CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY_C
Lời Chúa: Is 43,16-21; Pl 3,8-14; Ga 8,1-11
——-
1. Những viên đá oan nghiệt (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Họ đâu cả rồi ? (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
3. Không ai kết án (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
4. Tòa án nhân dân (Lm. Vũ Đình Tường)
5. Ai là người vô tội (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
6. Để Chúa xót thương (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Người phụ nữ ngoại tình (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
8. Tự vấn (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
9. Hãy nhớ mình là bụi đất nên hãy có lòng nhân từ (Lm. Anthony NguyễnNgọc Dũng, SDB)
10. Làm con người mới (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
11. Ném hay tha (Lm. Anmai, CSsR)
12. Ném đá. (Jos. Hoàng Mạnh Hùng)
13. Ném đá (Lm. Anphong Trần Đức Phương)
14. Chúa xót thương (Lm. JB. Nguyễn Minh Phương, CSsR)
15. Người đàn bà ngoại tình được tha (Lm. Trần Bình Trọng)
16. Chúa đối xử bằng tình thương (Jos. Hồng Ân)
17. Lòng khoan dung của Thiên Chúa (Lm. PM. Cao Huy Hoàng)
18. Án tử hình bị hủy bỏ (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
19. Con đường hướng về tương lai (Lm. Nguyễn Ngọc Long)
20. Lòng thương xót của Thiên Chúa. (Lm. Anthony Trung Thành)
21. Suy niệm Chúa Nhật 5 Mùa Chay_C (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
22. Suy niệm và cầu nguyện CN 5 Mùa Chay_C (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
23. Trở về với nội tâm (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
24. Đừng kết tội (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
25. Thiên Chúa giàu lòng thương xót (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
26. Thiên Chúa yêu thương và tha thứ (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
27. Im lặng (Trầm Thiên Thu)
28. Cách phán xét của Chúa Giêsu (P.Trần Đình Phan Tiến)
29. Gài bẫy Đức Ki-tô (JM. Lam Thy, ĐVD)
30. Và từ nay đừng phạm tội nữa (Fx. Đỗ Công Minh)
31. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 5 Mùa Chay_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
32. Thoát chết (Mai Ly, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)
33. Có cần ném đá nhau không? (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
34. Tiến lên trên con đường nên thánh (Lm. Giuse Lê Danh Tường)
35. Mở ra con đường sống (Lm. Giuse Nguyễn)
36. Sự tha thứ có sức chữa lành tâm hồn (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
37. Ai sạch tội? (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
38. Tôi không kết án chị đâu (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
39. Học tập lòng nhân từ của Chúa (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
40. Biết mình. (Lm. Thái Sơn)
41. Chúa Nhật 5 Mùa Chay_C. (Lm. Antôn)
1. Tội lỗi và Lòng thương xót (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Lòng thương xót của Thiên Chúa (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Phiên tòa của lòng thương xót (Lm. GB. Văn Hào, SDB)
4. Vợ chồng phải tha thứ (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Lòng thương xót không kết án (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
6. Tình thương và tha thứ (Trầm Thiên Thu)
7. Thiên Chúa đang làm điều mới (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
8. Tôi không lên án chị đâu (P. Trần Đình Phan Tiến)
9. Khiết tịnh và lòng nhân ái (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
10. Chuyện người đàn bà 2000 năm trước (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
11. Thiên Chúa là vị thẩm phán nhân từ (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
12. Đổi mới (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
13. Chúa Nhật 5 Mùa Chay_C (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)
14. Khuất tất trong một vụ án bất thường (Jos. Vinc. Ngọc Biển)
15. Từ nay đừng phạm tội (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
16. Tình thương tha thứ và biến đổi (Lm. Đan Vinh)
17. Thẩm phán siêu phàm (AM. Trần Bình An)
18. Ai vô tội? (Nam Phong)
19. Cảm nếm tình Cha! (Huệ Minh)
20. Tôi không lên án Chị đâu! (Dã Quỳ)
21. Can đảm nhìn vào mình, đừng lên án người (Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)
.
TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Khởi đi từ câu chuyện “Người phụ nữ ngoại tình” trong Tin Mừng Thánh Gioan mà trong ngôn ngữ của nhiều nước, trong đó có Việt Nam chúng ta, có lối nói “ném gạch đá” để chỉ những lời phê bình chỉ trích của công chúng nhắm tới một cá nhân hay một tập thể. Thông thường, những “gạch đá” này không mang tính chất xây dựng, mà là những kết án, đôi khi vội vàng và thiển cận. Không thiếu những viên gạch đá đã làm tổn hại thanh danh của nhiều người, thậm chí gây áp lực lớn cho đương sự, đến nỗi có người bị dồn đến bước đường cùng, tự tìm đến cái chết để thoát khỏi những thị phi. Những “gạch đá” trong cuộc sống thường ngày thật oan nghiệt biết bao!
Thánh Gioan là tác giả duy nhất ghi lại câu chuyện người phụ nữ ngoại tình. Câu chuyện này được trình bày như một vụ án. Người bị cáo là một phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang (nhưng không có tòng phạm bị tố cáo), người tố cáo là các kinh sư và biệt phái, thẩm phán là Chúa Giêsu. Vụ án được trình bày như một vở kịch, nhân vật trung tâm là Chúa Giêsu. Trong vụ này, các kinh sư và biệt phái muốn gài bẫy thử Chúa. Bởi lẽ nếu Chúa nói đừng ném đá, họ sẽ kết án Chúa bãi bỏ Lề Luật Môisen (x.Lv 20,10; Dnl 22,23-24); nếu Chúa đồng ý cho họ ném đá, Chúa sẽ mâu thuẫn với lời Người rao giảng về lòng bác ái bao dung. Những kẻ gài bẫy Chúa tỏ ra hỉ hả vì chắc chắc Người không thể thoát khỏi mưu mô của họ.
Chúa Giêsu đã ứng xử rất khôn ngoan, không mắc bẫy và không rơi vào hai tình huống trên. Người không phủ nhận Luật Môisen, cũng không làm trái với lời giáo huấn của Người. Với câu trả lời: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi“, Chúa đã lưu ý những người đang tố cáo hãy nhìn lại mình. Không ai dám cầm đá ném người phụ nữ, vì chẳng ai dám nhận mình là người sạch tội. Và, kết quả là, những người tố cáo dần dần rút lui, chỉ còn lại Chúa Giêsu và người phụ nữ. Khi những lời tố cáo ồn ào đã lắng xuống, chỉ còn lại một bên là tội nhân đáng thương, một bên là lòng thương xót của Thiên Chúa. Những người trước đó vài phút còn dương dương tự đắc, nay thấy hổ thẹn và rút lui. Lòng thương xót đã chiến thắng. Người phụ nữ đã thoát chết. Chị được phục hồi và trước mắt chị vẫn có một tương lai để làm lại cuộc đời. Lòng nhân từ của Chúa đã cứu sống chị. Những người tố cáo không còn có lý do để bắt bẻ Chúa. Họ cũng không hằn học coi khinh một người đã phạm tội, vì họ nhìn lại chính bản thân mình và nhận ra thân phận tội lỗi của họ. Chúa Giêsu được tác giả Tin Mừng trình bày như một vị tôn sư khôn ngoan, đầy lòng nhân hậu.
Giữa cuộc sống đầy hận thù ghen ghét, Thiên Chúa sẽ can thiệp và thể hiện tình yêu thương. Tình yêu thương ấy phát xuất từ lòng bao dung của Thiên Chúa, Đấng sẵn sàng tha thứ cho mọi tội nhân. Ngài quên quá khứ đen tối của con người, mở ra trước mặt họ một con đường tương lai. Hoang mạc khô cằn sẽ vọt lên dòng suối mát, làm nước uống cho dân được tuyển chọn (Bài đọc I). Tình thương của Chúa sẽ như đại dương, tẩy sạch mọi tội lỗi của con người.
Cuộc sống hôm nay vẫn đầy rẫy những kinh sư và biệt phái. Đó không phải là ông A, ông B, mà là chính chúng ta. Bởi lẽ rất nhiều lần chúng ta đóng vai trò của những người này, khi chúng ta phê phán người khác. Phê bình chỉ trích người khác là tự đặt mình làm chuẩn mực cho lối sống và cách ứng xử. Người hay phê bình người khác cho mình là hoàn hảo, và áp đặt người khác phải có lối suy nghĩ như mình, lý luận như mình và hành xử như mình. Những đòi buộc ấy là vô lý và chủ quan, nhưng tiếc thay, nó vẫn tồn tại trong cuộc sống của chúng ta.
Khi tuyên bố: “Ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đã mà ném trước đi!”, Chúa Giêsu nhắc bảo chúng ta hãy nhìn lại mình, trước khi kết án phê bình người khác. Bởi lẽ trên trần gian, không ai là hoàn thiện. Trong thời đại bùng nổ thông tin và kỹ thuật hiện đại hôm nay, người ta lạm dụng các trang mạng xã hội để vu khống, lăng mạ và kết án người khác một cách tàn bạo. Những “anh hùng bàn phím” là những người giấu mặt. Họ tự do phát biểu, vội vàng kết án và suy diễn theo cái nhìn chủ quan của mình. Đây chính là những “viên đá oan nghiệt” của thời hiện đại. Những viên đá này đang hủy hoại mối tương quan con người với nhau một cách tàn bạo, tạo nên những khoảng cách, thậm chí những mối oán thù và bạo lực. Câu chuyện người phụ nữ ngoại tình được đọc trong Chúa nhật hôm nay, khi chúng ta đã đi gần hết chặng đường của Mùa Chay, như lời mời gọi chúng ta hãy nhìn lại mình. Có thể chúng ta đang là những kinh sư và biệt phái, chuyên săm soi và kết án người khác mà không nhận ra tội lỗi của mình để ăn năn sám hối.
“Con hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Chúa Giêsu không bao che cho kẻ có tội. Người cứu thoát họ khỏi mối nguy hiểm của đám đông đang hằm hằm giận dữ, đồng thời khuyên họ hãy đoạn tuyệt với tội lỗi để xứng đáng đón nhận lòng thương xót của Chúa và sự cảm thông của anh chị em mình.
Người tin vào Chúa sẽ từng bước trưởng thành để thuộc về Chúa Kitô hoàn toàn. Thánh Phaolô đã dùng cách nói “được Chúa Kitô chiếm đoạt” để diễn tả sự biến đổi của người tín hữu, trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Quả vậy, đời sống đức tin chính là cuộc chạy đua liên lỉ. Mỗi người phải quên đi mọi sự để chỉ chú tâm về đích, lao mình về phía trước. Nơi đích điểm ấy, có Chúa đang chờ đợi chúng ta (Bài đọc II).
Thiên Chúa không lên án chúng ta. Ngài luôn yêu thương và rộng lượng thứ tha mọi tội lỗi ta đã phạm, miễn là chúng ta thành tâm trở về với Ngài. Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định một danh xưng của Thiên Chúa: “Danh Ngài là Thương Xót”.
.
Lm. Jos. DĐH.
Người ta dễ dàng nghe được những tín hiệu tốt khi trời yên biển lặng, người ta có thể nói hay, nói mạch lạc hơn, khi tâm trạng vui ; nhưng người ta chỉ có thể sống đúng, sống đẹp, khi tâm tư dồi dào tình đồng loại. Kinh nghiệm cho thấy, chọc ghẹo để anh chị em mình khóc hay cười, không phải là quá khó, còn để đọng lại trong tương quan tình người ấn tượng tốt đẹp, với nghĩa cử yêu thương, chân thành, luôn cần đến năng lực của trái tim từ tâm độ lượng. Tại sao có chuyện tìm gặp người anh chị em mình để lợi dụng lòng tốt, để nhằm hãm hại thanh danh của họ, khi mà tiền nhân chúng ta từng nhắc nhớ: thật trong lòng mới quý, giả trong tim thì thật đáng sợ !
Để loan báo rộng rãi về lòng thương xót của Thiên Chúa ở mãi với nhân loại, câu truyện Tin-mừng hôm nay sẽ còn lập đi lập lại nơi tâm tư mỗi người: “những kẻ tố cáo bạn đâu cả rồi, không ai kết án bạn ư ?” Đúng, theo lý lẽ tự nhiên, ai cũng có bổn phận phải yêu thương giúp đỡ nhau, bổ túc cho nhau những thiếu sót, vì tình người là bình đẳng, là công bằng, là được sống an vui hạnh phúc. Xét theo phạm vi tôn giáo, con người đầy giới hạn, có thể sai lầm lạc lối, té ngã gẫy đổ bất cứ lúc nào, do đó, nhận ra tình Chúa, tình người, và sống kết hiệp liên đới với nhau mới là trọng tâm cuộc đời. Chúa Giêsu chờ đợi tội nhân sám hối quay về với tình yêu thương, chứ không phải mong chờ ai đó tìm cách lập công, tố giác người anh chị em mình lỡ bước lạc đường.
Đám đông Do-thái hồ hởi tố cáo, hỏi ý kiến Đức Giêsu nên xử người phụ nữ phạm tội ngoại tình thế nào, Ngài không khen họ về công trạng, không quở trách việc họ đang làm, không hỏi chị ta phạm tội với ai, ở đâu ? Trong tư cách là Chúa, là Thầy, Đức Giêsu im lặng, Ngài viết trên đất, nhưng viết những gì ? Đám đông ấy cứ hỏi, nên Đức Giêsu đã nói lên “một công lý” tình yêu thương: “ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này đi” ! Đức Giêsu không phê bình luật ném đá tốt hay xấu, không xét nét tội lỗi người phụ nữ vi phạm là nặng hay nhẹ, Ngài đã cho thấy “luật công bằng yêu thương của Thiên Chúa phải được thực thi. Ăn năn sám hối chính là cơ hội để được sống thì ai cũng có, Thiên Chúa giầu lòng thương xót, nhưng chỉ những ai xét thấy mình tội lỗi đáng chết mới nhận ra thánh ý Ngài.
Tục ngữ có câu: trâu già biết lối tắt, người già biết lý khôn. Thánh sử Gioan thật dí dỏm kể rằng: “nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu từ người lớn tuổi nhất”. Đức Giêsu mở ra cho nhân loại một lối thoát, không phải là ném đá hay tha bổng cho kẻ phạm tội, nhưng mọi người bất luận là ai, hãy suy xét đến lời nói việc làm của mình hiện thế nào. Không a-dua đồng loã với sự gian ác, không tẩy chay loại trừ người anh chị em lầm lạc, đó là thực thi đức công bằng yêu thương. Nhưng việc cần hơn, là mỗi người đừng bao giờ tự mãn kiêu căng, hãy suy xét tội lỗi bất xứng của mình, hầu được ơn biết sám hối ăn năn để sống. Người khôn ngoan phải là người đọc được dấu chỉ lòng thương xót của Chúa, hiểu được thánh ý của Chúa, và sống đúng, sống đẹp, sống luật yêu thương của Chúa.
Người xưa có câu: khi đói nghèo gõ cửa trước, thì tình yêu sẽ bỏ trốn ra của sau. Khi nguy hiểm chết người đang luẩn quẩn trong tâm trí, ai nào đủ bình tĩnh để tranh luận mình đúng sai, tốt xấu, phương thế hay nhất vẫn là tìm cách giữ lấy mạng sống mình. Đối diện với khổ đau chết chóc, ai chẳng lo sợ, đối diện với Chúa là Chân-Thiện-Mỹ, nào ai có thể che dấu được những bất xứng tội lỗi của mình, nếu ta chưa thống hối ăn năn. Chúa Giêsu đã từng nói: “Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng đến để kêu gọi kẻ tội lỗi ăn năn sám hối để được sống”. Sẽ không có chuyện kết án, phạt tiền, phạt tù, nhưng tiếng nói từ sâu thẳm, hãy trở về với cõi lòng mình, rồi ta nghe rõ hơn: “Những người kết án bạn đâu rồi? Ta cũng thế, Ta không kết án bạn đâu, hãy đứng dậy mà về, từ nay đừng phạm tội nữa”.
Họ đâu cả rồi ? Lời Chúa Giêsu không dò tìm ai là thánh nhân hay ai tội nhân, Ngài vẫn đang dò tìm và lưu ý đừng ai kết án anh chị em mình, đừng ai tiêu cực vu cáo anh này chị kia là kẻ tội lỗi, đáng chết ! Họ đâu cả rồi, chính là điệp khúc yêu thương của Thiên Chúa thức tỉnh từng tâm hồn: hãy năn năn sám hối để được sống, hãy cảm thông, giúp đỡ anh chị em mình cùng sống đẹp sống đúng với ơn gọi riêng của mình. Họ đâu cả rồi, vẫn mãi là lời nhắc nhớ: “Ta cũng thế, Ta không kết án chị đâu, hãy đứng dậy mà về, từ nay đừng phạm tội nữa”. Thiên Chúa giầu lòng thương xót, Ngài sẵn sàng tha thứ mọi yếu đuối tội lỗi của con người, cho dù ta lỗi phạm nặng nề làm mất tình Chúa, tan nát tình anh chị em, miễn sao chúng ta biết thực lòng sám hối ăn năn. Đức Giêsu, Đấng vô tội đã đến thế gian, Ngài từ chối ném viên đá đầu tiên cũng như viên đá cuối cùng, nghĩa là Ngài thật lòng yêu thương tha thứ cho tội nhân, ta hãy sám hối để nhận ra lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa chúng ta. Amen.
