến của thánh Tôma với Chúa, nếu chúng ta chịu khó đào sâu, sẽ thấy đó là cả một bài học vô giá giúp ta sống đức tin của mình.

Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lổ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi không tin”. Qua câu nói, ta thấy thánh Tôma là người thực tiễn. Thái độ thực tiễn của thánh Tôma là câu trả lời khả dĩ cho đức tin vào Chúa Phục Sinh của thời đại thực nghiệm của chúng ta hôm nay.

Nhờ thánh nhân lên tiếng, ta mới thấy rõ hơn thế nào là sự trăn trở, sự giằng vặt của đức tin mà nỗ lực cá nhân của chính ta có thể đáp lại mạc khải của Chúa.

Cũng chính nhờ thánh nhân, Hội Thánh có một bằng chứng xác thực cho tất cả những ai nghi ngờ về đức tin Phục Sinh của người Công Giáo: Bởi Chúa Giêsu đã đáp ứng đòi hỏi của thánh Tôma: Tám ngày sau, Chúa đã hiện ra với tất cả mọi bằng chứng rõ ràng nhất mà thánh Tôma đã từng đòi hỏi.

Chúa đã đánh đổ thách thức của thánh Tôma, qua đó, Chúa đánh đổ mọi nghi ngờ của con người thực nghiệm thời nay: “Tôma, hãy đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng, nhưng hãy tin”.

Trước bằng chứng hùng hồn về tất cả nơi Chúa Phục Sinh, thánh Tôma đã phải cúi đầu thừa nhận. Thánh nhân tuyên xưng đức tin bằng một lời tuyên xưng long trọng, đầy tư cách cá nhân của chính mình với Chúa Phục Sinh của mình: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Là Kitô hữu, chúng ta đã tin chắc chắn Chúa đã phục sinh. Vậy chúng ta cần sống như người đang thấy Thiên Chúa: sống một cách yêu thương, hòa dịu với mọi người. Ta dẹp bỏ thói ích kỷ, tính tranh giành, vụ lợi.

Ta cần luôn chú tâm xả thân phục vụ những lợi ích chung như thực hành các công tác trong giáo xứ, các công trình phúc lợi của xã hội, thực hành đức bác ái mọi nơi, mọi lúc…

Đặc biệt, qua tất cả công việc, trong hết mọi ngày đời ta, ta luôn nghĩ đến việc truyền giáo, để làm cho mọi người tin Chúa, thờ phượng Chúa.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin hãy mở cho chúng con đôi mắt, để chúng con nhận ra Chúa qua tất cả mọi biến cố của đời sống.

Xin làm cho nhiều người còn chưa biết Chúa, được nhận biết và tôn thờ Chúa, nhờ đó, Nước Chúa phát triển khắp nơi trên thế giới này.

Xin cho những ai đã thờ phượng Chúa, nhưng sai lạc trong đức tin, biết mau chóng trở về, nhìn nhận một mình Chúa duy nhất là Đấng có sự sống đời đời mà thôi. Amen.

Về mục lục

LẠY THIÊN CHÚA CỦA CON!

Trầm Thiên Thu

Chúng ta không thể hiểu thấu thánh ý mầu nhiệm về sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu Bà Êva không ăn trái cấm thì chúng ta không được đón Chúa Giêsu nhập thể và nhập thế, vì vậy Giáo Hội gọi đó là Tội Hồng Phúc; nếu Giuđa không bán Chúa thì chúng ta không được hưởng nhờ Bửu Huyết Vô Giá của Ngài; và nếu tông đồ Tôma không cứng lòng tin thì chúng ta không dám tin chắc rằng Chúa Giêsu đã sống lại thật.

Tất cả là hồng ân. Chúng ta chỉ biết cúi đầu cảm tạ và tuân hành thánh ý Thiên Chúa mà thôi. Có vậy thì tâm hồn mới bình an. Sự bình an luôn là điều cần thiết ở mọi nơi và mọi lúc, nhất là trong xã hội bất ổn, bất an, xáo trộn, rắc rối,… ngày nay.

Rõ ràng nhất là đại dịch vẫn rình rập đêm ngày, chúng ta thực sự bất ổn nhiều phương diện. Được bình an hay không bình an đều có liên quan sự chọn lựa, mà sự chọn lựa lại có liên quan sự tự do. Thánh GH Gioan Phaolô II định nghĩa: “Tự do KHÔNG có nghĩa là LÀM điều chúng ta THÍCH, mà là CÓ QUYỀN LÀM điều chúng ta PHẢI LÀM.” Thánh LM Gioan Kim Khẩu nói: “Sau khi đặt sự thiện và sự dữ trong khả năng của chúng ta, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta QUYỀN TỰ DO để lựa chọn. Người KHÔNG CHẤP NHẬN những gì MIỄN CƯỠNG, nhưng ĐÓN NHẬN những gì TỰ NGUYỆN.” Tự do cũng có giới hạn trong phạm vi hợp lý, tự do phải được hiểu chính xác theo ý Chúa. Quả thật, chính sự tự do cũng có giới hạn nhất định của nó.

Lòng Chúa Thương Xót (LCTX) cũng là mầu nhiệm mà chúng ta không thể hiểu bằng trí tuệ phàm nhân. Vì yêu thương đến cùng, Chúa Giêsu chấp nhận mọi đau khổ, mặc dù nhân tính, Ngài cũng rất sợ phải uống chén đắng, Ngài muốn được bỏ qua nhưng Ngài vẫn muốn tuân phục thánh ý Chúa Cha. Và Ngài đã uống cạn “chén đắng” đó. Trên Thánh Giá, Ngài còn chịu mọi sỉ nhục, nhưng Ngài vẫn xin tha thứ cho những kẻ thủ ác.

Và mọi sự đã thay đổi! Thánh LM Gioan Kim khẩu nói: “Cây Thánh Giá là hy vọng của Kitô hữu, là sự sống lại của kẻ chết, là sự hướng dẫn cho kẻ mù lòa, là cây gậy cho người què, là sự an ủi cho kẻ nghèo khổ, là sự kềm hãm của kẻ giàu sang, là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa, là sự chiến thắng vượt trên ma quỷ, là người chỉ đạo cho thanh niên, là bánh lái cho người vượt sóng, là cửa biển cho người đi xa, là thành lũy cho người bị vây hãm.”

Chúa Giêsu là Đấng vô tội nhưng đã bị vu cáo, là Đấng Công chính nhưng đã bị kết án, là Đấng chí thánh nhưng đã bị đày ải, là Vua trời đất nhưng đã bị hành hạ nhục nhã và bị đóng đinh chết tất tưởi, là Con Thiên Chúa toàn năng nhưng đã bị thóa mạ, bị chà đạp và bị từ chối, là Ánh Sáng nhưng đã bị tối tăm vây phủ, là Đấng vô cùng cao sang nhưng đã bị trần truồng tủi hổ, chịu chết treo trên hai miếng gỗ, là Sự Sống nhưng đã phải trút hơi thở cuối cùng, là Sự Chết nhưng cũng chính là Sự Sống Lại.

Quyền năng Thiên Chúa thực hiện qua các Tông Đồ, cho chúng ta biết về qua trình thuật Cv 5:12-16: “Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ bàn tay các Tông Đồ. Không một ai khác dám nhập đoàn với họ. Nhưng dân thì lại ca tụng họ. Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông, đàn bà rất đông. Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó. Nhiều người từ các thành chung quanh Giêrusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành.”

Lời kể ngắn gọn nhưng cho thấy đầy đủ các dạng phép lạ như chính Chúa Giêsu đã làm trong ba năm rao giảng công khai. Ngày nay, các phép lạ thực sự cũng vẫn xảy ra qua lời cầu bầu của các tôi trung của Chúa, chẳng hạn ngay tại Việt Nam có LM P.X. Trương Bửu Diệp. Rất nhiều người hàng ngày đến Tắc Sậy để cầu xin ngài nguyện giúp cầu thay, trong số những người đến cầu xin ngài có nhiều người là dân ngoại. Đó là minh chứng hùng hồn và sống động về tôn giáo do chính Đức Kitô Giêsu thiết lập. LCTX vẫn trải qua từ đời nọ đến đời kia, như lời xác nhận của Đức Maria trong “Bài Ca Ngợi Khen” (Magnificat – Lc 1:50).

Thánh Vịnh gia minh định: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118:2-4) LCTX bao la và không hề thay đổi. Mỗi người trong chúng ta cũng đã, đang và sẽ đón nhận LCTX. Đó là điều không thể chối cãi hoặc phủ nhận, đơn giản nhất là không khí. Thiếu không khí thì chúng ta không thể sống, không khí loãng hoặc đặc lại một chút thì chúng ta cũng chết chắc! Đấng Thương Xót bị khước từ nhưng người ta vẫn phải công nhận, người ta hả hê nhạo cười và coi Ngài là thua cuộc nhưng Ngài đã vinh thắng, Ngài bị giết chết nhưng Ngài đã sống lại: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.” (Tv 118:22-24)

Ngày nay, chúng ta cũng vẫn đồng lõa trong “vụ án Giêsu,” nhưng Đấng Thương Xót vẫn bênh vực và cho rằng chúng ta lầm. (x. Lc 23:34) Thật là diễm phúc, vì thế mà chúng ta không thể không cầu xin: “Lạy Chúa, xin ban ơn cứu độ, lạy Chúa, xin thương giúp thành công. Nguyện xin Chúa tuôn đổ phúc lành cho người tiến vào đây nhân danh Chúa. Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em.” (Tv 118:25-26)

Thánh Gioan, người được Chúa yêu, đã kể lại thị kiến qua trình thuật Kh 1:9-13, 17-19. Đó là ngày của Chúa, ông nghe đằng sau có một tiếng lớn như thể tiếng kèn, nói rằng hãy ghi điều đã thấy vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh: Ê-phê-xô, Xi-miếc-na, Péc-ga-mô, Thy-a-ti-ra, Xác-đê, Phi-la-đen-phi-a và Lao-đi-ki-a. Ông quay lại để xem tiếng ai nói thì thấy bảy cây đèn vàng, ở giữa các cây đèn có ai giống như Con Người mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng.

Thánh Gioan xác định: “Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy.” Nhưng rồi Người đặt tay hữu lên Gioan và động viên: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ. Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này. Đây là ý nghĩa mầu nhiệm của bảy ngôi sao ngươi đã thấy trên tay hữu Ta, và của bảy cây đèn vàng: bảy ngôi sao là các thiên thần của bảy Hội Thánh, và bảy cây đèn là bảy Hội Thánh.”

Thật là lạ lùng, thật là mầu nhiệm, phàm nhân không thể hiểu nổi. Chính Thiên Chúa toàn năng làm nên mọi sự, biến không thành có. Và tất nhiên Ngài cũng có thể biến có thành không. Ngài toàn năng, hằng hữu, và là Thiên Chúa duy nhất.

Trình thuật Ga 20:19-31 (≈ Mt 28:16-20; Mc 16:14-18; Lc 24:36-49) cho biết về việc Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, tức là chiều ngày phục sinh, nơi các môn đệ ở đều đóng kín các cửa, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và chúc bình an cho họ. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Họ rất vui mừng vì được thấy Ngài nhãn tiền. Rồi Ngài nói với họ: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” Rồi Ngài thổi hơi vào họ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” Họ đầy ơn Chúa Thánh Thần và có thể làm những gì Thầy Giêsu cho phép – cử hành các bí tích nhân danh Ngài.

Thế nhưng lúc đó chỉ có 10 môn đệ, vắng mặt Tôma – Điđymô. Các môn đệ khác kể cho Tôma về việc được diện kiến Thầy-Giêsu-phục-sinh, nhưng ông không tin và xác định: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”

Một tuần sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Ngài bảo ông Tôma đặt ngón tay vào vết thương ở cạnh sườn, nhìn xem tay Ngài, và bảo ông đừng cứng lòng nhưng hãy tin. Nhãn tiền thấy Thầy, ông Tôma vội thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Có lẽ ông Tôma chẳng dám kiểm chứng đâu. Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Đó là mối phúc mà tất cả chúng ta đang thừa kế. Thật là diễm phúc vô cùng!

Lần nào hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu cũng chúc bình an. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của sự bình an. Hằng ngày, khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng được mời gọi chúc bình an cho nhau. Bình an là điều cần thiết đối với mọi người, ở mọi nơi và mọi lúc.

Thánh Gioan kết luận: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em TIN mà được SỰ SỐNG nhờ danh Người.” Như vậy, tin là bí quyết để được thương xót và được cứu độ. Còn Thánh Phaolô cầu chúc: “Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho bạn được ân sủng, lòng thương xót và sự bình an.” (2 Tm 1:2)

Có nhiều cách thể hiện LTX, có thể dùng “nguyên tắc 4T” làm tiêu chuẩn: Tín Thác, Thỉnh Cầu, Thương Xót, và Tha Thứ. Cử hành Đại lễ LCTX theo lệnh Chúa Giêsu truyền, mỗi chúng ta cùng chân thành tái xác định: “Jezu ufam Tobie – Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài.” Thương xót là một trong Bát Phúc: “Phúc thay ai xót thương người – Bởi vì sẽ được Chúa Trời xót thương.” (Mt 5:7)

Lạy Thiên Chúa tình yêu, xin giúp chúng con vững tin vào Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, luôn ẩn náu nơi Thánh Tâm Ngài, biết thương xót nhau chân thành. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

BÌNH AN CỦA ĐỨC KITÔ PHỤC SINH

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình thầy trò chưa cạn, ngày mà các môn đệ đang cửa đóng then cài vì sợ người Do Thái như Tin Mừng Gioan mô tả. Bỗng Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đinh, đã phục sinh! Người đứng giữa những người đang thương tiếc Người, đang khóa mình sau những cánh cửa đóng kín, đầy sợ hãi, đau khổ và nói: “Bình an cho các con!” (Ga 20, 19-21). Người chỉ ra những vết thương ở đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi sống lại. Người không phải là ma; nhưng thực sự là Thầy của các ông đã chết treo trên thập tự giá và được an táng trong mồ. Trước con mắt ngờ vực của các môn đệ, Chúa lặp lại: “Bình an cho các con!“.

Bình an cho các con!” (Ga 20, 19-21). Ðây không phải là một lời chào, cũng không phải là một lời cầu chúc đơn sơ, nhưng là ơn quí trọng Chúa Kitô Phục Sinh cống hiến cho các mộn đệ sau khi đã trải qua cái chết thương đau. “Bình an cho các con!” (Ga 20, 19-21). Đây là hồng ân phát sinh từ những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa. Người trao ban bình an cho các môn đệ như lời Người đã hứa: “Thầy ban bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian ban” (Ga 14,27). Bình an này là chiến thắng của Chúa Kitô Phục Sinh, hoa trái tình yêu của Thiên Chúa trên sự dữ và tha thứ. Các môn đệ hết sức vui mừng khi Chúa trao ban bình an. Sợ hãi cũng biến mất nơi các ông. Đúng thế, đây là bình an đích thực, bình an sâu thẳm đến từ trái tim xót thương của Thiên Chúa. Cùng với sự trao ban ơn bình an, Đức Kitô Phục Sinh cũng trao Thánh Thần cho các Tông Ðồ để các ngài chuyển cho thế giới ơn tha thứ tội lỗi, ơn mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban, vì nó đã được trả bằng giá Máu của Chúa Giêsu Con Thiên Chúa (x. Ga 20,21-23). Bình an mang lại sự tha thứ cho các ông và qua các ông, người khác cảm nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa.

Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi. Tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng. Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an.

Không hiểu sao buổi chiều hôm ấy, Tôma đi đâu mà vắng mặt lúc Thầy viếng thăm, dẫn đến lời tuyên bố trước anh em rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin” (Ga 20,25). Tám ngày sau, Chúa Giêsu lại hiện ra với các ông, có Tôma ở đó. Chúa Giêsu nói với Tôma, mời ông nhìn các vết thương của Ngài và sờ vào chúng, Tôma kêu lên: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi” (Ga 20,28). Chúa Giêsu nói: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin” (Ga 20,29). Chúng ta có thể gọi là mối phúc của lòng tin.

Những người đã không trông thấy nhưng đã tin đó là là các môn đệ, các người nam nữ khác của thành Giêsusalem, dù đã không gặp gỡ Chúa Giêsu phục sinh, nhưng đã tin vào chứng tá của các Tông Ðồ và các phụ nữ.

Chúa nhật hôm nay, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa” (Tv 117, 1). Lòng từ bi mạnh hơn tội lỗi và sự chết, ngày nay, nhân loại vẫn đang tiếp tục thừa hưởng lòng từ bi tuôn trào từ những vết thương vinh hiển và từ Trái Tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.

Giờ kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót, Điều quan trọng là các tín hữu sống lòng thương xót ấy và đem vào các môi trường xã hội khác nhau”. Đức Thánh Cha Phanxicô xác tín rằng, cốt lõi của Phúc Âm là tình thương, (x. Huấn từ 28-3-2014). Vì thế, theo nguyên tắc, tất cả mọi cơ cấu, nguyên tắc, luật lệ và tổ chức của Giáo Hội đều phải làm sao để hướng về và đạt đến đích điểm là tình thương (x. Niềm vui Phúc Âm,26-43). Bởi vậy, trong thực hành, Giáo Hội cần phải là một bệnh viện lưu động để chữa lành, chứ không phải chỉ mở cửa đón nhận tội nhân và nạn nhân trở về mà thôi (x. trả lời Phỏng Vấn 04-12-2014). Ngài muốn Giáo Hội phải đi đến tận rìa mép của xã hội để tìm kiếm các con chiên lạc đáng thương, thậm chí Giáo Hội phải ăn uống với thành phần đàng điếm và thu thuế tội lỗi (Huấn từ bế mạc Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới ngày 18-10-2014).

Chúng ta tự hỏi: Thế giới đang cần gì? Nước Việt nam cần gì? Bản thân chúng ta cần gì? Thưa: Lòng thương xót !

Hàng ngày, trên các phương tiện truyền thông báo chí, chúng ta vẫn nghe chiến tranh tại Ucraina. Vậy nhân loại cần gì? Thưa: Lòng thương xót, chỉ có lòng thương xót của Thiên Chúa mới cứu con người khỏi chiến tranh. Và lòng thương xót Chúa phải đi đôi với lòng thương xót của chúng ta. Tình yêu là tên gọi thứ hai của lòng thương xót. Nếu con người biết yêu thương nhau, thì con người mới xứng đáng lãnh được lòng thương xót của Chúa, và chiến tranh mới lui dần. Con người càng thương xót nhau, càng yêu thương nhau, thì chiến tranh càng bị đẩy lùi. Vì vậy chúng ta phải thành thật nhận lỗi của mình thì chúng ta mới có thể thể hiện được lòng thương xót của chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin thương xót chúng con và ban bình an cho thế giới. Amen.

Về mục lục

CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có một người bạn bác sĩ phẫu thuật nói rằng: Tôi đã thấy nhiều người đối phó với cơn đau một cách rất khác nhau. Một số người tức giận xa lánh Thượng Đế, trong khi những người khác để cho nỗi đau đớn của họ mang họ đến gần Thượng Đế hơn.

Thực ra, không có nỗi đau nào mà chúng ta phải chịu đựng hay trải qua đều vô ích cả. Những điều này rèn luyện chúng ta những đức tính như tính kiên nhẫn, đức tin, sức dũng cảm chịu đựng và lòng khiêm nhường. …

Đối với người Công Giáo thì đây còn là cơ hội nhận ra sự nhỏ bé của chính mình mà biết bám vào Thiên Chúa đầy quyền năng và giầu lòng thương xót. Trong suốt 3 năm rao giảng Tin mừng , Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh như các bác sĩ hay lương y, nghĩa là loại bỏ bệnh tật, ma quỉ ra khỏi con người, nhưng còn mang vào mình, hay nói đúng hơn, Người chữa lành bằng cách mang vào mình mọi bệnh hoạn tật nguyền của con người. Thật vậy, khi chiêm ngắm thân thể nát tan của Ngài trên Thập Giá, chúng ta hiểu được mầu nhiệm “mang vác” này của Đức Giê-su.“Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17). Từ nay bệnh tật không còn là một hình phạt nữa, nhưng là sự cứu chuộc. Bệnh tật liên kết chúng ta nên một với Người; bệnh tật thánh hóa, thanh luyện tâm hồn, chuẩn bị cho chúng ta đón nhận một ngày mà Thiên Chúa sẽ lau khô mọi nước mắt và lúc đó sẽ không còn bệnh tật, khóc than và đau khổ nữa.  Và như vậy, nơi Thập Giá, Ngài mang vào mình các thứ bệnh và cả cái chết do hệ lụy của tội Adam nữa, để từ Thập Giá một nguồn ân sủng tuôn trào thành Đại Dương Lòng Thương Xót chữa lành mọi bệnh tật hồn xác cho con người.

Chúa Nhật 2 mùa phục sinh là ngày Đại lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa. Chúa Giê-su đã mặc khải cho thánh nữ Faustina về Thánh Tâm Nhân Lành Chúa Giêsu và chọn gọi thánh nữ trở thành một khí cụ của Lòng Thương Xót chữa lành của Chúa. Ngài đã phán với Thánh nữ: “Cha không muốn đoán phạt, nhưng muốn chữa lành và ghì chặt nhân loại đau thương vào Trái Tim lân  tuất của Cha (x. NK 588). Và vào ngày Đại lễ của Cha, ngày lễ kính Lòng Thương Xót Cha, con hãy rảo khắp thế giới và đem các linh hồn đang lả mệt về với suối nguồn thương xót của Cha. Cha sẽ chữa lành và bổ túc cho họ (NK 206).

Như vậy, lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa là lễ của niềm vui vì được nhận ra tình thương của Chúa vẫn ấp ủ và theo sát chúng ta trên mọi nẻo đường. Vì Ngài biết rõ ràng và tường tận nỗi đau đớn của từng người chúng ta đang gánh chịu. Ngài sẽ mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta.  Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến với lòng thương xót Chúa, hầu nhận lãnh những ân phúc thiêng liêng từ ân sủng Lòng Thương Xót Chúa tuôn trào từ cạnh sườn nương long Chúa. Hãy dìm mình trong đại dương ân sủng Chúa để được bảo vệ và chữa lành. Và với lòng tin yêu phó thác chúng ta cùng mượn tâm tình của bài hát:”Chúa giầu lòng xót thương” để ca tụng tôn vinh và cầu xin cùng Lòng thương xót Chúa.

Lạy Chúa Giêsu con tin tưởng nơi Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa.

Vì ngoài lòng Chúa xót thương, không còn nguồn hy vọng nào.

Chúng con đặt vào Chúa lòng tín thác của mỗi chúng con.

Nhân loại hôm nay đang trải qua bao là sự dữ.
Con người hôm nay đang sống trong tuyệt vọng lo âu.
Chúng con đến kêu cầu Chúa giàu lòng xót thương.
Ngài mở ra con đường, đưa đến tận nguồn suối yêu thương.

Về mục lục

BÌNH AN CHO ANH EM

Lm Vũđình Tường

Nhóm Pharise và Kinh Sư phê bình, chỉ trích môn đệ Đức Kitô không giữ luật ăn chay. Đức Kitô đáp,

‘Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi, ngày đó, họ mới ăn chay’. Lc 5,35.

Với Đức Kitô, ‘ngày đó’ thường được Đức Kitô nhắc đến là ‘Giờ Ta chưa đến’. Đó là ngày Đức Kitô để cho quân dữ bắt. Đối với tông đồ ‘ngày đó’ là thời gian các ông sống trong than khóc, lo âu, sợ hãi. Sợ lãnh đạo Do Thái bủa lưới, vây bắt đánh đập và giết chết. Đối diện với tương lai đen tối, cộng thêm mặc cảm tội lỗi chối Thầy các ông rất buồn sầu. Nhớ lại trong bữa Tiệc Li, ai cũng can đảm đoan hứa sẽ trung thành với Thầy đến chết. Khi sự việc xảy ra tất cả đều nhanh chân chạy trốn, để mình Thầy bơ vơ giữa bầy lang sói. Các ông hành động theo phản xạ tự nhiên của con người. Gặp nguy hiểm là chạy trốn, tìm đường sống. Đây là hành động hướng dẫn bởi khối óc, không phải của con tim yêu mến.

Sau ba ngày khóc than, các ông nhận lại được sự sống mới. Đức Kitô thương nhớ các ông và các ông thương nhớ Ngài. Sau khi trỗi dậy từ cõi chết, Đức Kitô không phí một phút nào, Ngài tìm gặp môn đệ. Điều này cho thấy môn đệ chiếm một vị trí quan trong trong con tim Đức Kitô. Ngài yêu mến, chăm lo, coi sóc, bảo vệ các ông. Đức Kitô không gặp bất cứ trở ngại nào trong việc kiếm nơi các ông lẩn trốn, và cũng không gặp trở ngại đi qua cửa đóng, then cài. Nghe lời chào bình an, giọng nói quen thuộc, các ông nhận ngay ra Thầy. Điều các ông lo buồn đã không xảy ra. Đức Kitô không hề đá động gì đến việc các ông thất hứa, trốn chạy. Thay vào đó Ngài mang đến cho các ông ơn bình an, hy vọng. Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn để các ông nhận ra Ngài chính là Đức Kitô Phục Sinh, cùng một Đức Kitô trước và sau cuộc khổ nạn. Ơn bình an Đức Kitô trao ban là ơn đặc biệt. Ngài là Đấng duy nhất làm chủ món quà bình an Phục Sinh. Ai nhận được ơn bình an Phục Sinh, con tim người đó cảm thấy thảnh thơi, an bình, thoải mái, tin yêu, tràn đầy hy vọng, bởi ơn đó luân chuyển toàn thể châu thân.

Lời chào ‘Bình an cho anh em’ cho biết con người bằng xương, bằng thịt có thể nhận được ơn bình an Phục Sinh từ trời cao ban tặng. Trước khi sai môn đệ đi truyền rao Tin Mừng Phục Sinh, một lần nữa Đức Kitô nói với các ông,

‘Bình an cho anh em’. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.

Nói xong Ngài thổi hơi, ban Thánh Thần cho các ông. Trình thuật Sáng Thế Kí cho biết Chúa tạo dựng con người rồi thổi hơn ban cho con người sự sống. Đức Kitô thổi hơi ban cho môn đệ sức sống mới, đời sống mới. Từ nay các ông trở thành khuôn mặt mới của Đức Kitô. Với con tim mới, các ông là chân, là tay nối dài của Đức Kitô mang Tin Mừng Phục Sinh đến cho muôn dân. Thổi hơi đây chính là ban Thánh Thần, Đấng luôn là bạn đồng hành, hướng dẫn, chỉ bảo, dậy dỗ giúp các ông hiểu sâu hơn về mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.

Lần đầu Đức Kitô hiện ra, vì một lí do nào đó, Thoma vắng mặt. Tuần sau, Ngài lại đến với các ông, và nói với Thoma,

‘Hãy nhìn xem tay Thầy và cạnh sườn Thầy’ Lc 20,27. Thoma thưa ‘Lậy Chúa của con, lậy Thiên Chúa của con’ Gn 20,28.

Câu trên Thoma tuyên xưng niềm tin hai lần. ‘Lậy Chúa của con’ chính là nói về nhân tính của Đức Kitô; ‘Lậy Thiên Chúa của con’ chính là nói về thiên tính của Đức Kitô. Như thế Thoma tuyên xưng Đức Kitô vừa là con người thật, vừa là Thiên Chúa thật.

Đức Kitô hiện ra với môn đệ và điều này thay đổi cuộc sống các ông, đang từ lo âu, buồn phiền, sợ hãi, các ông trở nên con người mới, sức sống mới, niềm tin mới, tương lai tươi sáng trong niềm hy vọng Phục Sinh. Đức Kitô nói với Thoma,

‘Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin’ Gn 20,29.

Chúng ta tin theo Đức Kitô không phải vì thấy mà dựa vào tường thuật, lẫn niềm tin của các tông đồ. Chúng ta là người có phúc, không trực tiếp nghe lời rao giảng của chính Đức Kitô, nhưng nghe, tin theo, nghe lời Đức Kitô Phục Sinh ghi lại trong Kinh Thánh. Nguồn hạnh phúc này trở nên vẹn toàn khi mỗi người trong chúng ta mang con tim mơí, trở thành khuôn mặt Đức Kitô Phục Sinh, trở thành tay, thành chân, nối dài của Đức Kitô Phục Sinh.

Về mục lục

CÒN ĐÓ LỜI THẦY

Lm. Jos DĐH.

Các học trò Khổng Tử, bạch thầy: nếu chậm, chẳng thông minh, sức khoẻ bình thường, liệu có tu tập để thành “chánh quả” được không ? Khổng Tử nhìn các học trò rồi nói: dù chậm, không tài giỏi, dù bản thân giới hạn, nhưng ý thức được mình là ai, cứ từng bước từng bước tiến, đừng bỏ cuộc, rồi các con sẽ đến đích thành công, hạnh phúc. Thời nào cũng xuất hiện bậc hiền nhân quân tử, người học trò nói chung là ước muốn thành tài thành danh, tuy nhiên, ở đời vẫn cho rằng: trên bước đường thành công, không thể có dấu chân kẻ lười biếng. Trở nên người hữu ích, được thành “chánh quả”, là điều có thực, khi ta đủ bình tĩnh: biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng. (Tôn Tử). Đó cũng là câu trả lời, tại sao yêu thầy mới được làm thầy, tại sao có yêu người mới thấy người yêu ta ? Tại sao lại có câu: tình yêu của bậc cha mẹ không bao giờ già nua, dù năm tháng có trôi qua.