.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Vụ kiện người phụ nữ ngoại tình, nhiều người cáo tội tại toà án công khai. Theo luật, phải ném đá người phụ nữ này, nhiều người đồng tình với bản án theo luật. Chúa Giêsu ở đó và người ta muốn gài bẫy Người, Người nói : “Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá trước đi!” (Ga 8, 7). Câu nói này nhắc Chúa đến để cứu chứ không phải lên án.
Như trong Ga 3,17: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”. Cứu quan trọng hơn là kết án. Vậy con người cần được cứu ra khỏi sự dữ, nghĩa là gỡ ra khỏi những tương quan bị cắt đứt.
Tương quan với chính mình bị đổ gẫy bởi tội cá nhân. Chính mình là một tội nhân, bởi vậy Chúa nói: “Ai sạch tội?” Chẳng ai sạch tội cả khi nhìn vào trong sự tha hoá của chính mình. Tha hoá về bản chất sự thiện nơi mình, khi những dục tình đen tối xâm nhập tâm hồn. Đánh mất sự thiện, tội lỗi xâm nhập. Lúc ấy, con người trở nên lạc lõng bơ vơ, đau khổ, hình ảnh người phụ nữ khổ nhục, bị phỉ báng giữa đám đông.
Tương quan với tha nhân đổ bể. Hình ảnh đám đông vây quanh người phụ nữ bị đem ra ném đá. Sự thật thuộc về số đông luôn là sự thật bị đánh lừa bởi những fake new. Tính hiệu ứng tâm lý bầy cừu xuất hiện với đám đông ồn ào đòi ném đá. Cần có một thức tỉnh lương tâm của một người có thế giá bảo vệ chân lý, đó là Chúa Giêsu. Những lúc ta dự định theo đám đông để lên án ai, hãy cầu nguyện cùng Chúa, để Người lên tiếng.
Cần có Chúa.
Cắt đứt tương quan với Chúa có thể thất bại như người con thứ ra khỏi nhà cha mình đi phung phá tài sản mình có. Cũng giống như người con trưởng ở nhà cha mà sống như người làm công cho cha. Không thể có hạnh phúc khi sống ngoài Thiên Chúa, cũng chẳng thể có hạnh phúc khi sống đối phó, theo cảm nghĩ tiêu cực của mình. Chúa lên tiếng và mời gọi mặc lấy con người mới.
Không ai lên án.
Khi sống với Chúa thực sự, con người sẽ sống đời sống mới trong Chúa: “Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Col 3, 12 – 13). Từng người rời đi, đó là hành vi của những con người đã được sống trong Chúa.
Tôi cũng không kết án chị!
Tội lỗi là căn nguyên của mọi tương quan bị cắt đứt, với Chúa, với chính mình và với tha nhân. Cứu khỏi tội, Chúa đưa con người về sống lại tình thân với Chúa, thiết lập lại trật tự bình an trong tâm hồn và nối kết trong tình thương yêu với tha nhân.
Đừng phạm tội nữa! là lời mời gọi về để được Chúa giữ gìn và ở lại trong nhà Chúa, sống trong bình an, yêu thương, hoà hợp với anh chị em.
Xin Chúa cứu chúng con khỏi tội.
.
Lm Vũđình Tường
Để chống đối và qua đó làm nhục Đức Kitô nơi công chúng, nhóm chống đối Đức Kitô ngấm ngầm họp kín tìm cách gài bẫy Ngài, hy vọng Ngài bị sập bẫy vì không biết để đề phòng. Nhóm này chủ trương gài bẫy hơn là do tình cờ bởi vì tụ tập được một số đông các thầy trong nhóm Kinh Sư và Biệt Phái không phải là việc làm mau chóng, trong chốt lát, mà cần có thời gian chuẩn bị, mời gọi cũng như là vận động, tuyên truyền. Biệt Phái và Kinh Sư bất đồng nhau về nhiểu điểm, nhưng cùng cộng tác để hạ nhục Đức Kitô. Họ dẫn đến trước Ngài người phụ nữ tố cáo.
Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Môisen truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao? Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người c. 3-6.
Người phụ nữ trở thành nạn nhân của toà án nhân dân. Họ lấy í kiến đại đa số để kết án tử hình người phụ nữ bằng cách ném đá. Í kiến đại đa số đây đến từ nhóm lãnh đạo dân chúng. Họ bắt bà đứng giữa đám đông, không có điều tra, không phỏng vấn, không luật sư biện hộ, bà đứng lặng câm, không được lên tiếng tự bào chữa. Chỉ có bản án đã đồng thuận sẵn từ nhóm lãnh đạo. Theo luật thì bà bị ném đá cho đến chết. Họ hỏi Đức Kitô vì họ tin là dù trả lời thế nào Đức Kitô cũng không có lối thoát. Nếu Đức Kitô trả lời đồng í với họ thì Ngài làm trái điều Ngài vẫn rao giảng là yêu thương và tha thứ. Nếu Đức Kitô trả lời không ném đá thì Ngài sẽ bị kết án là chống lại luật Môisen. Cả hai trường hợp Đức Kitô đều bị dồn vào thế kẹt.
Hãy tưởng tượng khung cảnh toà án nhân dân lúc đó. Nhóm Kinh Sư và Biệt Phái thì đứng, hung hăng, khuôn mặt thoả mãn. Đức Kitô khom lưng viết trên đất. Người phụ nữ đứng không vững, run cầm cập, mặt không còn giọt máu vì bản án tử hình sắp sửa được thi hành. Đám đông đứng đợi, ngó nháo nhác; kẻ lo lắng, thương người phụ nữ, kẻ tỏ vẻ bất cần, chỉ muốn xem sự thể kết cục thế nào? Đức Kitô cứ cặm cụi viết trên đất. Mất kiên nhẫn nhóm Biệt Phái lên tiếng thúc giục. Đức Kitô ngẩng lên nhìn vào mặt họ rồi Ngài dõng dạc, lên tiếng cách chậm chạp, rõ ràng, từng chữ một.
Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. c.7
Câu hỏi quá bất ngờ đối với họ. Họ đã chuẩn bị kế hoạch kĩ lắm, tưởng hoàn thiện, nào ngờ vẫn còn kẽ hở lớn. Cả hai nhóm Biệt Phái và Kinh Sư đều bối rối, không biết phải phản ứng thế nào cho thích hợp? Trước đây họ tự mãn thế nào Đức Kitô cũng bị kẹt vào thế bí không đường thoát. Sự việc đổi thay, chính họ bị kẹt vào thế bí, không lối thoát. Nói xong Đức Kitô lại cúi xuống viết tiếp. Phúc Âm không thuật lại Đức Kitô viết gì trên đất. Theo suy đoán riêng, đối với nhóm lãnh đạo tự kiêu, lại hay lạm dụng luật, lớn tiếng áp đảo kẻ khác, rất có thể Đức Kitô liệt kê trên đất một loạt tội ác Biệt Phái và Kinh Sư đã phạm. Ngải chỉ viết tội mà không viết tên, ngụ í tránh làm họ nhục nơi công chúng. Rất có thể có người trong đám đông đọc được, thấy toàn là những tội phạm có ghi trong luật mà không hiểu ai phạm những tội đó. Những người phạm tội khi nhìn thấy điều đó trên đất thì hiểu rõ là Đức Kitô biết rõ tâm tư thầm kính của họ. Đám đông không biết, đồng nghiệp của họ cũng có thể không biết, chính họ và Đức Kitô, tuy Ngài không nói ra, nhưng biết rõ. Nhận biết điều đó họ xấu hổ, âm thầm bỏ đi, bắt đầu người cao niên nhất, cho đến khi không còn một ai. Đức Kitô nói với người phụ nữ Ngài không kết án chị. Ngài tha tội cho chị nhưng Ngài cảnh báo chị từ nay đừng phạm tội nữa. Đức Kitô giải thoát chị khỏi án tử hình từ tay người lãnh đạo chị, giải thoát chị khỏi ách thống trị của ma quỉ, giải thoát chị khỏi tủi hổ từ đám đông và ban cho chị sự sống trường sinh. Í kiến đại đa số rất ít khi ăn khớp với giáo huấn của Đức Kitô. Bản án do toà án nhân dân phán quyết thường bị những khuôn mặt nấp trong bóng tối giật giây. Đám đông là công cụ, tay sai cho nhóm lẩn trốn trong bóng tối khuynh đảo.
.
Anna Cỏ May
Trong thời đại hôm nay, nền kinh tế phát triển kéo theo mọi sự thay đổi. Con người sống không dựa vào giá trị chân lý nhưng dựa vào sự hơn thua; từ đó, sinh ra lòng ghen tỵ. Người lớn thách thức nhau về công việc, khả năng, sự thành công. Sinh viên thách thức nhau về hiểu biết, gia thế… Điều này khiến cho cuộc sống con người luôn ngột ngạt. Chúa Giêsu cũng là nạn nhân của lối sống này. Ngài đã chịu nhiều thách thức bởi nhóm Pharisêu, kinh sư và các thượng tế. Lời Chúa trong Tin Mừng Gioan cho chúng ta thấy điều này.
Nhóm kinh sư và Pharisêu đã dẫn người phụ nữ bị bắt quả tang đang ngoại tình đến đặt ở giữa Chúa Giêsu và họ. Họ đưa luật Môsê và nói phải ném đá hạng đàn bà này (x. Ga 8,5). Họ làm vậy là để đặt cái bẫy tìm cớ hại Chúa Giêsu. Nếu Chúa đồng ý xử người phụ nữ phạm tội này theo lề luật Môsê là ném đá thì trái với những lời tình thương hằng ngày Ngài rao giảng. Nếu Ngài bênh vực người đàn bà vì Ngài muốn tỏ lòng nhân từ thì Ngài sẽ vi phạm luật Môsê. Đó là cái bẫy họ giăng ra để dồn Chúa Giêsu vào đường cùng. Bởi ý đồ ấy, hàng ngàn con mắt đổ dồn vào Chúa Giêsu với câu hỏi dồn dập liên tục. Trước những câu hỏi ấy, Chúa Giêsu nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7). Câu hỏi của Chúa Giêsu bắt buộc họ phải tự trả lời và tự rút lui bởi vì không một ai là không có tội. Chúa Giêsu không nóng giận, không xua đuổi, mà chỉ trả lời trong tư thế cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Câu hỏi của Ngài vừa cho nhóm Pharisêu, kinh sư nhìn lại tội mình cũng vừa làm cho người đàn bà nhận thấy tội mình. Cũng khi nhận ra tội mình, người phụ nữ được Chúa Giêsu tha thứ bên ngoài và bên trong tâm hồn với lời khuyên: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).
Hình ảnh người phụ nữ ngoại tình đã mặc khải tình yêu và lòng bao dung của Thiên Chúa dành cho con người. Thánh Augustinô đã nói: “Cuối cùng chỉ còn lại hai nhân vật, người đàn bà và Chúa Giêsu. Một bên là khốn cùng và một bên là lân tuất; và lòng lân tuất đã thắng thế trong ngày đó”. Lòng thương xót của Chúa Giêsu đã xóa sạch mọi tội lỗi cho chị.
Trong chúng ta, không ai là không có tội. Với lời kêu gọi của Chúa: “Trở về đi hỡi những đứa con phản nghịch” (Gr 3,14a), chúng ta hãy trở về với tình yêu Chúa qua bí tích hòa giải. Nhờ đó, chúng ta bắt đầu lại cuộc sống mới trong ngày Chúa Phục Sinh.
Lạy Chúa, tội lỗi làm con xa lìa Chúa, xin cho chúng con nhận ra tội mình mà từ bỏ việc kết án người khác, để bước vào cuộc sống mới cùng với Chúa Giêsu Phục Sinh. Amen.
.
Bông hồng nhỏ
Vừa tảng sáng, dân chúng đến với Thầy Giêsu để nghe Người giảng dạy. Biết Thầy Giêsu đang ở Đền Thờ, các Kinh sư và những người Pharisêu dẫn đến trước mặt Người một người phụ nữ bị bắt quả tang đang ngoại tình. Áo quần chị xộc xệch, tóc tai rối bù, mặt tím bầm, chị cúi gầm mặt né tránh những ánh mắt dò xét, run sợ trước những hòn đá vô tình đang nằm sẵn trong tay các Kinh sư và người Pharisêu. Chị hồi hộp chờ đợi phản ứng của Thầy Giêsu, người đang trở thành một điểm tựa cuối cùng cho chị.
Đứng trước mặt Thầy Giêsu, chị trộm nhìn thấy độ của Thầy. Ánh mắt Thầy nhân từ khiến chị xấu hổ. Chị đang đứng ở giữa, xung quanh toàn là các bậc thầy đang tố giác chị với Thầy Giêsu: Thưa Thầy, luật Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng người này. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao? Đám đông dân chúng cũng xì xầm, mỉa mai chị. Người ta sẵn sàng ném đá chị rồi nhưng họ lại kéo chị đến trước mặt Thầy Giêsu, không phải để tìm dịp tha cho chị nhưng để có cớ tố cáo Thầy. Một cái bẫy đầy nhan hiểm. Chị chắc chắn phải chết vì luật Môsê truyền như vậy. Còn Thầy Giêsu, Đấng luôn dạy người ta phải yêu thương nhau, Người sẽ làm gì đây? Bầu khí đầy căng thẳng, mọi ánh mắt đổ dồn về phía Thầy, tất cả đều chờ đợi câu trả lời. Thầy Giêsu chỉ cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Thầy không muốn can dự đến hay Thầy đang can dự vào thế bí? Thầy hoàn toàn im lặng. Đứng trước một người có tội nhưng đáng thương và khao khát được cứu vớt, nếu là ta, ta sẽ làm gì? Xử vô tội là trái luật Môsê, nhưng đồng tình ném đá là đẩy người có tội vào chỗ chết.
“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7). Lời của Thầy vang lên khiến cho tất cả mọi người rơi vào thinh lặng. Nếu như những câu hỏi dồn dập họ vừa hỏi dường như làm Thầy Giêsu im lặng. Thì chỉ một câu nói của Thầy đã đẩy họ đến tận cõi lòng mình. Chẳng ai dám nhận mình vô tội. Ta cũng là tội nhân đó thôi nhưng đã bao lần ta xét đoán người khác. Chị phụ nữ giật mình trước lời của Thầy. Chị biết mình có tội. Ta có biết mình có tội không? Chị bị bắt quả tang đang khi có tội. Còn ta, ta có đang phạm tội cách kín đáo, lương tâm của ta có đang tố cáo ta không? Chị run sợ trước cái chết, trước sức ép của đám đông, trước sự giận dữ của người kết án chị. Chỉ có Thầy Giêsu vẫn điềm tĩnh, chẳng tỏ ra khinh miệt hay giận dữ nhưng Thầy khiến chị nhìn vào chính mình, Thầy cũng làm cho cả các Kinh sư khiêm tốn nhìn vào chính mình.
“ Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8,11). Chị được cứu thoát và được sống lại một cuộc đời mới. Thầy Giêsu đã tin tưởng đã hy vọng nơi chị và cho chị thấy chị có thể trở thành một người tốt. Thầy Giêsu cũng nói với ta điều đó.
Lạy Chúa! Chúa biết thân con tội lỗi nhưng Chúa vẫn thương con. Chúa không chê ghét con nhưng Chúa cho con được tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa. Này con xin đến cùng Chúa để sám hối và để Chúa làm cho nên tươi mới, đầy sức sống của Chúa.
.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Chúa nhật V Mùa Chay, năm C có thể được gọi là Chúa Nhật của Lòng Thương Xót Chúa. Chúa Nhật tuần trước nói về Lòng Cha Nhân Từ…Hình ảnh của người Cha hiền gây ấn tượng sâu xa trong tâm hồn của nhiều người. Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong đoạn Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay, cho thấy hình ảnh của Một Thiên Chúa không dùng đôi mắt nghiêm nghị để sửa phạt con người.Nhưng Ngài chạnh lòng thương và tạo cơ hội cho con người ăn năn trở về…
Thiên Chúa khi tạo dựng vũ trụ, tạo nên con người, Ngài đã dựng . nên người nam và người nữ. Nên, vợ chồng là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Chính Chúa Giêsu đã nâng hôn nhân lên hàng bí tích, Ngài nói :” Sự gì Thiên Chúa phối hợp, loài người không được phép phân ly “. Giáo lý Công giáo dạy :” Hôn nhân Công giáo : một vợ một chồng, sinh con cái và giúp nhau thăng tiến “. Do đó, sự chung thủy là việc bó buộc trong hôn nhân Kitô giáo. Gia đình là nền tảng của xã hội, là nền móng vững chắc của người nam và người nữ. Vợ chồng không chung thủy với nhau, đời sống gia đình sẽ tan vỡ và kéo theo sự băng hoại của xã hội. Nên, những người Pharisêu, Kinh sư và Biệt phái đem đến trước mặt Chúa Giêsu một người phụ nữ phạm tội ngoại tình để xin Ngài xét xử là một điều phù hợp và hết sức hợp lý vì luật Môsê cũng đã quy định, tội bị bắt quả tang phạm tội không trung thành thì phải ném đá cho tới chết. Tuy nhiên, đối với những người hôm nay đưa người phụ nữ để xin Chúa xét xử chỉ là cái bẫy họ giăng để bắt bẻ, kết tội Chúa Giêsu.Câu chuyện trên đây thật dí dỏm,trớ trêu và đầy nham hiểm của bọn Pharisêu, Biệt phái…Bởi vì, nếu Chúa Giêsu nói đừng ném đá người phụ nữ này, Ngài sẽ bị ghép tội chống lại luật Môsê và nếu nói cứ ném đá, Ngài đã làm sai lời dạy của Ngài ‘Các con hãy yêu thương nhau,như Thầy yêu thương các con “.
Tin Mừng dí dỏm viết :” Đức Giêsu cui mặt xuống đất và liên tục viết trên đất. Ngài viết gì chúng ta không biết, nhưng chỉ có một điều Ngài đang suy nghĩ. Họ cứ đằng đằng sát khí gặng hỏi Chúa mãi…Cuối cùng Ngài ngẩng lên và nói :” Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi “ ( Ga 8, 7 ).
Vâng, chẳng một ai dám ném hòn đá đầu tiên và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Tin Mừng chua chát viết :” Họ cứ lần lượt rút lui, đầu tiên là những người già và sau cùng là những người trẻ “.
Thật vậy, chẳng ai vô tội để có thể ném đá người khác có chăng những người đang cầm đá chắc trong tay cứ nới dần và để viên đá rơi một cách vô tội vạ xuống đất.
Sống ở trần gian này chẳng ai lại không có tội : có những người phạm tội nhiều, có những người lỗi lầm ít hơn. Người nào bị phát hiện phạm tội thường xem những tội bị bắt công khai mới là tội nặng. Còn những tội nhiều khi tày đình nhưng không ai hay ai biết thì những người phạm tội âm thầm, lén lút vẫn ung dung thoái mái. Tuy nhiên, khi có người phát hiện người nào đó phạm tội, thì người khác sẵn sàng ném đá, vung vít như để minh chứng mình vô tội. Họ không dung tha cho người phạm tội dù họ đầy tội lỗi…Tuy nhiên, Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, Đấng vô tội lại không lên án, không ném đá tội nhân mà lại hết lòng nhân từ :” Tôi cũng không lên án chị đâu! Chị hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa “ ( Ga 8, 11 ). Thật là một lời tha tội đầy tình thương, đầy lòng thương xót…Thiên Chúa, Đấng chí công không giết chết, nhưng cứu sống. Thật an ủi cho mỗi người chúng ta vì tất cả chúng ta đều là tội nhân. Chúng ta tin vào Lòng Thương Xót và trái tim nhân từ của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa biết rõ chúng con.Chúa biết mọi thầm kín, mọi việc làm thâm sâu của chúng con. Chúa biết khi chúng con đứng, khi chúng con ngồi. Chúa tỏ tường hết thảy. Xin cho chúng con biết nhận ra lỗi lầm của chúng con để xin Chúa tha thứ. Xin cho chúng con biết cảm thông với những lỗi lầm của anh chị em chúng con, để chúng con biết yêu như Chúa yêu. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tội ngoại tình là gì ?
2.Luật của Môsê qui định về tội bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình như thế nào ?
3.Người ta đối xử với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình ra sao ?
4.Thái độ của Chúa Giêsu thế nào đối với người phụ nữ này ?
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Đền thờ sáng sớm tinh sương,
Chúa ngồi giảng dậy, mở đường thứ tha.
Bấy giờ luật sĩ khảo tra,
Bắt người phụ nữ, đứng ra một mình.
Tố người thiếu phụ ngoại tình,
Xin thầy xét xử, cung hình xử ngay.
Môi-sen đã dạy điều này,
Nhục hình ném đá, hỏi thầy xử sao?
Vào hùa gài bẫy khai mào,
Nếu không kết án, phạm vào luật ghi.
Bắt đầu cúi xuống tránh đi,
Ngón tay Chúa viết, khắc ghi lòng người.
Ai người sach tội trong đời,
Thi hành ném đá, tuôn rơi phỉ lòng.
Kẻ già người trẻ nghe xong,
Từng người rút bước, nhìn trong tâm hồn.
Không ai kết tội là khôn,
Thầy không kết án, lời đồn xóa cho.
Tấm thân cao quý khôn dò,
Con đừng phạm tội, khỏi lo cực hình.
Chúa Giêsu nói: Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá người đàn bà này trước đi. Nhìn cảnh người đàn bà Hồi Giáo bị chôn sống hay bị ném đá cho chết vì tội ngoại tình. Tôi cảm thấy ớn lạnh và khủng khiếp. Các sự cố vẫn còn xảy ra hằng ngày nơi một số nước theo Hồi Giáo.
Phúc âm hôm nay nói về người đàn bà bị bắt qủa tang phạm tội ngoại tình, vậy chứ người đàn ông đồng phạm đâu mà không thấy. Mấy người Biệt phái vui mừng khi bắt được tội phạm, họ dẫn chị ta đến trước mặt Chúa Giêsu. Họ muốn đặt Chúa làm quan án xét xử. Họ dựa vào luật Môisen, người phạm tôi ngoại tình sẽ phải ném đá cho chết. Họ hỏi Chúa Giêsu: Thầy dạy sao? Họ đặt Chúa vào hai trường hợp. Thứ nhất, nếu Chúa không kết án chị ta, như thế Chúa không tuân phục luật lệ Do Thái và kẻ cầm quyền. Thứ hai, nếu Chúa kết án chị, Chúa không có lòng khoan dung và nhân hậu.
Chúa Giêsu thinh lặng và dùng cơ hội này để dạy cho họ một bài học rất khôn ngoan. Ai không có tội cứ việc ném đá chị ta. Một câu trả lời làm mọi người phải tự vấn lương tâm. Mỗi người tự trở về với lòng mình. Từ người lớn tuổi đến những người trẻ lần lượt rút lui. Có nghĩa là ai cũng nhận mình đang có tội. Chúa tiếp tục viết đôi điều trên đất, có nghĩa đất sẽ mau chóng xóa nhòa, tội của chị được tha.
Sau khi những người tố cáo chị đã rút lui. Không còn ai dám kết tội chị. Chúa Giêsu cũng không kết án. Chúa chỉ khuyên chị: Vậy chị hãy đi, từ nay đừng phạm tội nữa. Chúa không bào chữa cho chị và chị ta cũng không chối tội. Thái độ cúi mặt khiêm nhường hối lỗi đủ để Chúa tha tội. Khi Chúa tha là tha tất cả và xóa sạch để họ trở nên con người mới.
Truyện kể : Có một Sơ sống thánh thiện nói với Giám mục. Sơ đã được thị kiến Chúa Giêsu. Để thử Sơ, Giám mục nói: Lần tới khi Sơ nhìn thấy Chúa, Sơ hỏi thử Ngài xem, tội lớn nhất tôi phạm trước khi làm Giám mục là tội gì? Vài tháng sau, Sơ trở lại gặp Giám mục. Ngài hỏi: Chúa Giêsu đã nói gì về tội của tôi. Sơ trả lời: Chúa Giêsu nói Ngài không còn nhớ nữa. Chúa đã tha là tha tất cả như Chúa đã viết trên đất, mọi sự sẽ được xóa sạch đời đời.
Chúa dạy chúng ra bài học đừng xét đoán người khác. Đừng khép kín lòng nhưng hãy mở ra cho người khác cơ hội để sửa lỗi. Khi đã hối lỗi ăn năn và trở về rồi, thì đừng ngoái lại quá khứ để luyến tiếc. Hãy hướng nhìn đến tương lai để nên hoàn thiện hơn và đừng phạm tội nữa.
.
NÊN HÃY CÓ LÒNG NHÂN TỪ
Lm. Anthony Nguyễn Ngọc Dũng
Lời Chúa của Chúa Nhật V Mùa Chay cho chúng ta một viễn cảnh thật tươi sáng không chỉ cho dân Do Thái trong thời lưu đày ở Babylon, hay dân Do Thái trong thời của Chúa Giêsu, mà nhất là cho chúng ta ngày hôm nay. Viễn cảnh tươi sáng này không đến từ việc chúng ta sẽ được ban cho tiền dưgạo thừa, nhưng đến từ việc chúng ta sẽđược giải phóng khỏi nô lệ của tội lỗi để sống một cuộc sống đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô.
Trong bài đọc 1, Ngôn sứ Isaia sử dụng ngôn từ của kinh nghiệm xuất hành, kinh nghiệm vượtqua Biển Đỏđể nhắc cho dân Israel về uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta nhận ra điều này trong những hình ảnh như: “vạch một con đường giữa đại dương, một lối đi giữa sóng nước oai hùng,” “Đấng đã cho xuất trận nào chiến xa chiến mã, nào tướng mạnhbinh hùng: tất cả đã nằm xuống, và không còn trỗi dậy,đã bị dập đi, tắt ngấm như tim đèn” (Is 43:16-17). Từ kinh nghiệm được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, qua lời tuyên sấm của mình, Isaia giúp dân Israel nhận ra những kỳ công mà Thiên Chúađang thựchiện cho họ, đó là đưa họ ra khỏi cảnh lưu đày Babylon. Và Isaia gọi đây là “một việc mới, việc đó manh nha rồi” mà dân Israel phải nhận thấy (x. Is 43:19). Tuy nhiên, lời sấm của Isaia không chỉ dừng lại ở việc Thiên Chúa sẽ đưa dân ra khỏi cảnh lưu đày ở Babylon, mà còn ám chỉ đến “những dòng sông tại vùng đất khô cằn,” đến “nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta tuyển chọn được giải khát” (Is 43:20). Đây chính là hình ảnh dòng nước của Bí Tích Rửa Tội, dòng nước mà sẽ rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi và làm cho chúng ta chết đi cho tội để sống cho Thiên Chúa và anh chị em của mình. Đây chính là điều mà Thánh Phaolô trình bày cho tín hữu Philipphê trong bài đọc 2.
Chúng ta nhận ra hình ảnh và ý nghĩa của Bí Tích RửaTội qualời của Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Philipphê: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10-11).TrongBí Tích Rửa Tội, chúng ta cùng chết với Đức Kitô để cùng sống lại với Người trong một sự sống mới, một cuộc sống hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Đức Kitô. Đây chính là điều Thánh Phaolô đã sống và nhắc nhở tín hữu Philipphê và cả chúng ta phải cố gắng để coi “tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, đểđược Đức Kitôvà được kết hợp với Người” (Pl 3:8-9). Tuy nhiên, Thánh Phaolô khuyến cáo chúng ta rằng: việc chiếm lấy được Đức Kitô không phải “nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Kitô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3:11). Nói cách khác, việc chiếm được Đức Kitô là “phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻđược Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3:14). Chúng ta sẽ thấy rõ phần thưởng của Thiên Chúa này trong bài Tin Mừng hôm nay.
Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay là một trong những câu chuyện đẹp nhất trong Kinh Thánh. Nó đẹp vì không chỉ giúp chúng ta nhận ra tình yêu tuyệt đối và vô điều kiện của Thiên Chúa được tỏ lộ qua Đức Giêsu Kitô, nhưng còn giúp chúng ta nhận ra nhân phẩm đáng quýcủa mình, nhân phẩm tuyệt đẹp đến nỗi tội lỗi chỉ làm lu mờ chứ không thể huỷ hoại. Chính nhân phẩm được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa (x. St 1:26-27) này mà Chúa Giêsu đã đến để chết hầu phục hồi vẻđẹp nguyên tuyền của nó. Thánh Luca đã trình bàysựphục hồi nhân phẩm đã bị lu mờ bởi tội lỗi nàytrong dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” trong bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước, và hôm nay trong câu chuyệncủangười phụ nữ ngoại tình. Qua hai bài Tin Mừng của tuần trước và hôm nay–tuần trước là việc phục hồi nhân phẩm của người nam và tuần này là của người nữ–Giáo Hội muốn khẳng định rằng, nhân phẩm của người nam và người nữ giống nhau vì cả hai đều được sáng tạo theo hình ảnh và giống Thiên Chúa.
Đọc bài Tin Mừng hôm nay, bạn cảm thấy thế nào? Tội nghiệp cho người phụ nữ ngoại tình? Lên án các kinh sư và người Pharisêu? Ngưỡng mộ cách đối xử của Chúa Giêsu? Trong cuộc sống thường ngày, nếu biết ai đóphạm tội ngoại tình, chúng ta phản ứng thế nào? Chắc chắn ai trong chúng ta cũng bỉu môi tắc lưỡi và bàn tán xôn xao về người đó. Thật vậy, khi đọc bài Tin Mừng, có thể chúng ta dễ dàng cảm thông cho người phụ nữ ngoại tình, nhưng trong đời sống thực tế, chúng ta lại trở nên như các kinh sư và người Pharisêu, chúng ta kết án anh chị em của mình. Tuy nhiên, điều chúng ta cần biết là trong Kinh Thánh, “ngoại tình” không ám chỉđến việc phản bội trong đời sống vợ chồng cho bằng ám chỉ việc “bất trung” với Thiên Chúa của dân Israel [và mỗi người chúng ta] trong việc bỏ Chúa để tôn thờ ngẫu tượng, và khi chúng ta phạm tội. Điều này giúp chúng ta hiểu lý do tại sao khi Chúa Giêsu nói ai không có tội thì ném đá người phụ nữ trước; và mọi người lần lượt nhận ra việc bất trung của họ khi phạm tội. Điều này nhắc nhở chúng ta phải nhìn lại mình trước khi kết án người khác.
Chúng ta cùng nhau phân tích phản ứng và thái độ của các nhân vật trong bài Tin Mừng hôm nay để rút ra những bài học hữu ích giúp chúng ta đối xử với anh chị em của chúng ta cách cảm thông và yêu thương hơn. Tuy nhiên, trước khi đi vào chi tiết từng nhân vật, chúng ta lưu ý đến chi tiết sau: Hình ảnh núi Ôliu (x. Ga 8:1), nơi Chúa Giêsu sẽđến sau bữa tiệc ly với các môn đệ và bị bắt ở đó, tạo nên bối cảnh cho bài Tin Mừng hôm nay. Hành động của Chúa Giêsu trên núi Ôliu gợi cho chúng ta nhớ đến hình ảnh của Chúa Giêsu được Thánh Mátthêu trình bày khi Ngài giảng về tám mối phúc: “Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ” (Ga 8:2). Trong bối cảnh này, chúng ta có thể nói rằng: sự kiện xảy ra cho người phụnữ ngoại tình là bài giảng của Chúa Giêsu về mối phúc [và mối hoạ] trong Tin Mừng Thánh Gioan: phúc cho những ai được Thiên Chúa tha thứ và khốn cho những ai chỉ biết kết án người khác mà không ăn năn sám hối. Bây giờ, chúng ta phân tích phản ứng và thái độ của các nhân vật trong bài Tin Mừng.
Thứ nhất là Chúa Giêsu: Ngài đang giảng dạy thì bị cắt ngang bởi việc các kinh sư và người Pharisêu “dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa,rồi nói với Người: ‘Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình.Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?’” (Ga 8:3-5). Đứng trước tố cáo và bản án viết sẵn bởi các kinh sư và người Pharisêu cho người phụ nữ ngoại tình, Chúa Giêsu bị đặt trong một tình huống “tiến thoái lưỡng nan”: Nếu nói không lên án [ném đá] người phụ nữ ngoại tình, Ngài bị xem là chống lại luật của Môsê, điều mà người Do Thái xem là cao trọng nhất trong Kinh Thánh; còn nếu Ngài lên án, thì việc giảng dạy về lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa trở nên vô hiệu và đồng
thời làm cho Ngài trở thành người chống lại luật của người Rôma, vì chỉ có luật của người Rôma mới có thể kết án tử cho người phạm tội, chứ luật của người Do Thái không được phép đó. Chúng ta sẽ chia phản ứng và thái độ của Chúa Giêsu làm hai phần: với các kinh sư và người Pharisêu, và với người phụ nữ ngoại tình.