Con người tự nhiên, hướng tới sự hoàn hảo, muốn được sống theo phong cách riêng của mình, vẫn phải chấp nhận một thực tại: có sinh, có tử, có đau khổ, có hạnh phúc, đó là sự thật. Khéo ăn khéo ở, mưu cao, tiền nhiều, chưa chắc đã mang đến cuộc sống như ý, vì thế mà các đấng bậc cho thấy một kinh nghiệm: không phải thực lực, mà là tính kỷ luật đã làm nên những con người vĩ đại. Người Việt chúng ta thì có câu: nhìn lên, không bằng ai, nhìn xuống khối kẻ vất vả hơn ta nhiều, phải chăng có thành công, có nhận ra mình hạnh phúc, tất cả là nhờ cái “kính chiếu hậu” ? Các tông đồ cửa đóng then cài, vì các ông sợ người Do-thái, Đấng phục sinh đã yêu đến cùng, tiếp tục hiện diện trao ban bình an, mở trí mở lòng, chia sẻ niềm vui và sức sống mới cho các học trò. Chúng ta đang nhìn “kính chiếu hậu” theo tinh thần nào ? Gương sáng của cha mẹ ông bà, suy nghĩ về tình Thầy Giêsu vĩ đại, khiếp sợ, mừng vui, khi đối diện với Đấng sống lại từ cõi chết ? Bằng hành động tin yêu, Đấng phục sinh đang xoá tan mọi nghi ngờ, bằng tình hiệp thông cầu nguyện, Đấng phục sinh sẽ ban bình an, thổi sức sống vào tất cả những gì đã chết nơi con người tội lỗi chúng ta.

Còn đó lời Thầy: “khi nào ác ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai” ? “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Vâng, có phải bụng đói, ví rỗng, trái tim tan vỡ là tồi tệ nhất không ? Hãy mạnh mẽ tin rằng: túng thiếu, khổ đau, tình phụ, luôn là những bài học quý giá, rèn luyện ta đứng lên, và đi những bước vững chắc hơn đến hạnh phúc ở phía trước. Các tông đồ đóng cửa phòng vì sợ, đóng cửa lòng vì phải chứng kiến một sự thật, Đấng mà đám đông dân chúng đã từng hoan hô, chúc tụng, rồi sau đó họ lại hô to: “đóng đi nó vào thập giá” ! Còn đó những lời yêu thương: “việc Thầy làm bây giờ các con không hiểu, nhưng sau sẽ hiểu. Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng sẽ rửa chân cho nhau”.

Nếu muốn biết sự thật về lòng thương xót của Thiên Chúa, hãy nhìn lên cây thập giá. Nếu muốn cảm nhận hạnh phúc tình thầy trò, phải vượt qua đau khổ thập giá để đến vinh quang, không thể đi đường tắt. Nếu muốn biết sự chân thật của phụ nữ là gì, hãy để họ khóc. Nếu muốn hiểu đàn ông con trai là gì, hãy để họ say. Nếu muốn biết, tại sao các môn đệ vui mừng vì được xem thấy Chúa phục sinh, lại là khởi đầu cho việc sống niềm tin, hãy đọc tiếp … “Bình an cho các con, như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán: các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Tình yêu của con người là có qua có lại, mới toại lòng nhau. Đâu phải vô tình mà cha ông ta nói: giầu tình yêu thương và quảng đại sẻ chia, ai chẳng quý, giầu tiền lắm của mà nhân ái với mọi người, ai chẳng mến phục. Tình yêu của Đấng phục sinh là bình an, khai thông mọi bế tắc, là tiếp tục trao ban. Có những người ta yêu mà ta không thể ở bên cạnh họ, có người họ yêu ta, mà ta lại dửng dưng như không hề hay biết.

Còn đó lời Thầy: “Toma, hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy, hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy, chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Đúng, cơ hội giống như bình minh, nếu chờ đợi quá lâu, có thể bạn bị lỡ nhịp. Cuộc sống đẹp là sự cân bằng giữa cho đi và nhận lại, buồn vui, tin và yêu, vẫn là sự tự do thiết thực mà người ta phải bày tỏ, minh chứng. Đấng phục sinh vì yêu, đã đáp ứng đòi hỏi của Toma, đã khích lệ từng tâm hồn đang bị đóng băng vì hụt hẫng trong tình yêu: “phúc cho những ai không thấy mà tin”. Lời mời gọi theo Thầy, tin Thầy, luôn cần thiết: hãy mạnh mẽ lên, mọi khổ đau rồi sẽ qua đi, bão có mùa, mưa có cơn, nắng sẽ lại lên, và cuộc đời sẽ tốt hơn. Đừng nên thắc mắc, tại sao Toma cứng lòng và các tông đồ nhát sợ hèn tin Đấng sống lại từ cõi chết, hãy liên đới tình hiệp thông, vượt qua khổ đau thập giá, chứ không phải không sợ hãi vác thập giá. Amen.

Về mục lục

TRÁI TIM CHỊU THƯƠNG TÍCH

Bông hồng nhỏ

Khi bị treo trên thập giá, Thầy Giêsu đã đón nhận tất cả những sỉ nhục, khinh chê, những lời nhạo báng của nhiều hạng người. Thầy cũng đón nhận cả sự cô đơn, đón nhận sự vắng mặt của các môn đệ là những người đã từng sát cánh bên Thầy trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng. Từ trên thập giá, trái tim Thầy bị đâm thâu. Kể từ đó, trái tim ấy đã không bao giờ khép lại.

Sau khi phục sinh, vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Thầy Giêsu đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông. Thầy không hề nhắc lại chuyện cũ. Thầy không hỏi tại sao các con bỏ Thầy mà đi. Thầy bị bắt, hầu hết các ông đều bỏ chạy thoát thân. Chỉ có ông Phêrô theo Thầy xa xa, nhưng ông cũng đã chối Thầy ba lần. Khi vừa chối Thầy lần thứ ba thì ông nghe có tiếng gà vừa gáy, ông chợt nhớ lại lời Thầy đã nói, ông bắt gặp ánh mắt của Thầy. Ông đã ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Chỉ còn người môn đệ mà cảm nhận được tình thương mến của Thầy trung thành bước theo Thầy đến tận đồi Canvê, ông cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá. Không còn Thầy bên cạnh, tông đồ trở thành những con chiên không có chủ chăn.

Các ông đã tự thu mình trong căn phòng đóng kín cửa, vì các ông sợ người Do thái. Chẳng ai trong các ông có thể vượt qua nỗi sợ để ra ngoài. Cửa phòng đóng kín và cửa lòng mỗi người cũng chẳng ai có thể tự mình mở ra được. Thế nhưng, sự hiện diện bất ngờ của Chúa Giêsu phục sinh đã mang lại cho các ông niềm vui và hạnh phúc. Chẳng ai trong các ông đủ can đảm để mở cửa phòng nhưng Chúa phục sinh không bị giới hạn về thời gian và không gian, không bị những cánh cửa ấy chặn lối. Người chủ động đến với các ông và ban bình an cho các ông. Chẳng ai trong các ông từ chối sự hiện diện của Thầy. Được thấy Chúa, lòng các ông được bừng sáng hân hoan. Bóng đêm của sợ hãi đã bị đẩy xa. Người cho các ông xem tay và cạnh sườn là những dấu chứng của tình yêu đến cùng của Người. Trái tim của Thầy đã bị đâm thâu nhưng từ nơi đó, mỗi người đều được nương ẩn, bấp chấp mọi tội lỗi và yếu đuối. Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 21-23). Hội Thánh được Chúa Giêsu trao cho quyền tha tội là để lòng thương xót của Thiên Chúa qua đó tuôn chảy xuống nhân loại. Bất cứ ai chạy đến với trái tim từ ái của Chúa Giêsu đều được Người thứ tha muôn vàn tội lỗi. Trái tim Người đã mở ra là để đón lấy từng tâm hồn đầy thương tích của mỗi người.

Khi Chúa phục sinh hiện ra với các môn đệ, có một người môn đệ vắng mặt tên là Tôma. Nghe anh em kể lại việc mình đã được thấy Chúa, ông cứng lòng không tin. Ông quả quyết: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25). Tám ngày sau, Chúa phục sinh đã hiện ra với ông và cho ông xem tay và cạnh sườn Người. Được thấy Chúa, ông đã hân hoan thốt lên lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28). Chúa Giêsu không mỏi mệt khi chờ đợi, Người không mỏi mệt khi tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Trái tim Người đã và đang mang lấy những thương tích của từng người trong chúng ta. Người đã mang thương tích là để ta được chữa lành. Dù cho ai đó có cứng lòng không chịu tin thì Thiên Chúa vẫn chờ đợi và dùng nhiều cách thế để tỏ cho họ nhận biết tình thương của Người. Người đích thân đến với họ và ngỏ lời với họ.

Clive Staples Lewis (1898-1963, văn sĩ Anh, tác giả cuốn Ký sự Namia) đã từng nói: “Thiên Chúa thì thầm trong những lúc ta vui, Người thì thầm trong lương tâm ta. Nhưng Người nói lớn và mạnh trong những đau khổ của ta. Những đau khổ đó là cái loa tăng âm để làm thức tỉnh một thế giới mê ngủ.” Mỗi ngày, ta hãy chú tâm lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa trong khi vui, tiếng nói vang lên từ tiếng lương tâm của ta và trong những lúc ta bị đau khổ giày vò. Hãy để cho Lời của Người đánh thức tâm hồn ta. Hãy hướng nhìn lên trái tim bị đâm thâu của Người, để thấy được cả nỗi đau của ta ở nơi đó. Và chắc chắn, tình yêu của Người sẽ chữa lành cho ta, mang lại niềm vui, bình an cho ta. Hãy hướng nhìn đến những anh chị em đang đau khổ, hãy để cho nỗi đau của họ chạm vào lòng ta và nhìn thấy Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh đang hiện diện trong họ. Ta hãy trao cho họ tình yêu mà ta đã nhận lãnh từ Thiên Chúa.

Về mục lục

CỦNG CỐ ĐỨC TIN

Thiên San

Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông. Trong lần hiện ra này, ông Tôma đã không ở cùng các anh em của mình, bởi vậy ông không được gặp Đức Giêsu Phục sinh – Thầy của ông. Tám ngày sau, Người cũng hiện ra với các ông, ông Tôma cũng ở đó. Gặp Thầy, được nhìn thấy tận mắt và sờ tận tay, Tôma đã phải thốt lên: “ Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28). Quả thực ông đã tin, đức tin của ông được củng cố.

Chúng ta chẳng biết tại sao Tôma lại không ở đó với các em của mình. Có thể ông là người can đảm nhất trong số các môn đệ chăng? Trong khi các anh em tụ tập trong nhà cùng nhau, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ người Do Thái, thì có thể Tôma đang lang thang đâu đó. Ông không ngồi ì trong nhà như các anh em. Ông dược diễm phúc gặp Thầy của mình. Cả hai lần hiện ra với các môn đệ, Đức Giêsu Phục sinh đều ban bình an cho các ông. Bởi Người biết, sau bao nhiêu biến cố xảy ra, các môn đệ của Người còn sợ hãi, nhát đảm. Các cánh cửa đóng lại hệt như tâm hồn đang đóng lại của các ông. Cái chết của Thầy là một mất mát quá lớn đối với các ông. Có thể rồi đây, người Do thái sẽ tìm bắt các ông y như tìm bắt Thầy Giêsu. Rồi các ông cũng sẽ chết y như Người vậy. Chính Đức Giêsu Phục sinh đã đến phá tan cánh của của sợ hãi, nhát đảm; Người ban sự bình an cho các ông. Chúa Giêsu luôn dành tình yêu thương cho từng người, Ngài chẳng để quên một ai.

“Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Đó là lời chúc phúc của Đức Giêsu Phục sinh dành cho tất cả chúng ta –  những người “không thấy mà tin”. Thật vậy, chúng ta không có cơ hội được gặp mặt Đấng Phục sinh cách trực tiếp như các Tông đồ xưa. Chúng ta cũng không được nghe thấy giọng nói, nhìn thấy khuôn mặt của Ngài như các môn đệ. Nhưng chúng ta vẫn là những người được chúc phúc. Sau bao nhiêu thế hệ, Tin Mừng của Chúa vẫn được ban cho chúng ta. Có thể nói, lời thách thức của Tôma ngày xưa thật quý. Bởi chính vì sự cứng lòng tin của ông mà chúng ta thêm xác tín hơn về sự hiện diện của Đức Giêsu Phục sinh. Đó không chỉ là một mầu nhiệm chỉ biết lấy đức tin bù lại nhưng nó còn là sự thật được xác thực qua lời các nhân chứng. Đức tin của chúng ta hoàn toàn có cơ sở.

Cuộc sống hôm nay nhiều biến động: những khó khăn, thử thách xảy đến trong cuộc đời chúng ta. Làm thế nào để chúng ta có thể nhận ra sự hiện diện của Đấng Phục sinh trong cuộc đời này? Người có đang ban ơn bình an và củng cố đức tin cho chúng ta như xưa Ngài đã làm với các môn đệ? Tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại thật lớn lao. Đó là một tình yêu trọn vẹn, yêu cho đến cùng. Tình yêu của Ngài không chỉ dừng lại ở cái chết trên thập giá. Ngài đã mở ra cho chúng ta cánh cửa của niềm hy vọng tràn trề về sự sống đời sau qua sự Phục sinh của Ngài. Thật vậy, thánh Phaolô đã từng nói: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15, 14). Nhờ sự phục sinh của Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ được phục sinh với Ngài. Cũng bởi nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người (x. 1Cr 15, 19).

Đức Giêsu Phục sinh vẫn hiện diện với chúng ta hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Người dùng các chứng nhân do Người tuyển chọn để loan báo về Tin mừng phục sinh và lời rao giảng của các vị ấy xác thực vì được gặp gỡ, cùng ăn uống với Đấng Phục sinh. Hôm nay, Ngài vẫn ở với chúng ta cách cụ thể qua Bí tích Thánh Thể. Mỗi lần chúng ta rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng là chúng ta đang được gặp gỡ chính Chúa Giêsu Phục sinh. Vì biết chúng ta kém lòng tin nên Ngài luôn đến củng cố đức tin cho chúng ta qua nhiều cách thức khác nhau. Xin Chúa Giêsu phục sinh ban cho chúng ta bình an của Ngài và giúp chúng ta can đảm làm chứng cho sự hiện diện của Ngài khi chúng ta sống yêu thương theo lối đường của Chúa.

Về mục lục

TÌNH YÊU THIÊN CHÚA

Anna Nguyễn Lan

Trong Kinh Thánh rất nhiều lần Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta thấy Tình yêu của Người. Trong Tin Mừng theo thánh Luca, thánh nhân cũng phác họa chân dung của Thiên Chúa đầy Lòng Thương Xót, từ tâm, nhẫn nại qua hình ảnh người cha già có đứa con hoang đàng (Lc 15. 11-32). Dù biết chọn lựa ra đi của người con là sai lầm, người cha ấy vẫn tôn trọng tự do và luôn mong mỏi trông ngóng, sẵn sàng thứ tha khi con trở về.

Tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu hoàn toàn xóa mình, như người cha già chỉ được biết đến qua hai đứa con “một người kia có hai con trai” (Lc 15,11), tài sản lớn nhất của Thiên Chúa là nhân loại này, Người dành hết tình yêu cho công trình Người đã dựng nên. Tuy nhiên đáp lại tình yêu ấy lại là sự bất trung, sa đi ngã lại trong tội lỗi của con người. Khi nhìn lại tương quan của mình với Thiên Chúa, tôi thấy mình là đứa con đi hoang của Chúa. Nhiều lúc tôi đã quay lưng lại với tình yêu và lời mời gọi của Người để chạy theo những ước mơ ích kỉ của riêng tôi, tôi làm ngơ trước ý định của Người và chạy theo những gì tôi muốn, tôi thích…Những lúc ấy thực sự tôi đã đi hoang, và sau tất cả tôi đã thu lại được gì? Cô đơn, thất vọng, chán nản. Tôi nhận ra rằng chỉ trong Chúa là Cha của tôi, tôi mới có một nguồn hạnh phúc thực sự, một hạnh phúc không ai có thể lấy mất đi khỏi đời tôi.

Thiên Chúa yêu tôi đó là một điều chắc chắn dù tôi có nhận ra hay không. Nhưng, Người không yêu tôi theo kiểu thế gian vẫn nghĩ, Người không cất khỏi tôi những cám dỗ, những yếu đuối, Người cũng không yêu tôi bằng một tình yêu cấm đoán, Người yêu tôi bằng một tình yêu tôn trọng tự do hoàn toàn. Như người cha chấp nhận sự ra đi của đứa con, mặc dù với kinh nghiệm của mình, có thể con mình sẽ rơi vào những cám dỗ, nhưng tình yêu quá lớn ông dành cho con không cho phép ông dùng quyền của mình để cấm đoán đứa con, ông chấp nhận ôm nỗi đau một mình để cho con được hoàn toàn tự do. Thiên Chúa cũng vậy, dầu biết tôi sẽ có lúc sa ngã, Người cũng không nỡ tước mất tự do của tôi để cấm tôi làm điều này, điều khác, Người chỉ âm thầm nhắc nhở tôi, nhưng quyền quyết định Người vẫn trao cho tôi, và lúc ấy là lúc chính tôi phải lựa chọn. Khi thấy những sự giữ, điểu xấu xảy ra trên thế giới nhiều người vẫn than trách Chúa, tại sao Chúa để cho những điều này xảy ra? Tại sao Chúa không dùng quyền năng Chúa mà can thiệp!…

Nhưng nếu Chúa dùng quyền năng Chúa mà ngăn cản, thì còn đâu là tự do của con người? Người yêu chúng ta và cũng cho chúng ta có tự do để chọn đón nhận hay chối từ tình yêu ấy. Tuy nhiên Thiên Chúa vẫn luôn có khả năng rút ra điều tốt từ những điều xấu.

Kinh nghiệm đi hoang đã làm cho đứa con nhận ra tình yêu của cha mình. Đang khi được sống trong sự sung túc, giàu sang cùng sự bao bọc của cha, anh ta hoàn toàn không ý thức được những điều ấy, nhưng khi mất đi tất cả, bỏ cả phẩm gía làm người, anh ta mới nhận ra điều gì mới thật là quý trọng. Tôi cũng vậy, khi có những kinh nghiệm đi hoang tôi mới biết quý trọng những ân ban mà Chúa ban cho tôi cách nhưng không. Như người cha già, Chúa luôn chờ đợi, trông ngóng tôi trở về và sẵn sàng ôm ấp tôi trong vòng tay yêu thương của Người. Khi cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa cũng mời gọi tôi hãy ra đi khỏi vùng an toàn của mình, ra đi không phải là để tiếp tục đi hoang, nhưng là để đưa về cho Chúa những người anh em của tôi vẫn còn đang đi lạc, vì khi kinh nghiệm được sự yếu đuối của bản thân, tôi mới biết thông cảm và chia sẻ với người khác, như Lời Chúa đã nói với thánh Phêrô “Simon, Simon ơi, kìa xa tan đã xin được sàng anh như người ta sàng gạo. Nhưng thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em thêm vững mạnh” (Lc 22, 31-32) .

Lạy Chúa, con biết rằng Chúa luôn yêu con, và mãi mãi tình yêu ấy không hề thay đổi. Xin cho con mỗi ngày cảm nghiệm thật sâu sắc hơn Lòng Thương Xót của Chúa luôn yêu con, và con biết đáp lại bằng mỗi giây, mỗi phút trong cuộc đời con. Xin cho con cũng biết loan truyền Lòng Thương Xót Chúa ngang qua cung cách sống và việc làm phục vụ của con. Amen

Về mục lục

BÌNH AN TỪ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Lm. Xuân Hy Vọng

 Trải qua hai năm ròng rã chống trọi với cơn đại dịch khóc liệt, nhà nhà chứng kiến người thân ra đi đơn độc, chẳng thể viếng thăm, không thể tiễn biệt; người người nơi xa xôi chỉ biết liên lạc với nhau qua mạng truyền thông, và rồi khi thân bằng quyến thuộc từ giã cõi đời, cũng chẳng hề hay biết, mãi cho tới lúc trông thấy thông tin trên internet…Ôi vô vàn chuyện tan thương, bao nỗi đau đớn hằn sâu nơi con người giữa cơn dịch bệnh kinh hoàng này!

Giờ đây, tình hình đã khả quan hơn, ai cũng đành chấp nhận sống chung với dịch bệnh ở ‘trạng thái bình thường mới’, nhưng vẫn luôn khát khao, chất chứa nỗi niềm đau đáu trong lòng hầu có được sự bình an thâm sâu ngự trị nơi tâm hồn. Thiết nghĩ, đọc đoạn trình thuật Tin Mừng theo Thánh Gio-an hôm nay, chúng ta có thể hiểu được tâm trạng lo âu, bồn chồn của các Tông đồ khi chứng kiến Thầy mình bị đóng đinh, chịu chết nhục nhã trên cây thập giá. Họ sợ hãi, hoảng hốt bỏ trốn, duy chỉ Gio-an ở lại với Mẹ Ma-ri-a và một số người phụ nữ nhiệt tâm khác, can đảm đứng dưới chân thập tự hiệp cùng cuộc tử nạn của Đức Giê-su cho tới lúc mai táng Người trong mồ. Các ông đã lo sợ, bất an, thu mình, không dám ra ngoài. Thấu hiểu nỗi lòng này, Chúa Giê-su Phục Sinh hiện đến chào và chúc bình an cho họ: “Bình an cho các con” (Ga 20, 19. 21. 26).

Lời chào này đơn giản, vỏn vẹn năm từ, nhưng sự bình an này không đơn thuần chỉ an ủi, hay mang lại điều yên ổn cho các Tông đồ, mà còn chữa lành tâm hồn tan thương, bất an, u sầu, hoang mang của họ. Sự bình an này khởi nguồn từ lòng từ bi lân tuất, từ lòng xót thương không bờ bến, từ lòng bao dung tha thứ, đã cảm hoá con người yếu hèn, tội lỗi của các Tông đồ, và của chúng ta. Hơn nữa, sự bình an này được chính Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh trao ban. Người đã chiến thắng sự chết, huỷ diệt bóng tối vây quanh con người, đánh bại tử thần, và đập tan ‘bức tường’ sau hết mà ai trong chúng ta sớm muộn gì cũng phải đối mặt. Vì chưng, Người là “Đấng trước hết và là Đấng sau cùng, là Đấng hằng sống; Người đã chết, nhưng đây vẫn sống đến muôn đời. Người giữ chìa khoá sự chết và địa ngục” (x. Kh 1, 17-18).

Cảm nghiệm sự bình an sâu thẳm trong tâm hồn, đám đông dân chúng đã được chữa lành phần hồn và thân xác như Sách Tông đồ Công vụ thuật lại. Như lời truyền của Chúa Giê-su Phục Sinh: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con…Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20, 21-23), các Tông đồ đã can đảm bước ra làm chứng cho Thầy mình, trở nên sứ giả bình an đích thực, trở thành khí cụ tình yêu, tha thứ, và làm máng thông ơn xót thương của Người. Chính vì vậy, “số những người nam nữ tin vào Chúa ngày càng gia tăng” (Cv 5, 14). Dừng ở điểm này, chúng ta thử nhìn lại bản thân, nhìn lại gia đình, cộng đoàn, giáo xứ và tự hỏi: Liệu chúng ta đã-đang cảm nghiệm sự bình an này chăng, hay chỉ mới bám víu vào sự yên ổn, an toàn? Liệu chúng ta đã-đang trở nên chứng nhân của lòng thương xót Chúa, trở thành sứ giả tình yêu và bình an của Chúa Ki-tô Phục Sinh? Liệu chúng ta đã-đang sống lan toả niềm vui của người môn đệ hằng được ngụp lặn trong bình an xuất phát từ nguồn suối xót thương?

Sau cùng, sự bình an của Chúa Ki-tô Phục Sinh dập tắt nỗi sợ hãi sâu kín trong tâm tưởng các Thánh Tông đồ và chúng ta. Sự bình an này tuôn tràn chứa chan nơi tận đáy lòng, len lỏi trong mọi ngõ ngách đời sống chúng ta. Sự bình an mà Chúa Ki-tô Phục Sinh tặng ban, giúp chúng ta nhận ra lòng lân tuất vô biên của Thiên Chúa, chữa lành đức tin yếu hèn của chúng ta, và thúc bách mỗi người chúng ta ra đi trở nên chứng nhân hoà bình – yêu thương – xót thương – tha thứ, vì chưng mọi việc, mọi phép lạ Chúa Giê-su thực hiện không được ghi chép tất cả, nhưng “…các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người” (Ga 20, 31).

Lời cầu:

Lạy Chúa giàu lòng xót thương,

Mãi liên là chốn tựa nương cuộc đời.

Nơi Ngài suối nguồn nghỉ ngơi

An bình tắm mát, ca lời ngợi khen.

Giữa dòng chen chúc nhỏ nhen

Sẵn chờ tỉnh thức, ngọn đèn đức tin

Toả lan soi chiếu anh minh

Công bình chân chính, đăng trình chứng nhân. Amen!

Về mục lục

NIỀM TIN CỦA TÔI

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Niềm tin không chỉ là sự ưng thuận cách máy móc. Niềm tin còn đòi hỏi những phản ứng tích cực như Toma: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25)

Tự khẳng định là một trong những đặc điểm để xác định chính mình giữa mọi người. Tự khẳng định bằng một con đường ngay thẳng, chính trực, ý thức và tự do. Chúa muốn như thế đối với mỗi người chúng ta, chịu trách nhiệm về niềm tin và sống cuộc sống của mình chứ không ai khác. Niềm tin không chỉ là do ai đặt để cho, mà còn là niềm tin “tôi tin” trong đức tin “chúng tôi tin”.

Trong đời sống đạo, cha mẹ, ông bà tôi, anh chị em tôi đều dự lễ ngày Chúa Nhật, tôi cũng đi nhưng đi cho có. Tôi không ý thức điều ấy là cần thiết cho tôi nên tôi chỉ thấy điều phải làm. Trong đời sống, nếu tôi phải làm, tôi sẽ chỉ chiếu lệ, cho xong, tôi không biết mình là ai vì chẳng bao giờ biết tôi là ai và điều gì cần cho tôi. Tôi sống như mọi người quanh tôi sống, họ đứng ngoài dự lễ, tôi cũng làm như thế, nhiều người cho rằng chẳng tội lỗi gì tôi cũng sống theo vậy. Cuối cùng tôi chẳng có trách nhiệm gì với cuộc sống của tôi, cứ để nó trôi theo những cảm xúc của tôi. Thấy được là được, thấy tốt là tốt.

Tự tìm kiếm niềm tin là một hành vi tích cực, để biết tại sao tôi tin, niềm tin ấy cho tôi những gì? Toma đặt câu hỏi của mình về niềm tin là bộc lộ một cá tính mạnh. Ông dám tuyên bố với mọi người, niềm tin cần được kiểm chứng. Mặc dù Tôma cũng đã sống với Chúa bao năm, chứng kiến sự chết của Chúa, vẫn nghe Chúa đã sống lại. Tất cả những điều đó vẫn là điều “chúng tôi tin”. Vấn đề “tôi tin” đòi hỏi với chính tôi. Tôi sẽ đến tham dự với anh chị em tôi trong cử hành Thánh Lễ một cách nghiêm túc, giống như Tôma đến dự buổi họp mặt với các tông đồ tám ngày sau đó. Tôi tham dự với một cách khiêm nhường cùng với anh chị em của tôi trong cầu nguyện, xin ban cho tôi thêm niềm tin.

Niềm tin của tôi là một niềm tin sống động, không chỉ một lần tin mà là mỗi ngày sống xác tín niềm tin. Tôi hạnh phúc sống trong niềm tin của tôi, đòi hỏi tôi nỗ lực tìm biết và sống niềm tin của mình, chứ không do người khác nhận định. Chính tôi tìm thấy niềm tin của tôi trong điều chúng tôi tin là cần thiết. Chúa sẵn sàng cho tôi thấy niềm tin của tôi, như đã sẵn sàng cho Tôma thọc ngón tay vào lỗ đinh, để củng cố xác tín của tôi.

Niềm tin tôi sống một cách sâu xa có thẻ diễn tả theo cách của Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Một niềm tin sống dồi dào, đạt tới đỉnh cao hạnh phúc. Đó là niềm tin mà chúng ta hằng ngày xin Chúa ban cho để vươn tới.