Với các kinh sư và người Pharisêu: trước câu hỏi của họ, Chúa Giêsu không cho họ câu trả lời trắng hoặc đen. Câu trả lời của Ngài được tỏ lộ cách tiệm tiến qua các bước sau: (1) thinh lặng lắng nghevàcúi xuống lấy ngón tay viết trên đất; (2) thay vì trả lời thì đặt một câu hỏi; (3) thinh lặng và cúi xuống viết trên đất. Câu trả lời của Chúa Giêsu được trình bày theo kiểu “bánh mì kẹp”: hai miếng bánh mì giống nhau, đó là “hành động” thinh lặng và cúi xuống viết trên đất; và phần được kẹp bên trong [phần quan trọng] là “lời nói,” đó là một câu hỏi. Chính “lời” của Chúa Giêsu làm cho những người kết án thay đổi thái độ và lối sống của mình. Đây chính là sứđiệp chính của Tin Mừng Thánh Gioan: Chúa Giêsu là “Lời” của Chúa Cha, là “Lời nhập thể” để mang lại ơn cứu độcho muôn người. Chỉ những người lắng nghe Lời mới có khả năng biến đổi. Chúng ta có để Lời Chúa hôm nay biến đổi chúng ta không? Cách cụ thể hơn, chúng ta có để cho Lời Chúa Giêsu biến đổi thái độ “tìm lỗi” và “kết án” người khác không?
Với người phụ nữ ngoại tình: hành động đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi nghe lời kết án là không nhìn người phụ nữcách trực tiếp [nhưng với cõi lòng], mà cúi nhìn xuống đất. Hành vi này, theo một số học giả Kinh Thánh, là để tránh cho người phụ nữ một “cái nhìn kết án,” để bà không cảm thấy xấu hổ hơn trước cái nhìn của một người mà dựa vào lời nói của người đóbà sẽ bị kết án và giết chết. Khi mọi người đã bỏđi, Ngài mới ngẩng lên nhìn người phụ nữ và phá tan “bầu khí nặng nề của sự kết án” bằng một câu hỏi thật hiền dịu: “Này chị, họđâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”(Ga 8:10). Và Ngài tiếp với một lời tha thứ và khuyên răn hay đúng hơn là một lời mời gọi: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chịđâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”(Ga 8:11). Điều gì làm Chúa Giêsu đối xửnhân hậu với người phụ nữ ngoại tình? Đó chính là “cái nhìn.” Ngài không nhìn người phụ nữgiống như các kinh sự và người Pharisêu. Đối với họ, bà là một “người phạm tội ngoại tình,” còn đối với Chúa Giêsu, bà là “người con hoang đàng trởvề” [câu chuyện chúng ta nghe trong tuần trước]. Đó chính là lý do để mở tiệc ăn mừng.
Thứ hai là các kinh sư và người Pharisêu: chúng ta thấy Thánh Gioan trình bày thái độ bình thường của họđối với Chúa Giêsu là luôn “thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người” (Ga 8:6). Trong câu chuyện hôm nay, chúng ta có thể nhận ra rằng,người mà các kinh sư và người Pharisêu nhắm đến để tố cáo và kết án không phải là người phụ nữ ngoại tình, mà là Chúa Giêsu. Người phụ nữ ngoại tình có thểđược xem là “con vật thế thân.” Nói cách khác, người phụ nữ ngoại tình là “phương tiện” họ sử dụng đểđạt đến mục đích, đó là tố cáo Chúa Giêsu. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta đối xử với anh chị em của mình không như những nhân vị cần được tôn trọng. Chúng ta đối xử với họ như những phương tiện để thoả mãn những đam mê dục vọng của mình, để đạt đến mục đích của mình. Hãy tôn trọng người khác, nhất là những người thân của chúng ta như những nhân vị chứ không như những “đồ vật”!
Cuối cùng là người phụ nữ ngoại tình: bà không nói gì. Bà không tìm cách biện minh cho mình. Bà đón nhận mọi sự trong thinh lặng của một cõi lòng “tan nát khiêm cung.” Khi còn lại một mình với Chúa Giêsu, bà chỉ đơn sơ trả lời cách ngắn gọn những gì Chúa Giêsu hỏi bà với một cung giọng ngại ngùng. Từ hình ảnh của người phụ nữ ngoại tình, chúng ta cũng nhìn vào chính mình để có thái độ nào khi trở về với Chúa. Tuy nhiên, điều chúng ta quan tâm ở đây là: người phụ nữ ngoại tình sẽ như thế nào sau khi được Chúa Giêsu không kết án và khuyên đừng phạm tội nữa? Bà sẽ phạm tội lại hay không? Điều này chỉ mình chúng ta biết vì câu chuyện của người phụ nữ ngoại tình được tiếp tục viết trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Tóm lại, Lời Chúa trong Chúa Nhật V Mùa Chay này mời gọi chúng ta nhìn lại cuộc đờicủa mình để nhận ra những công việc vĩđại Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. Những việc vĩđại đó không chỉ là được ban cho nhàcao cửa rộng hay an khang thịnh vượng, nhưng việc vĩđại nhất là Ngài đã yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta là tội nhân, Ngài đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta và phục hồi lại thân phận làm con Thiên Chúa, thân phận cao quý mà chúng ta đã đánh mất khi phạm tội vì bất phục tùng. Nhìn lại những việc vĩ đại Thiên Chúa đã làm cho mình, chúng ta cùng nhau mượn lời Thánh Vịnh Đáp Ca để diễn tả tâm tình của chúng ta: “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! Ta thấy mình chan chứa một niềm vui.”
.
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Khi người Do Thái đang bị lưu đày tại Babylon, ai trong họ dám nghĩ rằng có ngày họ được trở về quê cha đất tổ? Ngay cả khi còn quyền lực và độc lập còn chưa giữ được đất nước quê hương, còn chưa bảo vệ được mình, thì làm sao một khi đã bị lưu đầy sang nơi đất khách quê người lại có thể nổi dậy và trở về quê hương, trừ phi Thiên Chúa can thiệp làm những việc kinh thiên động địa như Ngài đã làm cho dân Do Thái thời ở Aicập qua Môsê.
Sách tiên tri Isaya cho dân một niềm hy vọng. Thiên Chúa phán: “Ta sẽ cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta tuyển chọn được giải khát”. Thiên Chúa thỏa mãn khao khát của dân Ngài. Ngài đã đưa dân Do Thái đang lưu đầy ở Babylon được trở về quê cha đất tổ qua vua Kyrô, một vua người Ba Tư đã chiến thắng và đang nắm quyền trên khắp vùng. Kyrô, một vua người ngoại, nhưng đã được coi là Đấng Kitô của Thiên Chúa (Is.45, 1). Một người ngoại được coi là Đấng Kitô, là một điều người Do Thái không bao giờ ngờ tới. Như vậy, hoặc Thiên Chúa đã dùng một người ngoại để giải phóng dân của Ngài, hoặc người ngoại không phải là người ngoại trước mặt Thiên Chúa. Người ngoại vẫn là con dân của Thiên Chúa như người Do Thái, và họ đã được Thiên Chúa yêu và dùng như Ngài đã yêu thương người Do Thái vậy.
Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa còn làm những điều kỳ diệu hơn tất cả những điều Ngài đã làm từ trước tới nay. Tin mừng Chúa Nhật thứ năm mùa chay cho thấy Đức Giêsu đã làm một điều đặc biệt: Ngài cứu người phụ nữ ngoại tình thoát chết và làm cho những người biệt phái cùng kinh sư trở nên khiêm tốn và nhận biết mình có tội. Khi những người biệt phái và kinh sư bỏ đi không ném đá chị phụ nữ ngoại tình nữa, hàm chứa họ đã được ơn nhận biết chính mình. Đức Giêsu nói với chị phụ nữ: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Một cuộc đời mới đã khai mở với chị phụ nữ phạm tội ngoại tình. Chị tạ ơn Thiên Chúa đã cứu sống chị qua Đức Giêsu; chị bắt đầu một đời sống mới trong niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người. Một khi gặp gỡ được Thiên Chúa, người ta trở nên nhân hậu hơn, chấp nhận chính mình và tha nhân hơn, tha thứ cho người khác và tha thứ cho chính mình.
“Không ai có quyền tha tội trừ một Thiên Chúa” (Mc.2, 7). Thiên Chúa đã dùng Đức Giêsu để tha tội cho người bị bại liệt. Đức Giêsu đã tha tội cho chị phụ nữ ăn năn sám hối (Lc.7, 34). Đức Giêsu cũng không kết án chị phụ nữ ngoại tình (Ga.8, 11). Thiên Chúa không chỉ không kết án, mà còn tha tội cho con người qua Đức Giêsu Kitô. Không ai có thể giao hòa con người với Thiên Chúa, nếu không phải là chính Thiên Chúa muốn giao hòa với con người. Thiên Chúa đã giao hòa với con người, nhờ và qua Đức Giêsu Kitô. Tạ ơn Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu cho con người. Thiên Chúa đang làm điều mới qua Đức Giêsu Kitô.
Con người ngày nay không thể gặp gỡ Đức Giêsu vì Ngài đã lên trời, tuy nhiên nhờ đức tin con người vẫn có thể gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh. Thánh Phaolô đã được biến đổi hoàn toàn nhờ biết Đức Giêsu Phục Sinh. “Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Phục Sinh”. Phaolô sẵn sàng mất tất cả để chỉ được Ngài mà thôi. Phaolô đã có cái nhìn khác về vạn sự vạn vật. Ngày xưa, Phaolô miệt mài đi bắt bớ các Kitô hữu, tưởng rằng như thế là làm vinh danh Thiên Chúa, nhưng biến cố trên đường Đamát đã giúp Phaolô nhận ra sự thật. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đã làm cho Phaolô thành con người mới, thành người công chính không cậy dựa vào sức riêng mình nhằm chu toàn lề luật nhưng nhờ đức tin vào Đức Giêsu Kitô.
Với Phaolô, Thiên Chúa là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã làm tất cả trong Đức Giêsu: Ngài tái tạo mọi sự, đưa mọi sự tới với Thiên Chúa. Lề luật không giúp người ta tới gần Thiên Chúa nhưng chỉ giúp con người nhận biết mình là tội nhân; chính niềm tin vào Đức Giêsu mới cho con người có nhận thức đúng đắn hơn về mọi sự, mới cho con người có sức sống, mới giúp con người thực hiện được điều mình thấy đúng, mới làm con người được hạnh phúc. Nhận thức rõ Thiên Chúa làm tất cả trong Đức Giêsu Phục Sinh, Phaolô đã miệt mài rao giảng tin mừng: “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Đức Giêsu Phục Sinh thật sự là tin mừng cho tất cả mọi người. Tin nhận Đức Giêsu Phục Sinh, là tin Thiên Chúa đang hoạt động và yêu thương con người vô cùng, là có thể phó thác trọn vẹn đời mình trong tay Thiên Chúa tình yêu, là có thể sống an bình hạnh phúc.
Tâm tình của Kitô hữu, là tạ ơn Thiên Chúa đã cho được nhận biết Đức Giêsu Phục Sinh. Tín hữu nhìn lên Đức Giêsu để dõi bước theo Ngài. Ngài đã sống thế nào, Kitô hữu được mời gọi để sống như vậy. Trong mùa chay, Kitô hữu được mời gọi để sám hối. Sám hối, là nhận biết chính mình cách thật sự, là nhận biết mình có lỗi lầm và mong ước quay về với Thiên Chúa, làm hòa với anh chị em mình. Sám hối đòi người ta phải có cái nhìn mới về Thiên Chúa, về tha nhân, về chính mình và về sự vật. Thật không dễ để thay đổi chính mình, thay đổi cái nhìn của mình, quan điểm và chọn lựa của mình; nhưng Thiên Chúa là Đấng có thể làm mọi sự. Không gì mà Thiên Chúa không làm được. Ngài đã giúp những kinh sư và biệt phái muốn ném đá chị phụ nữ ngoại tình được nhận biết họ cũng là tội nhân, để họ thay đổi không còn kết án chị phụ nữ nữa. Thiên Chúa đã làm mới những người đến với Đức Giêsu, kể cả chị phụ nữ ngoại tình lẫn những kinh sư và biệt phái.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Niềm tin vào Đức Giêsu làm Kitô hữu có cái nhìn mới về tất cả. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
- Mùa chay này, bạn có biết hơn về con người của bạn không? Xin chia sẻ nếu được.
.
Lm. Anmai
Chúa Giêsu từ Cha mà xuống trần gian, không phải để tố cáo, để kết án tội nhân, nhưng để cứu rỗi họ. Nhờ đời sống, sự chết, sự sống lại của Người, Người ban tặng cho những người nhất là những người tội lỗi sự sống của Thiên Chúa. Trang Tin mừng hôm nay chúng ta nghe Thánh Gioan thuật lại gợi lên hình ảnh, tấm lòng hết sức tuyệt vời của Chúa Giêsu về sự tha thứ, về sự cứu độ mà Thiên Chúa dành cho con người.
Câu chuyện xảy ra trong Tin mừng xác thực và rõ ràng. Ngoại tình là một trọng tội ít gặp. Để được tha, cần làm việc đền tội công khai, lại chỉ được tha một lần thôi. Cách cư xử của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ ngoại tình, với những con người vụ luật và khắc khe thì dễ dãi quá. Nhiều người trong số họ đã quên mất câu “Hãy về và đừng phạm tội nữa”. Họ nghĩ rằng cách cư xử dễ dãi như thế của Chúa Giêsu sẽ đe dọa sự trung tín trong hôn nhân. Sau một ngày giảng dạy ở đền thờ, chiều xuống, theo thói quen, Chúa Giêsu lên núi Ôlivê. Sáng sớm hôm sau, Người lại vào Đền thờ giảng dạy dân chúng.
Các kinh sư và những người Pharisêu từ lâu đã bất bình với Chúa Giêsu. Không chỉ dừng lại ở thái độ bất bình nhưng họ đã thù nghịch nghĩ rằng giáo huấn của Chúa Giêsu làm đảo lộn tất cả. Với những lý do ấy họ quyết định tìm đủ mọi cách để trừ khử Người. Tuy nhiên, để đưa Người ra xét xử, cần phải có một chứng cứ đúng đắn.
Một cơ hội không mong đã đến. Một thiếu phụ “bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình”. Rẽ đám đông, các kinh sư và những người Pharisêu dẫn chị vào “giữa” đám đông đang tụ họp và nói với Chúa Giêsu: “Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”
Chúa Giêsu không còn cách nào thoát khỏi cạm bẫy đã giăng của đám người xấu. Không thể bào Chúa Giêsu thoát khỏi cạm bẫy này! Nếu tha, Chúa Giêsu sẽ chống lại luật Môsê. Ném đá, Người tự mâu thuẫn vì Người vẫn rao giảng lòng nhân từ của Thiên Chúa. Đằng sau án xử người thiếu phụ là chính án xử Chúa Giêsu.
Giờ đây, dây thòng lọng đang xiết dần cả người thiếu phụ, lẫn Chúa Giêsu. Quá tệ! Đây không còn là một vấn nạn, một câu hỏi bình thường của cuộc sống, nhưng là một câu hỏi sinh tử, đối với người nữ phạm tội tày đình cũng như đối với chính Chúa Giêsu.
Vẫn ngồi trong dáng điệu của một ông thầy đang giảng dạy, Chúa Giêsu “cúi xuống” và thay vì trả lời, Người dùng ngón tay vẽ vẽ trên đất.
Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh rất quan tâm tìm hiểu xem Chúa Giêsu viết gì trên đất? Thánh Giêrônimô nghĩ rằng Chúa Giêsu vạch tội những kẻ tố cáo người phụ nữ ngoại tình còn nhiều tác giả khác thì cho rằng: Người viết lại một câu trong Jêrêmia 17, l3: “tất cả những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải hổ thẹn, những kẻ quay lưng lại với Ngài sẽ phải ghi tên mình trong lòng đất”. Tốt nhất chúng ta nên trung thành với cách diễn đạt của bản văn. Chúa Giêsu vạch trên đất để kéo đài thời gian thinh lặng, làm cho lời phân xử sắp thốt ra thêm trọng lượng. Người ta như không chú ý tới điều được ghi nhận tới hai lần: Chúa Giêsu “cúi xuống”, rồi “ngước lên”. Sao Thánh Gioan lại nhấn mạnh đến cử chỉ ấy trong một câu chuyện ngắn ngủi như vậy, rồi trả lời. Tên núi Ôlviê được nhắc đền ở đầu câu chuyện đã đặt giai thoại này trong bối cảnh cuộc khổ nạn sắp đến. Cử chỉ của Chúa Giêsu mang một ý nghĩa Kitô học: nó nhắc đền sự hạ xuống, và đưa lên cao mà qua đó, Chúa Giêsu sẽ hòa giải nhân loại bị giam hãm trong tù ngục tội lỗi với Thiên Chúa.
Họ nài nỉ. Trước khi lại chìm trong thinh lặng, Chúa Giêsu nhắc họ lời Kinh Thánh: “Ai trong các ngươi sạch tội, thì cứ lấy đá mà nén trước đi. ” Đnl 13,9-10 và 11,7: “Người làm chứng sẽ ném đá kẻ phạm tội trước. Từ lúc ấy, vụ án xử bị cáo lại trở thành vụ án xử nguyên cáo.
Các kinh sư và những người Pharisêu đinh minh mình công chính. Họ đứng đằng sau mặt chữ, đằng sau lề luật để tố cáo người phụ nữ. Ở đây, Chúa Giêsu đưa chính họ ra xét xử dưới ánh sáng của Luật. Người buộc những quan tòa phải tự xét xử chính mình, trước hết, phải trở lại với lương tâm mình, nhìn nhận mình cũng là tội nhân, cùng một thân phận như “người phụ nữ kia”, người mà họ đã lôi ra giữa đám đông và giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi của mình.
Trong vòng vây của những nguyên cáo hung hăng, sự lưỡng lự biến thành cuộc lui binh như thánh sử ghi nhận cách hài hước: “Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ người già nhất “.
Khi Chúa Giêsu ngẩng đầu lên “lần thứ hai thì chỉ còn mình Người đối diện với người phụ nữ”. Thánh Augustinô chú giải: “Chỉ còn hai. Lòng thương xót và người được xót thương”. Nếu trước đó, những người tố cáo gọi chị là “hạng đàn bà đó” một cách khinh bỉ, coi chị như đồ vật, thì giờ đây, chị thấy một ánh mắt khác nhìn chị, nghe một giọng khác gọi chị như gọi một con người: “Này chị “. Hơn bất cứ ai khác, Chúa Giêsu là người đo lường chính xác nhất mức nặng nhẹ của tội lỗi; và thay vì giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi như các kinh sư và những người Pharisêu đã làm, Người thúc đẩy chị bước vào con đường hối cải, và mở cho chị một tương lai một “Không ai kết án chị sao? Tôi cũng vậy. Hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa “.
Sau đó thì sao? Câu chuyện để ngỏ đó giống như dụ ngôn Chúa nhật trước bỏ ngỏ thái độ người anh. Một khi đã gặp Chúa Giêsu Đấng không lên án mà kêu gọi sống đời sống thánh thiện, người nghe thấy mình được kêu gọi để đừng khép mình vào cái khuôn dĩ vãng chết chóc nhưng là bước đi trong tự do của con cái Thiên Chúa.
Câu chuyện người đàn bà ngoại tình đã đi vào huyền thoại hơn 2000 năm rồi nhưng nhiều và nhiều câu chuyện người đàn bà ngoại tình khác vẫn còn diễn ra trước mắt mỗi người chúng ta, diễn ra mỗi ngày trong đời sống thường nhật. Và, với cái lý, cái lẽ hết sức bình thường của con người, người ta vẫn giơ tay ra và hùng hùng hổ hổ ném đá và ném thật mạnh vào người tội lỗi. Và, chắc có lẽ cái cảnh từng người bỏ đi cũng sẽ tái hiện bởi lẽ nhìn lại mình mình cũng quá nhiều tội như nhiều người ngày hôm ấy nên đã từ từ rút lui.
Thật sự ra mà nói những người rút lui hôm nay xem chừng không hay, không đạt được ý nguyện nhưng được một chuyện là lương tâm và sự thật đã thức tỉnh lòng dạ đen tối của họ. Chỉ sợ rằng vấn đề rõ ràng nơi đó mà họ còn cố tình chối tội, họ cố tình lấp liếm tấm lòng nham hiểm của họ.
Đứng trước những lầm lỗi, những khiếm khuyết của người khác, nên chăng con người cần phải khiêm tốn để nhìn nhận lại chính bản thân của mình. Nếu nhìn nhận chính bản thân mình thì con người sẽ thay đổi lối nhìn cũng như lối hành xử.
Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Philip mà chúng ta vừa nghe cho ta bài học về sự khiêm tốn. Với Ngài, tất cả Ngài coi mọi sự đều là rơm rác. Ngay cả sự công chính của Ngài, Ngài cũng nại vào ơn Thiên Chúa ban cho Ngài chứ không phải do tự bản thân của Ngài. Ngài, dẫu đã trở thành môn đệ chân chính của Chúa Giêsu nhưng Ngài vẫn còn phải chạy và Ngài không nghĩ là Ngài thành toàn. Có lẽ nhờ vào lối sống, lối suy nghĩ của Ngài nên Ngài hành xử một cách khác người đó là Ngài không bao giờ lên án ai. Ngài vẫn tự nhận mình là môn đệ rốt hết, Ngài vẫn tự nhận Ngài là con người thấp hèn để rồi Ngài không bao giờ hạ nhục người khác.
Thường, con người vẫn và vẫn tìm cách để hạ nhục người khác dẫu chưa tìm ra chứng cứ. Nếu có chứng cứ như người phụ nữ ngoại tình hôm nay thì lại thêm phần bảo đảm, phần chắc chắn cho sự kết án của họ. Thế nhưng, dù thế nào đi chăng nữa, dù có chứng cứ, dù có bằng chứng nhưng chắc gì những người đưa ra chứng cứ lại là những người vô tội.
Một lần nữa, sự kết án, sự kết tội, sự ném đá với tội nhân vẫn mở ngõ ra cho con người. Con người hoàn toàn tự do sử dụng sự tự do của Thiên Chúa ban cho họ. Hoặc là họ ném đá, hoặc là họ kết án anh chị em đồng loại.
Vấn đề đặt ra là liệu rằng khi ném đá, họ – những người kết án – có thấy mình sạch tội để ném đá, để kết án anh chị em đồng loại hay không mà thôi.
.
Jos. Hoàng Mạnh Hùng
Ngày xưa khi còn nhỏ, tôi thường thắc mắc khi nghe các cụ ông, cụ bà nói với nhau khi tính toán thời gian đến lễ Phục sinh qua các ngày Chúa Nhật: “Ném đá, lễ lá, phục sinh”. Lễ lá, lễ Phục sinh thì dễ hiểu, nhưng làm gì có “lễ ném đá” ?!
Thì ra theo sự hiểu biết của các cụ, đoạn Tin Mừng Chúa Nhật thứ V mùa chay nói về người phụ nữ ngoại tình đã được tóm gọn bằng hai từ “ném đá” cho dễ nhớ. Cách nhớ thật đơn giản vì lúc đó lịch Phụng vụ chưa được phổ biến rộng rãi và các phương tiện truyền thông cũng chưa được như bây giờ.
Đoạn Tin Mừng của thánh Gioan thuật lại việc đang khi Chúa Giêsu giảng dậy cho đám đông dân chúng, thì các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao? “(Ga 8,4-5)
Lúc đó ắt hẳn người phụ nữ ấy nhục nhã lắm bởi vì cái tội bị khơi lên cho toàn dân thiên hạ biết là cái tội phạm một cách thầm kín. Chắc người đàn bà ấy sợ lắm vì theo luật, bà ấy sẽ bị ném đá cho đến chết. Bà đang đối diện với cái chết, không sợ sao được. Cái sợ ấy càng tăng lên gấp bội khi giờ đây bà đang đứng trơ trọi một mình giữa đám đông lăm le gạch đá, đối diện với người thầy của sự công chính chờ sự phán quyết.
Trước mặt Thiên Chúa ai cũng giống ai, tất cả đều là tội nhân. Có khác chăng chỉ là người tội nhiều hay ít, kẻ tội này người tội kia. Có lẽ ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về tội lỗi. Người càng lớn tuổi, chức vụ càng cao, quan hệ càng rộng bao nhiêu thì cạm bẫy kéo theo cũng nhiều bấy nhiêu. Bởi thế bản thân họ sẽ dễ gặp nhiều thử thách cám dỗ và có khi tội càng nhiều và càng nặng hơn!
“Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.” (Ga 1,5). Tội lỗi làm cho con người sợ ánh sáng, sợ phải đối diện trước mặt Chúa. Thiên Chúa là ánh sáng, nên khi đối diện với Người thì mọi tội lỗi sẽ bị phơi bày như Ađam trần truồng trong vườn địa đàng thuở xưa sau khi phạm tội. Càng phạm tội, người ta càng che giấu; tội càng trọng, càng giấu diếm tinh vi. Cái giấu đáng sợ nhất là giấu chính Thiên Chúa, nhưng làm sao giấu diếm được vì Thiên Chúa luôn luôn thấu suốt tâm hồn của con người!
Trước sự truy vấn gài bẫy nham hiểm của các kinh sư và người Pha-ri-sêu, Đức Giêsu cứ cúi xuống và chậm rãi viết trên đất. Tâm tình như chùng xuống, không hừng hực như những người đang kết án, để làm cho mọi việc lắng đọng. Người chậm giận trước tội lỗi của người phụ nữ và bảo họ rằng: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”.
Câu nói nhẹ nhàng nhưng thật ý nhị đã đụng chạm vào lương tâm mỗi người trong bọn họ, bởi người ta rất thích ném đá nhau, kết tội nhau, nhưng luôn che giấu tội lỗi của mình cho thật khéo. Câu nói như tiếng chuông giúp lương tâm họ sống lại, bừng tỉnh khỏi mê muội, nhận biết mình tội lỗi. Vì thế khi nghe vậy, họ bỏ đi hết – kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi – không dám kết án người phụ nữ nữa.
Khi chỉ còn lại một mình Đức Giêsu và người phụ nữ, Người ngẩng đầu lên với ánh mắt hiền từ và nhẹ nhàng nói: “Tôi không kết án chị đâu!”. Vị thẩm phán giàu Lòng Thương Xót đã tha tội cho một kẻ đáng chết bằng lời tuyên án dịu dàng nhân hậu. Lời phán xét của Người không sỉ nhục nhưng phục hồi nhân phẩm, đã bỏ qua quá khứ u mê lầm lỗi và mở ra một tương lai hướng thiện: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”.
Lúc còn là một cô, cậu thiếu nhi đến tòa giải tội. Ta chỉ xưng những tội rất đơn sơ như: ham chơi, không vâng lời, chửi thề, thậm chí bỏ lễ ngày Chúa Nhật… Nhưng khi trưởng thành, chúng ta cảm thấy rất rõ tội lỗi không đơn giản như thế. Người ta có thể phạm tội một cách có ý thức, hay có khi đặt một đam mê nào đó lên trên lề luật của Thiên Chúa. Người ta cố tình lẩn tránh, lần lữa việc xưng tội vì sợ ảnh hưởng đến địa vị, sợ bị chê cười … và an tâm với ảo tưởng mình không có tội trước mặt mọi người!
Một chuyên gia trong các vụ trọng án cho biết: khi tuyên án tử hình thì kẻ tử tội lúc ấy chưa thấy sợ hãi, có chăng chỉ là chút cảm xúc. Nhưng trước ngày thi hành án tử, kẻ tử tội vô cùng bấn loạn và sợ hãi, bởi vì lúc ấy anh ta biết là cái chết đã gần kề mà không thể thoát được. Kẻ lạnh lùng ghê gớm lắm cũng phải toát mồ hôi trước cái chết mà mình sẽ phải lãnh nhận.
Chỉ khi nào chúng ta nhận thức được rằng án tử bởi tội lỗi sẽ làm cho mình chết đời đời, mà bây giờ lại được tha bổng, thì lúc bấy giờ ta mới cảm nếm được cái hương vị hạnh phúc ngất ngây của sự tha thứ. Thế nên, hãy quay về với Thiên Chúa và giao hòa với tha nhân qua bí tích Hòa Giải để hưởng ân xá, để làm mới lại cuộc đời.
Trở về với Thiên Chúa để nhận ra con người thật của mình, để rồi không còn “ném đá” nhau bằng những lời lẽ quắt quay độc địa. Giao hòa với Thiên Chúa và mọi người để lãnh nhận tình yêu thương tha thứ, để được ra đi thanh thản như Chúa Giêsu đã nói: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”.
.
Lm. Anphong Trần Đức Phương
Bài Đọc I (Isaia 43:16-21) đem lại niềm hy vọng trong Mùa Chay: “Hãy quên đi những việc đã qua và đừng quan tâm đến các việc xa xưa nữa…Thiên Chúa hứa sẽ đổi mới mọi sự, khai mở đường đi và cho dân Chúa có nước uống…”
Trong Bài Đọc II (Philiphê 3:8-14) Thánh Phaolô cũng nói Ngài quên hẳn những gì ở đàng sau và chỉ hướng về phía trước “để chạy đến đích cuối cùng là phần thưởng Nước Trời, trong sự hiệp thông với sự đau khổ của Chúa Giêsu và sự Phục Sinh của Người.”
Bài Phúc Âm (Gioan 8:1-11) ghi lại một câu chuyện rất cảm động về người phụ nữ bị kết án là phạm tội ngoại tình đáng phải ném đá cho đến chết theo luật Môise (Thứ Luật 22:23-24); nhưng chẳng ai dám ném đá chị, vì Chúa bảo “ai hoàn toàn sạch tội hãy ném đá chị đó đi!” Mọi người đều sợ hãi bỏ đi, vì nhận thấy chính mình cũng đầy tội lỗi. Đứng lại ném đá, sợ Chúa Giêsu là “Đấng thấu suốt mọi sự, đã có thể làm cho người chết sống lại, người bệnh được chữa khỏi,” sẽ vạch tội họ ra chăng. Chưa kể còn có những người có đời sống xấu xa mà ai cũng biết! Chúa Giêsu đã tha thứ cho người phạm tội ngoại tình và bảo: “Cha cũng không kết án con. Con hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Trong Chúa Nhật trước, chúng ta đã có dịp đọc và suy niệm về Dụ Ngôn rất cảm động “Người Cha Nhân Hậu” (Luca 15:1-3,11-32). Chúa Giêsu kể dụ ngôn đó để trả lời những nguời Biệt Phái và Luật Sĩ cứ tự cho mình là người công chính, giữ luật đầy đủ và phàn nàn là Chúa Giêsu cứ “đón tiếp những người tội lỗi và còn ngồi ăn uống với họ…” Qua Dụ Ngôn “Người Cha Nhân Hậu” và thái độ tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa luôn yêu thương và mời gọi những người trót “sa ngã phạm tội vì yếu đuối” hãy ăn năm sám hối, chừa bỏ đời sống tội lỗi, cải thiện đời mình , để trở nên những con người mà Chúa “đã dựng nên theo hình ảnh Chúa” (Khởi Nguyên 1:27). Vì thế, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh “Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi. (Matthêu 9:13).
Thực sự, Chúa Giêsu không bao che tỗi lỗi. “Tội vẫn là tội,” vẫn đáng bị kết án (Matthêu 5:27-30); người đàn bà ngoại tình hôm nay, thực sự vẫn là một tội nhân. Nhưng Chúa Giêsu đã phải chịu khổ nhục và chết trên Thánh Gía để chuộc tội chúng ta. Ngài luôn muốn cho tội nhân có một cơ hội để “làm lại cuộc đời!” Ngay trước khi chết trên Thánh Gía Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho chính những kẻ đã lên án bất công, hành hạ và giết Ngài:“ Xin Cha tha tội cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Luca 23:34).
Tội luôn là điều xấu phải xa tránh. Nhưng trên trần gian này, ai dám tự vỗ ngực mình và tuyên bố “ Tôi hoàn toàn sạch tội” để mà lên án người khác, để mà “ném đá người khác!”
Mùa Chay là “thời gian rất thuận tiện” (2 Côrintô 6:2)) để chúng ta ăn năn sám hối lỗi lầm, chừa bỏ tội lỗi. Chúng ta hãy lo ăn năn sám hối và “đấm ngực mình, đừng lo đấm ngực người khác” để xin Chúa thứ tha tội lỗi và giúp chúng ta chừa bỏ tội lỗi.
Xin cùng cầu nguyện chung cho nhau để trong những ngày trọng đại này, chúng ta biết hy sinh dành nhiều thời giờ hơn để cầu nguyện, dự các cuộc Tĩnh Tâm Mùa Chay, hy sinh hãm mình thắng vượt những đam mê tội lỗi, thanh tẩy tâm hồn qua Bí Tích Hòa Giải (Xưng Tội) và dành dụm tiền bạc giúp người nghèo khó trên thế giới. Xin Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta được chết đi với tội lỗi, cải thiện đời sống để được cùng sống lại thật với Chúa trong đời sống trong sạch, hòa hợp yêu thương và nhiệt thành phụng sụ Chúa và mọi người trong cuộc sống hàng ngày.