Về mục lục

NHỮNG VẾT SẸO

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Chắc không ai sống trong đời mà lại không có bất cứ một vết sẹo. Có thể là vết sẹo của một lần đùa giởn vô ý gây ra. Có thể là vết sẹo của một lần đứt tay, hay một vết trầy xướt trên thân thể. Cũng có thể là vết mỗ do bệnh tật lâu ngày đã liền da…

Tuy nhiên, có những vết sẹo được nhìn thấy bên ngoài, trên thân xác, nhưng cũng không ít những vết sẹo trong tâm hồn, trong trái tim, trong trí nhớ, trong cuộc đời… không bao giờ chủ nhân của nó quên được.

Mỗi vết sẹo dù trên thân xác, hoặc trĩu nặng trong tâm hồn đều gợi lại một câu chuyện, một sự tích, một lý do… Có khi là những kỷ niệm của niềm vui, nhưng cũng có khi là những đau đớn không thể nguôi ngoai…

I. VẾT SẸO – DẤU CỦA THÁNH GIÁ.

Hôm nay, Tin Mừng cho biết có đến hai lần Chúa hiện ra. Cả hai lần, thánh Gioan ghi nhận Chúa hiện ra có cùng một cách thế. Lần thứ nhất, ngay khi hiện ra,“Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người”.

Có gì trên tay và trên cạnh sườn mà Chúa cho xem? Nơi ấy, dấu thánh giá không bị phai nhòa. Trên đôi cánh tay, trên cạnh sườn còn nguyên dấu tích của những cây đinh, của lưỡi đòng đâm thấu qua. Chính những vết sẹo, cũng chính là dấu thánh giá còn mới nguyên trên thân thể Chúa.

Những vết sẹo, dấu chứng của thánh giá trở thành dấu chỉ của niềm tin nơi các tông đồ. Nhìn vào dấu của thánh giá trên thân thể của người đang hiện diện trước mặt mình, các tông đồ đã tin Thầy mình sống lại.

Nhưng lần ấy, khi Chúa hiện ra, thánh Tôma không có mặt. Thánh nhân nhất quyết không tin.
Tám ngày sau, Chúa lại hiện ra, có mặt thánh Tôma. Lần này thái độ của Chúa mạnh hơn, dứt khoát hơn. Chúa không chỉ đưa tay và cạnh sườn cho xem, nhưng Chúa Giêsu Phục Sinh lên tiếng: “Tôma, hãy xỏ ngón tay của con vào lổ đinh trên tay Thầy đây, hãy thọc bàn tay của con vào cạnh sườn của Thầy. Con đừng cứng lòng tin nữa, mà hãy tin”.

Mới hôm nào dõng dạc tuyên bố: “Nếu tôi chưa xỏ ngón tay tôi vào lổ đinh của Chúa, nếu tôi chưa thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Người, tôi không tin”. Tuyên bố mạnh mẽ là thế, kiên quyết là thế, dứt khoát là thế, nhưng bây giờ trước dấu thánh giá còn in sâu một cách hùng hồn trên thân thể của Đấng Phục Sinh, thánh Tôma đã phải cúi đầu tuyên xưng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.

Một lần nữa, qua thái độ của thánh Tôma, thánh Gioan cho thấy, chỉ sau khi xem những vết sẹo trên tay và cạnh sườn bị thương tích, các môn đệ mới tin, đó là Chúa của họ. Chỉ sau khi xem những vết sẹo trên tay và cạnh sườn bị thương tích, họ mới hết nghi ngờ, mới cảm thấy “vui mừng vì xem thấy Chúa”.

Vết sẹo hay dấu chứng của thập giá trở thành bằng chứng của lòng tin: CHÚA ĐÃ PHỤC SINH. Như vậy dấu của thánh giá là bảo đảm cho đức tin của các môn đệ. Dấu của thánh giá là bảo đảm cho đức tin của chúng ta.

Chúa Kitô đã phục sinh. Dù đã phục sinh, Chúa đã không tự xóa bỏ dấu vết đau khổ trên thân thể của mình. Sự phục sinh dù vinh hiển và khải hoàn đến đâu, vẫn không thể xóa nhòa bất cứ một dấu ấn nào của thánh giá.

Trái lại, dấu vết của đau khổ, của thánh giá vẫn còn trên thân thể sáng láng của Đấng Phục Sinh, lại làm cho các môn đệ dễ nhận ra đức tin, vững tin và được củng cố đức tin.

II. NHẬN RA ĐIỀU GÌ QUA CÁC SẸO ẤY?

Vết sẹo hay dấu chỉ thánh giá trên thân thể Đấng Phục Sinh cho ta nhận ra hai điều này:

1. Dấu ấn của tình yêu trước tội lỗi.
Dấu vết thập giá không chỉ là những kỷ niệm về một cái chết nhục nhã còn ghi lại trên thân thể Đấng Phục Sinh, mà là một nhắc nhở cho ta về khuôn mặt tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính vì tình yêu ấy, Thiên Chúa đã cúi mình thật sâu trong thân phận con người để ta được diễm phúc làm con Thiên Chúa.

Dấu vết kinh hoàng của thập giá trên thân thể Đấng Phục còn là nỗi đau trong tâm hồn nhân loại mỗi khi họ nhìn vào đó mà nhận ra sự khủng khiếp do tội lỗi của chính mình gây ra.
Mãi mãi dấu thánh giá vẫn không bao giờ mai một trong Hội Thánh nói riêng và trong nhân loại nói chung. Bất cứ nơi đâu, nếu nhìn thấy bóng dáng thánh giá, người ta vẫn nhận ra rằng, tình yêu của Thiên chúa là một tình yêu chung thủy, vẫn mãi mãi hiện diện giữa lòng đời, dẫu hết thời gian này đến thời gian khác, con người không ngừng bất trung và sai phạm.

2. Đau khổ trong đời người.

Mặt khác, Mỗi người đều có nỗi buồn: gia đình đang sum họp, bỗng dưng người vợ hay người chồng phản bội, rẽ sang hướng khác. Gia đình đang sung túc, bỗng dưng người thân ra đi vĩnh viễn, mà người thân đó có khi là cột trụ của đời sống, của kinh tế gia đình. Mất mát thật to, nỗi buồn càng lớn…

Hay con đường tương lai, sự thành công đang ở trước mặt, bỗng dưng một biến cố đau thương xảy đến, làm mất hết tất cả. Hay hy vọng đang ngời ngời sáng phía trước, bỗng dưng mất mát người thân yêu nhất đời mình…

Những lúc bi đát đến cùng cực, chúng ta hãy nhìn về phía Chúa Giêsu, để thấy thánh giá là điều hiển nhiên của cuộc đời mỗi người. Đó là cây thánh giá mà ta phải vác đi theo tiếng gọi của Chúa: “Ai theo Ta hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”.

Chúng ta may mắn vì được tôn thờ một Thiên Chúa đã từng biết đến đau khổ, và hôm nay, sau khi phục sinh, Chúa của chúng ta vẫn còn mang trên thân thể những lỗ gai nhọn đâm vào đầu, những lỗ đinh xuyên thủng bàn tay, bàn chân, và dấu của cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thấu.

Nói cách khác, chúng ta có một Thiên Chúa biết đến đau khổ là gì, chết là gì, để trong nỗi đau và trong nỗi chết chóc thường ngày của ta, Chúa gần gũi với ta, Chúa chia sớt cùng ta, Chúa thấu hiểu từng thách thức mà đời ta luôn đối diện và không ngừng trải qua…
Vì thế, ta tin, trong cuộc đời của mình, không ai là đơn lẻ, không ai là mồ côi. Chúa vẫn đang đồng hành khi ta ấp ủ Chúa trong mọi buồn vui của bản thân. Thánh giá Chúa vẫn không ngừng soi rọi để cứu độ thập giá đời ta.

Về mục lục

ĐỨC GIÊSU KITÔ, NGÀI NHƯ THẾ ĐÓ

Aug. Trần Cao Khải

I.- KINH NGHIỆM CỦA THÁNH TÔ-MA TÔNG ĐỒ VỀ ĐỨC KI-TÔ PHỤC SINH

Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).

Sự phục sinh của Đức Giê-su đã thực sự thách thức lòng tin của Tô-ma. Xem ra ông cứng tin nhất trong nhóm Mười Hai. Tuy nhiên xét cho cùng sự cứng tin ấy cũng dễ hiểu. Các tông đồ, trong đó có Tô-ma, đã từng sống với Thầy nên họ biết chính xác con-người-Giêsu bằng xương bằng thịt. Vậy mà bây giờ sau cái chết rõ mồn một của Đức Giê-su, lại xảy ra việc Ngài đã sống lại và đang sống. Sự kiện bất ngờ và lạ lùng ấy đã được chính bà Ma-ri-a Mác-đa-la, người được tiếp cận với Đức Ki-tô phục sinh,  loan báo: “Tôi đã thấy Chúa” (x. Ga 20, 18).

Đức Giê-su rất hiểu tâm trạng của Tô-ma nên đã chiều lòng ông. “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20, 27). Lập tức Tô-ma đã mau mắn làm theo lời đề nghị đầy cảm thông của Thầy mình. Và ông đã được toại nguyện hoàn toàn.

Sau sự kiện này, Tô-ma đã được củng cố thêm kinh nghiệm quý báu về Đức Giê-su Na-gia-rét. Ngài là một con-người như mọi người nhưng Ngài cũng là Con-Thiên-Chúa. Ngài đã vâng phục Cha đành lòng chịu chết để hoàn tất công trình cứu độ nhân loại. Và Ngài đã sống lại sau ba ngày chôn trong mồ. Thân xác phục sinh của Ngài vẫn là thân xác của một con-người với các dấu đinh…nhưng giờ đây Ngài đã biến đổi. Sự biến đổi này là do quyền năng Thánh Thần và vĩnh viễn Ngài là Chúa (x. Pl 2, 11).

Đó không phải là một cuộc biến hình như đã xảy ra trên núi Tabor với Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, nhưng chính là một sự phục-sinh-từ-kẻ-chết. Điều lạ lùng chưa từng có trong lịch sử nhân loại và trong lịch sử dân Is-ra-el. Chính vì sự lạ ấy mà Tô-ma đã choáng ngợp trước một Đấng-phục-sinh thần thiêng tuyệt vời chưa từng thấy. Ông đã thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).

Cũng như các tông đồ khác, Tô-ma đã nhận ra rằng sự phục sinh của Đức Giê-su là một biến cố cực kỳ quan trọng, đó được xem là cột mốc đáng ghi nhớ nhất trong cuộc sống tại thế và trong sứ vụ rao giảng của Đức Giê-su. Qua đó các ông đã thức tỉnh khỏi sự tăm tối của ước vọng về một vương quốc trần gian, về một vị vua thế tục và về một chiến thắng binh đội, quyền lực.

Đức Giê-su sống lại, là Chúa, là Thần Khí, đã vượt trên tất cả tạo thành cũ. Ngài khai mở Vương Quốc của thiên giới, Ngài là chủ trời-đất-con-người. Ngài là Adam-mới của tạo thành mới được tái sinh trong Thần Khí.

Thánh sử Mat-thêu kể lại: “Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến.Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: ‘Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế’.” (Mt 28, 16-20)

Tô-ma và các bạn của ông đã hiểu rằng kể từ sau biến cố sống lại từ cõi chết, Đức Giê-su đã chiến thắng tất cả:

– Ngài đã chiến thắng sự chết một cách oanh liệt;
– Ngài đã chiến thắng ma quỷ và tội lỗi trong nhân loại;
– Ngài đã vượt thắng sự giới hạn của không gian, thời gian;
– Ngài đã chiến thắng sự bất trung bất hiếu vì Ngài là trưởng tử trong nhân loại được Chúa Cha tha thứ và chúc phúc;
– Ngài đã chiến thắng lịch sử và làm cho nó trở nên “con-đường-dẫn-vào-sự-sống”. Vì Ngài là Alpha và Omêga, là tất cả trong mọi sự.

Đức Kitô Giê-su phục sinh, Ngài như thế đó. Tô-ma và các bạn tông đồ của ông cũng đã kinh nghiệm về Thầy Giê-su như thế đó…“Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28).

II.- CẢM NGHIỆM ĐỨC TIN CỦA KI-TÔ HỮU VỀ SỰ HIỆN DIỆN SỐNG ĐỘNG CỦA ĐỨC KITÔ TRONG HỘI THÁNH

Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Khởi sự từ kinh nghiệm “cứng tin” của các tông đồ, lòng tin của các tín hữu Chúa hôm nay cũng bị thách thức về một Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, về một Đấng Ki-tô hằng sống, về một Hội thánh là Thân Thể huyền nhiệm của Chúa Ki-tô, về sự hiện diện của Ngài trong vũ trụ, trong thế giới, trong mỗi con người, trong các Bí Tích.

Phúc cho ai không thấy mà tin”. Khởi điểm của đời sống Ki-tô hữu là Đức Tin. Và chúng ta phải cầu xin để có được đức tin. Đức tin là một ân huệ thiên giới. Tin không là nỗ lực của lý trí, ý chí mà là một ơn thiêng từ Thiên Chúa. Người dự tòng, ngay khi bước vào nghi thức tiếp nhận trong lễ Rửa tội, đã được thẩm vấn về việc có muốn “xin Đức Tin” cùng Hội thánh hay không.

Vậy thì thách đố đầu tiên của chúng ta là “Tin”. Tin không vì do tôi biết nhưng là ân huệ mà tôi xin mới có được. Xin vì Đức Tin (một trong ba nhân đức đối thần Tin-Cậy-Mến) là một hồng ân đến từ Thiên Chúa. Nhờ đó, chúng ta mới “thấy” được những “điều-không-thấy”, mới “biết” được những “điều-không-học”, mới “tin” được những “điều-không-thể-chứng-minh”…

Xem ra lòng tin của Tô-ma ít bị thử thách hơn Đức tin của chúng ta hôm nay. Chính vì thế Chúa mới nói: “… Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20, 29).

Sau khi về trời, không ai còn thấy Đức Giê-su nữa, một Đức Giê-su Na-gia-rét rong ruổi khắp các miền xứ Ga-li-lê-a để rao giảng Tin Mừng, làm phép lạ, thu nhận môn đồ…không ai còn được “nghe” Ngài giảng hay được “chứng kiến” Ngài thực hiện những dấu lạ nữa. Nhưng chúng ta vẫn có thể gặp được Ngài vì chúng ta tin vào những lời Ngài đã nói:

Đức Giê-su phục sinh vẫn còn hiện diện sống động trong Cộng đoàn Đức tin của Ngài. “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).

Đức Giê-su phục sinh vẫn còn hiện diện trong Bí Tích mầu nhiệm Thánh Thể để trở nên thần lương cho khách lữ hành trần gian. “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy” (Mt 26, 26). “Tôi là bánh hằng sống từ trời  xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi  sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống ” (Ga 6, 51).

Đức Giê-su phục sinh vẫn điều hành các hoạt động trong Hội thánh của Ngài, thông qua các anh em của Ngài. “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21) và “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ…” (Ga 20, 22-23).

Đức Giê-su phục sinh bây giờ là một Đức Ki-tô toàn thể. Ngài là đầu và anh em Ngài là các chi thể trong cùng một thân thể. Yêu thương anh em là yêu Chúa. Giúp đỡ anh em là giúp Chúa. Làm cho một người anh em phải hư hỏng là xúc phạm đến Chúa…(x. Mt 25, 31-46).

Đức Giê-su phục sinh bây giờ là một Tin Mừng mà chúng ta phải đón nhận và rao giảng. Ngài là đường (Đạo) mà chúng ta đi theo và giới thiệu cho người khác. Bao lâu chúng ta còn dửng dưng với Tin Mừng thì bấy lâu chúng ta chưa thực sự tin Ngài. Bao lâu chúng ta chưa thao thức việc rao giảng Tin Mừng cho mọi người, thì bấy lâu chúng ta chưa là môn đệ của Đấng Phục Sinh. Thánh Phao-lô đã xác quyết: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cor 9, 16).

Chúng ta tự hỏi, “Liệu ngày hôm nay chúng ta có được hưởng lời chúc phúc của Chúa Giê-su bởi đã tin những-gì-không-thấy không?”.  Câu trả lời sẽ tùy thuộc mối tương quan giữa của mỗi người chúng ta đối với Đức Giê-su Ki-tô “hôm nay và tại đây”.

Nhưng dù chúng ta tin hay không tin, tin nhiều hay tin ít…thì Đức Giê-su Ki-tô, Ngài như thế đó!…

Về mục lục

 

GIÁO HỘI: CỘNG ĐOÀN NHÂN CHỨNG CHO ĐẤNG PHỤC SINH

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Nếu trong thời gian Đức Giêsu còn tại thế, cộng đoàn tín hữu chỉ thu hẹp nơi những ai theo Người để nghe Người giảng dạy, thì sau khi Chúa từ cõi chết sống lại, cộng đoàn ấy đã trở nên mạnh mẽ, đông đảo hơn nhiều. Tác giả sách Công vụ tông đồ diễn tả với chúng ta Giáo Hội như một cộng đoàn nhân chứng cho Đấng Phục sinh (Bài đọc I). Cộng đoàn ấy không còn phân biệt người Do Thái hay dân ngoại, nhưng giang rộng vòng tay đón nhận tất cả những ai thành tâm thiện chí tin vào Đức Giêsu. Số những người tin Chúa gia tăng ngày một đông đảo và họ chuyên tâm thờ phượng Chúa. Với sự kiện Đức Giêsu phục sinh, Giáo Hội bước sang một giai đoạn mới, như một mùa gặt bội thu.
 
Nhờ sự hiện diện của Đấng Phục sinh, các tông đồ có thể làm phép lạ, như Chúa Giêsu khi Người còn ở trần gian. Toàn dân tuốn đến với các ngài, như trước đây họ tuốn đến với Chúa Giêsu để lắng nghe giáo huấn và xin làm phép lạ. Nhờ khả năng làm phép lạ, uy thế của các tông đồ ngày một tăng thêm. Các tông đồ cũng như mọi tín hữu, đều xác tín rằng, Đấng Phục sinh đang hiện diện giữa cộng đoàn và Người làm nên sức mạnh cũng như sự tăng trưởng của Giáo Hội. Thánh Gioan tông đồ, trong một thị kiến, đã thấy Chúa Giêsu, với lời tuyên bố: “Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời…” (Bài đọc II).
 
Đối với một số người khác, vấn đề Đức Giêsu phục sinh đang hiện diện giữa cộng đoàn tín hữu cũng gây những tranh cãi và bất đồng ý kiến. Họ muốn được trực tiếp gặp gỡ Đức Giêsu sau khi Người từ cõi chết sống lại. Tiêu biểu cho những người có tư tưởng này là Tôma. Ông là một trong nhóm Mười Hai được Chúa Giêsu chọn từ ban đầu. Vào ngày Chúa từ cõi chết sống lại hiện ra với các tông đồ, Tôma không có mặt ở đó. Nay ông muốn được kiểm chứng. Ông lên tiếng thách đố phải có những bằng chứng trực tiếp thì mới tin.
 
Thiên Chúa là Đấng quyền năng, nhưng thiêng liêng vô hình. Tin là chấp nhận Chúa hiện diện mặc dù không nhìn thấy bằng con mắt thể lý. Mà thực ra, khi đã kiểm chứng được bằng giác quan thì chẳng cần phải tin. Hai ngàn năm đã qua, rất nhiều người tin vào Đức Giêsu, và nhờ Đức tin mà họ nên hoàn thiện. Tuy vậy, cũng có những người không chấp nhận Đức Giêsu như đối tượng của niềm tin. Có thể họ chỉ coi Người như một nhân vật lịch sử, đã sinh ra và đã chết đi như biết bao vĩ nhân khác. Khi hiện ra với các tông đồ và có mặt ông Tôma ở đó, Chúa Giêsu đã đáp ứng những thách thức của Tôma: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thày. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thày. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Tôma đã đạt được điều ông thách thức, nhưng ông không dám kiểm chứng trực tiếp như mong muốn trước đó, kể cả khi có lời gợi ý của Thày mình. Ông chỉ còn biết quỳ gối xuống mà tuyên xưng Đức tin, tôn nhận Người là Chúa và là Thiên Chúa. Đó là lời tuyên xưng Đức tin của một người đã hoàn toàn bị chinh phục. Đó cũng là tâm tình sám hối của một người đã chậm tin những chứng từ của anh em mình.
 
Bầu khí sôi động tưng bừng của lễ Phục Sinh đang dần khép lại. Mọi sinh hoạt của các cộng đoàn tín hữu đang trở lại với nhịp sống bình thường. Sứ điệp của Lễ Phục Sinh có nguy cơ bị coi nhẹ, thậm chí quên lãng nơi nhiều người. Ý thức Đức Giêsu phục sinh đang hiện diện nơi cộng đoàn, mỗi tín hữu hãy mở lòng đón nhận Người và thay đổi cuộc sống, nhờ đó thực sự được sống lại với Đức Kitô. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Thánh lễ Vọng Phục Sinh cử hành tại Rôma tối 26-3-2016, đã mời gọi các tín hữu “Hãy mở toang những nấm mộ đóng kín của chúng ta cho Chúa Giêsu bước vào”. Người Kitô hữu, khi tham dự Lễ Phục sinh, phải để cho ân sủng của Chúa biến đổi cuộc đời. Nơi mỗi cá nhân có những ngôi mộ đóng kín. Đó là sự ích kỷ, giận hờn và mâu thuẫn đối với những chị em xung quanh. Đức Thánh Cha diễn giải thêm: “Chúng ta cũng vậy, cũng như Phêrô và các phụ nữ, chúng ta không thể có được sự sống khi cứ mãi buồn phiền, thất vọng, và trở thành tù nhân của chính mình. Nhưng chúng ta hãy mở toang những nấm mộ đóng kín của chúng ta ra cho Chúa – mỗi người chúng ta đều biết những nấm mộ ấy là gì–, để cho Chúa Giêsu bước vào và ban cho chúng ta sự sống; hãy dâng cho Người những viên đá hận thù và quá khứ của chúng ta, những tảng đá nặng nề của những yếu đuối và vấp ngã. Người muốn đến và đưa tay cho chúng ta để kéo chúng ta ra khỏi mối lo lắng. Nhưng tảng đá đầu tiên phải lăn ra trong đêm nay là sự thiếu niềm hy vọng vốn nhốt kín chúng ta vào chính mình. Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi cái bẫy khủng khiếp của những Kitô hữu không có niềm hy vọng, sống như thể Chúa đã không sống lại, như thể các vấn đề của chúng ta là trung tâm của đời sống”.
 
“Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Chúa Giêsu Phục Sinh đang nói với tôi, với bạn và với mọi tín hữu hôm nay. Xin cho chúng ta có niềm tín thác tuyệt đối nơi Chúa, một niềm tín thác không cần bằng chứng, nhưng nhờ cảm nhận bằng trái tim chân thành, nhờ đó, chúng ta sẽ trở nên những chứng nhân của Chúa Phục Sinh giữa lòng thế giới.

Về mục lục

.

NỖI OAN TÔMA

Gm. Giuse Vũ Duy Thống

Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng oan.

Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.

  1. LẠY CHÚA TÔI, LẠY THIÊN CHÚA CỦA TÔI

Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.

Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy… tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn. Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không phải bằng công thức chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.

Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.

  1. ĐỪNG CỨNG LÒNG, NHƯNG HÃY TIN

Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.

Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa. Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin. Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?

Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”

  1. PHÚC CHO KẺ KHÔNG THẤY MÀ TIN

Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.

Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.

Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.

Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả. Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn:tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.

Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.

Về mục lục

.

GẶP GỠ ĐỨC KITÔ PHỤC SINH

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:

  1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Ngươì xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.

Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.

Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.

  1. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình an, tin tưởng.

Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: “Bình an cho các con”. Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.

Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần Linh Chúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.

Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.

  1. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.

Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.

Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.

  1. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.

Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.

Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.

Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.

Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.

Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.

Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát.

Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.

Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.

Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.

Về mục lục

.

PHẪN NỘ THÌ DỄ, THA THỨ MỚI KHÓ

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cuộc sống luôn đối diện với những điều không vừa ý và với những người gây tổn thương cho chúng ta. Phản ứng thông thường là đáp trả, là ăn miếng trả miếng. Nhưng thực ra, giận dữ phản kháng, trả đũa chẳng hóa giải được điều gì có khi còn làm cho tình huống thêm căng thẳng thêm.

Trên chuyến xe búyt có một đôi tình nhân, chàng trai gắt gỏng, giận dữ nói cô gái: “Nói với em bao nhiêu lần rồi, em vì cái gì mà không nhớ rõ, em làm sao vậy hả?”.

Cô gái kéo áo chàng trai, nhỏ giọng nói: “Em xin lỗi! Anh đừng lớn tiếng trước nhiều người như vậy!”.

Không biết hai người đó xảy ra chuyện gì. Nhưng hành động của chàng trai khiến mọi người đều phản cảm.  Ở nơi công cộng mà nổi nóng như vậy thật mất lịch sự, thật thiếu văn hóa . . .

Một điều dễ thấy rằng, phẫn nộ thì dễ mà tha thứ lại rất khó khăn. Phẫn nộ thì phá hoại còn tha thứ là xây dựng. Tha thứ chính là hiện thân của tình yêu vĩ đại, của lòng bao dung và từ bi với nhau. Phải có tình yêu vĩ đại lắm mới tha thứ cho kẻ làm hại và gây đau khổ cho mình.

Chúa Ki-tô là hiện thân của tình yêu vĩ đại ấy! Sau cuộc khổ hình Ngài đã sống lại là tin buồn cho những kẻ bắt bớ, đánh đập và đóng đinh Ngài. Ngài sống lại cũng mang lại những hoang mang lo sợ cho những môn đệ đã từng bỏ rơi Ngài để chạy trốn, đã từng chối Thầy đến ba lần. . . Thế mà sau cuộc phục sinh ấy Ngài không hề tìm đến hỏi tội hay kết án ai. Ngài còn đi bước trước trong tình yêu tha thứ khi trao bình an cho các môn đệ. Nhiều lần và nhiều nơi khi Chúa hiện đến với các môn đệ Ngài đều nói “bình an cho các con”. Ngài hiểu rằng nơi các môn đệ lúc này là tâm trạng hối hận vì việc mình đã làm với Thầy Giê-su. Ngài đã đi bước trước trong tình yêu là nói lời bao dung tha thứ. Có lẽ Chúa sẽ nói: “Ai mà không có lúc lỗi lầm. Hãy can đảm đứng dậy. Thầy không trách tội các con. Hãy vui vẻ bình an”.

Chúa Giê-su trong thân phận con người Ngài cũng hiểu bản tính yếu đuối của con người. Ai mà không lầm lỗi. Ai mà không một lần cần đến sự cảm thông tha thứ nơi anh em. Ai cũng cần sự tha thứ để sửa đổi, để làm mới lại tương giao với nhau. Sự tha thứ của Chúa phục sinh đã làm mới lại tương giao với các môn đệ, để từ đây các ông sẵn sàng chết vì Thầy. Sự tha thứ của Chúa đã làm cho các môn đệ yêu mến Chúa nhiều hơn đến nỗi chỉ vâng lời Thiên Chúa chứ không vâng lời cường quyền trần gian.

Giữa cuộc đời hôm nay cần lắm Lòng Thương Xót dành cho nhau. Nếu cuộc đời cứ “oán báo oán – oán sẽ chập chùng”, và sẽ biến thế giới thành hoang tàn đổ nát. Chỉ có tình yêu tha thứ và lòng bao dung mới xây dựng tình người và dựng xây thế giới ngày một tốt đẹp hơn.

Chúa Giê-su đã củng cố các môn đệ dựa trên Lòng Thương Xót. Nhờ Lòng Thương Xót ấy mà Ngài đã thay đổi các môn đệ từ nhút nhát và đầy yếu đuối trở thành người can đảm tận trung với Chúa. Hôm nay Chúa cũng đang mời gọi chúng ta hãy có lòng xót thương nhau. Xót thương ngay chính trong gia đình để hàn gắn những nghi kỵ, hiểu lầm, ghen tương. Xót thương ngay chính trong cộng đoàn xứ đạo để sống hiệp nhất cùng nhau loan báo Lòng Thương xót Chúa. Chính Lòng Xót thương sẽ mang lại cho chúng ta bình an hạnh phúc, bởi vì nuôi dưỡng hận thù chỉ tổn hại tâm can chính mình.

Ước gì chúng ta có trái tim bao dung của Chúa để có thể nói lời tha thứ cho nhau và đón nhận anh em chung sống trong hiệp nhất yêu thương. Amen.

Về mục lục

.

LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA TỒN TẠI ĐẾN MUÔN ĐỜI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Nhân dịp phong thánh cho nữ tu Maria Faustina Kowalska, ngày 30/4 năm 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đặt tên cho Chúa nhật tiếp liền sau Đại Lễ  Phục Sinh là Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, kính nhớ việc Chúa Kitô tỏ cho thánh Tôma thấy cạnh sườn, nơi trào ra nước và máu, suối nguồn ân sủng. Truyền thống Giáo hội đã coi đây như là nguồn gốc của bí tích hòa giải, nơi mà con người cảm nhận được sự tha thứ do lòng thương xót Chúa.