.
Lm. JB Nguyễn Minh Phương
Chuyện đời không thiếu việc con người kết án lẫn nhau.
Tư tưởng Thiên Chúa không như tư tưởng của người đời.
Trình thuật Tin Mừng (Ga 8, 1-11) là bằng chứng: Chúa kết án tội chứ không kết án người tội lỗi.
I. ĐÁM ĐÔNG VÀO HÙA
Một buổi sáng nọ, một đám đông các kinh sư và người Pha-ri-siêu dẫn một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình đến trước mặt Đức Giêsu. (Ga 8, 3). Họ đã chất vấn Đức Giêsu về việc xét xử bà này. “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Mô-sê truyền dạy chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà này. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8, 5).
Mới thoáng qua thì đàm đông này xem ra có lý lẽ, nhưng sâu xa, họ đang cố tình gài bẫy Đức Giêsu hầu có cớ bắt Người. Mặt khác, dường như họ đang toa rập với nhau, âm mưu tìm cách “giết người diệt khẩu” càng sớm càng tốt để ngầm bao che cho kẻ tòng phạm, vì theo luật thì người đàn ông tòng phạm với bà ta cũng phải bị ném đá (x Ed 16, 38-40).
Đức Giêsu biết rõ tâm địa gian manh của họ. Bằng thái độ lặng thinh viết trên đất, xem ra Người không chú ý đến những người xung quanh và dường như muốn từ chối nói chuyện với họ.
Vì sự cố chấp của đám đông “họ cứ hỏi mãi” (Ga 8, 7), Đức Giêsu đã trả lời: “Ai trong các ông không có tội thì cứ lấy đá ném chị này trước đi” (Ga 8, 7). Lời Đức Giêsu đã xoáy vào tim đen của đám đông khiến họ phải suy nghĩ và đã rút êm “lần lượt bỏ đi, bắt đầu là những người lớn tuổi” (Ga 8, 9). Hẳn những viến đá mà đám đông lăm le ném người đàn bà ngoại tình nay đã ném thẳng vào lương tâm những kẻ sống hùa và buộc họ phải suy nghĩ mà thay đổi hành vi của mình.
II. CON NGƯỜI YẾU HÈN
Phần người phụ nữ, chị đã bị bắt quả tang đang ngoại tình. Tội chứng ràng rành, không còn gì để nói nên chị ta chỉ thinh lặng và cũng không thiết nghĩ đến chuyện tố cáo kẻ tòng phạm. Chị ta chỉ còn biết phó mình cho sự định đoạt của đám đông và người ta đã buộc chị phải đứng giữa đám đông để chịu xét xử.
Lẽ tự nhiên, Thiên Chúa ban cho con người khả năng giới tính để truyền sinh. Hoạt động giới tính tự nó thật tốt đẹp và phù hợp với sự quan phòng của Thiên Chúa. Tuy nhiên một khi người ta lạm dụng hoạt động này, cụ thể là thực hiện ngoài hôn nhân và trái tự nhiên thì sẽ sinh hậu quả tai hại làm hủy hoại thuần phong mỹ tục.
Ấy vậy mà, Kinh Thánh đã từng thuật những chuyện hủ hoại: Vua Đa-vít đã từng phạm tội cướp vợ (bà Bát-sa-ve) mà còn giết luôn người chồng (tướng U-ri-a) (x. 2S 11, 2 tt); hai ông thủ lãnh cùng âm mưu hành động đồi bại với bà Su-san-na vợ của ông Giô-gia-kim nhưng âm mưu không thành (x. Đn 13, 1tt); người con hoang đàng mang tiền phung phí với bọn điếm (x. Lc 15, 30); thánh Phao-lô từng than khóc vì dân thành Cô-rin-tô sống gian dâm phóng đãng (x. 2Cr 12, 21)…
Chuyện Kinh thánh đã vậy, trong gian dân những chuyện ngoại tình cũng không ít nên ngày nay, tình trạng hôn nhân thiếu chung thủy và gia đình đổ vỡ đang ngày càng gia tăng. Thế mới biết, thân phận con người yếu hèn: điều thiện muốn thì không làm nhưng điều ác không muốn thì lại làm (x. Rm 7, 19).
Bởi thế, ý thức phận người yếu hèn, người tín hữu phải luôn trông cậy ơn Chúa giải thoát “Tôi thật là một người khốn khổ! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (Rm 7, 24).
III. THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT
Đám đông đã rút đi. Nơi xét xử chỉ còn lại hai người: Thiên Chúa xót thương và con người yếu hèn.
Trước đám đông gào thét đến cuồng loạn kết án tử người đàn bà ngoại tình, Đức Giêsu đã thinh lặng và không đồng tình với đám đông la ó đang gây thêm đau khổ cho người tội lỗi.
Khi bị chất vất gay gắt, Đức Giêsu mới lên tiếng. Người không nói: Đừng ném đá chị ta. Nếu nói thế chẳng khác nào Người đã không thi hành lề luật. Đức Giêsu cũng không nói: Cứ việc ném đá chị ta. Bởi nói thế, Người đã đánh mất con chiên lạc đang đối diện với Người. Đức Giêsu đã nói: “Ai trong các ông không có tội thì cứ lấy đá ném chị này trước đi” (Ga 8, 7). Vậy là, chỉ có người vô tội mới có quyền xét xử người đàn bà ngoại tình. Nói cách khác, ở đây chỉ có Thiên Chúa làm người Đức Giêsu Kitô mới có quyền xét xử.
Đức Giêsu đã xét xử vụ án này ra sao? Người đã không kết án mà chỉ thương xót và khuyên bảo người đàn bà bỏ đường tội lỗi: “Tôi không kết án chị đâu! Chị về đi; từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8, 11).
Nếu thế, phải chăng Đức Giêsu dung túng cho kẻ có tội?
Thực ra, Đức Giêsu chỉ kết án tội chứ không kết án người có tội. Người đã cho người đàn bà phạm tội một con đường sống với điều kiện ” Chị về đi; từ nay, đừng phạm tội nữa!”.
Thiên Chúa đã đoái thương người tội lỗi. Có thể nói được: Thiên Chúa ghét tội chứ không ghét người có tội.
Chúa đã đối xử bao dung. Nếu người thẳng tay như người ta thường đối xử với nhau thì không có các vị thánh: Phê-rô, Mát-thêu, Phao-lô, Au-gút-ti-nô, Ma-ri-a Mác-đa-la… Nếu Người đối xử thẳng tay với con người như họ đáng tội thì mỗi người chúng ta chắc gì còn hiện diện trên đời.
Trước tình thương của Chúa, người tín hữu được mời gọi: tin tưởng vào lòng bao dung tha thứ của Thiên Chúa; sống lòng bao dung ấy bằng cách đấm ngực mình chứ đừng đấm ngực người khác; quyết tâm sửa đổi đời sống: “Đừng phạm tội nữa!”.
KẾT
Người đời dễ lâm vào tình trạng xét đoán và muốn xét xử người khác, trong khi bản thân mình tội lỗi chất đầy.
Bao lâu còn trong thân xác con người, chẳng ai dám quả quyết mình trong sạch. Thế nên người tín hữu được mời gọi cố gắng hoàn thiện bản thân và ứng xử bao dung.
Thiên Chúa thấu suốt tâm can từng gang tấc. Chỉ mình Người mới có quyền xét xử. Dầu vậy, Thiên Chúa chỉ kết án tội chứ không kết án người có tội. Người không cho kẻ dữ phải diệt vong nhưng chỉ muốn họ bỏ đường tà để được sống.
.
NGƯỜI ĐÀN BÀ NGOẠI TÌNH ĐƯỢC THA
Lm Trần Bình Trọng
Làm thế nào để trả lời một câu hỏi hóc búa, nhất là khi người hỏi có ý bắt bẻ? Chúa Giêsu trong Phúc âm hôm nay đã phải đối chất với một câu hỏi như thế. Những người Biệt phái và Luật sĩ trình lên Chúa một vụ về người đàn bà mà họ cho rằng họ đã bắt được quả tang phạm tội ngoại tình. Thực ra thì bắt được người đang phạm tội ngoại tình cũng khó, chứ đâu phải chuyện dễ, trừ khi cái tò mò tính len lỏi vào. Mà tò mò trong trường hợp này có thể là phạm tội bằng mắt. Tuy nhiên xem ra họ không quan tâm đến người đàn bà ngoại tình cho bằng việc muốn gài bẫy để đưa Chúa vào tròng và làm khó cho Chúa trước chính quyền La mã và giáo quyền Do thái giáo.
Theo luật Mô-sê, khi người đàn bà bị bắt được phạm tội ngoại tình, thì sẽ bị ném đá. Như vậy nếu Chúa Giêsu trả lời không phải ném đá, thì Người chống lại luật Môsê. Đàng khác luật La mã áp dụng cho cả người Do thái thời bấy giờ cấm ném đá một người cho đến chết. Vậy nếu Chúa Giêsu đồng ý cho ném đá người đàn bà ngoại tình, tức là Người chống lại luật La mã. Như vậy vâng luật Do thái, thì lại lỗi luật La mã, và ngược lại, vâng luật La mã thì lại lỗi luật Do thái. Đàng khác nếu Chúa bằng lòng cho ném đá, thì Người lại mâu thuẫn với đường lối yêu thương, nhân từ và tha thứ mà Người vẫn thường giảng dạy. Như vậy thì Chúa phải trả lời thế nào? Thật nan giải.
Phúc âm kể lại Chúa cúi xuống vạch vài nét trên đất. Chúa vẽ gì, Phúc âm không kể lại. Có lẽ Chúa chỉ vạch vài đường lả lướt chơi vậy cho đỡ buồn để tỏ ra Chúa không quan tâm đến câu hỏi của họ. Và rồi Chúa bảo họ ai không có tội thì hãy ném đá người đàn bà trước đi. Nhưng không ai trong nhóm họ đã dám làm. Đọc Phúc âm, ta thấy người Biệt phái và Luật sĩ thường bị Chúa quở trách nhiều nhất vì họ là những người hay bới lông tìm vết, hay phê bình chỉ trích, hay nói mà không làm. Chúa bảo họ là những người kiêu căng, tự phụ và giả hình vì họ giữ đạo theo hình thức bên ngoài, mà lòng họ xa Chúa.
Mục đích của việc Chúa quở trách là để dạy họ về đường lối Phúc âm của Người, và qua việc dạy họ, Chúa cũng dạy bảo ta nữa vì mỗi người chúng ta đều có những lúc giống người Biệt phái và Luật sĩ. Nếu có lời giảng dạy nào của Chúa và của người thừa hành mà làm ta suy nghĩ, thì đó là cái bước khởi đầu cho việc hối cải. Nếu Chúa khắt khe với người Luật sĩ và Biệt phái thì Chúa lại nhân từ với người chân thành khiêm tốn và thương xót người tội lỗi mà có lòng ăn năn sám hối. Vì tội lỗi của họ có thể là do hoàn cảnh xã hội hay nghèo túng gây ra như chuyện Thuý Kiều bán mình chuộc cha. Do đó cái hiện tượng đói ăn vụng, túng làm liều có thể được khoan hồng và ân xá. Vì thế áp dụng vào hoàn cảnh mỗi người, khi đi xưng tội ta phải xét cái cội rễ của tội hơn là quan sát và cắt cái ngọn. Cắt cái ngọn thì cây sẽ mọc lại, nhưng nếu nhổ cả rễ thì nó hết mọc. Cũng vậy, triệt cái cội rễ của tội mới hi vọng tránh phạm tội.
Trong Phúc âm hôm nay, Chúa kêu gọi người đàn bà bắt đầu cuộc sống mới, chấp nhận lòng nhân từ hay tha thứ của Chúa. Cái đề tài bắt đầu mới lại cũng được tìm thấy trong hai bài đọc Thánh kinh hôm nay. Tiên tri Isaia hôm nay nghĩ về cái cuộc xuất hành, cái cuộc giải thoát mới cho dân Chúa, không phải giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai cập, nhưng là giải thoát khỏi tội lỗi và nết xấu. Bài trích thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Philípphê cũng chứa đựng cái gì mới. Thánh Phaolô rao giảng việc bắt đầu mới trong đời sống mới, đời sống ân sủng với Chúa. Đọc Phúc âm ta thấy Chúa Giêsu ghét tội, nhưng Chúa lại nhân từ với người có tội. Chúa tỏ lòng từ bi, ban ơn tha thứ cho chị đàn bà tội lỗi để chị ta xa tránh tội. Trước hết Chúa ban cho chị lời trấn an: Không ai kết án con sao? (Ga 8:11). Theo sau là lời tha thứ: Ta cũng không kết án con (Ga 8:11).. Sau cùng là lời khuyên răn chỉ đạo: Con hãy đi và đừng phạm tội nữa (Ga 8:11).
.
Jos. Hồng Ân
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Gioan thuật lại cho ta thấy, Chúa Giêsu có một thói quen, mỗi khi giảng dạy dân chúng xong, mọi người ai nấy trở về nhà mình còn Chúa Giêsu thì lên núi để cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. Thánh Gioan nói rõ: “Đức Giêsu thì lên núi Ô-liu” (Ga 8, 1), Ngài lên núi để cầu nguyện, gặp gỡ Thiên Chúa suốt đêm, nên “vừa tảng sáng Người trở lại đền thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc ấy các Kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt đang phạm tội ngoại tình” (Ga 8, 2). Một phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang, chị bị điệu đi bêu xấu, xỉ nhục dọc đường và theo luật Môsê bị ném đá cho đến chết. Nhưng có một số người Pha-ri-sêu và các Kinh sư sẵn có ác ý với Chúa Giêsu, họ mưu toan tìm cách hại Người, nên họ đã nghĩ ra kế sách thâm độc. Họ đã dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến gần Chúa Giêsu hỏi thử Người, để làm một cái bẫy, đưa Ngài vào chòng, rồi họ sẽ kết án luôn cả Chúa Giêsu, như vậy “một mũi tên sẽ trúng hai đích”.
Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư nghĩ rằng phen này họ sẽ thắng và chắc chắn Chúa Giêsu cũng sẽ bị kết án. Họ hỏi thử người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Môsê đã truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8, 4-5). Nếu Chúa Giêsu trả lời tha cho người phụ nữ phạm tội, thì họ sẽ kết án Chúa vi phạm luật Môsê và ủng hộ tội lỗi, làm phá hoại nền tảng gia đình và xã hội. Còn Chúa trả lời lên án tử người phụ nữ đó, thì họ sẽ làm cho Ngài một phen bẽ mặt, vì giáo huấn Chúa dạy là phải yêu thương (x. Mc 12, 28-31), nhân từ (x. Mt 11, 29) và tha thứ (Lc 6, 37). Hơn nữa họ còn tố cáo là Ngài đã chống lại Rôma và vượt quyền xét xử của nhà lãnh đạo Lamã. Vì thời Chúa Giêsu Dothái bị đế quốc Lamã đô hộ, nhà cầm quyền Dothái không được lên án tử hình, mà phải đên trình lên Rôma xét duyệt. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ ác ý của họ, nên Người không trả lời mà “cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất” (Ga 8, 6). Kinh Thánh không nói Ngài viết chữ gì, nhiều ý kiến thì cho rằng: “có lẽ Ngài viết tội trạng của những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư”. Đây quả là một vụ án vô cùng khó xử.
Chúa Giêsu đã im lặng, cúi xuống viết trên đất, đó là khoảng thời gian vô cùng hồi hộp của người phụ nữ, chờ đợi phán quyết cuối cùng của Ngài. Là khoảng thời gian những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư nóng lòng chờ đợi Ngài đưa ra phán quyết để có cơ hội tố cáo Ngài. Chúa Giêsu cứ viết mãi, viết mãi, làm cho những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư phải khó chịu nên họ thúc dục Người: “Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng đầu lên và bảo họ: Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7). Rồi Chúa lại cúi xuống tiếp tục viết. Chúa Giêsu không nói là ném đá hay không ném đá, kết án hay không kết án, Ngài cũng không nói tới việc áp dụng luật, Ngài muốn thức tỉnh lương tâm của những kẻ tự cho mình là công chính, giữ luật cách máy móc, đến nỗi không còn phân biệt tốt xấu.
Chuyện kể rằng: Một người Dothái qua đời. Sau khi khám nghiện tử thi, các bác sĩ xác nhận người đó thực sự đã chết và cấp giấy chứng nhận để chôn cất. Trong lúc đang chuẩn bị hạ huyệt, mọi người bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên khi thấy người chết đã sống lại. Thế nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng, rồi nói với người trong quan tài rằng: “chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay đã chết, nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, quả thực ông đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của bác sĩ”. Nói xong ông truyền cho ban tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục cử hành nghi thức tang lễ và hoàn tất thủ tục chôn cất.