Cử chỉ trao ban bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: ” Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con“. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20, 21- 23). Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân “tha thứ các tội lỗi” diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi phục sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ đổ xuống trên toàn thế giới.

Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi, tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng. Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an. Thế giới ngày nay đầy những thương tích về thể lý, tâm lý và luân lý cần thiết biết bao lòng thương xót của Thiên Chúa!

Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa” (Tv 117, 1). Lòng từ bi mạnh hơn tội lỗi và sự chết, ngày nay, nhân loại vẫn đang tiếp tục thừa hưởng lòng từ bi tuôn trào từ những vết thương vinh hiển và từ Trái Tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.

Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu chuộc, ơn cứu rỗi và ơn thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian mà theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ, “hai tia sáng này tượng trưng cho máu và nước“. Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, làm cho ta nghĩ đến bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần  (x. Ga 3, 5; 4, 14).

Lời kinh chúng ta vẫn đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“, diễn tả đúng thái độ mà chúng ta muốn có, để chúng ta đặt niềm tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, Ðấng cứu độ duy nhất của chúng ta! Những tia sáng của lòng từ bi Chúa mang lại niềm hy vọng cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi. Chúa Giêsu Kitô là Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa nhập thể. Vậy, chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa, là Ðấng luôn chờ đợi và yêu thương chúng ta, đừng bao giờ đánh mất sự tin tưởng nơi lòng thương xót nhẫn nại của Thiên Chúa, là Ðấng luôn luôn yêu thương, dịu hiền, chờ đợi và tha thứ cho chúng ta. Cả khi chúng ta xa rời, Thiên Chúa vẫn luôn gần gũi và sẵn sàng giang tay ra ôm ấp chúng ta vào lòng, nếu chúng ta trở về với Chúa.

Năm Thánh Lòng Thương Xót chúng ta đang sống, theo Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Dung mạo của Thiên Chúa là dung mạo của một người Cha đầy lòng thương xót, đầy nhẫn nại với chúng ta. Người thấu hiểu chúng ta, chờ đợi chúng ta và luôn tha thứ cho chúng ta mà không bao giờ mệt mỏi, nếu chúng ta chạy đến với Người với tâm hồn sám hối… Lòng thương xót sẽ biến đổi thế giới. Một chút lòng thương xót thôi cũng làm cho thế giới bớt lạnh lẽo và thêm công chính” (Kinh Truyền Tin, 17-03-2013).

Giờ kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót, Điều quan trọng là các tín hữu sống lòng thương xót ấy và đem vào các môi trường xã hội khác nhau”. Để sống tốt Mùa Chay Năm Thánh, đặc biệt cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa và thực thi lòng thương xót đối với tha nhân. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta xóa bỏ sự thờ ơ, ngài viết: “Chúng ta đừng sa vào thái độ thờ ơ lãnh đạm … đừng rơi vào trong thói quen đánh mất cảm xúc…” (x.Misericordiae Vultus số 15).

Ngài xác tín rằng, cốt lõi của Phúc Âm là tình thương, (x. Huấn từ 28-3-2014). Vì thế, theo nguyên tắc, tất cả mọi cơ cấu, nguyên tắc, luật lệ và tổ chức của Giáo Hội đều phải làm sao để hướng về và đạt đến đích điểm là tình thương (x. Niềm vui Phúc Âm,26-43). Bởi vậy, trong thực hành, Giáo Hội cần phải là một bệnh viện lưu động để chữa lành, chứ không phải chỉ mở cửa đón nhận tội nhân và nạn nhân trở về mà thôi (x. trả lời Phỏng Vấn 04-12-2014). Ngài muốn Giáo Hội phải đi đến tận rìa mép của xã hội để tìm kiếm các con chiên lạc đáng thương, thậm chí Giáo Hội phải ăn uống với thành phần đàng điếm và thu thuế tội lỗi (Huấn từ bế mạc Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới  ngày 18-10-2014).

Lạy Mẹ maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp chúng con duy trì lòng tin vào Con Mẹ. Lạy thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thánh nữ Faustina, xin trợ giúp chúng con, để chúng con được cùng với các thánh hướng nhìn về Ðấng Cứu Chuộc, và lặp lại lời nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“, bây giờ và mãi mãi. Amen.

Về mục lục

.

LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA BIẾN ĐỔI CON NGƯỜI

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Người ta thấy rằng, nhà tù chỉ có thể lấy đi tự do của một tội phạm, nhưng chưa chắc có thể giáo dục và thay đổi được cuộc đời con người. Trong nền giáo dục hiện đại, người ta cũng thấy rằng, hình phạt có thể ngăn chặn một số hành vi sai lỗi, nhưng chỉ có tình thương mới có thể cảm hóa và biến đổi được trái tim con người. Lịch sử cho thấy, Thiên Chúa đã dùng sư phạm của tình yêu để giáo dục và giúp con người biến đổi.

Chúa nhật thứ hai Phục sinh được Đức Thánh Giáo Hoàng JP II chọn là Chúa Nhật của Lòng Thương Xót Chúa, vì các bài đọc trong thánh lễ đã để lại vô số dấu chỉ tình thương của Chúa Phục Sinh dành cho các tông đồ và cho chúng ta. Tin Mừng Gioan thuật lại hai cuộc hiện ra của Chúa Phục Sinh. Cả hai cuộc hiện ra này, Chúa Phục Sinh đã thể hiện tình thương đặc biệt của Ngài đối với các tông đồ.

Lần thứ nhật xảy ra vào buổi chiều ngày phục sinh. Lúc đó, các môn đệ của Chúa sống hoàn cảnh hết sức tội nghiệp, đáng thương. Họ như rắn mất đầu, rơi vào tình trạng mất phương hướng và lo sợ, sống khép kín trong ngôi nhà đóng cửa cài then, không giao du, không tiếp xúc với ai. Tình trạng sống buồn bã ấy không khác gì một cuộc sống tuy còn thở nhưng tâm hồn đã chết vì suy sụp sau cuộc tử nạn của Thầy. Chúa Phục Sinh biết hoàn cảnh của các học trò mình. Vì thế, ngay chiều ngày thứ nhất, Ngài đã hiện ra, đứng giữa các ông. Sự hiện diện này như sự hiện diện của một người cha trước mặt con cái, sự hiện diện có sức an ủi và gia tăng niềm vui, nghị lực sống cho các tông đồ.

Món qùa đầu tiên Chúa Phục Sinh trao tặng cho các tông đồ là lời : Bình an cho các con. Đây không phải là một lời cầu chúc như chúng ta vẫn chúc nhau, nhưng đây thực sự là một tình trạng, một ơn được ban cho các tông đồ để biến đổi tâm hồn và cuộc đời các ông. Chúa Giêsu không hề khiển trách các ông về sự nhát đảm, bỏ trốn hoặc chối Chúa trong cuộc khổ nạn. Ngài đã quên hết mọi đau khổ các ông đã gây ra cho Ngài. Lòng thương xót của Chúa khiến Chúa Phục Sinh không kìm hãm được tình yêu. Ngài cho các tông đồ xem tay và cạnh sườn Người, Người muốn cho các ông tận mắt được nhìn thấy dấu vết yêu thương để có thể cảm nhận được tình yêu tột cùng của Ngài.

Món quà tiếp theo là món quà sự sống mới của Chúa Phục Sinh, đó là món quà Thánh Thần, được trao cho các tông đồ. Ngài thổi hơi và phán : Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Nếu như ngày xưa Thiên Chúa đã thổi hơi vào nắm đất để ban cho Adam sự sống, thì hôm nay, Chúa Phục Sinh đã thổi một hơi thở mới là Thánh Thần vào tâm hồn các tông đồ. Hơi thở này là một cuộc tạo dựng mới, làm nên một thế giới mới, con người mới, sức sống mới cho nhân loại và cho vũ trụ. Từ đây, con người và vũ trụ không còn sống con người cũ nữa, nhưng sống với trái tim mới, với con người mới, con người mang sức sống Phục Sinh.

Kế đến, Chúa Phục Sinh đã thể hiện lòng thương xót, thông cảm đối với những giới hạn, yếu đuối của con người, vì thế, Ngài đã trao cho các tông đồ quyền nhân danh Ngài để tha thứ : Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm giữ. Tha thứ là thể hiện sâu xa nhất lòng xót thương của Thiên Chúa là Cha. Đức Thánh Cha Fancis đã khẳng định : Tội lỗi không thể ngăn cản được lòng thương xót của Thiên Chúa và Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi để tha thứ cho con người.

Trao ban cho các tông đồ quyền tha thứ, Chúa Phục Sinh muốn các ông trở thành “hiện thân” của Chúa, thành cộng tác viên, người nối dài lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa cho đến tận thế. Qua các tông đồ, cái chết và sự phục sinh Chúa không dừng lại, nhưng được tiếp tục trao ban cho nhân loại bằng ơn tha thứ và chữa lành của Thiên Chúa. Như thế, tha thứ là hoa quả lớn lao nhất của cuộc phục sinh mà Chúa Giêsu để lại cho Giáo Hội.

Lần hiện ra thứ hai của Chúa Phục Sinh mang tính cụ thể hơn nữa. Lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ là một tình thương chung chung, nhưng là một tình thương đụng chạm đến từng cá nhân mỗi người. Cuộc hiện ra tám ngày sau, có thể nói là cuộc hiện ra dành riêng cho Tôma, một người muốn kiểm chứng cuộc phục sinh của Chúa bằng kinh nghiệm cá nhân : Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin.  Chúa Phục Sinh như muốn đáp ứng sự khao khát tìm kiếm dấu chỉ đức tin của Tôma. Vì thế, khi hiện ra, Chúa Phục Sinh đã gọi đích danh ông, cho ông có một cơ hội tiếp xúc, đụng chạm đến Đấng Phục Sinh. Ngài nói với ông : Hãy đặt ngón tay con vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay con ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.

Chúa Phục Sinh đã hết sức yêu thương và kiên nhẫn với học trò của mình. Chúa biết rằng, việc đón nhận mầu nhiệm Phục sinh không phải là điều dễ dàng. Chúa đã cho Tôma được xỏ bàn tay vào cạnh sườn của Chúa để có ông có thể đụng chạm đến trái tim thương tích của Ngài. Chạm vào vết thương của Chúa không phải là chạm vào vết đau mà Tôma được chạm vào tình thương của Chúa Phục Sinh. Một khi chạm vào tình yêu, con người được biến đổi. Khi chạm vào lòng thương xót của Chúa, giống như chạm vào một nguồn suối, từ đó mạch nguồn yêu thương của Chúa tuôn trào trên Tôma. Tôma đã đón nhận lời chứng của các tông đồ trong sự hồ nghi, thì giờ đây, với lòng thương xót của Chúa, niềm tin của ông đã đi đến một xác tín cá nhân : Lạy Chúa tôi ! Lậy Thiên Chúa của tôi.

Tin Mừng Gioan còn ghi lại lời chúc phúc của Chúa Giêsu dành cho chúng ta là thế hệ các tín hữu sau các tông đồ : Phúc cho những ai không thấy mà tin. Chúng ta vẫn đang tiếp tục được đón nhận lòng thương xót và đức tin qua các tông đồ và Giáo Hội. Chỉ khi chúng ta thực sự sống trong sự hiệp thông với các tông đồ, sống trong sự bao bọc của Giáo Hội, chúng ta mới có thể đón nhận được đức tin Chúa phục sinh và có thể dễ dàng đón nhận lòng Chúa thương xót qua Giáo Hội.

Tôma trước đây chưa thể đón nhận được mầu nhiệm Phục sinh, bởi vì ông đã tách lìa khỏi cộng đoàn các tông đồ. Vì một lý do nào đó, khi anh em vẫn tụ tập bên nhau chung quanh Simon, thì Tôma đã không hiện diện. Vì thế, khi anh em nói về việc họ đã được gặp Chúa Phục Sinh, được Chúa trao bình an và quyền thực thi lòng thương xót tha thứ, Tôma đã không thể tin. Chỉ sau khi ông quay trở về với anh em, cùng hiệp thông trọn vẹn với Simon và các tông đồ, ông mới có thể đón nhận được mầu nhiệm Phục sinh. Chỉ khi sống trong sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội, Tôma mới có thể cảm nhận được lòng thương xót của Chúa, được đụng chạm đến vết yêu thương của Ngài và đi đến xác tín vào Ngài.

Hôm nay cử hành lòng Chúa thương xót, chúng ta cùng cảm nhận và tuyên xưng rằng, mỗi chúng ta đang được Chúa xót thương. Chúa xót thương và chăm sóc cho mỗi người theo từng hoàn cảnh của họ và cho mỗi người được đụng chạm đến tình thương của Chúa. Tuy nhiên, có thể vì chúng ta đã không gắn bó đủ với Giáo Hội, vì đã đánh mất tình hiệp thông với anh em, nên chúng ta chưa nhận ra lòng xót thương của Thiên Chúa. Qua các biến cố xảy ra cho mỗi người, mỗi gia đình, Chúa cũng cho chúng ta được đặt ngón tay vào lỗ đinh, xỏ bàn tay vào cạnh sườn của Chúa, nhưng chúng ta vẫn nghi ngờ sự hiện diện sống động của Chúa trong cuộc đời của mình.

Qua ơn tha thứ Chúa trao cho Giáo Hội, Chúa thể hiện lòng xót thương, sự kiên nhẫn chờ đợi của Ngài. Ngài luôn cho chúng ta có cơ hội để chúng ta quay về với lòng thương xót tha thứ của Chúa. Đừng bao giờ hồ nghi về sự tha thứ của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Cha chúng ta. Đừng bao giờ giới hạn lòng thương xót qủang đại của Thiên Chúa, vì lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô bờ, không bao giờ bị giới hạn và không bao giờ cạn nguồn. Bí tích Giải tội là nơi Thiên Chúa mượn thánh vụ và môi miệng của các thừa tác viên của Giáo Hội để nói lời yêu thương, thông cảm, tha thứ của Chúa. Vì thế, đừng bao giờ ngại ngùng hoặc từ chối đến với Bí Tích Xót Thương này.

Xin Chúa cho chúng ta luôn khiêm tốn mở trái tim để đón nhận lòng Chúa xót thương và biến chúng ta thành thừa tác viên lòng thương xót của Chúa cho anh chị em chung quanh. Amen.

Về mục lục

.

ƠN BÌNH AN CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

Trầm Thiên Thu

Sự bình an luôn là điều cần thiết ở mọi nơi và mọi lúc. Tại sao người ta luôn cần ơn bình an? Vì xã hội bất ổn, vì thế giới chiến tranh, vì tâm hồn bất an, vì gia đình xáo trộn, vì cộng đoàn rắc rối, vì các mối quan hệ rạn nứt, vì con người thiếu tình yêu thương, thiếu lòng thương xót,…

Được bình an hay không là có liên quan sự chọn lựa, mà sự chọn lựa lại có liên quan sự tự do. Thế nào là tự do? Phải chăng tự do là muốn làm gì thì làm?

Thánh GH Gioan Phaolô II có định nghĩa rất thú vị: “T do KHÔNG có nghĩa là LÀM điu chúng ta THÍCH, mà là CÓ QUYN LÀM điu chúng ta PHI LÀM. Còn Thánh LM Gioan Kim Khẩu nhận định: “Sau khi đt s thin và s d trong kh năng ca chúng ta, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta QUYN T DO đ la chn. Người KHÔNG CHP NHN nhng gì MIN CƯỠNG, nhưng ĐÓN NHN nhng gì T NGUYN. Tự do cũng có giới hạn trong phạm vi hợp lý, tự do phải được hiểu chính xác theo ý Chúa.

Cuộc khổ nạn, sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô Giêsu liên quan sự tự do và Lòng Chúa Thương Xót (LCTX). Về nhân tính, Chúa Giêsu cũng sợ uống chén đắng nên Ngài xin Chúa Cha bỏ qua, nhưng Ngài không muốn theo ý Ngài mà muốn tuân phục.

Trên Thánh Giá, Chúa Giêsu là Đấng vô tội nhưng đã bị vu cáo, là Đấng Công chính nhưng đã bị kết án, là Đấng chí thánh nhưng đã bị đày ải, là Vua trời đất nhưng đã bị hành hạ nhục nhã và bị đóng đinh chết tất tưởi, là Con Thiên Chúa toàn năng nhưng đã bị thóa mạ, bị chà đạp và bị từ chối, là Ánh Sáng nhưng đã bị tối tăm vây phủ, là Đấng vô cùng cao sang nhưng đã bị trần truồng tủi hổ, chịu chết treo trên hai miếng gỗ, là Sự Sống nhưng đã phải trút hơi thở cuối cùng, là Sự Chết nhưng cũng chính là Sự Sống Lại.

Và thật là kỳ diệu, “Cây Thánh Giá là hy vọng của Kitô hữu, là sự sống lại của kẻ chết, là sự hướng dẫn cho kẻ mù lòa, là cây gậy cho người què, là sự an ủi cho kẻ nghèo khổ, là sự kềm hãm của kẻ giàu sang, là sự hành hạ đối với kẻ xấu xa, là sự chiến thắng vượt trên ma quỷ, là người chỉ đạo cho thanh niên, là bánh lái cho người vượt sóng, là cửa biển cho người đi xa, là thành lũy cho người bị vây hãm” (Thánh LM Gioan Kim khẩu). Mọi sự hoàn toàn đã thay đổi!

Trình thuật Cv 5:12-16 cho chúng ta biết về phép lạ do quyền năng Thiên Chúa thực hiện qua các Tông Đồ: “Nhiu du l đim thiêng được thc hin trong dân nh bàn tay các Tông Đ. Không mt ai khác dám nhp đoàn vi h. Nhưng dân thì li ca tng h. Càng ngày càng có thêm nhiu người tin theo Chúa: c đàn ông, đàn bà rt đông. Người ta còn khiêng c nhng k đau m ra tn đường ph đt trên giường trên chõng, đ khi ông Phêrô đi qua, ít ra cái bóng ca ông cũng ph lên được mt bnh nhân nào đó. Nhiu người t các thành chung quanh Giêrusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo nhng k m đau cùng nhng người b thn ô uế ám, và tt c đu được cha lành.

Trình thuật ngắn gọn nhưng cho thấy đầy đủ các dạng phép lạ như chính Chúa Giêsu đã làm trong ba năm rao giảng công khai. Ngày nay, các phép lạ thực sự cũng vẫn xảy ra qua lời cầu bầu của các tôi trung của Chúa, chẳng hạn ngay tại Việt Nam có LM P.X. Trương Bửu Diệp. Rất nhiều người hàng ngày đến Tắc Sậy để cầu xin ngài nguyện giúp cầu thay, trong số những người đến cầu xin ngài có nhiều người là dân ngoại. Đó là minh chứng hùng hồn và sống động về tôn giáo do chính Đức Kitô Giêsu thiết lập.

LCTX vẫn trải qua từ đời nọ đến đời kia, như lời xác nhận của Đức Maria trong “Bài Ca Ngợi Khen” (Magnificat – Lc 1:50). Tác giả Thánh Vịnh cũng đã minh định: “Muôn ngàn đi Chúa vn trn tình thương (Tv 118:2-4). LCTX bao la và không hề thay đổi. Mỗi người trong chúng ta cũng đã, đang và sẽ đón nhận LCTX. Đó là điều không thể chối cãi hoặc phủ nhận, đơn giản nhất là không khí. Thiếu không khí thì chúng ta không thể sống, không khí loãng hoặc đặc lại một chút thì chúng ta cũng chết chắc!

Đấng Thương Xót bị khước từ nhưng người ta vẫn phải công nhận, người ta hả hê nhạo cười và coi Ngài là thua cuộc nhưng Ngài đã vinh thắng, Ngài bị giết chết nhưng Ngài đã sống lại: “Tng đá th xây nhà loi b li tr nên đá tng góc tường. Đó chính là công trình ca Chúa, công trình k diu trước mt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mng hoan h (Tv 118:22-24).

Chúng ta cũng là những người đồng lõa trong “vụ án Giêsu”, nhưng Đấng Thương Xót vẫn đại lượng tha thứ, coi là chúng ta lầm mà thôi (x. Lc 23:34). Thật là diễm phúc cho chúng ta, vì thế mà chúng ta phải tiếp tục cầu xin: “Ly Chúa, xin ban ơn cu đ, ly Chúa, xin thương giúp thành công. Nguyn xin Chúa tuôn đ phúc lành cho người tiến vào đây nhân danh Chúa. T nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em (Tv 118:25-26).

Trình thuật Kh 1:9-13. 17-19 nói về thị kiến đầu tiên của Thánh Gioan, người-được-Chúa-yêu. Thánh Gioan đã xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng sau có một tiếng lớn như thể tiếng kèn, nói rằng hãy ghi điều đã thấy vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh: Ê-phê-xô, Xi-miếc-na, Péc-ga-mô, Thy-a-ti-ra, Xác-đê, Phi-la-đen-phi-a và Lao-đi-ki-a. Ông quay lại để xem tiếng ai nói thì thấy bảy cây đèn vàng, ở giữa các cây đèn có ai giống như Con Người mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng.

Thánh Gioan cho biết: “Lúc thy Người, tôi ngã vt xung dưới chân Người, như chết vy. Nhưng rồi Người đặt tay hữu lên Gioan và động viên: “Đng s! Ta là Đu và là Cui. Ta là Đng Hng Sng, Ta đã chết, và nay Ta sng đến muôn thu muôn đi; Ta gi chìa khoá ca T thn và Âm ph. Vy ngươi hãy viết nhng gì đã thy, nhng gì đang din ra và nhng gì s xy ra sau này. Đây là ý nghĩa mu nhim ca by ngôi sao ngươi đã thy trên tay hu Ta, và ca by cây đèn vàng: by ngôi sao là các thiên thn ca by Hi Thánh, và by cây đèn là by Hi Thánh. Sự lạ quá đỗi, thật là mầu nhiệm, phàm nhân không thể hiểu nổi. Quả thật, Thiên Chúa toàn năng làm nên mọi sự, biến không thành có. Và tất nhiên Ngài cũng có thể biến có thành không.

Tin Mừng hôm nay cho biết về việc Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ (Ga 20:19-31 – tương đương Mt 28:16-20; Mc 16:14-18; Lc 24:36-49).

Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, tức là chiều ngày phục sinh, nơi các môn đệ ở đều đóng kín các cửa, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và chúc bình an cho họ. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Họ rất vui mừng vì được thấy Ngài nhãn tiền. Rồi Ngài nói với họ: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thy thì Thy cũng sai anh em. Nói xong, Ngài thổi hơi vào họ và bảo: “Anh em hãy nhn ly Thánh Thn. Anh em tha ti cho ai thì người y được tha; anh em cm gi ai thì người y b cm gi. Họ đầy ơn Chúa Thánh Thần và có thể làm những gì Thầy Giêsu cho phép – tức là cử hành các bí tích nhân danh Ngài.

Lúc đó chỉ có mười môn đệ, không có mặt Tôma, cũng gọi là Điđymô. Các môn đệ khác nói với ông Tôma về việc được diện kiến Thầy-Giêsu-phục-sinh, nhưng ông Tôma không tin: “Nếu tôi không thy du đinh tay Người, nếu tôi không x ngón tay vào l đinh và không đt bàn tay vào cnh sườn Người, tôi chng có tin.

Sau đó tám ngày, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Rồi Ngài bảo ông Tôma đặt ngón tay vào vết thương ở cạnh sườn, nhìn xem tay Ngài, và bảo ông đừng cứng lòng nhưng hãy tin. Nhãn tiền thấy Thầy, ông Tôma vội thưa: “Ly Chúa ca con, ly Thiên Chúa ca con!. Có lẽ lúc đó ông Tôma chẳng dám đưa tay ra sờ để kiểm chứng đâu. Sau đó, Đức Giêsu bảo: “Vì đã thy Thy, nên anh tin. Phúc thay nhng người không thy mà tin!. Đó là mối phúc mới. Chúng ta đang thừa kế mối phúc này, thật là hạnh phúc biết bao!

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rõ là trong hai lần hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu đã chúc bình an ba lần. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của sự bình an. Và hàng ngày, khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta cũng được mời gọi chúc bình an cho nhau.

Thánh Gioan kết luận: “Đc Giêsu đã làm nhiu du l khác na trước mt các môn đ; nhưng nhng du l đó không được ghi chép trong sách này. Còn nhng điu đã được chép đây là đ anh em tin rng Đc Giêsu là Đng Kitô, Con Thiên Chúa, và đ anh em TIN mà được S SNG nh danh Người. Như vậy, tin là bí quyết để được thương xót và được cứu độ. Còn Thánh Phaolô cầu chúc: “Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đc Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho bn được ân sng, lòng thương xót và s bình an (2 Tm 1:2).

Thương xót là một trong Bát Phúc: “Phúc thay ai xót thương người Bi vì s được Chúa Tri xót thương (Mt 5:7). Đây là “bộ tứ” (4T) để sống LCTX: Tín Thác, Thỉnh Cầu, Thương Xót, và Tha Thứ. Hôm nay, ngày Đại lễ LCTX, chúng ta cùng nhau chân thành cầu nguyện: “Jezu ufam Tobie – Ly Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài. Nguyện xin Máu và Nước chảy ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu tẩy rửa linh hồn của mọi người nên tinh tuyền theo lượng từ bi của Ngài!

Ly Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin giúp con biết tin nhn Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, biết n náu nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu, biết thương xót tha nhân và luôn sn sàng tha th. Xin ban cho con Ơn Bình An đích thc ca LCTX. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu Phc Sinh, Đng cu đ nhân loi. Amen.

 

Khuôn Mt Thương Xót: https://www.youtube.com/watch?v=v8Vw4VfEgtY

Về mục lục

.

LÒNG TỪ BI

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Truyện kể: Một võ sĩ đã trở lại đạo. Ngày kia, người bạn của anh gặp mặt và hỏi: Tôi nghe anh mới tòng giáo, thật tức cười. Võ sĩ nói: Sao lại tức cười, đó là điều tốt mà anh. Người bạn nói thêm: Nếu vậy, liệu anh xoá nổi chân tướng du côn cao bồi trước chăng? Những vết sẹo trên mặt anh sẽ tố cáo tung tích của anh. Võ sĩ trả lời: Tôi không ngại chi về điều đó. Những vết sẹo kia, nay trở thành cửa sổ cho ơn Chúa chảy vào hồn tôi. Cũng vậy, những tội của chúng ta đã được tha, tuy còn dấu vết, nhưng là dấu vết của tình thương Chúa vậy.

Đôi khi chúng ta tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu còn giữ những vết sẹo trên lòng bàn tay, bàn chân và cạnh sườn từ khi bị đóng đinh thập giá? Vì khi Chúa Phục Sinh, Chúa có thể chọn bất cứ hình hài và thân xác hoàn hảo như các thiên thần. Khi xuất hiện, Chúa đã giữ nguyên những vết sẹo để các môn đệ có thể thấy và có thể sờ chạm. Tông đồ Tôma tỏ ra nghi ngờ, đã được Chúa mở lòng: Rồi Người bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20,27). Sự kiện Chúa Kitô Phục Sinh sẽ không hoàn toàn thuyết phục, nếu không có những vết sẹo trên tay, chân và cạnh sườn của Chúa. Chúng ta biết khi con người mơ ước, ai trong chúng ta cũng ước mong có khuôn mặt tươi tắn, hàm răng đẹp, làn da mịn màng và thân hình thon đẹp. Chúng ta mong ước một thân xác hoàn hảo không vết nhăn. Nhưng Chúa Kitô Phục Sinh đã xuất hiện một cách ngoại thường, trên thân mình vẫn mang những vết sẹo hằn sâu để nhắc nhớ chúng ta sự hy sinh đau khổ để cứu chuộc nhân loại.

Chúng ta đặt niềm hy vọng vào những vết sẹo nơi thân xác Chúa Kitô. Trong các nhà thờ Công giáo, nơi gian cực thánh, treo hình tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá với mạo gai trên đầu, chân tay và mình mẩy đầy thương tích loang máu đào. Vết sẹo nơi cạnh sườn như còn rướm máu. Giáo Hội không lùi bước chỉ nhìn vào đau khổ và chết chóc, nhưng Giáo Hội muốn mọi tín hữu cùng chia sẻ, cảm thông và lãnh nhận ân sủng cứu độ qua giá máu châu báu của Chúa. Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Kitô đã trao ban sứ mệnh cho các Tông đồ: Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20,21). Các Tông đồ là những nhân chứng sống động và chân thành. Với ơn trợ giúp và quyền năng của Chúa Thánh Thần, các ngài đã can đảm ra đi truyền rao ơn cứu độ. Ra đi với hai bàn tay trắng, các tông đồ không có tiền bạc, địa vị, học vị hay cơ sở vật chất. Các ngài đã lãnh nhận nhưng không và giờ đây cũng đem Tin Mừng biếu không: Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông đồ (Cv 5,12).

Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện với các Tông đồ qua quyền năng của Ngài. Chúa trao cho các ngài uy quyền chữa lành tất cả các bệnh hoạn tật nguyền và xua trừ ma quỷ. Rất nhiều người đã tuôn đến xin ơn lạ và lãnh nhận ơn cải đổi tâm hồn: Nhiều người từ các thành chung quanh Giêrusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành (Cv 5,16). Hạt giống đức tin được gieo vào lòng người. Từng tâm hồn hối cải trở về với Chúa. Họ đã được lãnh nhận ơn sủng chữa lành phần xác và tô điểm tâm hồn. Họ là những tín hữu nồng cốt xây dựng Hội Thánh sơ khai trên trần thế. Giáo Hội bắt đầu nẩy mầm và phát triển sinh hoa kết trái: Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông (Cv 5,14).

Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia. Điều vô cùng quan trọng là Chúa Giêsu trao ban quyền tháo cởi và cầm giữ cho các tông đồ. Các tông đồ nhận lãnh ơn chữa lành và thực hành các phép lạ để đặt nền móng cho Giáo Hội sơ khai. Nhưng chìa khoá của sự tháo cởi và cầm buộc tinh thần được lưu truyền qua ngàn muôn thế hệ. Thánh Gioan diễn tả rằng Chúa Giêsu trực tiếp ban ơn: Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20,22-23). Chúa Giêsu thấu tỏ sự ương ngạnh cứng cỏi cũng như sự yếu đuối thấp hèn và tội lỗi của con người. Chúa đã lập Bí tích Hoà Giải để mọi người có cơ hội hối lỗi trở về với lòng nhân từ của Chúa. Chúa tin tưởng vào quyền tài phán của các tông đồ và những người kế vị. Chúa đã trao quyền cho Giáo Hội qua biểu tượng của chiếc chìa khoá Thánh Phêrô. Biết rằng trao chìa khoá cho ai là đặt niềm tin tưởng nơi người đó.

Trong Sách Khải Huyền, Gioan đã được thị kiến sự lạ lùng vượt trên lòng trí, Chúa Kitô đã mạc khải: Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ (Kh 1,18). Sau khi phục sinh từ cõi chết, Chúa Kitô là chủ của sự sống và không còn chết nữa. Chúa đã chiến thắng tử thần và tội lỗi. Ngài về trời ngự bên hữu Chúa Cha và mọi đầu gối sẽ quỳ phục dưới chân Ngài. Chúa Kitô có uy quyền trên hết mọi loài, mọi vật, sự sống và sự chết. Niềm tin vào Chúa Kitô sống lại là niềm hy vọng vào sự sống viên mãn đời đời. Thánh Gioan được linh hứng để viết sách Khải Huyền: Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này (Kh 1,19). Khải Huyền là cuốn sách cuối cùng của bộ Tân Ước. Có rất nhiều chi tiết cao siêu như trên các tầng trời, chúng ta chẳng thể hiếu thấu. Chúng ta chỉ có thể nhận diện được phần nào những điều đã qua hoặc đang diễn ra trong cuộc sống mà thôi. Tương lai ngày mai phó thác trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu nhắc nhở các Tông đồ: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Các Tông đồ đã được diễm phúc nhìn thấy Chúa Phục Sinh nhãn tiền. Các ngài được gặp gỡ, ngồi chung bàn bẻ bánh, đàm thoại, ăn uống và được Chúa ban bình an chúc lành. Các Tông đồ sẵn sàng ra đi làm nhân chứng. Làm nhân chứng là phải đối diện với sự sống sự chết. Tất cả mười một vị Tông đồ đã đổ máu đào chứng minh niềm tin sắt son vào Chúa Kitô Phục Sinh. Thánh Gioan là nhân chứng sống động cho tình yêu Chúa. Mọi lời rao giảng dạy dỗ của Thánh Gioan đều quy về tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Các Tông đồ đã can đảm sống cho tình yêu và chết cho tình yêu.

Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin. Mỗi ngày chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô qua việc ghi dấu thánh giá trên mình. Chúng ta tuyên xưng Chúa là Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, là Thầy và là Chúa. Tin vào Chúa là lắng nghe và thực hành lời Chúa. Chúa đã mở cửa rộng rãi đón nhận và chúc phúc cho mọi người: Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành (Lc 8,21). Nước Chúa rộng mở đón nhận mọi thành phần, nhưng điều quan trọng là chúng ta cần tin tưởng vào tình yêu của Chúa và tuân giữ lời Ngài. Vì đức tin không có thực hành thì đức tin chỉ là những triết thuyết viển vông và trống rỗng.

Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta cử hành mầu nhiệm sự chết và sống lại của Chúa Kitô. Chúng ta sẽ loan truyền ơn cứu độ cho tới khi Chúa lại đến. Lạy Chúa, những vết sẹo nơi thân mình đã nhắc nhở chúng con về lòng thương xót vô bờ của Chúa. Xin nguồn bình an và ân sủng của Chúa Kitô Phục Sinh tràn đổ trên tâm hồn mỗi người chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH_C

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Sau khi Chúa Giêsu Kitô sống lại Người đã hiện ra nhiều lần, khi thì với người này khi thì với người khác, lúc thì ở chỗ này, lúc ở chỗ kia.  Các bài Tin mừng cho chúng ta biết Chúa Giê-su Kitô hiện ra với các phụ nữ đến thăm mộ Chúa vào sáng sớm ngày Chúa phục sinh, trong đó có bà Maria Mađalêna là người có lòng yêu mến Chúa một cách đặc biệt. Sau khi được thấy tận mắt, và được Chúa trao cho sứ mạng loan báo tin vui mừng phục sinh cho các tông đồ và mọi người, bà đã mau mắn chu toàn. Sau đó, Chúa Giê-su Kitô phục sinh đã hiện ra với 2 môn đệ với tâm trạng chán nản và thất vọng đang trên con đường đi Emmau trở về cuộc sống cũ, vì Chúa, là Thầy của mình đã bị đóng đinh và chết một cách nhục nhã trên thập giá. Nhưng sau đó các ông đã nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh trong lúc ngồi chung bàn ăn với các ông trong quán trọ. Tâm hồn các ông được sưởi ấm bởi lời Chúa nên các ông đã trở lại loan báo cho các tông đồ biết về sự kiện các ông đã chứng kiến. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, Chúa Giê-su Ki-tô hiện đã ra với các tông đồ một lần không có sự hiện diện của Tô-ma. Tám ngày sau đó, khi cửa phòng đóng kín, Chúa Giêsu lại hiện ra với các tông đồ một lần nữa có cả Tôma.  Khi hiện ra với các tông đồ, trước hết Chúa Giêsu Phục sinh đã chúc bình an cho họ, và sau đó đã cho Tô ma và mọi người  thấy những vết thương ở tay và cạnh sườn. Sau khi được nhìn tận mắt, Tô ma đã tin Chúa đã sống lại thật, và quì xuống tuyên xưng:  “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con.”

Chúa sống lại và hiện ra với các môn đệ nhiều lần qua nhiều hình thức, để thứ nhất minh chứng Người đã sống lại thật; thứ hai, Chúa chịu chết và sống lại là một; và thứ ba củng cố niềm tin cho họ, để họ luôn trung thành và can đảm thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng ơn cứu độ cho muôn dân, cũng như trở thành những chứng nhân cho sự thật, cho Chúa Giê-su, là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế.

Ông bà anh chị em thân mến.  Vì có một niềm tin vững chắc vào Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, cho nên các tông đồ đã trung thành và can đảm thi hành sứ vụ Chúa trao ban như chúng ta vừa nghe trong bài đọc một.  Họ bác ái và quảng đại, hy sinh và can trường làm chứng cho Chúa, và không nao núng trước những sự vu khống, thù hằn, đe dọa, gian khổ và tù đày, để cùng đồng tâm nhất trí, và chung sức xây dựng Giáo hội mà Chúa Giê-su Ki-tô đã thiết lập.  Đời sống yêu thương và hiệp nhất của họ đã thu hút nhiều người tin vào Chúa và giai nhập Giáo hội càng ngày càng thêm phát triển. Niềm tin vào Chúa Giê-su Phục sinh và ơn Chúa Thánh Thần đã làm cho họ can đảm và làm được nhiều phép lạ như Chúa Giê-su đã làm. Họ nhận biết khả năng tự nhiên của họ giới hạn và quá ít, trước quyền năng của Lời Chúa ảnh hưởng vào sự tiếp nhận của người nghe. Nhưng họ tin có Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh trợ sức, hướng dẫn và đồng hành, để lời rao giảng về Mầu nhiệm Thập giá của họ trở thành thần lực.  Và qua những dấu lạ điềm thiêng kèm theo, lời rao giảng Tin Mừng của họ mới có sức mạnh biến đổi tâm hồn người nghe và chữa lành bệnh tật thể xác.  Các tông đồ đã làm được những việc Chúa Giêsu đã làm nhiều lần ngày xưa, và như vậy, Phêrô và các tông đồ khác bây giờ là hình ảnh và là hiện thân của Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh.

Vì sự hiện ra của Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, lòng tin của các tông đồ và đặc biệt là của Tô ma được củng cố. Thế nhưng, như chúng ta vừa nghe, chính Chúa Giê-su Phục sinh đã tuyên bố rằng “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin.” Hay nói một cách khác, Chúa Giê-su phục sinh muốn nói với tất cả chúng ta đang hiện diện trong ngôi thánh đường hôm nay “Phúc cho chúng con, tuy chúng con không thấy, nhưng chúng con đã tin vào lời Ta nói Ta là Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, đã chết và đã sống lại thật.” 

Ông bà anh chị em thân mến. Có lẽ chúng ta từng nghe người khác nói: “Thấy thì mới tin.”  Điều này có nghĩa là họ không tin vào dù chỉ một lời chúng ta nói, vì tin như thế là nhận biết và tin điều gì họ không thấy.  Không thấy thì không tin.  Nhưng đối với người Ki-tô Công giáo chúng ta, và theo Lời Chúa nói, điều ngược lại thì đúng hơn, vì tin sẽ dẫn tới sự nhìn thấy những điều chúng ta sẽ thấy, đó là vinh quang phục sinh Nước Trời.  Nhưng chúng ta phải tin trước.  Chúng ta phải tin vào lời Chúa nói với chúng ta trước điều Chúa nói chúng ta sẽ thấy sau này.  Chúng ta tin vào điều chúng ta nghe hôm nay vì chúng ta quyết định chọn tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, và Lời Chúa mang lại cho chúng ta ơn sủng bình an và sự sống hạnh phúc đời này và đời sau.

Chúng ta nhận biết một trong những sự thử thách to lớn cho đức tin của chúng ta ngày nay là Bí tích Thánh Thể, là sự hiện diện thật sự của Chúa Giê-su Ki-tô trong Thánh Thể. Chúa Giê-su phán bảo chúng ta “Đây là Mình Thầy… Đây là Máu Thầy.”  Vì chúng ta không thể đặt Thánh Thể Chúa dưới lăng kính hiển vi và khám xét, để xem có thấy Chúa thật sự ở trong đó không, cho nên một số người cho là “Đó chỉ là biểu hiệu thôi.”  Hay “Đây chỉ là một sự nhắc nhở mà Chúa Giê-su làm trong Bữa Tiệc Ly thôi.  Không phải là Mình và Máu Chúa thật.”  Tin mừng và Tông truyền của Giáo hội sơ khai xác tín cho chúng ta biết Bí tích Thánh Thể là chính ý định, và là chính thánh ý của Chúa Giê-su cho chúng ta.  Ngày nay chúng ta có thể giải nghĩa sự lơ là của một số người không tham dự Thánh lễ là vì họ đã mất lòng tin nơi Bí tích Thánh Thể. 

Ông bà anh chị em thân mến. Lời Chúa nói với Tô-ma trong bài Tin mừng có thể áp dụng cho chúng ta tham dự Thánh lễ hôm nay trong đức tin “Phúc cho những ai không thấy mà tin.”  Và hôm nay cũng là Chúa nhật kính Lòng Thương Xót của Chúa Giê-su Ki-tô.  Vì lòng thương xót nhân loại, Chúa Giê-su đã chịu những sự thương khó, chịu đóng đinh chân, tay vào thập giá, và chịu lưỡi giáo đâm vào cạnh sườn, để máu và nước tuôn đổ ra trở thành nguồn thương xót cho chúng ta và nhân loại. Tin tưởng vào lòng Thương Xót Chúa, chúng ta sẽ luôn vững lòng tin, vững lòng trông cậy và phó thác nơi Chúa, khi gặp những gian khổ, thử thách, hay khi chúng ta phải đối diện với những khó khăn.  Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh cần chúng ta, và cần nhiều người trở thành những chứng nhân và sứ giả cho lòng thương xót của Chúa trong xã hội ngày nay, để chiến thắng những âm mưu của ma quỉ, và để biến đổi đời sống những người không có đức tin hay nghi ngờ.  Xin Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh ban nhiều ơn lành cho tất cả chúng ta, để chúng ta tâm đầu ý hợp, yêu thương và hiệp nhất xây dựng Giáo hội của Chúa, và làm sáng danh Người như các tông đồ xưa.

Về mục lục

.

DẤU CHỈ PHỤC SINH!

 P.Trần Đình Phan Tiến

Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu – Kitô chính là Dấu Chứng Phục Sinh, bởi vì , nếu không có Dấu Chứng Tử Nạn, cụ thể là Năm Dấu Thánh, chưa kể Mão Gai, thì không thể là Chúa Giêsu Phục Sinh được. Vâng, niềm tin hay đức tin cần có hai điều kiện là : Mặc Khải và đáp trả. Thiên Chúa đã mặc khải chính Đức Kitô –Giêsu cho chúng ta, đó là điều kiện tiên quyết, điều kiện nầy đã được biểu lộ nhãn tiền qua Chúa Giêsu. Nhưng, để đưa loài người đến được bến bờ cứu độ, hay là giải thoát, tức mầu nhiệm Phục nhiệm Tử Nạn, vì nếu không “chết” thì không thể “sống lại”, có nghĩa là: cuộc Sinh, có nghĩa là Tái Sinh, để được trường sinh. Mặc nhiên, phải có mầu Tử Nạn của Chúa Giêsu phải xảy ra, phải thực hiện , rồi hoàn tất. Nhưng, cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu chính là điều khởi đầu, là chứng cứ, là dấu chứng Phục Sinh, vì nếu không có Dấu Chứng Phục Sinh, thì không thể là Chúa Giêsu chịu Tử Nạn được.Như thế, cho chúng ta thấy cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu luôn hiện hữu sống động và gắn liền với Mầu Nhiệm Phục Sinh, vì: “Cuộc Khổ Hình sinh ơn cứu độ….” , chứ không phải ơn cứu độ sinh ra cuộc khổ hình .

Vâng, thưa quý vị, Tin Mừng Chúa nhật II Phục Sinh ( Ga 20, 19 -31) hôm nay cho chúng ta ý nghĩa đó. Nhưng, trước hết, chúng ta cùng xem lại Tin Mừng hôm nay có hai phần :

  •  Phần thứ nhất : Từ câu 19 – 23 . Phần nầy có 03 công việc của Chúa Giêsu:
  • Một là ban Bình An : Bởi vì, Chúa Giêsu đến với các môn đệ bởi sự Phục Sinh của Người, trong bối cảnh các môn đệ lo sợ người Dothai, vì vậy, không gian mà Chúa Giêsu đến với các môn đệ là các cửa đều đóng kín. Chúa Giêsu ”hiện đến” giữa các ông, và điều đầu tiên là Người chúc bình an. Vâng, không gì có thể, trong lúc nầy mà cần thiết bằng ơn “Bình An”. Bình an nầy là bình an Phục Sinh của Đấng Phục Sinh, mặc nhiên, các ông rất hoảng sợ. Hoảng sợ sự có mặt của Chúa Giêsu trong lúc nầy.Nhưng, nói xong Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Như vậy, rõ ràng, chứng cứ Phục Sinh chính là:  “tay và cạnh sườn” của Chúa Giêsu .
  • Hai là ban Dấu Chỉ Thiên Sai : Người truyền sứ vụ Thiên Sai cho các Tông Đồ: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” .( c 21)
  • Ba là ban Thánh Thần : Nói xong , Người thổi hơi vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” ( c22)

Theo đó, chúng ta thấy Bí Tích Thêm sức và Bí Tích Hòa Gỉai được bắt nguồn từ đoạn Tin Mừng hôm nay. Như vậy, từ Dấu Chứng Phục Sinh, Chúa Giêsu thiết lập hai Bí Tích Thêm Sức và hòa giải.

  •   Phần thứ hai : Đức Tin của Tôma , hay là Chúa Giêsu biểu lộ Dấu Chứng Phục Sinh.

Phần thứ hai của Tin Mừng ( Ga 20 , 19 -31) hôm nay cho chúng ta hai ý rõ ràng :

  • Thứ nhất : Lòng tin của thánh Tôma (c 24 -25)

Như chúng ta biết , thánh Tôma là nhân vật làm chứng cho niềm tin vào Chúa Giêsu, nhưng niềm tin ấy là niềm tin “được nhìn thấy” , niềm tin được nhìn thấy là niềm tin không có công lao gì. Căn cứ vào Lời Chúa Giêsu nói :” Vì anh đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin “ ( c 29 b). Nếu ai tin vào Chúa Giêsu như Tôma, thì muôn đời không có được niềm tin, vì làm sao đòi hỏi như Tôma được. Tin như Tôma là Đức Tin được nhìn thấy, Đức Tin được nhìn thấy thì không cần phải tin, vì nó đã được thấy. Điều ấy thường nghịch với đức tin chân thật, vì bản tính của đức tin gồm hai yếu tố căn bản đó là: Thiên Chúa mặc khải và con người đáp trả . Nói đến mặc khải thường là huyền nhiệm, sự cảm nhận, xác tín qua một biến cố nào đó.

Triển khai đức tin của thánh Tôma chúng ta có mấy ý :

-Một là : Thánh Tôma cũng được mặc khải gián tiếp qua các Tông Đồ, nhưng ngài không tin, ngài đòi hỏi được mặc khải trực tiếp, và chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho ngài. Và sự đáp trả của ngài là được nhìn thấy. Như vậy, đức tin được nhìn thấy thì không có công phúc.

-Hai là: Đức tin của thánh Tôma góp phần minh chứng cách hiển nhiên Dấu Chứng Phục Sinh của Chúa Giêsu, và ngài làm chứng về Chúa Phục Sinh theo cách riêng của ngài. Qua thánh Tôma, chúng ta có được một Dấu Chứng Phục Sinh xác đáng, cụ thể, bởi một đức tin hiển nhiên. Vâng, tuy mang tiếng là đức tin Tôma, nhưng, chúng ta cám ơn thánh Tôma đã cho chúng ta một cách tin theo chứng cứ, để cho những ai cứng lòng hơn Tôma cũng phải nhìn nhận.

-Thứ hai: Chúa Giêsu biểu lộ Dấu Chứng Phục Sinh (c 26 – 29)

Việc Chúa Giêsu cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn của Người, điều đó nói lên Năm Dấu Thánh qua cuộc Thương Khó Tử Nạn của Người luôn gắn liền với mầu nhiệm Phục Sinh, như là Dấu Chỉ không bao giờ phai của ơn Cứu Độ, hay nói cách khác, nếu không có cuộc Tử Nạn, thì không có Phục Sinh. Rõ ràng Dấu Chứng Phục Sinh chính là dấu chỉ bình an và từ đó phát sinh ra ơn Thánh Thần, ơn tha thứ, ơn thiên sai. Như vậy, cho dù là Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, nhưng các Dấu Thánh Tích Tử Nạn vẫn hiện diện và là bằng chứng Phục Sinh hiển hiện nhất trong chương trình cứu độ bởi Thiên Chúa

Thánh Vịnh 117 hôm nay cho chúng ta biết, Thiên Chúa rất từ bi nhân hậu, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Viên đá mà người thợ xây loại bỏ lại trở nên viên đá góc tường.

Chúa Giêsu chính là Tảng Đá của ơn cứu độ, mà Thiên Chúa Cha đã đặt vào toà nhà cứu độ nhân loại. Chúng ta nhận ra điều gì trong đoạn Tin Mừng hôm nay về Lòng Chúa Xót Thương. Đó là Chúa Giêsu đã mở Tay và Cạnh Sườn của Người cho các môn đệ xem. Điều nầy cho thấy, Thiên Chúa quá yêu thương nhân loại, nỗi đau nơi Dấu Thánh còn đó, nơi phát sinh ơn cứu độ và các Bí Tích từ nơi vết thương của Người phát ra cho chúng ta và vì chúng ta. Vâng, đó chính là LÒNG THƯƠNG XÓT , sự bình an, ban Thánh Thần, sứ vụ sai đi, ơn tha tội, đều từ Dấu Chỉ Phục Sinh mà ra. Mà Dấu Chỉ Phục Sinh là nguồn Thương Xót vô tận bởi chính Chúa Giêsu chảy ra.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương nhân loại, một tình yêu vô tận chảy mãi không ngừng, đến độ từng những vết thương nơi bàn tay và chân của Chúa vẫn tuôn ra những dòng Máu ân tình, đồng thời nơi Thánh Tâm Chúa vẫn tuôn ra nguồn suối trường sinh là nguồn bình an đích thực cho chúng con. Xin thương tha thứ những bất xứng tội tình của chúng con qua dòng suối ân tình của Chúa, nơi đó chúng con mới tìm thấy hạnh phúc đích thực ./. Amen.

Về mục lục

.

THÁNH TÔMA VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

  Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa nhật II phục sinh, Giáo hội tuyên dương lòng thương xót Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua thánh nữ Maria Faustina: “Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta” (Tiểu nhật ký, số 699). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II qua đời vào đêm cuối tuần Phục Sinh đầu tiên (ngày 2 tháng 4 năm 2005). Lòng thương xót Chúa đã chiếu một luồng ánh sáng vào cái chết của một vị thánh thời đại.

Lòng thương xót của Chúa được biểu lộ qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá. Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo. Lòng thương xót ghi đậm nét nơi các vết thương trên thân thể Chúa. Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao sự bình an, là Chúa cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng và bình an.

Lòng thương xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một để cho người ta nhận ra Ngài. Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi. Ngài còn khoe và cho phép Tôma lấy tay kiểm tra vết thương.Chúa không che dấu, không tiếc xót dù Tôma có cứng lòng, đòi thực tế phải thấy mới tin. 

  1. Đức tin của Tôma

Chúa sống lại, các môn đệ không dễ dàng tin, thánh sử Luca kể: “Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” (Lc 24,11). Thánh Matthêu thuật lại : khi mấy người phụ nữ báo tin cho các môn đệ : Chúa đã sống lại rồi, các ông cũng hoài nghi. Rồi, “khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Riêng Tôma đã nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Đây là kiểu tin bằng lý luận kiểm chứng, chỉ tin khi thấy, khi đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên.

Tôma đại diện cho những người lý luận, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Tôma không vội tin một cách dễ dàng như bao người khác. Ông là người có tính thực tế của khoa học phải qua kiểm chứng, kiểm nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe, tay chân sờ mó đụng chạm hẳn hoi thì mới tin. Đây phải chăng là thái độ khôn ngoan, cẩn thận trước một quyết định hết sức quan trọng của đức tin nơi Tôma? Cám ơn thánh Tôma, vì nhờ ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người.

Trước khi tin, Tôma phải hoài nghi đã. Tôma chỉ tin những điều hợp lý, những gì ‘thấy được, sờ được’. Đây không phải là thái độ cố chấp của Tôma mà ngược lại là thái độ không nhẹ dạ, không cả tin vội vàng bằng tai nghe. Đó là lối phân tích theo nhận định tự nhiên của con người và cũng là kinh nghiệm sống đức tin của nhiều người chúng ta. Dù sao, đây cũng là một khó khăn riêng tư của Tôma trong việc tin vào Chúa sống lại. Chúa Giêsu hiểu ông, nên đã đích thân đến và giúp cho ông dễ dàng hơn để tin vào Chúa. Ngài mời gọi ông hãy tin vững vàng. Và ông đã nói lên lời tuyên xưng đức tin thật đẹp đẽ, thật trang trọng ‘lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi‘. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ban cho Toma sự bình an và đức tin mạnh mẽ qua sự hoài nghi, để ông tuyên xưng đức tin cá nhân của mình : “Lạy Thiên Chúa của con“. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Tôma đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Theo lưu truyền, ông đi rao giảng đức tin và lòng thương xót của Chúa ở Ba tư, Xyri rồi chịu tử đạo ở Ấn Độ.

Thần học gia Hans Kung nói : “người tín hữu không bao giờ nghi ngờ sẽ khó lòng hoán cải một người hoài nghi”. Nhà thần học Paul Tillich nói : “sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh”. Còn Thomas Merton bảo: “người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin”. Jean Guitton, một nhà triết học người Pháp, nói: “Chính vì nghi ngờ thường trực mà tôi lại có thể tin vững”. Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy. Sự hoài nghi giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin, thúc đẩy ta thắc mắc, tìm hiểu, học hỏi, cầu nguyện, nghiên cứu sách vở (Lm. Pet. Bi Trọng Khẩn).

2. Lòng mến của Gioan

Có hai mức độ tin: mức độ thấp là tin vì thấy,tin dựa vào bằng chứng; mức độ cao là tin mà không cần thấy, tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu.Đây là mối phúc thứ 9 như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma : “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28). Không thấy mà tin không có nghĩa là tin một cách mù quáng, vu vơ, không có cơ sở, không có lập trường mà là bằng tình yêu nên đức tin vững mạnh hơn, truởng thành hơn.Thánh Gioan, “người môn đệ Chúa yêu”, bằng tình yêu, Gioan “đã thấy và đã tin” và nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra. Phúc âm kể: khi thấy một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra bên bờ biển hồ Tibêria, “các môn đệ không nhận ra” nhưng “ môn đệ được Chúa Giêsu thương mến” đã nhận ra và nói với Phêrô “Chúa đó” (Ga 21, 4-7)…Rõ ràng, con đường tình yêu đi đến niềm tin nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn.

Tin mừng Phục Sinh cho thấy: có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì cũng như thánh Gioan, nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt để nhận biết những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết.

3. Lòng Chúa Xót Thương

Nhân loại thời nay khát khao một “Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót” (1Ga 4,8; Ep 2.4) để họ tôn thờ, tựa nương và tìm được ý nghĩa cuộc đời. Năm Thánh Lòng Thương Xót là cơ hội để đào sâu đức tin và canh tân chứng tá Kitô giáo. Lòng thương xót là tình yêu thương, là lòng trắc ẩn với người đau khổ, với người nghèo đói, với người bệnh tật, với người tội lỗi. Nhân loại thời nay cần tình yêu, đây là một dấu chỉ của thời đại.Vì thế, mỗi người tùy vào khả năng của mình hãy đặc biệt quan tâm đến việc thực thi lòng thương xót. Mỗi tín hữu được mời gọi trở thành nhân tố tích cực để sống và làm chứng cho lòng thương xót.

Điều làm nên nét độc đáo của người tín hữu là nhân đức thương xót, thể hiện bằng đạo yêu thương, được bộc lộ nơi bản thân và cuộc đời mỗi cá nhân. Mỗi người, bằng cách thực thi bác ái, lòng thương xót và tha thứ, có thể trở nên dấu chỉ quyền năng tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi tâm hồn, đem lại hòa giải và bình an.Trong Tông sắc Misericordiae Vultus (Dung mạo Lòng Thương Xót), ĐTC Phanxicô nói: “Thời đại ngày nay, khi Hội Thánh đang thực thi công cuộc Tân Phúc Âm hóa, lòng thương xót quả là cần thiết để một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới và đổi mới các hoạt động mục vụ. Điều tối quan trọng đối với Hội Thánh, cũng như để làm cho lời rao giảng của Hội Thánh đáng tin, chính là sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và hành động của Hội Thánh cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha” (số 12). Đáp lại lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô, trong Thư gởi cộng đoàn Dân Chúa (17.9.2015), HĐGMVN nhấn mạnh: “Mỗi người Công giáo phải trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Không có những chứng nhân của lòng thương xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống”.

Chúa Phục Sinh cho các tông đồ xem những thương tích cuộc khổ nạn nay đã thành sẹo như mời gọi các ngài chiêm ngắm chính nguồn mạch của Lòng Thương Xót không bao giờ cạn vơi.

Thánh Tôma Aquinô đã cầu nguyện rằng: “Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma tông đồ, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn nữa”. Người kitô hữu đôi khi không cần trí tuệ để tin vào những thực tại thiêng liêng; không cần giác quan để kiểm soát những dấu chỉ mầu nhiệm trong đạo, mà cần sống bằng lòng mến. Càng yêu mến nhiều thì càng tin chắc. Càng tin vững thì càng bình an. Như vậy, con đường của lòng tin là con đường của lòng mến. “Ai xót thương người, sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Những ai luôn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh đều luôn sống tích cực và khám phá ra điều kỳ diệu trong những cái tầm thường để có khả năng chứng mình về tình yêu và lòng thương xót của Chúa.     

Về mục lục

.