Có lẽ tác giả của câu chuyện trên muốn lên án, chế diễu tính cứng nhắc và máy móc của con người khi tuân các lề luật, cũng như khi cư xử với người đồng loại, với người đồng đạo, với những người thân cận.
Thời Chúa Giêsu, những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư họ cũng có thái độ như thế đối với lề luật. Họ tuân giữ luật lệ cách máy móc, làm cho luật trở nên nặng nề, họ trung thành với luật lệ đến nỗi không còn tình người, đến hy sinh tính mạng, giết chết người đồng loại, chôn sống cả người đồng hương.
Chúa Giêsu muốn nêu bật cái cốt lõi của lề luật, tinh thần đích thực của lề luật là tình thương. Chúa đánh đổ quan niệm ấy bằng cách chữa bệnh ngày Sabát, đón tiếp, ăn uống với những người tội lỗi và người thu thuế. Qua việc làm đó, Ngài muốn bày tỏ cho con người thấy được bộ mặt yêu thương, nhân từ hay tha thứ của Thiên Chúa, vượt qua mọi luật lệ của con người.
Lời nói của Chúa Giêsu: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”, đã làm cho những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư bừng tỉnh, nhận ra chính họ cũng là tội nhân trước mặt Chúa, nên đã lần lượt rút lui. Khi Chúa ngẩng lên thì không còn ai ở đó nữa, lúc đó Chúa mới đưa ra lời phán quyết. Chúa không xét xử như con người, cũng không dùng lề luật mà xét xử. Ngài dùng tình thương mà xét xử: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 11). Chúa đã để cho người tội lỗi có cơ hội ăn năn sám hối, chừa bỏ tội lỗi, trở về với Chúa và sống công chính để được hưởng ơn cứu độ của Ngài. Chúa phân biệt tội và người có tội, đối với tội thì Chúa triệt để lên án, không khoan nhượng, không dung thứ, cũng như ánh sáng không ở chung với bóng tối. Chúa lên án tội lỗi, dạy con người tránh xa tội lỗi. Suốt đời Chúa hằng đấu tranh với tội lỗi, đấu tranh đến giọt máu cuối cùng trên Thập giá để diệt trừ tội lỗi. Còn người có tội thì Chúa lại khoan dung tha thứ.
Trên đời, nhiều khi chúng ta cũng mang bộ mặt của Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư sống vụ luật, hình thức, giữ luật một cách máy móc, giữ giờ giấc đầy đủ, bề ngoài có vẻ như rất đạo đức nhưng lại hay soi mói, xét nét, lên án người khác từ những chuyệt rất nhỏ mà quên rằng: trước mặt Chúa chính ta cũng là kẻ tội lỗi, chúng ta mang nơi mình bản tính của con người là yếu đuối hay sa ngã phạm tội. Vậy mỗi khi định xét đoán người nào, hay lên án ai. Chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, không hề mang vết nhơ tội lỗi. Và ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán. Vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy. Và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em” (Mt 7, 1-3). Chúng ta không xét đoán tha nhân, thì Thiên Chúa cũng sẽ không xét đoán chúng ta như chúng ta đáng tội. Chúng ta dùng đấu tình thương mà đong cho tha nhân, thì Thiên Chúa sẽ dùng đấu tình thương ấy mà đong lại cho chúng ta. Mỗi người chúng ta biết yêu thương và tha thứ cho anh em khi họ xúc phạm đến ta, khi họ làm điều sai trái, thì Thiên Chúa cũng sẽ lấy thương mà đối xử nhân từ, khoan dung và tha thứ cho chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con cũng là những con người tội lỗi, nhưng chúng con lại hay chỉ trích, lên án và loại trừ người khác. Xin Chúa thức tỉnh lương tâm chúng con, để chúng con nhận biết chính chúng con cũng là những con người tội lỗi, để chúng con đối xử khoan dung và tha thứ cho anh em con. Xin Chúa cũng dùng tình thương mà đối xử với chúng con, như Chúa đã đối xử nhân từ với người tội lỗi trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
.
LÒNG KHOAN DUNG CỦA THIÊN CHÚA
Lm. PM. Cao Huy Hoàng
Các em thiếu nhi trong Giáo xứ thường xem trước bài Tin Mừng Chúa Nhật, đọc và tìm hiểu. Hôm nay, Bé Hữu đọc to đoạn tin mừng Ga 8, 1-11. Mẹ hỏi: “con hiểu thế nào?” Bé trả lời “Chúa Giêsu cứu một mạng người” “cứu ai” “Cứu bà kia”? “Ai định giết?” “Mấy ông luật sĩ định ném đá cho chết luôn” “Sao không ném?” “Ai cũng có tội mà ném gì, Mẹ? Họ rút êm hết rồi”
Còn Chúa thì sao? “Chúa bảo bà ấy về đi, đừng phạm tội nữa. Thế là bà ấy thoát chết”
“Thưa Thầy, phụ nữ ngoại tình này bị bắt tại trận. Theo Luật, Môise truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà như thế. Vậy, Thầy dạy sao?” (Gn 8:4-5)
Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội tình được đề cập trong bài Tin Mừng hôm nay đang đau khổ vì xét theo luật, phải bị công khai ném đá cho đến chết. Thực ra, chị không phải là nhân vật chính trong vụ xét xử theo yêu cầu của các luật sĩ. Nhưng chính là Chúa Giêsu. Họ đang muốn xử Chúa Giêsu. Và họ sẽ xử Chúa Giêsu nếu Ngài không xử người phụ nữ này đúng theo luật của Môise đã định. (Lv 20:10).
Thật tội nghiệp cho thân phận thiệt thòi của người phụ nữ. Không thấy người đàn ông tòng phạm bị ném đá!
Chúa Giêsu biết họ đang thử thách Ngài về lòng bác ái và việc thi hành lề luật. Ngài đã thinh lặng đến độ khó hiểu. Và khi Ngài lên tiếng, thì họ mới hiểu ra là Chúa Giêsu đứng về phía tội nhân. Ngài không bảo đừng ném đá, nhưng Ngài bảo ai đó cứ ném đi nếu tự thấy mình vô tội. “Trong các ông, ai vô tội thì hãy ném đá trước đi” (Gn 8:7).Ngài không bào chữa cho tội nhân, nhưng Ngài tha thứ và với ơn tha thứ Ngài khuyên người phụ nữ đừng phạm tội nữa. “Ta cũng không xử tội bà! Đi đi! Và từ nay đừng phạm tội nữa! (Gn 8:10-11).
Tin mừng đưa ra hình ảnh người đàn bà ngoại tình không có ý làm giảm nhẹ giá trị phụ nữ thời xưa hay thời nay, nhưng có ý nhắc đến “người phụ nữ là Dân Riêng Thiên Chúa” mà Thiên Chúa đã kết ước như một cuộc hôn phối diệu kỳ giữa Thiên Chúa như người chồng, và dân riêng như người vợ: “Vì ngươi sẽ được ĐỨC CHÚA đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể”.(x. Is 62, 4- 5). Và Ngôn sứ Hôsê: “Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu. Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương. Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết ĐỨC CHÚA. (Hôsê 2,21-22)
Còn trong Tân Ước, Chúa Giêsu Kitô là chàng rể và Giáo Hội chính là hiền thê của Ngài. “Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người” (Mt 25, 6). Cũng vậy, trong Giáo Hội mỗi thành phần đều là những người yêu quí của Chúa Kitô, thuộc về Chúa Kitô, trong ý nghĩa đã được hôn phối đời đời với Ngài.
Như vậy hình ảnh người vợ ngoại tình có ý nói đến việc dân riêng Thiên Chúa bỏ Thiên Chúa mà lang chạ với ngẫu thần ngẫu tượng, việc mỗi người chúng ta cắt đứt tình nghĩa với Thiên Chúa khi để lòng chúng ta yêu chuộng các sự thế gian hơn yêu mến Thiên Chúa, khi sống trong tình trạng tội lỗi.
Đâu chỉ có các bà!
Dân Chúa hôm nay có trong đó có tôi, có chị, có nam có nữ, có ông già bà già và cả con nít..thảy đều phạm tội ngoại tình.. xét theo nghĩa, ngoại tình là không chung thủy lời hứa hôn phối với Thiên Chúa qua bí tích rửa tội, qua lời hứa từ bỏ ma quỉ và các việc của nó…
Có người ngoại tình chạy theo lời dụ ngọt của lợi nhuận vật chất, của sự bảo bọc bao che cho những sai trái của mình mà phải làm tay sai cho một thế lực chống lại Thiên Chúa.
Có ông ngoại tình hết mình lo tiền bạc là vì xem tiền bạc là cứu Chúa đời mình mà quên việc phục vụ tha nhân.
Có ông vì run sợ trước họng súng để vào tai, trước lưỡi dao kề bên cổ, trước những đe dọa bắt bớ bỏ tù mà đành phản bội với Chúa Kitô và Thập giá của Ngài.
Có người muốn kết duyên với “chức trọng quyền cao” mà không chu toàn bổn phận đầy gian nan khổ ải, đòi hỏi những hiến thân phục vụ cho chân lý.
Cũng có những người ngoại tình vì những khát vọng khoái lạc chóng qua mà bỏ rơi Thiên Chúa muôn đời hằng hữu.
Có ông ngoại tình “bắt cá hai tay” không mất chuyện trong đạo mà được cả chuyện ngoài đời, trong ngoài đều có lợi……
Ma quỷ khôn ranh tạo ra muôn hình vạn trạng cách phạm tội ngoại tình đối với lời thề hứa chung thủy với Thiên Chúa và còn đưa dẫn chúng ta cách tài tình đến chỗ phải làm thân nô lệ cho tội lỗi.
Không ai vô tội. “Trong các ông, ai vô tội thì hãy ném đá trước đi”.
Lời Chúa xoáy vào tâm can mỗi người. Từng người rút êm. Không ai dám cầm viên đá mà quăng vào người phụ nữ.
Cách đây không lâu, chỉ vài chục năm thôi, tôi còn nhớ như in hình ảnh những cô “ăn cơm trước kẻng”, những bà có chồng công khai chung sống với người khác, đứng trước cộng đoàn đọc bản tự thú để được tha vạ mà xưng tội rước lễ. Tôi cũng thấy có các cô thôi, không thấy các anh, các ông. Các cô, các bà ấy bị những biện pháp chế tài vì là tội nhân công khai -có lẽ công khai vì cái bầu – Có nơi còn phải bị nộp phạt cho giáo xứ nữa.
Những dịp ấy, có nhiều tiếng xì xào trong nhà thờ. Ra khỏi nhà thờ, cả cô và bà đều cúi gầm mặt xuống mà đi vì xấu hổ trước mặt mọi người. Rồi, nếu có lễ cưới, thì Bí Tích Hôn Phối bị gọi là Phép Giao, cử hành trong phòng thánh mấy phút là xong.
Tưởng là khủng khiếp cho một não trạng phân biệt đối xử như thế, nhưng ít nhiều cũng đã bảo đảm được cho lớp trẻ một thời biết gìn giữ đức khiết tịnh tiền hôn nhân, lớp già biết gìn giữ đặc tính đơn hôn trong hôn nhân công giáo.
Xin một chút tản mạn ngoài lề… Còn thời nay… “Mẹ lạy con đừng phá cái thai ấy. Đã lỡ phạm tội, lỡ có bầu rồi, con đừng phạm thêm cái tội giết người nữa con ơi! Phá thai là giết người không có sức kháng cự, không có khả năng tự bảo vệ, là giết chính con mình… Tội tày trời. Mẹ năn nỉ con…”
Còn thời nay…. người trẻ chưa sống đời vợ chồng, đòi sống thử đã đành, người già cũng sanh tật tìm hoa thơm cỏ lạ, thành ra tội lỗi khắp nơi khắp chốn, tội lỗi đủ mọi lớp tuổi, mọi thành phần. Sống thử, ngoại tình, phá thai, ly dị… trở thành đại dịch để lại những hậu quả khủng khiếp về đời sống luân lý cho không chỉ một thế hệ, và chắc chắn cũng là hậu quả vô cùng tệ hại đối với sự tồn vong của một dân tộc ….
Nhưng xin đừng kết án. Xin đừng ném đá. Chúa Giêsu bảo: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,36-38).
Thực tế, lòng người quá hẹp hòi ích kỷ, như bà De Girardin đã nói: “ đàn bà chỉ tha thứ sau khi đã trừng phạt”, hoặc như Tennyson: “đàn bà rất cay nghiệt với đàn bà”. Vâng tính đàn bà ấy lại ngự trị ngay trong lòng những người đàn ông tưởng như là độ lượng. Ngược lại, không thiếu những phụ nữ còn độ lượng hơn cả đàn ông.
Đối với Chúa Giêsu, tha thứ tuyệt đối là điều kiện tiên quyết để phục hồi tình trạng nguyên tuyền của hôn ước thánh thiện giữa Thiên Chúa và con người, giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúa Giêsu là tấm lòng bao dung của Thiên Chúa. Lòng bao dung của Thiên Chúa được nhắc đến trong bài đọc 1, Is 43, 18-19: “Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước. Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn”.
Vâng, Thiên Chúa không nhắc lại chuyện xưa, không dằn xé đay nghiến, không trừng phạt tức khắc, nhưng chỉ biết khoan dung kiên nhẫn chờ đợi và thứ tha vô lượng. Ngài còn mở ra một con đường của bình an hy vọng: “Đừng phạm tội nữa”.
Và để có một hướng định quyết liệt cho việc không tái phạm tội, thánh Phaolô chỉ dẫn: “Thưa anh em, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô…….
Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. (Pl 3,8-14)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là lòng khoan dung của Thiên Chúa, xin cho chúng con giữ lòng chung thủy với Chúa, và khi lỡ lầm, xin cho chúng con biết vững tin vào lòng tha thứ vô lượng của Chúa, mà quyết tâm nối lại duyên tình hạnh phúc vô biên với Chúa, và dứt khoát nói “không” với tội lỗi. Amen.
.
Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Người Phụ Nữ Ngoại Tình. Câu chuyện ấy đã sảy ra trong thời Chúa Giêsu, khi Ngài đang trên đường rao giảng Tin Mừng Tình Yêu. Lúc bấy giờ danh tiếng Ngài được đồn thổi khắp nơi. Nhiều người mộ mến. Nhưng cũng lắm kẻ ghét ghen. Nhất là hạng thượng tế, luật sĩ, và biệt phái. Bao cuộc tranh cãi gay go về luật lệ đã nổ ra. Người ta muốn tố cáo, truất phế Ngài khỏi tâm hồn quần chúng, nhưng chưa đủ khả năng. Đã bao lần gài bẫy và nêu các vấn đề hóc búa, đều bị Ngài hoá giải dễ dàng. Bẽ bàng. Xấu hổ. Nhưng giới chống đối vẫn ngấm ngầm tìm cách.
Cơ hội thuận tiện chợt đến. Một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Họ lập tức tóm ngay con người khốn nạn đó. Lại đang lúc Chúa Giêsu có mặt trong đền thờ Giêrusalem. Dân chúng đông đảo bao quanh Ngài. Bằng miếng mồi mới bắt được, người ta chắc mẩm chuyến này Đức Giêsu phải sa lưới. Bởi lẽ theo luật Môisen ghi lại trong sách Lêvi: “Người nào ngoại tình với đàn bà có chồng, người nào ngoại tình với vợ của tha nhân, tất phải chết. Cả gian phu lẫn dâm phụ” (Lv 20:10). Cách xử tử những kẻ phạm tội ngoại tình sẽ là “kéo ra khỏi cổng thành mà ném đá chúng cho chết đi” (Đnl 22:24).
Lâu nay, giới chống đối cứ thấy Đức Giêsu giao du với phường thu thuế, đàng điếm, tội lỗi. Nhắc chuyện thì Ngài lại phán: “Ta không đến để kêu gọi những người công chính mà là hạng tội lỗi.” Nghe nhức tai quá. Chịu không được. Trong khi đó, Ngài cũng dạy người ta về sự công minh của Thiên Chúa: Cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt xuống mà quăng vào lửa đời đời. Thành ra, hôm nay, khi giương chiếc bẫy với miếng mồi “con mụ ngoại tình”, và câu hỏi “Thầy dạy sao, có nên ném đá con dâm phụ này không?”, nhóm luật sĩ biệt phái cầm chắc ưu thế trong tay.
Họ nhủ thầm: Nếu Đức Giêsu trả lời “Ném đá hắn” thì còn gì là yêu thương nữa. Giáo lý Ngài truyền dạy bấy lâu cũng chẳng có mới lạ. Bọn thu thuế đàng điếm sẽ mở mắt ra mà thấy Giêsu cũng chẳng thương xót gì họ.