HỒNG ÂN ĐỨC TIN

AM. Trần Bình An

Từ 4 tuổi, cậu ấm Nguyễn Văn Thích đã được Thân phụ dạy chữ Hán, rồi lớn lên vác lều chỏng thi Hương, đến trường ba thì hỏng (chuẩn bị bằng Cử nhân). Thời gian nầy, cậu Thích cũng học chữ quốc ngữ và chữ Pháp rồi vào trường Pèlerin gọi là «Trường Dòng» do các Sư huynh Lasan điều khiển và giảng dạy, ở Huế. Trường nầy được thành lập năm 1904 và học sinh Nguyễn văn Thích thuộc thế hệ đầu tiên được các Sư huynh truyền dạy kiến thức cả đời lẫn đạo. Nơi đây cậu ấm được học hỏi, trau dồi tiếng Pháp và được khai tâm về Giáo lý Kitô giáo. Không chỉ những lời giảng dạy, mà còn gương sống hy sinh tận tụy của các «Thầy Dòng» đã giúp học sinh con nhà Nho thấy được phần hòa âm tuyệt diệu giữa Nho giáo và ánh sáng Tin Mừng. Về sau, khi Thân phụ là Cụ Thượng Mại chống đối mạnh mẽ đạo Công giáo, thì cậu giải thích cho Thân Phụ rằng chữ TRỜI là THIÊN của Khổng giáo cũng là THIÊN CHÚA của đạo Công giáo. Sau khi trưng dẫn 30 câu trong các sách Nho về chữ THIÊN, thầy Nguyễn Văn Thích trình bày: chữ Thiên đây không phải là bầu trời với trăng sao vằng vặc, hay mặt trời chói lọi, mà là một Ngôi vị thiêng liêng, là Đấng Tạo Hóa Tối Cao và Toàn Năng Toàn Ái.

Nhưng từ lòng Tin vào Đấng Tối Thiện đến thể hiện niềm Tin ấy đối với đứa con một gia đình thâm nho, như gia đình của cụ Thượng Mại là Thượng Thư Bộ Lễ, không phải là chuyện đơn giản. Thời đó Giáo hội Công giáo không chấp nhận việc thờ kính tổ tiên, ngăn cấm người Công giáo thi hành nghi lễ này. Trong khi đó đối với truyền thống đạo đức Việt Nam, chữ HIẾU, với lòng thảo kính tổ tiên, ông bà cha mẹ là thiêng liêng, là nền tảng của đạo làm người. Do đó, Thầy Thích vô cùng khắc khoải, vì trở nên Công giáo sẽ bị xem là bất hiếu, nhất là trong một gia đình nổi tiếng, vị vọng của đất thần kinh. Ông Bà Nguyễn văn Mại khi biết con mình muốn theo đạo Công giáo thì quyết liệt ngăn cản.

Sau 3 năm suy tư, trở trăn và cầu nguyện, cậu ấm Thích chờ thời điểm thuận lợi. Với bằng Cao đẳng Tiểu học và một năm Sư phạm, Thầy Thích được bổ làm trợ giáo tỉnh Khánh Hoà tháng 2-1911. Bốn tháng sau, ánh sáng Đức tin tỏ rạng trong tâm hồn, thúc giục thầy quyết định nhận bí tích Rửa tội để trở nên con cái Thiên Chúa. Linh mục Charles Eugène Saulcoy, tên Việt là Cố Ngoan, ngày 29 tháng 6, tại Nhà thờ Bình Cang, xã Vĩnh Trung, Nha Trang, đã ban phép Thanh Tẩy cho Thầy giáo Thích với tên thánh là Giuse Maria. Được tin sét đánh, cụ Thượng không cầm nổi tức giận, dùng roi gậy đánh nhừ tử «đứa con bất hiếu». Khi cơn gia biến dịu dần với thời gian, Cụ Thượng thân phụ nghĩ đến việc lập gia đình cho con trai đã 26 tuổi. Cụ mời Đức Cha Lý (Cố Allys) đến nhà, xin Đức Cha làm mai mối với con gái Cụ Thượng Công giáo Nguyễn Hữu Bài, để con mình yên phận, không còn gây thêm tai vạ nữa. Ngờ đâu, khi được «hung tin» này, môn đệ của Đức Giêsu lấy quyết định từ giã gia đình qúy tộc…

Một đêm thanh vắng, thầy Giuse Maria hoá trang làm cô gái đội nón lá, mặc áo dài tha thướt ra đi, sáng sớm tháng 9 năm 1917, trực chỉ đến Tiểu chủng viện An Ninh tại Cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị. Muốn được nhận vào Tiểu chủng viện thường là 12 đến 14 tuổi, mà thầy Thích đã 26 tuổi thì phải làm sao đây? May mắn là Giám mục Lý (Allys) nắm rõ hoàn cảnh, nên nhận ngay người chủng sinh rất độc đáo nầy, vừa học tiếng Latinh và chương trình đào tạo linh mục, vừa được mời làm giáo sư Pháp văn, Hán văn, Quốc văn cho chủng sinh. Sau 2 năm tu tập vừa làm trò vừa làm thầy nơi đây, thầy giáo «tiểu chủng sinh» được gửi vào Đại chủng viện Phú Xuân, Huế, và 6 năm sau được thụ phong Linh mục ngày 18 tháng 12 năm 1926. (Lm GM Nguyễn Văn Thích, Gương sống đức tin, web GP Nha Trang)

Hành trình đến với Đức Tin của Lm GM. Nguyễn Văn Thích, vốn được các môn sinh tôn xưng là “Hiền Nhân của thời đại,” trải qua bao khó khăn, gian nan, thử thách. Nhưng nhờ ơn Thiên Chúa, ngài đã thủ đắc đức tin và làm rạng danh Nước Chúa qua cuộc đời chứng nhân ngời sáng đạo hạnh, tài năng và đặc sắc.

Trong Tin Mừng Chúa nhật Lòng Thương Xót hôm nay, thánh sử Gioan phác hoạ đôi nét về Đức Tin, qua sự kiện ông Tôma cứng lòng, yêu cầu được xỏ ngón tay vào cạnh sườn Chúa Giêsu Phục Sinh, thì mới chịu khẳng định Người sống lại thật.

Đức Tin vượt giác quan

Bà Maria Mắcđala và quý bà đạo đức đã ra ngôi mộ táng xác Đức Giêsu. Nhưng không còn xác Người, thiên sứ báo tin Người đã Phục Sinh. Nghe tin lạ, hai môn đệ Phêrô và Gioan cũng vội vã chạy đến quan sát. Nhưng ngôi mộ trống rỗng, chỉ còn khăn liệm và khăn trùm đầu xếp gọn ghẽ. Thế mà trong bấy nhiêu người chứng kiến tỏ tường sự việc, chỉ duy nhất Người Môn Đệ Được Chúa Yêu Thương “đã thấy và đã tin” Chúa Giêsu phục sinh. Mặc dầu ai cũng đều sáng mắt, chứng kiến cùng một cảnh ngộ, một sự kiện nhãn tiền, thì tại sao chỉ mình ông Gioan nhận được đức tin?

Qua những dấu chỉ trong thiên nhiên, dấu chỉ từ các sự kiện xã hội, hay những diễn biến lịch sử, Thiên Chúa dẫn dắt vào niềm tin những người hướng thượng, thành tâm và thiện chí. Như ba vị chiêm tinh, khao khát đấng minh quân xuất hiện, đã tìm thấy ngôi sao dẫn đường, đến Bêlem thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Như môn đệ Gioan, đã mỹ mãn thành công giải mã dấu chỉ ngôi mộ trống.

Như thế, đức tin không thể nào kiểm chứng, vì vượt qua giác quan, vượt qua cảm nhận thông thường. Đức tin thuộc lãnh vực siêu nhiên, phi vật chất, không thể thấy, nghe, nếm, ngửi, đụng chạm, hoặc cân đo đong đếm. Nếu khoa học kiểm chứng được thì đâu cần đến nhân đức tin. Nói như ông Tôma thì cũng chẳng cần viện đến niềm tin, vì đã là một sự thật hoàn toàn.“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25)

Vì thế Đức Giêsu mới chúc lành cho ai thực sự có đức tin bền vững, không mảy may nghi ngờ, chao đảo cám dỗ, đầy lửa mến, đức cậy: “Phúc thay những người không thấy mà tin.” (Ga 20, 29)

Đức Tin vượt tri thức

Khi hai môn đệ sầu buồn thê thảm, ê chề thất vọng, lê gót chân trên đường Emmau, đều thiếu lòng tin tưởng, trông chờ vào Chúa, dù đã được loan báo tin vui từ nhiều nguồn.“Ðã hẳn, có vài người phụ nữ trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi hoảng hồn. Tảng sáng họ đi đến mồ; và không gặp xác Ngài, họ về phân phô là đã thấy thiên thần hiện ra nói rằng Ngài đang sống.  Có vài người trong chúng tôi đã đi tới mồ, và đã gặp thấy y như các phụ nữ đã nói, còn Ngài thì họ không được thấy!” (Lc 24, 22-24) 

Không nhờ đến giác quan, mà dựa trên tri thức, suy luận, để lý giải, phân tích, tổng hợp dữ kiện, thì cũng chẳng thể nào lãnh hội được đức tin. Hai môn đệ đã phải thú nhận sự thất vọng sâu xa về đấng đến phục quốc: “Phần chúng tôi, chúng tôi đã hy vọng rằng chính Ngài là Ðấng sẽ giải thoát Israel. Nhưng với ngần ấy cớ sự, nay đã là ngày thứ ba rồi, kể từ khi các việc ấy diễn ra!” (Lc 24, 21) Ba ngày trôi qua sau khi Đức Giêsu tử nạn, sao còn hy vọng được? Sau ba năm theo Đức Giêsu dạy dỗ, các ngài vẫn còn ngộ nhận về sứ vụ cao cả của Người, vẫn còn nặng lòng với vật chất, danh lợi.

Vượt qua tri thức, đức tin chỉ đạt được bằng con đường trái tim, yêu thương. Nhưng phải là tình yêu xả kỷ, bao dung, cho đi, khiêm nhường, trong sáng, vô vị lợi, mến Chúa yêu người, yêu thương, phục vụ những người cùng khổ, khó nghèo, đói rách, bệnh hoạn, tù đầy, bị bỏ rơi, bị xua đuổi, cả đến người thù địch.

Trả lời những người chống đối, Đức Giêsu không ngần ngại công khai nhận xét chính tâm hồn họ chai đá, lạnh nhạt với Chúa, phũ phàng với tha nhân, nên chẳng thể nào tin vào Con Người được sai đến: “Nhưng tôi biết: các ông không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Tôi đã đến nhân danh Cha tôi, nhưng các ông không đón nhận. Nếu có ai khác nhân danh mình mà đến, thì các ông lại đón nhận. Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được?”(Ga 5, 42-44)

Trong thư gửi tín hữu Philípphê, thánh Phaolô đặc biệt nhấn mạnh đến tình yêu, đức mến: “Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn.”(Pl 1, 9-10). Dồi dào lòng mến, nồng nàn yêu Chúa, yêu tha nhân, mới dễ dàng đón nhận được ơn tri thức, cũng như lãnh nhận được đức tin.

Vậy ai yêu Chúa thì vâng theo, hoàn toàn tin tưởng, trông cậy, thực thi Lời Chúa, sẽ được Người thân thương yêu quý, và được hạnh phúc ở lại trong Người, như Đức Giêsu đã long trọng tuyên bố: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.” (Ga 14, 23)

Thánh Têrêsa Hài Đồng cảm nghiệm tình yêu chân chính thế nào: “Yêu thương trước tiên là ‘mong muốn’, chứ không luôn là ‘cảm thấy.’

Đức Tin từ Lòng Thương Xót

Hai môn đệ đang trên đường Emmau,” bộ mặt ảo não,” đau buồn, xót thương Đức Giêsu chịu tử nạn. Người lặng lẽ hiện ra, “tiến lại gần bên mà đi với họ; nhưng mắt họ bị ngăn ngừa làm sao họ không nhận ra được Ngài.” (Lc 24, 15-16).

Thật phúc đức thay cho hai môn đệ đã vô cùng thương xót Chúa, nên được Chúa thương xót đáp lại.“Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương.”(Mt 5, 7) Chúa Giêsu dùng chính Lời Chúa để giải thích cho các ngài mầu nhiệm phục sinh. “Và khởi từ Môsê và hết thảy các tiên tri, Ngài dẫn giải cho họ những điều đã viết về Ngài trong toàn bộ Kinh Thánh.” (Lc 24, 27)

Cũng vì Lòng Thương Xót, Chúa Giêsu chẳng hề nỡ trách mắng ông Tôma cứng lòng, mà chỉ nhân từ, ôn tồn dạy bảo Tôma: “Ðặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Ðưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Ðừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20, 27)

Lạy Chúa Giêsu, 
xin cho con biết con, 
xin cho con biết Chúa.

Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, 
quên đi chính bản thân, 
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.

Xin cho con biết tự hạ, 
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.

Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. 
Ước gì con biết nhận từ Chúa 
tất cả những gì xảy đến cho con 
và biết chọn theo chân Chúa luôn.

Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. 
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. 
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. 
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời.

(Thánh Âu-Tinh, Rabbouni, 120 Lời nguyện của bạn trẻ Việt Nam, Vietnamese Missionaries inAsia)

Kính xin Mẹ Maria, biến đổi chúng con theo gương mẫu Mẹ, luôn biết sống yêu thương, nhân ái, khiêm nhường, đơn sơ và vâng phục, để chúng con có thể xứng đáng hưởng từ Lòng Thương Xót, hồng ân đức tin mạnh mẽ như Mẹ vậy. Amen.

Về mục lục

.

THA THỨ LÀ BẢN CHẤT CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

 Lm. Anthony Trung Thành

Trong Tông Thư “Khuôn Mặt Xót Thương”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Trong dụ ngôn về lòng thương xót, Chúa Giêsu tiết lộ bản tính của Thiên Chúa như một người Cha không bao giờ bỏ cuộc cho đến khi Ngài đã tha thứ kẻ sai phạm và vượt qua sự từ khước với lòng trắc ẩn và thương xót”.

Thật vậy, tha thứ là bản chất của Thiên Chúa. Trong thời Cựu Ước, biết bao lần dân Chúa phản bội, chạy theo các thần của dân ngoại, nhưng mỗi khi dân biết sám hối quay trở về thì Ngài sẵn sàng tha thứ. Sang thời Tân Ước, Chúa Giêsu luôn dạy về sự tha thứ. Khi Phêrô hỏi Chúa phải tha thứ bao nhiêu lần, có phải bảy lần không? Chúa trả lời “Không phải là bảy lần nhưng bảy mươi lần bảy”(Mt 18,22).

Không những Chúa Giêsu dạy sự tha thứ mà chính Ngài đã thực hành sự tha thứ. Ngài tha thứ cho Phêrô qua cái nhìn đầy trìu mến yêu thương sau khi Phêrô chối Ngài ba lần. Ngài tha thứ cho kẻ trộm lành. Ngài tha thứ cho những người đóng đinh Ngài “Lạy Cha xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”(Lc 23,34).

Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu không hề nhắc tới tội của Phêrô, tội bỏ trốn của các Tông đồ. Sự nghi ngờ của ông Tôma. Ngài tha thứ cho họ tất cả. Ngài tha thứ cho Phaolô khi ông trên đường đi lùng bắt các kitô hữu. Nếu Giuđa có lòng thống hối, chắc chắn Chúa cũng sẽ tha luôn. Ngài đã lập Bí tích Giao Hoà để tha thứ tội lỗi cho con người mỗi khi con người phạm tội và biết thống hối ăn năn. Chính trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã ban cho các Tông đồ quyền tha tội : “Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha”(Ga 20,23).

Giáo Hội qua mọi thời đại không những thi hành sự tha thứ cho các tội nhân qua bí tích Giao Hoà mà còn thực hành sự tha thứ trong cuộc sống. Sách Công Vụ Tông đồ cho biết, chính Thánh Phêrô đã sống tinh thần tha thứ của Chúa Giêsu trên Thánh giá khi coi hành động của những người Do Thái và cả của các thủ lãnh của họ như “do không hiểu biết” (Cv 27,25). Thánh Stêphanô đã cầu nguyện xin Chúa tha thứ cho Phaolô (x. Cv 7,60). Muôn vàn gương tha thứ khác của Giáo hội và các thành viên trong Giáo hội mà chúng ta không thể kể hết ra đây. Trong thời đại chúng ta có gương tha thứ của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Ngày 13 tháng 05 năm 1981, tên khủng bố Mehmet Ali Agca, người Thổ Nhỉ Kỳ, đã cố ý giết Đức Thánh Cha Gioan Phalô II bằng ba phát súng lục trong một cuộc tiếp kiến chung tại quảng trường thánh Phêrô ở Rôma. Hai năm sau vụ ám sát, vào ngày 23.12.1983, Ngài đã đích thân vào phòng giam thăm tên khủng bố Ali Agca, nói chuyện với y và nhất là tha thứ cho y.

Trong cuộc sống chung, không thể tránh khỏi những va chạm, có những va chạm gây ra đổ máu, chết chóc: Giữa các thành viên trong gia đình; giữa những người làng xóm làng giềng với nhau; giữa bạn bè; giữa những người trong cộng đoàn; giữa những người không quen biết; có những va chạm đến từ những người không cùng quan điểm, tôn giáo với chúng ta, họ ghen ghét vì chúng ta là người kitô hữu…Nhưng trong mọi trường hợp, Chúa và Giáo hội luôn mong muốn chúng ta phải thể hiện tinh thần tha thứ.

Trong buổi tiếp kiến chung ngày 04 tháng 11 năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ các gia đình sống tinh thần tha thứ cho nhau, Ngài nói: “Gia đình là một thao trường lớn để tập luyện sự trao ban và tha thứ cho nhau, chẳng vậy không có tình yêu nào có thể trường tồn. Trong kinh nguyện mà chính Ngài đã dạy chúng ta, kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thưa với Chúa Cha: ‘Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con’. Vào cuối kinh, Chúa bình luận: ‘Thực vậy, nếu các con tha thứ những lỗi lầm của người khác, thì Cha các con trên trời cũng tha thứ cho các con; nhưng nếu các con không tha thứ cho tha nhân, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ những lỗi lầm của các con’(Mt 6,12.14-15). Ta không thể sống mà không tha thứ, hoặc ít là không thể sống tốt đẹp, nhất là trong gia đình. Mỗi ngày chúng ta làm những điều lầm lỗi đối với nhau. Chúng ta phải để ý đến những sai lầm ấy, do sự yếu đuối và ích kỷ của chúng ta. Nhưng điều mà chúng ta được yêu cầu là chữa lành ngay những vết thương chúng ta gây ra cho nhau, nối lại tức khắc những mối dây đã bị đứt đoạn. Nếu chúng ta chờ đợi quá lâu, thì tất cả trở nên khó khăn hơn. Và có một bí quyết đơn giản để chữa lành những vết thương và giải tỏa những lời cáo buộc, đó là đừng bao giờ kết thúc một ngày mà không xin lỗi, không làm hòa giữa vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em, giữa mẹ chồng và nàng dâu! Nếu chúng ta học cách xin lỗi và tha thứ ngay cho nhau, thì chúng ta chữa lành những vết thương và hôn nhân được củng cố, gia đình trở thành căn nhà vững chắc hơn, chống lại được những chấn động do những thói xấu lớn nhỏ của chúng ta gây ra”.

Đối với những người khác, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : “Nếu chúng ta học cách sống như thế trong gia đình, thì chúng ta cũng làm như vậy ở bên ngoài, bất kỳ nơi nào chúng ta sống. Nghi ngờ về điều này là điều dễ dàng. Nhiều người, kể cả các tín hữu Kitô nghĩ rằng đó là một điều thái quá. Họ nói: nói thì dễ, thì đẹp, nhưng không thể thực hành được. Nhưng cám ơn Chúa, không phải như vậy. Thực thế, chính khi lãnh nhận ơn tha thứ từ Chúa, mà chúng ta có khả năng tha thứ cho người khác. Vì thế, Chúa Giêsu đã yêu cầu lập lại những lời này mỗi khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha, nghĩa là mỗi ngày. Và điều không thể thiếu được, đó là một xã hội nhiều khi tàn ác, có những nơi, như gia đình, trong đó chúng ta phải học tha thứ cho nhau”.

Chúa nhật kính lòng thương xót Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta hãy cảm nghiệm lòng thương xót tha thứ của Chúa. Qua Bí tích Giao hoà, biết bao lần Chúa đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta. Từ đó, chúng ta đừng hẹp hòi khi cần phải tha thứ cho anh chị em mình. Bởi vì: Nếu chúng ta không tha thứ lỗi lầm cho người khác, thì Cha chúng ta trên trời cũng sẽ không tha thứ tội lỗi cho chúng ta” (x. Mt 6,15). Amen.

Về mục lục

.

 

SỐNG TIN YÊU

Lm. Jos. DĐH

Để phân biệt giữa già xấu, và người trẻ đẹp, thật dễ dàng, ta chẳng cần vận dụng đến trí óc. Nếu kiểm chứng đâu là bóng dáng, giọng nói, người thân của mình, không ai phải nghe nhìn băng ghi hình đến nhiều lần làm gì. Cuộc sống cho chúng ta cảm nhận: nghi ngờ, giận hờn, hoặc ganh tỵ, chính là hậu quả gây nên rắc rối cho mình, tổn hại đến tình yêu thương mà ta đang có. Đời người đâu phải được ngồi đó mãi để thẩm định : hay dở, chất lượng, kỹ thuật, như công việc của “giám khảo”. Thực ra, mỗi người đều phải năng động, đầu tư, nhằm thể hiện rõ vai diễn của mình như “thí sinh” đang bước vào vòng thi chung kết.

Câu chuyện sống lại từ cõi chết, thường khó được chấp nhận trước những người xa lạ với niềm tin tôn giáo, theo họ, đó chỉ là khái niệm mơ hồ. Đức Giêsu là người thật, đã chết thật, ngoài “tình yêu”, người thân cận, người chỉ biết tìm kiếm hưởng thụ, làm sao họ có thể hiểu Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, đã sống lại từ cõi chết ? Theo suy xét tự nhiên, không một ai đáng được nhìn, xem, và thấy Đấng Phục Sinh, vì tất cả đều tội lỗi bất xứng, nếu không phải là tình yêu thương của Đấng sống lại mở lòng trí chúng ta.

Khởi đầu nơi những kẻ đang ôm ấp kỷ niệm từng được nghe, được đồng bàn cùng Đức Giêsu, ít là trong tâm trí họ còn nhớ tới Một Đức Giêsu chưa bị treo thập giá, số nhỏ bé đó tạm gọi là chút tin yêu. Đấng phục sinh đã đi bước trước trong tình yêu, “ngôi mộ trống”, “người mặc áo trắng”, “lời dặn dò” qua các phụ nữ, “người khách lạ” trên đường E-mau… Xưa và nay, Đấng phục sinh vẫn là dấu hiệu của tình thương, ai cũng có cơ hội để tìm gặp, để được lớn mãi trong tình yêu Giêsu.

Chiều ngày thứ nhất trong tuần thật ý nghĩa hôm đó, nơi các môn đệ đang hội họp cầu nguyện, đang thể hiện tình yêu hiệp nhất giữa các anh em huynh đệ. Đức Giêsu phục sinh đến giữa các ông, chào chúc bình an, ban Thánh Thần tình yêu, và ban sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các học trò thân thương ấy. Đấng sống lại từ cõi chết, đã cho các môn đệ nhìn xem chân tay và cạnh sườn, Ngài không hỏi tội, không oán trách các học trò điều gì, thay vào đó là tình yêu và ơn ban. Đấng sống lại còn ban phát nhiều thứ ơn cho các môn đệ, nhưng trên hết và căn bản mà các ông dễ cảm nhận hơn đó là “niềm vui Đấng phục sinh”.

Có những qui luật tự nhiên của tạo hóa, mà người ta không thể không thừa nhận : ớt dù cay vẫn ăn cả vỏ, chuối dù ngọt cũng bỏ vỏ ngoài. Đau khổ thập giá, thật đáng sợ, nhưng vì tin yêu, Đức Giêsu đã uống cạn chén đắng, và đã chiến thắng tử thần. Hạnh phúc đời đời, bao giờ cũng dễ nghe, mọi người đều mơ ước. Nhưng phải cùng đi với Đức Giêsu, vượt qua đau khổ thập giá, mới gặp được Đấng phục sinh, thật khó. Sống trong giầu sang phú quí ở đời này, không phải là không có đau khổ nước mắt, sống trong tin yêu mới là bước khởi đầu theo Đức Giêsu làm môn đệ.

Người xưa có câu : tiếng lành tiếng dữ, đồn xa, tiếng lành tiếng dữ, đồn ba ngày đàng. (ca-dao). Đức Giêsu đã mở mắt người mù, mở tai kẻ điếc, mở miệng kẻ câm, làm cho người què đi được, người chết sống lại. Lẽ nào Đức Giêsu chịu đóng đinh thập giá, chịu mai táng trong mồ, và nay sống lại ra khỏi mồ, dư luận đám đông, chứng nhân Tin Mừng, lại không làm vang vọng khắp địa cầu ? Đức Giêsu đã yêu, và yêu đến cùng trên thập giá, vì thế Đức Giêsu sống lại cũng từ cõi chết vẫn là Đấng yêu thương.

Cho dù người cùng thời và chúng ta hôm nay có khắt khe với ông Tôma, nói ông cứng lòng, lên án ông mau cạn tình cạn nghĩa, Đấng phục sinh vẫn thương ông. Dù Tôma yêu Chúa thật trong lòng, hay trong tim ông yêu Thầy giả dối; hoặc ta không đọc hết được ý của Đấng phục sinh khi nói Tôma hãy nhìn, hãy xem vết thương của Thầy, thì Ngài vẫn là Đấng yêu thương. Khi Đức Giêsu đã vượt qua đau khổ thập giá, làm sao thế lực trần gian ngăn cản được Đấng Kitô phục sinh ?

Đối diện với Đấng sống lại, Tôma chiều hôm đó không dám kiểm chứng, hẳn ông không phải là kẻ mạnh miệng xó bếp, thay vì lời xin lỗi, ông chỉ biết thưa lên : “lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Tôma, các môn đệ, các phụ nữ hôm xưa, và tất cả chúng ta hôm nay đều bất xứng tội lỗi giống nhau, Chúa tha thứ và còn tha thứ. Đấng phục sinh ban bình an, ban Thánh Thần cho các tông đồ, tất nhiên còn ban cho cả nhân loại chúng ta. Chúa sống lại, cho các môn đệ gặp gỡ Chúa bằng mắt đức tin và mắt phàm trần; tất cả những ai sống hiệp nhất trong tin yêu, mai sau và ngay lúc này, Chúa vẫn hiện diện bên chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU MẠC KHẢI LÒNG THƯƠNG XÓT QUA ƠN BAN BÌNH AN

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trong Đêm Vọng Phục Sinh vừa qua, Giáo Hội công bố Tình yêu của Thiên Chúa trải dài trên nhân loại và trong cuộc sống của con người ngang qua các bài đọc trong phần phụng vụ Lời Chúa.

Hôm nay, Chúa Nhật II Phục Sinh, Giáo Hội cử hành đại lễ kính Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Qua thánh lễ này, Mẹ Giáo Hội muốn làm cho bản trường ca tình yêu của Thiên Chúa một lần nữa rõ nét hơn nơi trái tim và lòng dạ thương xót của chính Chúa Giêsu, Đấng hiện thân lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

  1. Thiên Chúa có tên là Tình Yêu

Nói đến Thiên Chúa, ấy là chúng ta nói đến bản chất của Người là “Tình Yêu”. Chính thánh Gioan đã khẳn định như thế trong thư của ngài: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.

Vì yêu, Ngài đã tạo dựng trời đất muôn vật; đã tuyển chọn Israel làm dân riêng; đã nghe thấy tiếng van xin thống thiết của dân Người và đã ra tay giải thoát, dẫn đưa họ từ Ai cập trong thân phận nô lệ trở về Đất Hứa, nơi tràn trề sữa và mật; đồng thời nuôi sống họ bằng Manna và chim cút; vì yêu, Thiên Chúa đã không chấp nhất những tội vô ơn bạc nghĩa của dân…

Bởi lẽ, ở đâu tội lỗi tràn đầy, ở đó ân sủng chứa chan gấp bội, và lòng thương xót của Thiên Chúa luôn phủ lấp muôn vàn tội lỗi, sẽ tẩy trắng như tuyết, sạch như bông…, nên Thiên Chúa đã không bỏ rơi kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, đau đớn vì họ đang đi đến hố diệt vong!

Vì thế, nhiều lần nhiều cách,  Người đã gửi các ngôn sứ, thẩm phán, vua chúa … để nhắc nhở và mời gọi dân đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa. Cuối cùng, Thiên Chúa đã trao ban chính Con Một của Người là Đức Giêsu, Ngài đã đến trần gian trong thân phận của con người, để dạy dỗ, yêu thương, tha thứ,  chữa lành bệnh tật… và đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc đời. Đỉnh cao của lòng thương xót ấy chính là cái chết đau thương trên thập giá vì con người… Và cũng chính tình yêu, Ngài đã khai mở Giáo Hội ngang qua lưỡi đòng đâm thâm. Chính từ cạnh sườn, Máu và Nước của lòng dạ xót thương đã chảy ra để lộ hiện dung mạo Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, nhằm khai sinh và nuôi dưỡng Giáo Hội bằng chính nguồn sung mãn của lòng thương xót…

  1. Trao ban bình an là trao ban lòng dạ thương xót của Thiên Chúa

Không dừng lại ở đó, lòng thương xót của Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu sống lại để chứng minh con đường cứu chuộc của Thiên Chúa nơi lịch sử cứu độ, trong cuộc đời, sứ vụ, sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu được móc nối chặt chẽ trên cùng một con đường tình yêu, được khởi đi và kết thúc do lòng thương xót của Thiên Chúa.

Nên ngay sau khi sống lại, Đức Giêsu đã trao chuyển lòng thương xót của Thiên Chúa cho các môn đệ qua ơn ban bình an. Vì: tình yêu là bản chất của Thiên Chúa; thì lòng thương xót chính là biểu hiện của tình yêu và nhân loại được mời gọi sáp nhập, dìm mình vào trong đại dương lòng thương xót ấy ngang qua sự bình an sâu thẳm của tâm hồn.

Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu hai lần hiện ra với các môn đệ. Cả hai lần, Ngài đều trao ban bình an cho các ông.

Khi trao ban cho các ông sự bình an, Đức Giêsu muốn cho các ông bình tâm để nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa ngang qua lịch sử cứu độ, và nhất là trên chính cuộc đời của từng người, để các ông đọc lại cuộc đời của mình và dân tộc mình trên nền tảng thương xót cảu Thiên Chúa để các ông chan chứa niềm tin và hy vọng, ngõ hầu can đảm làm chứng về lòng thương xót của Thiên Chúa, và nhất là nơi cuộc thương khó và phục sinh của Thầy Giêsu.

Muốn có được điều đó, các ông cần đón nhận sự bình an của Đức Giêsu trong tâm tình của những người có đức tin và lòng mến, chứ không như theo quan niệm thói đời về sự bình an khi phỏng chiếu nó theo kiểu may rủi…

Thật vậy, sự bình an mà Đức Giêsu trao tặng, chính là một ơn cao trọng, biểu lộ tình yêu và lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, để nở hoa tình yêu và kết trái tha thứ. Thế nên, bản chất của nó khác xa một lời chào hay một nghĩa cử xã giao. Điều này chính Đức Giêsu đã nói:  “Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như kiểu thế gian ban” (Ga 14,27).

Khi bình an của Đức Giêsu được trao ban và những ai được đón nhận, thì sự bình an ấy sẽ sinh hoa trái và làm cho người đón nhận được biến đổi. Điều này ta thấy diễn biến của tâm trạng Tôma, từ một người cứng lòng tin, đến nỗi ông thách thức luôn cả Đấng Phục Sinh!!! Tuy nhiên, Đức Giêsu thấu hiểu nỗi yếu đuối của ông, bởi vì qua biến cố Ngài chịu khổ nạn, tinh thần của Tôma đang hoảng loạn và hoài nghi mọi chuyện, nên Đức Giêsu một lần nữa đem lòng quý mến ông, thương xót ông, nên đã hiện ra và đáp ứng nhu cầu hiếu tri của người môn đệ cứng tin. Tôma đứng trước Đấng đầy lòng thương xót và được nghe thấy Thầy của mình không trách móc, nhưng lại yêu thương và mời gọi ông, cho ông được đặc ân sỏ ngón tay và lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn… Đến lúc này, Tôma đã đụng chạm được vào tận căn của lòng thương xót nơi Thầy mình, vì thế, ông đã thốt lên: “Lậy Chúa là Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).

Đây là một lời tuyên xưng đức tin nơi tâm hồn bình an thực sự của Tôma. Cũng chính vì lời tuyên xưng đầy tin tưởng này mà Đức Giêsu đã trao ban mối phúc lòng thương xót: “Vì con đã thấy Thầy nên con đã tin; nhưng phúc cho những ai đã không thấy mà đã tin” (Ga 20,29).

Như vậy, hai lần hiện ra, Đức Giêsu đều muốn các ông rồi mai đây sẽ trở thành chứng nhân của lòng thương xót, ngang qua cuộc sống và hành động của chính mình, để Thầy và trò cùng đi chung con đường thương xót, nhằm trải dài ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho nhân loại.

  1. Sống và thi hành sứ điệp lòng thương xót của Thiên Chúa trong cuộc đời Kitô hữu

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã nói: “Trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào, và cách riêng trong thời hiện tại chúng ta đang sống, Giáo Hội phải coi một trong những nhiệm vụ chính yếu của mình là rao truyền và thể hiện Lòng Chúa Thương Xót đã được mạc khải một cách tuyệt vời trong Đức Kitô.”

Khám phá ra sứ điệp thương xót của Đức Giêsu ngang qua lời cầu chúc bình an cho các môn đệ, mỗi người chúng ta cũng hãy xin ơn bình an đó cho chính mình, và loan truyền sự bình an sâu thẳm ấy cho anh chị em chúng ta.

Đây là sứ mạng của mỗi chúng ta! Chúng ta không được dửng dưng với lòng thương xót và cũng không được thờ ơ khi thấy con người, nhân loại hôm nay vô tâm, quay lưng lại với lòng thương thương xót của Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu đã nói với thánh nữ Faustina: “Ta khao khát lòng thương xót của Ta được tôn thờ (NK, 998) ; Hãy công bố sự tôn kính lòng thương xót của Ta cho mọi tạo vật (NK 1572). Người nào tín thác nơi lòng thương xót của Ta, thì sẽ không bị tàn lụi, vì tất cả những việc của người đó đều là việc của Ta, và những kẻ thù của họ đều sẽ bị tan tác dưới bệ chân Ta (NK,723). “Ta đòi hỏi con việc làm cho lòng thương xót phát xuất từ tình yêu đối với Ta. Con sẽ tỏ bày lòng thương xót với những người chung quanh con, mọi nơi mọi lúc. Con không được lùi bước hay biện hộ hoặc tự miễn trách nhiệm cho bản thân việc đó. Ta ban cho con ba cách sử dụng lòng thương xót đối với người thân cận: Thứ nhất – bằng việc làm; thứ hai – bằng lời nói; thứ ba – bằng lời cầu nguyện. Trong cả ba cấp đó cần chứa đựng đầy lòng thương xót, và đó là bằng chứng không thể nghi ngờ được của tình yêu dành cho Ta” (NK, 742).

Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiện thân của lòng thương xót Thiên Chúa, con xin tín thác nơi Ngài. Amen.

Về mục lục

.

HÃY ĐỤNG CHẠM TỚI LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Môn đệ Tô-ma đòi được tận tay chạm vào các thương tích của Thập Giá nơi thân thể Chúa Phục Sinh: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Tại sao lại thế nhỉ? đòi hỏi của ông có thật sự cần thiết không? gặp được Thầy Giê-su sống động, đi lại, nói năng và ăn uống như người thường, chẳng lẽ lại không đủ sao? tại sao ông lại đòi hỏi phải được “cho xem tay và cạnh sườn” Người? hơn nữa, việc mắt thấy tay chạm có ý nghĩa đặc biệt nào đối với nhóm môn đệ nhút nhát, nhất là đối với ông Tô-ma?

Dưới cặp mắt các môn đệ, việc Thầy Chí Thánh bị đóng đinh vào thập giá và con tim Người bị đâm thủng chắc chắn không chỉ mang ý nghĩa thể lý về cái chết đau đớn của một thân xác treo trên giá thập tự. Đối với các ông – và đó cũng là nội dung giáo huấn trường kỳ của Đức Giê-su trước đây, dấu đinh trên tay chân và vết thương nơi cạnh sườn mà họ nhìn thấy nói lên sự tự hiến yêu thương của Chiên Vượt Qua, diễn tả tình yêu bao la của Thiên Chúa cứu độ. Khi cho các ông xem tay và cạnh sườn, Đấng Phục Sinh hẳn muốn nói cho các môn đệ thân yêu một điều gì vượt xa lời khảng định rằng: Người đã sống lại về mặt thể lý. Điều Người muốn khảng định qua các dấu tích đó là: tình yêu thương xót và cứu độ của Thiên Chúa đã trở thành bất diệt và toàn thắng! Các môn đệ do đó cần một cảm nhận cụ thể để tin vào điều này cách vững bền. Các ông là những nhân chứng được chứng kiến tình yêu đó đã đạt tới đỉnh điểm, thì cũng cần phải xem và chạm vào các dấu đinh ở tay chân, và vết đòng trên ngực Người để có bằng chứng không thể chối cãi rằng lòng xót thương tha thứ đó vẫn còn sống, vì nó là vô địch.

Môn đệ Tô-ma trong thâm sâu muốn điễn đạt nhu cầu đó khi phát ngôn câu nói mà nhiều khi bị coi là thách thức: “Nếu tôi không….” Phần mình Đức Giê-su phục sinh đã coi yêu cầu đó là hoàn toàn chính đáng, và Người không ngần ngại đáp ứng: “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”. Quả vậy, Tô-ma và tất cả các môn đệ khác đều cần tới cái cảm nghiệm cụ thể này, nhất là sau tất cả các biến cố xáo trộn mà các ông vừa trải qua; ông đã thấy, đã chạm vào các dấu tích…, và ông đã tin. Ông không chỉ tin Chúa đã sống lại, mà đúng hơn: tin vào sự toàn thắng của tình yêu cứu độ.

Đối với Ki-tô hữu chúng ta thuộc các thế hệ sau này thì sao; Đức Giê-su đã không hề tuyên bố trải nghiệm đó là không còn cần thiết! Ngược lại là đàng khác! Tuy nhiên Người khảng định: trải nghiệm này phải được thể hiện bằng lòng tin, thay vì phải đụng tới bằng giác quan thể lý, “Vì đã thấy Thầy nên anh đã tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”.

Bí tích Thánh Thể mà Người đã thiết lập chính là để các tín hữu trải qua các thế hệ chạm tới được các dấu đinh trên tay chân và vết thương cạnh sườn Chúa Phục Sinh. Cử hành Thánh Thể vì thế trở nên tâm điểm của đời sống Ki-tô hữu, chính vì nơi đây, trong niềm tin, các Ki-tô hữu từng người một, cảm nghiệm cách rất riêng tư và sống động lòng thương xót vĩnh cửu của Thiên Chúa đang được lặp lại cho mình. Trong cử hành Thánh Thể, linh mục và tín hữu cùng được mời gọi “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”; đúng là họ, hơn bất cứ ai khác, cần đụng chạn tới biểu hiện của lòng thương xót cứu độ, trong tất cả sức mạnh và hữu hiệu của nó. Bất luận ai là Ki-tô hữu đều phải coi đây là công việc quan trọng hàng đầu họ cần làm! Họ sẽ có cùng thái độ của Phê-rô và Gio-an, khi đứng trước người bất toại trong hành lan đền thờ: “Anh hãy nhìn chúng tôi đây… Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có tôi cho anh đây…” (Cv 3:6) Mọi Ki-tô hữu, bao gồm cả tu sĩ, linh mục lẫn giáo dân, cách riêng các tân tòng, đều cần ý thức rằng: họ không nhất thiết phải là người giầu có nhất về mặt vật chất tiền của, cũng không cần là những người phong phú nhất về diện tinh thần hay thiêng liêng, nhưng gia sản quí giá nhất họ sở hữu, đặc ân duy chỉ một mình họ có, đồng thời cũng là điều duy nhất họ có thể cống hiến cho nhân loại đang quằn quại trong nỗi thống khổ cùng cực, đó là được biết, được chạm tới, và được cử hành cách sinh động lòng thương xót từ ái vô biên và bất diệt của Thiên Chúa, đã được thực hiện qua Thập Giá và Phục Sinh của Đức Ki-tô Giê-su.

Riêng cá nhân tôi! tôi có thực sự xác tín điều này không?

Lạy Chúa Phục Sinh, xin cho phép con được dùng đức tin để xỏ ngón tay con vào các lỗ đinh, đặt bàn tay con vào cạnh sườn Người, để con có được cảm nghiệm sâu sắc rằng: tình yêu cứu độ Chúa dành cho con quả là bất diệt. Xin cho việc cử hành Thánh Lễ hàng ngày mang lại cho chính con trước hết sự bình an của một người cảm nhận mình đượcThiên Chúa yêu thương, và tin chắc rằng: tình yêu đó sẽ bất diệt và bền vững cho đến muôn đời, bất chấp những yếu hèn, sa ngã của kiếp người ô trọc. Xin cho con được cử hành mầu nhiệm Phục Sinh ngay từ bây giờ, trong chính đời sống hàng ngày của con. A-men.

Về mục lục

.

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA KHÔNG BAO GIỜ CHẾT

Lm. Giuse Trực

Ngày 30/04/2000, trong dịp lễ tuyên thánh cho nữ tu Faustina, môn đệ của Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã quyết định chọn Chúa Nhật 2 Phục Sinh làm Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót. Điều hết sức đặc biệt là 5 năm sau, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được Chúa gọi về cũng vào đêm trước Chúa Nhật thứ 2 Phục Sinh (02/04/2005). Chín năm sau, cũng vào ngày Chúa Nhật thứ 2 Phục Sinh (27/04/2014), Đức Thánh Cha Phanxicô đã long trọng tuyên thánh cho Ngài cùng với Đức Gioan 23. Có thể nói một cách ngắn gọn: Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là người thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót, qua đời vào dịp lễ kính Lòng Thương Xót và được tuyên thánh cũng vào ngày Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót.

15 năm sau ngày thiết lập đại lễ kính Lòng Thương Xót, ngày 11/04/2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Tông sắc công bố Năm Thánh ngoại thường về Lòng Thương Xót. Năm thánh này đã được khai mạc trọng thể vào ngày lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội (08/12/2015), và sẽ kết thúc vào ngày lễ Chúa Kitô Vua (20/11/2016)

Nhắc lại một vài thông tin như vậy để chúng ta biết mình đang cử hành lễ kính Lòng Thương Xót trong năm thánh lòng thương xót. Vì vậy hôm nay được xem là “cú đúp” của lòng thương xót. Trong “cú đúp” này chúng ta khám phá lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn luôn luôn tồn tại.

I. TỪ THÔNG ĐIỆP PHỤC SINH 2016

Hằng năm, cứ vào đại lễ Phục Sinh, dân chúng khắp nơi mong chờ được nghe Thông Điệp Phục Sinh từ Đức Thánh Cha. Năm nay cũng vậy, lúc 10h15 sáng Chúa Nhật 27 tháng Ba, trước hàng trăm ngàn tín hữu đứng chật quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ Phục sinh. Tiếp theo đó là thông điệp Phục sinh Urbi et Orbi gởi dân thành Rôma và toàn thế giới.

Bắt đầu thông điệp này, Đức Thánh Cha đã nhắc lại lời Thánh vịnh 135: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”. Quả thật, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô là bằng chứng về lòng thương xót của Thiên Chúa, và lòng thương xót này tồn tại đến muôn đời. Đức Thánh Cha nói: “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa không bao giờ chết. Chúng ta cảm ơn Người đã vì chúng ta mà đã bước xuống những chiều sâu của hỏa ngục”.

Vì vậy, ngày cuối cùng của Tuần Bát Nhật Phục Sinh, trong Năm Thánh Lòng Thuơng Xót này, chúng ta mừng lễ kính Lòng Thương Xót, điều đó cho chúng ta xác tín rằng: “Lòng thương xót của Thiên Chúa không bao giờ chết”, vì “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”

II. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Từ các bài đọc lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được hiện thân của lòng thương xót là Đức Giêsu Phục Sinh đã làm mọi cách cho các môn đệ của mình cũng như cho con người đón nhận được Tin Mừng Phục Sinh và cũng là đón nhận Lòng Thương Xót của Chúa Cha.

Theo tác giả Tin Mừng thứ tư, thì những lần hiện ra, những dấu lạ của Đức Giêsu Phục Sinh: “là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh của Người” (Ga 20, 31). Như vậy, 2 lần hiện ra chỉ cách nhau 1 tuần trong bài Tin Mừng hôm nay cũng không ngoài mục đích là để cho các môn đệ, cách riêng là Tôma tin rằng Đức Giêsu Kitô đã sống lại để cho họ được sống đời đời. Đó chính là ơn cứu độ, là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa dành cho họ, và từ họ đến với mọi người.

Cũng chính nhờ quyền năng của Đức Kitô Phục Sinh mà “nhiều dấu lạ điềm thiêng đã được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay của các Tông Đồ” (Cv 5, 12). Chính vì vậy mà “càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa” (Cv 5, 14).

III.  LÒNG THƯƠNG XÓT KHÔNG BAO GIỜ CHẾT

“Lòng Thương Xót của Thiên Chúa không bao giờ chết”. Chúa làm mọi cách để nhân loại được biết đến tình yêu thương, sự chăm sóc… ơn cứu độ mà Ngài đã dành cho chúng ta, thậm chí như lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong thông điệp Phục Sinh: “vì chúng ta mà Ngài đã bước xuống những chiều sâu của hỏa ngục”. Chiều sâu của hỏa ngục ở đây, Đức Thánh Cha đã phân tích: “Trước những hỏa ngục tinh thần và đạo đức của nhân loại, trước những địa ngục đang mở tung ra trong các tâm hồn và kích động hận thù và cái chết, chỉ có một lòng thương xót vô hạn mới có thể mang lại cho chúng ta sự cứu rỗi. Chỉ có Chúa mới có thể lấp đầy những địa ngục này bằng tình yêu của Người, ngăn cản chúng ta khỏi rơi vào đó và giúp chúng ta tiếp tục cuộc hành trình cùng nhau hướng về vùng đất của tự do và sự sống”.

Lòng thương xót của Thiên Chúa không bao giờ chết. Lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn đang hành động trong vũ trụ vạn vật và cuộc đời của mỗi người chúng ta.

IV.  LÒNG THƯƠNG XÓT VẪN ĐANG HIỆN DIỆN

  1. Qua sự thông cảm, tha thứ, và mở cửa.

Những ngày gần đây, trên các phương tiện truyền thông có nhiều tin tức liên quan đến vụ một nghệ sĩ hài khá nổi tiếng ở Việt Nam bị bắt tại Mỹ vì một tội danh cũng khá nhạy cảm. Với tội danh này, anh ta phải đối mặt với bản án 4-5 năm tù giam, hoặc số tiền chuộc lên đến hàng triệu USD. Nhiều người lên tiếng chê bai, chỉ trích, có người còn cho rằng đáng tội… Tuy nhiên cũng có những người lên tiếng thông cảm cho diễn viên hài này, trong đó có một nghệ sĩ đã viết: “Đã là con người, ai cũng có tật xấu… Cùng là người với nhau, hãy cho nhau chút tình người… Tha thứ cho người có lỗi và cho họ con đường sống……. Thay vì bôi nhọ danh dự người khác, tại sao các nhà báo không kêu gọi sự tha thứ và giúp đỡ khi người Việt bị nạn trên xứ người… Đồng thời cũng dạy cho người có lỗi biết sai mà sửa sai… và cho giới trẻ 1 bài học của sự khoan dung… Hãy là những nhà báo có Lương Tâm…Tôi thấy thương anh ta hơn là ghét bỏ anh ta…”

Đúng vậy, chúng ta thích kết án người khác, chúng ta cười hả hê khi thấy người khác có tội, chúng ta sẵn sàng cầm đá ném họ để loại trừ sự xấu ra khỏi cuộc sống chúng ta… Chúng ta quên rằng chính chúng ta cũng là kẻ có tội, và có khi tội chúng ta còn nặng hơn người khác, nhưng nhờ những lý do nào đó mà tội lỗi và sự xấu xa của chúng ta chưa được đem ra ánh sáng, chưa được phơi bày.

Đứng trước tội lỗi của nhân loại, Đức Giêsu đã vác lấy, đưa lên cây thánh giá, và nhờ sự phục sinh của Ngài, tội lỗi của nhân loại đã được tẩy xóa. Đứng trước sai lỗi của mỗi người, Đức Giêsu đã tha thứ và mời gọi họ hãy sửa đổi: “Tôi không kết án chị đâu, chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”.

Từ đó Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi chúng ta: “Mọi người có tội đã được tha, thì được kêu gọi chia sẻ với tất cả anh chị em của mình đang còn tìm kiếm ơn này, bởi tất cả chúng ta như nhau, đều cần đến lòng thương xót Chúa. Ơn tha thứ làm sạch trái tim và biến đổi đời sống”. Lòng thương xót của Chúa vẫn đang hoạt động qua sự tha thứ liên lỉ cho chúng ta. Hơn thế nữa, nhờ sự Phục Sinh của Chúa, ơn tha thứ này còn có sức mạnh để giúp chúng ta quyết tâm chừa bỏ những tội lỗi của mình.

  1. Qua việc để con người được tự do lớn lên

Lòng thương xót của Chúa còn được thể hiện qua việc tôn trọng tự do của người khác. Ông Tôma đòi đụng chạm đến những vết thương của Chúa mới tin Ngài sống lại. Chúa đã sẵn sàng cho ông làm việc đó. Chỉ một yếu tố đó thôi cũng đủ để thấy lòng thương xót của Chúa không bắt người ta phải lệ thuộc mình, nhưng sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của họ.

Ở chỗ khác, khi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài đi ngang qua thành Samaria, dân làng không đón tiếp các Ngài, Giacôbê và Gioan đòi “khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó”, Đức Giêsu không cho và còn quở mắng các ông. Ngài khó chịu trước thái độ bắt người khác phải giống mình, phải lệ thuộc mình. Ngài dẫn con người đến sự thật toàn vẹn, nhưng nếu con người không muốn đi theo con đường đó, Ngài cũng không ép buộc. Lòng Thương Xót của Chúa ở chỗ để con người được trưởng thành hơn, được lớn lên mỗi ngày. Ngài chấp nhận những vấp váp, những té ngã của con người, nhưng qua đó, họ nhận ra chỉ có Thầy mới “là đường, là sự thật và là sự sống”.

Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì lòng thương xót của Chúa vẫn dành cho con hôm qua, hôm nay và như vậy mãi đến muôn đời. Lòng Thương xót vẫn hằng thông cảm, tha thứ, và không ngừng mở ra con đường sống cho con. Xin cho con cũng biết thông cảm cho những sai lỗi của người khác, để mở ra cho họ con đường sống. Lòng thương xót của Chúa vẫn luôn tôn trọng tự do và để con lớn lên hằng ngày trong ơn sủng Chúa. Xin cho con biết để những người sống chung với con được lớn lên trong tự do của họ. Trên hết mọi sự xin cho con nhớ rằng: Con không phải là Thiên Chúa. Vì vậy con không có quyền ngăn cản lòng thương xót của Chúa.

Về mục lục

.

TRUYỀN ĐẠT ĐỨC TIN TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY

Lm. Đan Vinh – HHTM

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 20,19-31

(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ tội ai, thì người ấy bị cầm giữ”. (24) Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: “chúng tôi đã được thấy Chúa!” Ông Tôma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người. Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. (26) Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. (27) Rồi Người bảo Ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. (28) Ông Tôma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (29) Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (30) Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ. Nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ Danh Người.

  1. Ý CHÍNH:

Bài Tin mừng thuật lại hai lần Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ để củng cố niềm tin của các ông như sau: Lần thứ nhất (c 19-25): vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa Phục Sinh đã hiện đến đứng giữa các môn đệ đang hội họp mà không có Tôma. Người cho các ông xem các vết thương nơi bàn tay và cạnh sườn để chứng minh Người đã sống lại sau cuộc tử nạn, rồi thổi hơi ban Thánh Thần và trao quyền tha tội cho các ông. Lần thứ hai (c 24-29): Tám ngày sau, Chúa Giêsu lại hiện ra với các môn đệ và có Tôma. Người đặc biệt đáp ứng các đòi hỏi của ông. Rồi khi ông đã đạt đến đức tin, thì Người dạy: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 19-20: + Ngày thứ nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế cho Thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái Giáo. + Đức Giêsu đến: Người hiện đến trong lúc phòng đang đóng kín. Điều này cho thấy thân xác của Người sau phục sinh có đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện khắp nơi. + Bình an cho anh em! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Kitô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các môn đệ (x Ga 14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Qua đó, Người chứng tỏ Người chính là Đấng đã từng bị đóng đinh thập giá trước đó (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn (x. Ga 19,34). Như vậy có sự liên kết mật thiết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.

C 21-23 + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này xuất phát từ Chúa Cha truyền cho Đức Giêsu, và giờ đây đến lượt Đức Giêsu Phục Sinh lại truyền cho các môn đệ và tất cả mọi tín hữu. + Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giêsu Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các môn đệ. Rồi đến lượt các môn đệ lại sẽ ban sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu qua các bí tích. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giêsu được Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Khi chữa lành một người bại liệt, Đức Giêsu đã tuyên bố có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích giải tội, để ban quyền tha tội cho các tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Từ đây các giám mục kế vị các tông đồ sẽ tiếp tục thông ban quyền tha tội cho các linh mục là những cộng sự viên của các ngài.

C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tôma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tôma là một trong Mười Hai Tông đồ (x. Mt 10,3). Biệt danh là “Sinh Đôi”. Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11,16). Ông ưa nêu ra thắc mắc khi Đức Giêsu giảng để được Người dạy cho hiểu rõ hơn (x.Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người…: Tôma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20,25). + “… thì tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng tin như thế. Tin Mừng Nhất Lãm đã nói tới sự cứng tin của các ông như sau: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17); “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14) ; hoặc Chúa phán: “Sao anh em lại hoảng hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ?” (Lc 24,38)

C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giêsu đã thoả mãn những đòi hỏi của Tôma. + Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Tuy khiển trách tội cứng lòng của Tôma, nhưng Đức Giêsu cũng thông cảm và chỉ mời gọi ông hãy bỏ đi sự cứng lòng để tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Người.

C 28-29: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !”: Tôma là môn đệ cuối cùng tin Đức Giêsu sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên xưng nội dung đức tin đầy đủ nhất về Đức Giêsu: Người vừa là Chúa (Đấng Mêsia), vừa là Con Thiên Chúa (x Mt 16,16). + Phúc thay những người không thấy mà tin”: Qua câu này, Chúa Giêsu muốn nói rằng: Từ nay trở đi, đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh sẽ không được dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần hiện ra nữa, nhưng sẽ dựa trên lời chứng của các tông đồ (x. Ga 19,35). Sau này các ông còn sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh này nữa.

  1. HỎI ĐÁP:

HỎI 1) Thân xác Chúa Giêsu sau phục sinh có phải là thân xác đã chịu khổ nạn trước đó không?

ĐÁP:

Thân xác Chúa Giêsu sau khi phục sinh cũng chính là thân xác đã từng trải qua cuộc khổ nạn. Trong Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đã chứng minh mầu nhiệm Phục Sinh gắn liền với cuộc Tử Nạn  trước đó bằng cách: “Cho các môn đệ xem các vết thương ở hai bàn tay và cạnh sườn Người” (c.20). Cho sờ vào Người (x. Lc 24,36-40), và Người còn ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông (x. Lc 24,41-43) để chứng minh Người thực đang sống chứ không phải chỉ là hồn ma.

Tuy nhiên thân xác Chúa Giêsu sau khi phục sinh lại có những đặc tính khác thường như: Đi xuyên qua tường mà vào nhà Tiệc ly đang khi các cửa đều đóng kín vì sợ người Do thái (x. Ga 20,19). Khuôn mặt của Người sau phục sinh biến đổi khác trước khiến bà Maria gặp Người mà lầm tưởng là người làm vườn (x. Ga 20.14-15), khiến hai môn đệ làng Emmau không nhận ra Người trong suốt chặng đường dài Người đồng hành và giải thích Kinh thánh cho họ (x. Lc 24,16). Thân xác Người có đặc tính siêu việt: Dù không có mặt tại chỗ mà vẫn nghe được những đòi hỏi của Tôma (x. Ga 20,25).

HỎI 2) Hai lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh với các môn đệ cách nhau một tuần giống và khác nhau thế nào ?

ĐÁP:

-Về thời điểm: Cả hai lần Chúa Phục Sinh hiện ra với cộng đòan môn đệ tại nhà Tiệc Ly đều vào buổi chiều Ngày thứ Nhất trong tuần cách nhau một tuần lễ tức 8 ngày. Từ đây Ngày thứ Nhất trở thành Ngày của Chúa (Chúa Nhật) thay thế cho Ngày Hưu Lễ (Sabát) của đạo Do thái. 

-Về sĩ số môn đệ hiện diện: Lần thứ nhất sĩ số các môn đệ hiện diện là 10 vị do thiếu Tôma và lần thứ hai sĩ số đủ 11 vị.

-Về lời chào đầu tiên: Trong cả hai lần Chúa Phục Sinh đều chào các môn đệ bằng cùng một công thức: “Bình an cho anh em !”. 

HỎI 3) Trong lần hiện ra thứ hai với các Tông đồ và có Tôma ở đó. Chúa Giêsu đã ra lệnh cho Tôma sờ vào các vết thương ở tay và cạnh sườn Người. Vậy Tôma có làm như vậy không?

Đáp:

Tôma tượng trưng cho những người cứng tin, chỉ tin Chúa sống lại dựa vào cảm nghiệm và sự xét đoán theo lương tri của mình, chứ không dựa trên lời nói của người khác kể lại. Nhưng trong lần này, sau khi được gặp Chúa Phục Sinh và được nghe Người ra lệnh xỏ ngón tay vào lỗ đinh ở bàn tay, thọc bàn tay vào vết thương ở cạnh sườn Thầy đúng như đòi hỏi trước đó của mình, thì ông đã đạt tới đức tin trọn vẹn, biểu lộ qua lời tuyên xưng: “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con!”. Tin mừng không đề cập đến việc ông có sờ vào các vết thương ở tay chân và cạnh sườn của Thầy như ông đã yêu cầu trước đó hay không (c. 27-28).

HỎI 4) Đức tin của ông Tôma giá trị thế nào đối với đức tin của các tín hữu sau này ?

ĐÁP:

Chúa Giêsu nói với Tôma và qua ông, Người muốn nhắn nhủ các tín hữu sau này: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Thực vậy: có những mầu nhiệm về Thiên Chúa, mà người phàm tuy không thể thấy hay không cảm nghiệm được nhưng vẫn phải tin qua các chứng nhân đức tin. Vì đức Tin là điều kiện để được vào Nước Trời của Chúa Giêsu: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16,16).

Nên biết rằng cũng nhờ tuyên xưng đức tin, mà Tông đồ Phêrô đã được Chúa Giêsu đặt làm đá tảng đức tin của Hội thánh, được trao quyền cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19), được quyền chăn chiên (x. Ga 21,15-17) và quyền củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,23). Các Tông đồ cũng được Chúa Giêsu trao quyền giáo huấn về đức tin: “Ai nghe anh em là nghe Thầy. Ai khước từ anh em là khước từ Thầy. Mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy” (Mt 10,40; Lc 10,16).

Tóm lại: Việc Tông đồ Tôma cứng tin lại thêm sự bảo đảm cho lòng tin của chúng ta hôm nay. Vì niềm tin vào mầu nhiệm Chúa sống lại của chúng ta không chỉ dựa trên những lời rao giảng mà thôi, nhưng trên đức tin của những chứng nhân có đầu óc sáng suốt và thực tế, đã nhìn thấy tận mắt và đã sờ tận tay mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu. Do đó, thánh Grêgôriô đã nói: ”Chính ngón tay đa nghi của Tôma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới; bàn tay đa nghi của Tôma đã dạy cho mọi người một sự thật cách chắc chắn, đó là Đức Giêsu đã phục sinh”.

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21).
  2. CÂU CHUYỆN: VỀ MỘT PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO HỮU HIỆU

Ngày nay rao giảng về mầu nhiệm Chúa Phục Sinh cho người khác có thể chấp nhận không phải dễ. Ngòai việc cần ơn trợ giúp của Chúa, còn cần phải có chứng tích yêu thương cụ thể của người rao giảng. Câu chuyện sau đây là một bằng chứng:

Một vị linh mục ở nước Bờradin (Brasin) đã thuật lại kinh nghiệm truyền giáo của mình như sau: “Mỗi ngày, khi đi ngang qua một con đường ở Riô đờ Danêrô (Rio de Janeiro), tôi đều thấy một thanh niên ngồi dựa lưng vào tường và chìa chiếc nón ra xin tiền khách qua đường. Anh ta không đi lại được vì đôi chân bị què. Sau đó vì qua lại nhiều lần trên con đường này, nên tôi không còn để ý đến chàng thanh niên hành khất bị què kia.

Rồi một hôm, khi tôi đang đứng nói chuyện với một người quen ở một bên đường, thì thấy có nhiều người đi bộ ngang qua chỗ anh què ăn xin mà như không nhìn thấy anh và không chia sẻ tiền bạc gì để giúp đỡ anh. Tôi liền nghĩ đến thái độ làm lơ của thầy Tư tế và thầy Lêvi trong dụ ngôn người Samari nhân hậu. Hai ông này đã tránh sang một bên đường mà đi và chỉ có người Samari ngoại giáo đã tỏ lòng thương xót nạn nhân bằng hành động cụ thể (x. Lc 10,30-35). Tôi quyết định noi gương người Samari nên đã vui vẻ tiến lại gần bắt chuyện: “Này anh bạn, anh có thể đứng dậy được không? Anh có muốn đi đứng giống như mọi người không? …”Lúc đầu, anh ta đưa cặp mắt mệt mỏi nhìn tôi dò xét, và khi đọc được sự thành thật trên gương mặt của tôi, anh đã trả lời: “Tôi luôn hy vọng sẽ có ngày cuộc đời của tôi tốt hơn và tôi được thoát khỏi cái nghề ăn xin nhục nhã hiện nay. Dĩ nhiên là tôi mơ ước một ngày nào đó tôi có thể tự mình đi đứng được như bao người khác. Nhưng làm sao kiếm ra tiền để lắp một đôi chân giả và mua được một cặp nạng đây?” Sau khi nghe anh tâm sự, tôi đã síết chặt tay anh và nói: “Tôi xin hứa là trong một ngày gần đây, giấc mơ của anh sẽ trở thành hiện thực”.

Trong bài giảng Thánh lễ Chúa Nhật mùa Chay hôm ấy, tôi đã kể về số phận đáng thương của người ăn xin này cùng với ước mơ nhỏ bé của anh. Rồi tôi đề nghị cộng đoàn cùng nhau làm một cuộc lạc quyên tại chỗ để giúp đỡ anh ta như một cách ăn chay tinh thần. Số tiền lạc quyên thu được hôm ấy đã gần đủ chi phí làm đôi chân giả và cặp nạng gỗ mà người ăn xin cần sử dụng. Tuần sau, khi tôi và hai đại diện cộng đoàn đến gặp và cho biết kết quả thì chàng thanh niên kia rất vui mừng. Ngay lúc đó, anh được chở đến bệnh viện chấn thương chỉnh hình để được ráp một đôi chân giả, và tập đi với đôi nạng mới.

Trong lễ Phục Sinh năm ấy, tôi mời anh đến nhà thờ dự lễ và dành cho anh chỗ ngồi đặc biệt cạnh bàn thờ chính. Trong bài giảng, tôi đã đề cập đến trường hợp của anh như sau: “Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Giêsu trỗi dậy từ trong cõi chết, bước vào một cuộc sống mới. Người kêu gọi chúng ta mở rộng lòng giúp đỡ những anh chị em đang lâm cảnh nghèo khổ để họ có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Hôm nay, nhờ sự quảng đại của cộng đòan mà anh bạn của chúng ta đây đã nhận được một cuộc sống mới”. Nói đến đây tôi mời anh què đứng dậy để giới thiệu anh với cộng đoàn. Sau đó mọi người trong nhà thờ đều phấn khởi khi nghe những lời phát biểu chân thành của anh, và vỗ tay tán thưởng khi nghe anh ngỏ ý xin gia nhập cộng đoàn. Cuối cùng anh què đã được xếp vào đội hình những người lên dâng lễ hôm đó.

  1. THẢO LUẬN: 1)Bạn đánh giá thế nào về phương cách truyền giáo của vị linh mục người Bờradin trong câu chuyện trên? 2) Qua bí tích thêm sức, bạn đã được Chúa Phục Sinh thổi hơi thông ban Thánh Thần và được trao sứ vụ“làm chứng nhân” cho Chúa. Vậy bạn sẽ làm gì trong những ngày này để giúp một người lương tin nhận Chúa và phó thác vào tình thương của Người ?
  2. SUY NIỆM:

 1) Dễ tin và cứng tin: Trong đời sống hằng ngày, ngòai việc nhận biết nhờ tai nghe hay mắt thấy, chúng ta còn phải tin vào lời dạy của thầy cô thì mới có thể thăng tiến về học tập và kiến thức, phải tin vào cha mẹ mới có thể nên người được, phải tin vào lời nói của các đối tác làm ăn mới có thể kinh doanh thành công được… Tuy nhiên thực tế cũng có nhiều người đã bị lừa vì dễ tin lời nói ngon ngọt. Vậy về việc tin vào lời nói của người khác chỉ thực sự tốt đẹp nếu người nói là người đáng tin hoặc có bằng chứng đáng tin, điều họ nói hợp lý và người nghe phần nào cảm nghiệm được về điều ấy.

Riêng về mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu, các môn đệ không phải là những người dễ tin: Dù các ông đã được nghe Đức Giêsu ba lần tiên báo về cuộc khổ nạn và phục sinh của Người, nhưng các ông vẫn không muốn chấp nhận (x Mt 16,21-23). Rồi sau cuộc tử nạn của Chúa, khi bà Maria Mácđala báo tin Thầy Giêsu vẫn còn sống và chính bà đã được nhìn thấy Người, nhưng các ông vẫn không tin (x Mc 16,9-11). Vào chiều ngày Thứ Nhất trong tuần, khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến trong phòng cửa vẫn đóng kín thì các môn đệ lại sợ hãi như nhìn thấy ma. Chúa Giêsu đã trấn an và chứng minh Người không phải là ma như sau: “Sao anh em lại hỏang hốt ? Sao anh em ngờ vực trong lòng ? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,38-40). Sau đó thấy các ông vẫn chưa tin, Người đã ăn một mẩu cá nướng trước mặt các ông (x Lc 24,41-43).

2) Đức tin của Tôma và của các tín hữu chúng ta: Tuy Tôma là người cứng tin, nhưng sau khi đã được gặp gỡ Chúa và đã cảm nghiệm về sự phục sinh của Người, ông đã đạt tới một đức tin sâu xa và vững mạnh nhất, thể hiện qua lời tuyên xưng đức tin của ông : “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con !” (Ga 20,28). Chúa Giêsu cũng qua ông Tôma chúc phúc cho các tín hữu sẽ tin theo Người sau này như sau: “Vì đã trông thấy Thầy, nên con tin. Phúc thay người không thấy mà tin”. Ngày nay tuy không ai trong chúng ta được gặp Chúa Phục Sinh, không trực tiếp nghe lời nói của Người, cũng không được ăn uống tiếp xúc với Người như các Tông đồ xưa, nhưng đức tin của chúng ta sẽ có phúc nếu chúng ta tin vào lời rao giảng của các Tông đồ là những chứng nhân đức tin, là những người không dễ tin nhưng đã từng cảm nghiệm về mầu nhiệm phục sinh như ông Tôma trong Tin Mừng hôm nay. Do đó, cùng với thánh Grêgôriô chúng ta có thể nói: “Ngón tay đa nghi của Tôma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới ; bàn tay đa nghi của Tôma đã dạy cho mọi người một sự thật chắc chắn, đó là thân xác Đức Giêsu Kitô thực sự đã sống lại”.

3) Sứ vụ cứu độ của Hội Thánh hôm nay là gì ? : Đức Giêsu Phục Sinh cũng trao sứ mạng “xóa bỏ tội lỗi và ban ơn tha tội” cho Hội thánh như sau: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội ai thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Việc tha tội này được thực hiện bằng việc rao giảng Tin mừng và ban bí tích rửa tội cho những ai có lòng tin (x. Mt 28,19-20), và ơn tha tội qua bí tích giải tội. Quyền tha tội này chính là quyền “cầm buộc và tháo cởi” đã được Đức Giêsu trao cho Tông đồ Phêrô (x. Mt 16,19) và trao chung cho Nhóm Mười Hai (x. Mt 18,18).

4) Truyền đạt Đức Tin cho con người ngày nay bằng cách nào ? : Trước khi về trời, Chúa Phục Sinh đã trao cho Hội Thánh sứ vụ loan báo Tin Mừng cho muôn dân (x Mt 28,19-20). Sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho con người ngày nay không dễ chút nào. Muốn thuyết phục người ngày nay tin vào Chúa Giêsu, tin vào lời Người rao giảng thì cần những điều kiện như sau:

– Một là phải đón nhận ơn Thánh Thần: Ta hãy noi gương các tông đồ xưa sau khi Chúa lên trời đã cầu nguyện kết hiệp với Đức Maria và các anh em Chúa, với các môn đệ và đã nhận được ơn Thánh Thần vào lễ Ngũ Tuần. Chỉ khi được Thánh Thần tác động, việc tông đồ truyền giáo mới đạt được thành công: Sau bài giảng đầu tiên của tông đồ Phêrô đã có ba ngàn người xin theo đạọ (x. Cv 2,41). Thực đúng như lời Đức Giêsu đã tâm sự với các môn đệ trong bữa tiệc ly: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).

– Hai là hiệp nhất với Chúa qua các mục tử trong Hội Thánh: Khi kết hiệp với Chúa Giêsu qua việc vâng phục các vị chủ chăn trong Hội Thánh, công việc tông đồ của chúng ta mới mang lại kết quả tốt đẹp nhờ ơn Chúa trợ giúp, như ông Simon đã thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm, mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Các ông đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới (Lc 5,6). Thánh Phaolô cũng dạy việc loan báo Tin Mừng cần phải liên kết với các vị mục tử trong Hội Thánh qua việc sai đi như sau: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin ? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe ? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng ? Làm sao rao giảng, nếu không được sai đi ?” (Rm 10,14-15).

– Ba là phải rao giảng bằng lối sống chứng nhân tình thương: Thế giới ngày nay đầy rẫy những kẻ hoài nghi và không tin tưởng. Cách thức duy nhất làm cho họ được ơn biến đổi lòng tin là họ có thể “nhìn thấy Đức Giêsu và “đụng chạm“ vào Người qua lối sống nhân bản vị tha của các tín hữu, qua lời nói thân thiện lễ độ và lối ứng xử khiêm tốn phục vụ như những chứng nhân của Chúa theo lời Đức Thánh Cha Phaolô VI: “Người đương thời sẵn sàng nghe các chứng nhân hơn là thầy dậy, hoặc nếu họ có nghe thầy dậy, thì bởi vì chính các thầy dậy cũng là những chứng nhân”.

Hôm nay cũng là lễ kính trọng thể “Lòng Chúa Thương xót”: Vào ngày 30/4/2000 Đức Gioan Phaolô II đã tuyên thánh cho Nữ tu Faustina Kowalska và chọn Chúa Nhật II Phục Sinh hằng năm làm ngày kính Lòng Chúa Thương Xót. Ảnh Lòng Chúa thương xót do thánh nữ Faustina Kowalska đã thị kiến và thuật lại như sau : “Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng bí tích Thánh Thể và bí tích Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina Kowalska thưa với Người rằng: “Lạy Chúa Giêsu, con xin tín thác vào Người !” Chúng ta hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa thương xót qua lối sống hiệp nhất, chia sẻ tình thương cụ thể cho nhau và nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho nhau”.

  1. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊSU. Tông đồ Tôma tuy lúc đầu cứng lòng tin, nhưng sau đó đã đạt đến một đức tin trọn hảo khi gặp gỡ Chúa Phục Sinh. Chính sự “cứng lòng” của Tôma lại trở thành chỗ dựa vững chắc cho đức tin của mỗi người chúng con hôm nay. Rồi các tông đồ cũng đã trung thực và khiêm tốn, không chỉ thuật lại những điều tốt lành, mà cả những thiếu sót, chậm tin và hồ nghi của các ngài để đức tin của chúng con hôm nay được vững mạnh. Giờ đây cùng với Tôma xưa, chúng con long trọng tuyên xưng: “Lạy Chúa Giêsu. Chúa chính là Đấng Cứu Thế và là Thiên Chúa của chúng con. Xin thương xót chúng con”.

– LẠY THIÊN CHÚA LÀ CHA GIÀU LÒNG TỪ BI THƯƠNG XÓT. Xin cho chúng con được ngụp lặn trong đại dương của Lòng Chúa Thương Xót, được tắm gội trong Máu và Nước đã tuôn ra từ Thánh Tâm Con yêu dấu của Cha là Chúa Giêsu. Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Xin hai Thánh: Faustina và Gioan Phaolô II cầu bầu cùng Chúa cho chúng con hôm nay và mãi mãi.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

HÃY TRỞ THÀNH HIỆN THÂN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Huệ Minh

Sau biến cố tử nạn của Thầy mình, các tông đồ tìm đến với nhau để ở lại với nhau trong sự an ủi nhau khi bơ vơ tất bạt vì mất Thầy. Và cũng vì sợ người Do Thái truy lùng như trang Tin Mừng hôm nay thuật lại mà các tông đồ tụ họp trong phòng lầu tại Giêrusalem, đóng cửa và gài chốt bên trong.

Các ông tụ họp nhau lại cầu nguyện để an ủi, nâng đỡ nhau sau cảnh tang thương bi đát trước cuộc tử nạn của Thầy mình,. Bỗng nhiên Ðức Giêsu hiện ra trước mắt các ông để củng cố đức tin gần như bị tàn lụi của các ông.

Tin mừng thuật lại hai lần Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ để củng cố niềm tin của các.

Lần thứ nhất (c 19-25): vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa Phục Sinh đã hiện đến đứng giữa các môn đệ đang hội họp mà không có Tôma. Người cho các ông xem các vết thương nơi bàn tay và cạnh sườn để chứng minh Người đã sống lại sau cuộc tử nạn, rồi thổi hơi ban Thánh Thần và trao quyền tha tội cho các ông.

Lần thứ hai (c 24-29): Tám ngày sau, Chúa Giê-su lại hiện ra với các môn đệ và có Tôma. Người đặc biệt đáp ứng các đòi hỏi của ông. Rồi khi ông đã đạt đến đức tin, thì Người dạy: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”.

Riêng có ông Tôma lại tách rời ra khỏi các bạn đồng chí hướng. Do đó đức tin của ông đã bị dập tắt: Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào vết đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi nhất định không tin (Ga 20, 25). May phúc cho ông là chính Ðức Giêsu lại đích thân hiện ra để phục hồi đức tin của ông. Lúc này ông kêu lên: Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con (Ga 20, 28).

Tôma là người cứng tin, nhưng sau khi đã được gặp gỡ Chúa và đã cảm nghiệm về sự phục sinh của Người, ông đã đạt tới một đức tin sâu xa và vững mạnh nhất, thể hiện qua lời tuyên xưng đức tin : “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con !” (Ga 20, 28). Ngang qua Tôma, Chúa Giêsu chúc phúc cho các tín hữu sẽ tin theo Người sau này như sau: “Vì đã trông thấy Thầy, nên con tin. Phúc thay người không thấy mà tin”. 

Ngày nay, dẫu rằng không ai trong chúng ta được gặp Chúa Phục Sinh, không trực tiếp nghe lời nói của Người, cũng không được ăn uống tiếp xúc với Người như các Tông đồ xưa, nhưng đức tin của chúng ta sẽ có phúc nếu chúng ta tin vào lời rao giảng của các Tông đồ là những chứng nhân đức tin, là những người không dễ tin nhưng đã từng cảm nghiệm về mầu nhiệm phục sinh như ông Tôma trong Tin Mừng hôm nay.

Do đó, cùng với thánh Grêgôriô chúng ta có thể nói: “Ngón tay đa nghi của Tôma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới ; bàn tay đa nghi của Tôma đã dạy cho mọi người một sự thật chắc chắn, đó là thân xác Đức Giê-su Kitô thực sự đã sống lại”.

Trong đời sống thường nhật, ta cần biểu lộ đưc tin bằng việc làm như cầu nguyện, dự lễ, hi sinh, bác ái. Nếu là thiên thần, người ta không cần biểu hiệu. Là loài người có xác, người ta cần biểu lộ đức tin bằng những cử chỉ đạo hạnh như qùi gối, chắp tay, cúi đầu… để khơi dạy tâm tình đạo đức bên trong. Người ta cũng cần những biểu hiệu như tượng ảnh đạo treo trong nhà, hay trong phòng để nhắc nhở cho mình về sự hiện diện của Chúa, Mẹ Maria và các thánh.

Thế giới ngày nay quá nhiều người hoài nghi và không tin tưởng vào Tin Mừng Phục Sinh. Cách thức duy nhất làm cho họ được ơn biến đổi trong lòng tin là làm sao để họ có thể “nhìn thấy” Đức Giêsu và “đụng chạm“ vào Người qua con người nhân bản của các tín hữu, qua lời nói thân thiện lễ độ và lối ứng xử khiêm tốn phục vụ vị tha của chúng ta.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Người thời nay không thích nghe các thầy dạy, mà chỉ thấy các chứng nhân; và giả sử như người ta có thích nghe các thầy dạy, thì các thầy dạy đó trước tiên phải là những chứng nhân”.

Hôm nay cũng là lễ kính “Lòng Thương xót của Chúa” mà Đức Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày 30-4-2000. Chúng ta hãy nhớ đến hình ảnh Đức Giêsu từ bi thương xót do thánh Faustina Kowalska để lại: Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng Bí tích Thánh Thể và Bí tích Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina Kowalska thưa với Người rằng: “Lạy Chúa Giêsu, con xin tín thác vào Người !”

Chúng ta hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa thương xót qua lối sống hiệp nhất, chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau.

Về mục lục

.

SỐNG SỨ MỆNH NHẬN TRAO LÒNG THƯƠNG XÓT

Dã Quỳ

Hôm nay chúng ta mừng Đại Lễ Kính Lòng Thương Xót của Chúa trong chính Năm Thánh Lòng Thương Xót. Điều này giúp chúng ta sống trong hân hoan vui mừng và cảm nhận sâu hơn về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Chúa Giêsu Kitô là dung nhan Lòng Thương Xót của Chúa Cha. Đồng thời ta cũng được mời gọi sống sứ mệnh của lòng thương xót như Thiên Chúa và như Chúa Giêsu đã truyền dạy.

Lòng Thương Xót – đó là chạnh lòng thương với những khổ đau, những phận người yếu hèn tội lỗi. Như người mẹ đầy tình yêu luôn cảm thông, ôm ấp tất cả những đứa con của mình dù chúng lành lặn hay thương tích. Thiên Chúa đã thể hiện lòng thương xót đối với con người ở tột đỉnh khi Ngài luôn “Nhẫn nại và từ bi, giàu ân nghĩa và thành tín.” (x. Xh 34,6) Lòng Thương Xót của Chúa luôn cụ thể như cha mẹ xót thương con cái mình. Với dọc dài lịch sử cứu độ mà chúng ta đã thấy rõ trong Cựu Ước, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn trước những bất trung, yếu đuối của dân Ngài, Chúa chạnh lòng thương, ủi an, nâng đỡ, chữa trị, băng bó, giải thoát…(x. Tv 103.146.147) Lòng thương xót ấy đến từ sâu thẳm của trái tim và thể hiện với lòng cảm thông, trìu mến, khoan dung và tha thứ.

Lòng Thương Xót – đó là tha thứ không tính toán. Qua Chúa Giêsu, lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa đã có một khuôn mặt rõ ràng “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.”( Lc 5,32) Lòng thương xót của Chúa đã thể hiện cho Giakêu trong ánh nhìn và lời ngỏ Chúa đến nhà ông – nhà người tội lỗi (x. Lc 19, 5-7) và “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”(Lc 19,10) Ánh mắt đầy tình yêu thương xót của Chúa cũng đã hướng về Matthêu để tha thứ và chọn ông theo Chúa dù ông là một tội nhân. Hơn thế nữa, qua dụ ngôn con chiên lạc, đồng bạc mất tìm thấy và người cha nhân hậu, chúng ta càng thấy rõ bản tính của Thiên Chúa thể hiện như một người cha đầy nhẫn nại và xót thương “Sẽ không bao giờ bỏ cuộc nếu như trước đó đã không tha thứ hết mọi tội lỗi và vượt lên trên sự khước từ với cảm thông và lòng xót thương.”( ĐTC Phanxicô) Lòng xót thương của Chúa mạnh hơn sự chết, thắng vượt tất cả mọi rào cản và dạt dào trong tim cho đến nỗi dù cận kề cái chết, Chúa Giêsu vẫn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”(Lc 23,34)

Lòng Thương Xót – đó là sống Bí tích Hòa Giải, Bí tích của sự tha thứ. Lòng Thương xót của Thiên Chúa Cha được biểu lộ trên dung nhan của Chúa Giêsu. Lòng Thương Xót là trung tâm mầu nhiệm đức tin của Kitô hữu. Mỗi người chúng ta được mời gọi bước vào trong mầu nhiệm đức tin với lòng tin tưởng và niềm vui “Nhân danh Chúa Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa.”( 2Cr 5,20) Thế nhưng ngày hôm nay, nhiều người đã coi thường và bỏ Bí Tích Hòa Giải, không còn có tâm tình sám hối! Nhất là người ta đã mất lòng tin vào Bí Tích Hòa Giải do không còn cảm thức về tội, thiếu tình yêu và giảm sút niềm tin đối với Thiên Chúa và lòng thương xót của Ngài. Lòng kiêu ngạo đã ngăn chúng ta đến xưng tội với một Linh mục dù ta vẫn biết rằng ngài đã lãnh nhận quyền tha tội từ Hội Thánh mà chính Chúa Giêsu đã ban: “Anh em tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha.”( Ga 19, 23) Linh Mục thi hành sứ vụ không bằng danh của ngài nhưng nhân danh Chúa Kitô, Đấng muốn chúng ta được hạnh phúc, được cứu độ, được tràn đầy niềm vui và sự thanh thản.

Làm sao chúng ta có thể sống tốt bí tích chữa lành nội tâm và lớn lên trong đời sống thiêng liêng nếu ta không nhận biết tội lỗi của mình cũng như những thiếu sót về tình yêu làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa và tha nhân? Chúa Kitô không nhìn chúng ta qua những tội lỗi khi ta xưng thú, nhưng Người nhìn chúng ta với tình yêu “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy.”( Ga 15,9) Lòng thương xót của Chúa đã biểu lộ trọn vẹn trên cây Thánh giá “Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.”( 1Pr 2,24) Vậy chúng ta hạnh phúc được đón nhận vòng tay xót thương mở ra từ bí tích Hòa Giải bởi vì tất cả đã được trao ban cho chúng ta: Linh mục, sự tha thứ, ơn xá giải, lòng sám hối. Tất cả là ân huệ nhưng không Chúa dành cho ta.

Đến với Bí tích Hòa Giải, chúng ta xác tín rằng Lòng nhân từ xót thương của  Thiên Chúa thì mạnh mẽ và lớn hơn những yếu hèn tội lỗi của ta. ĐTC Phanxicô đã nhắc chúng ta “Bí tích Hòa giải không phải là một buổi tra tấn, một tòa án nhưng là ‘sự gặp gỡ với Chúa Giêsu và ở đó người ta đụng chạm vào lòng  trìu mến của Người.” Và Ngài cũng nhắn nhủ với các Linh mục giải tội cần phải trở thành dấu chỉ thực sự của Lòng thương xót Chúa, “Trái tim một Linh mục có khả năng được đánh động và mủi lòng… Là thầy thuốc và quan tòa chữa lành và giải án. Nhiệm vụ của Linh mục là ban sự sống mới của Chúa Phục Sinh một cách quảng đại cho anh chị em trong Bí Tích Hòa Giải.”(ĐTC Phanxicô) Chính vì thế, với lòng tin tưởng, chúng ta hãy đặt mình vào trung tâm của Bí tích Hòa giải vì qua Bí tích, chúng ta được chạm tay vào sự lớn lao vô cùng của Lòng Thương Xót Chúa và chúng ta sẽ đón nhận được nguồn suối ân sủng, bình an thực sự trong tâm hồn và khám phá ra ý nghĩa cuộc sống Kitô hữu của chúng ta.

Chúa Kitô Phục Sinh sai các Tông đồ “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” ( Ga 19, 21) Hôm nay đến lượt chúng ta, Chúa cũng mời gọi ta sống và loan báo Lòng Thương Xót của Chúa. Bởi vì Lòng thương xót là tiêu chuẩn mà nhờ đó người ta nhận ra chúng ta thực sự là con cái Thiên Chúa. Chúng ta hãy mở lòng mình ra với những khốn cùng của thế giới và những vết thương đau đớn của anh chị em. Tất cả những cử chỉ, hành động và lời nói của chúng ta cần trở nên thấm đẫm Lòng Thương Xót. Hãy sống cụ thể lòng thương xót qua việc không ngừng yêu thương tha thứ như lời mời gọi của Đức Thánh Cha cho toàn Hội Thánh:”Giáo Hội sẽ không bao giờ trở nên mệt mỏi trong việc giới thiệu Lòng Thương Xót và Giáo Hội luôn kiên nhẫn trong sự ủi an và tha thứ.”( M.Vultus số 25)

Lạy Chúa Giêsu, dung nhan nhân hậu của Chúa Cha, chúng con cảm tạ Lòng Thương Xót vô biên của Chúa đã dành cho chúng con. Xin cho chúng con khi đã lãnh nhận Lòng Thương Xót và ơn Tha thứ của Chúa, chúng con cũng biết không mệt mỏi chia sẻ, trao tặng lòng xót thương tha thứ cho anh chị em mà chúng con gặp gỡ. Amen

Về mục lục

.