Như thế là tạo mối nghi ngờ, rạn nứt ngay từ bên trong. Hạng tội lỗi sẽ mất tin tưởng vào Đức Giêsu. Còn Ngài sẽ không đi đi lại lại với chúng được nữa. Đó là chưa nói đến việc chính quyền đô hộ Rôma sẽ trừng phạt gắt gao người Do thái nào dám lên án tử cho kẻ khác.
Song nếu câu trả lời là “Đừng ném đá” thì lập tức Đức Giêsu sẽ lãnh viên đá đầu tiên, vì Ngài đã công khai chống lại luật Môisen, và dám dung túng, bao che cho phường ngoại tình, tội lỗi. Lúc này, nếu có trốn thoát được cái chết của “mưa đá” thì Đức Giêsu cũng bị khai tử nơi tâm hồn người ta. Ngài sẽ không còn mặt mũi nào để gặp gỡ dân chúng nữa.
Thật thâm độc! Miếng mồi không thể trốn chạy mà con mồi cũng chẳng thể chạy trốn. Chuyến này, có lẽ bất cứ lời nói nào của Đức Giêsu cũng sẽ trở thành bản án cho chính Ngài. Chiếc lưới đã giương lên chỉ còn chờ giờ sụp xuống.
Nhưng kìa, tại sao Ngài không nói gì cả? Câu hỏi dồn dập đổ xuống, ấy thế mà Ngài vẫn lặng im? Trước đây khi nêu vấn đề nộp thuế cho hoàng đế, Chúa Giêsu đã trả lời tức khắc, và nhanh chóng khoá miệng đối phương. Nhưng sao hôm nay Ngài lại thinh lặng? Có phải vì đây là vấn đề của lương tâm nên cần thời gian suy xét? Hay sự thinh lặng của Ngài thúc giục người ta nhìn lại chính mình? Nhìn lại để thấy sự giả dối núp bóng chân lý, lòng nham hiểm ẩn mình dưới lọng dù công chính. Tố cáo người phụ nữ ngoại tình nhưng lại nhằm lên án Chúa Giêsu. Hỏi “Thầy dạy sao?” nhưng vẫn cứ muốn ý gian của mình được thực thi.
Nhìn lại chính mình phải là thái độ tôi cần có trong mọi hành xử với tha nhân. Nhìn lại chính mình để biết cảm thông và tha thứ. Bởi lẽ, khi thinh lặng nhìn sâu vào cõi lòng, người ta sẽ không thể không khám phá ra sự thật này: Không có ơn Chúa thì đời tôi cũng chẳng hơn gì đời người; e rằng có khi còn tệ hơn. Khám phá được như thế chắc chắn người ta sẽ không hà khắc và tàn bạo với tha nhân.
“Ai trong các ông vô tội?” Lời mời gọi nhìn lại chính mình đó đã đưa đến quả: không còn ai lên án hay kết tội nữa, nhưng “kẻ trước người sau họ rút lui hết” (Gn 8:9). Thế mới hay khi con người biết thinh lặng xét mình, sự sống sẽ tồn tại. Những gì là độc ác, máu me, chết chóc, hận thù, la lối phải rút lui, nhường chỗ cho tình thương bộc phát và tràn lan.
Ở đâu có tình thương, ở đó có sự sống. Ở đâu có thứ tha ở đó có an bình. “Ta cũng không kết tội ngươi đâu. Đi đi. Và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8:11). Tình thương không kết án, nhưng luôn mở ngỏ cho sự sống mới được lớn lên.
Từ lâu lắm, tại một làng bên nước Ý, người ta có thông lệ ném từ đỉnh núi cao xuống cho tan xác những người đàn bà phạm tội ngoại tình.
Một hôm, có người phụ nữ không may bị bắt quả tang phạm tội khi chồng vắng nhà. Dân làng chuẩn bị hành quyết người đàn bà trước sự chứng kiến của người chồng. Thế nhưng, ngay hôm trước ngày xử tử, người chồng bỗng biến mất. Giờ hành quyết đã đến mà ông chồng vẫn biệt tăm. Mọi người chờ đợi. Đợi chờ.
Cuối cùng, dân làng cũng đưa người đàn bà lên núi. Và sau vài tiếng trống đưa hồn, bà ta bị đẩy xuống vực sâu.
Mấy hôm sau, dân làng vô cùng bỡ ngỡ khi thấy người đàn bà đó lại đang ra vào ngôi nhà của bà ta. Ai nấy lo sợ vì tưởng rằng hồn ma quay về phá phách. Nhưng rõ ràng họ thấy người chứ đâu phải ma. Mãi sau người ta mới khám phá ra. Số là, vì biết không thể nào phá bỏ được tục lệ để cứu vợ, nên trước ngày xử án, người chồng âm thầm vào rừng tìm những sợi dây mây nhỏ, bền, và đan thành một tấm lưới. Sau đó anh đem giăng dưới chân núi nơi thân xác người vợ sẽ bị xô xuống. Nhờ vậy mà nàng còn sống để trở về mái nhà xưa. Anh đã làm thế vì muốn tha thứ và cứu vợ mình khỏi án chết.
Trước tình yêu và hành vi tha thứ cao cả, dân làng đã nhất trí huỷ bỏ thông lệ tử hình vốn đã kéo dài bao trăm năm.
“Ta không kết tội ngươi đâu. Đi đi. Và từ nay đừng phạm tội nữa.” Noi gương Đức Giêsu, bạn và tôi cũng hãy mở đường cho hy vọng, thứ tha, và sự sống vươn lên. Nhưng trước hết chúng ta hãy cùng khởi đi từ gia đình và cộng đoàn của mình.
.
Lm. Nguyễn Ngọc Long
Theo suy nghĩ thông thường: tội lỗi và hình phạt đi liền với nhau. Nhưng có trường hợp lại không thể như thế được. Điều này các quan toà thường cân nhắc, tra cứu kỹ càng về nguyên do đưa đến tội lỗi trước khi tuyên bố hình phạt. Vì thế có nhiều trường hợp được ân giảm hay chỉ cảnh cáo thôi.
Tôi được nghe kể lại, ngày xưa thời cha mẹ tôi còn sinh sống trong xứ đạo làng xóm miền bắc Việt Nam, hễ ai, nhất là phụ nữ sống làm điều gì trá i với luân thường đạo lý, trái với công dung ngôn hạnh, trái với lẽ đạo, liền bị mọi người khinh khi, miệt thị dèm pha. Họ không còn cơ hội gì hội nhập với cuộc sống chung trong làng, trong xứ đạo được nữa và cả gia đình họ cũng bị lên án theo như vậy! Có những nạn nhân phải bỏ quê hương trốn đi nơi xa lạ để tìm cơ hội xây dựng cuộc sống mới.
Xã hội Do Thái ngày xưa, như trong phúc âm diễn tả lại (Ga 8,1-11), cũng cứng nhắc theo khuôn luân lý đạo đức nên đời sống con người bị khinh khi miệt thị, bị lên án ném đá cho tới chết, nếu ai làm điều gì trái với khuôn phép đạo giáo.
Chúa Giêsu đến, ngài không đối xử với con người như thế, nhưng với trái tim tình thương, với lòng nhân ái. Ngài loan truyền luật lệ khuôn phép cho đời sống, nhưng ngài không dựa hay nhân danh những luật lệ đó để kết án ai. Tội lỗi là sự xấu, ngược lại với tình yêu của Thiên Chúa, Đấng là tình yêu là thánh thiện. Tội lỗi mang lại những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội và nhất là làm tâm hồn con người mất bình an. Tội lỗi huỷ diệt đời sống làm con Thiên Chúa. Tội lỗi tạo hố ngăn cách con người với Thiên Chúa xa nhau và giữa con người với nhau. Tội lỗi vì thế cần phải bài trừ, nhưng không được bài trừ người có tội.
Chúa Giêsu đối diện với một nạn nhân của xã hội cứng nhắc theo luân lý đạo giáo, đối diện với một người làm điều tội lỗi như phúc âm thuật lại (Ga 8, 1-11). Trước hết ngài bảo cho mọi người: Các ông hãy soi gương xem mình có sạch không đã. Các ông hãy xét mình xem mình có vô tội không đã, trước khi bảo người khác là có tội và kết án họ!
Sau cùng ngài không dựa theo nguyên do để giảm án ân xá cho tội nhân, nhưng ngài mở cho chị ta con đường hướng về tương lai làm lại cuộc đời: Thầy không lên án con đâu. Chị đi về bằng an và từ nay đừng phạm tội nữa!(Ga 8, 11). Đó là con đường ăn năn sám hối trở về với tình yêu, trở về với đời sống là con cái Thiên Chúa, đấng là sự thánh thiện. Trở về để tâm hồn có lại bình an.
Vẫn biết tội lỗi trái với đạo giáo, luân lý là điều không lành mạnh, không tốt. Nhưng đâu chỉ có thể căn cứ vào đạo giáo luân lý để khinh khi coi thường, kỳ thị sự sống con người được. Đạo giáo luân lý giúp cuộc sống con người thăng tiến nhất là về mặt tinh thần, chứ không bao giờ là bước cản trở nhận chìm nhân vị con người xuống bùn đen.
Sự sống con người thể xác lẫn tâm hồn là điều cao quý hơn mọi thứ ở đời. Sự sống vì thế cần phải được kính trọng bảo vệ nâng đỡ. Đã là người ai cũng có khuyết điểm, cũng có thời gian làm điều lầm lỗi, nhưng ai cũng có khả năng ý chí lòng muốn làm điều lành, điều thánh thiện, điều tốt hợp với luân lý đạo giáo.
Thiên Chúa đã dựng nên con người với khả như thế và Chúa Giêsu đã sống làm gương: ngài không kết án hay giảm án nhưng ngài kêu gọi và mở con đường hướng về tương lai cho người phụ nữ tội lỗi làm lại cuộc đời, ăn năn trở lại với tình yêu Thiên Chúa và với đời sống con người.
.
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA.
Lm. Anthony Trung Thành
Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Tuần trước chúng ta được cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa qua dụ ngôn người cha nhân hậu (x. Lc 15,11-32).
Tuần này chúng ta lại được cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa, qua lời nói và thái độ của Chúa Giêsu trong câu chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình (x. Ga 8, 11-32).
- Tha thứ sẽ cứu sống, kết án sẽ giết chết
Tội thì đáng phạt và hình phạt nặng nhất là phải chết. Nhưng Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, trái lại Ngài muốn nó ăn năn sám hối và được sống(x. Ed 18,23). Vì vậy, Chúa Giêsu thường lui tới với người tội lỗi không phải tìm cách kết án nhưng tìm cách để tha thứ. Tha thứ để cứu sống họ. Ngài đã từng tha thứ cho Mathêu, cho Mađalêna, cho Phêrô, cho kẻ trộm lành và cho những kẻ đóng đinh Ngài. Ngài cũng dạy Phêrô tha thứ cho anh em không phải bảy lần mà bảy mươi lần bảy (x. Mt 18,22). Biết được tinh thần tha thứ của Chúa Giêsu như vậy, nên những người luật sĩ và biệt phái mới giăng bẫy để làm hại Ngài. Họ dẫn đến với Ngài một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, để nhờ Ngài xét xử. Cái bẫy họ giăng ra, nhằm mục đích làm cho Chúa phải tiến thoái lưỡng nan. Nếu Chúa Giêsu kết tội người phụ nữ, thì dĩ nhiên Ngài đi ngược lại với tình thương tha thứ mà lâu nay Ngài rao giảng. Mặt khác, Ngài sẽ vi phạm quyền xét xử của Đế quốc Rôma đang cai trị nước Do Thái lúc bấy giờ. Còn nếu Chúa Giêsu tha cho người phụ nữ, thì Ngài lại đi ngược lại với Luật của tiền nhân. Vì theo luật Do thái, người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình sẽ bị ném đá cho đến chết (x. Lv 20,10; Đnl 22,22). Nhưng, khi có lòng thương xót thì luôn tìm kiếm cách thế để cứu thoát. Cách thế của Chúa Giêsu lúc này là gì? Tin Mừng kể lại, sau khi nghe người Do Thái tố cáo, Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Có lẽ Ngài muốn làm thế là để giúp họ có thời gian xem xét lương tâm của mình. Đó cũng là thời gian để Ngài tìm cách giải cứu phạm nhân. Thánh Giêrônimô thì cho rằng Chúa Giêsu đang viết tội của họ. Nhưng vì họ cứ hỏi mãi, nên Chúa Giêsu đứng lên và bảo họ: “Ai trong các ngươi sạch tội thì hãy ném đá chị này trước đi”(Ga 8,7). Nhưng rồi, không thấy ai ném đá, tức là không ai trong bọn họ sạch tội. Lạ lùng hơn nữa, họ im lặng và “Rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất”(Ga 8,9). Như vậy, Lòng thương xót của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Khi chỉ còn Ngài và người phụ nữ, Ngài nói: “Tôi cũng không kết án chị đâu”(x. Ga 8,11). Không kết án, đó là bản chất của Lòng Thương Xót. Như vậy, bài học mà Chúa muốn dạy chúng ta đã rõ ràng: Nếu có Lòng Thương Xót thì sẽ tìm ra cách thế để giải quyết, cho dù sự việc có bế tắc đến đâu. Bởi vì, tình thương tha thứ bao giờ cũng cứu sống, còn kết án thì sẽ giết chết.
- Cần sửa mình trước khi sửa anh em
Đối nghịch với Chúa Giêsu, là hạng người biệt phái và luật sĩ. Họ luôn tìm cách để kết án. Kết án có nguy cơ giết chết. Họ bắt được một người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Theo luật Môsê, họ có quyền ném đá người phụ nữ này cho đến chết. Nhưng, họ muốn bắn một mũi tên mà trúng hai đích. Đối với họ, đây là một cơ may để họ gài bẩy Chúa Giêsu. Cho nên, với thái độ đầy sát khí, họ lôi kéo người phụ nữ đến với Chúa Giêsu để gài bẩy người. Chúa Giêsu nói với họ: “Ai trong các ngươi sách tội thì hãy ném đá chị này trước đi” (Ga 8,7). Lời mời gọi xem ra nhẹ nhàng nhưng đã xoáy vào lương tâm của họ. Bởi vì, đã là con người thì ai cũng phạm tội: Không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ. Tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Thông thường, càng nhiều tuổi thì lại càng nhiều tội. Chính câu chuyện Tin mừng này thôi cũng cho ta thấy những người Do Thái đã mắc hai thứ tội rất nặng: Tội thứ nhất là “Bêu xấu người phụ nữ”; tội thứ hai là “Gài bẩy” để âm mưu giết chết Chúa Giêsu. Vì vậy, Thánh Luca kể: “Họ im lặng và rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất” (Ga 8,9). Hành động rút lui của họ, chứng tỏ họ biết nhận ra tội lỗi của mình. Đó là bước đầu của sự sám hối. Hy vọng, sau đó họ sám hối thực sự để trở về với Thiên Chúa tình thương.
Bản chất của con người thường hay che dấu tội mình, nhưng lại thích khuếch trương tội người khác. Tội của mình thì bỏ vào túi đeo sau lưng, còn tội người khác thì đeo vào chiếc túi trước ngực. Người xưa nói không sai: “Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Bài học chúng ta rút ra cho bản thân là: Phải sửa mình trước khi sửa người khác với nguyên tắc người xưa rằng: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”.
- Từ nay đừng phạm tội nữa
Chúa Giêsu đã từng nói với người thanh niên, muốn được hưởng sự sống đời đời thì một trong những tội cần phải tránh là tội ngoại tình (x. Mt 19,18). Tội ngoại tình cũng là một trong những thứ tội phạm đến điều răn thứ 9 trong 10 điều răn của Chúa. Tội ngoại tình gây ra những hậu quả hết sức nặng nề trong đời sống gia đình, đặc biệt là trong mối quan hệ vợ chồng. Người ngoại tình sẽ đánh mất niềm tin và sự kính trọng của người phối ngẫu, dẫn đến việc đánh ghen, cãi vã, đuổi ra khỏi nhà và ly dị. Có lẽ vì lý do đó mà theo luật Do Thái, ngoại tình là một trong ba tội lớn nhất và bắt buộc phạm nhân phải chết. Hình thức xử tội ngoại tình là ném đá cho đến chết. Tại Việt Nam chúng ta, ngoại tình dẫn đến ly hôn bị phạt tù 1 năm là nội dung được quy định tại Điều 182 Bộ luật hình sự 2015 (Có hiệu lực từ ngày 01/7/2016).
Việc Chúa Giêsu tha cho người phụ nữ, không có nghĩa là Ngài coi thường tội ngoại tình, nhưng để chị ta khi đối diện với “Lòng Thương Xót” mà hoán cải đổi mới cuộc đời. Vì vậy, Ngài nói với người phụ nữ: “Ta không kết án chị đâu. Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”(Ga 8,11). Chúng ta không biết sau đó cuộc sống của người phụ nữ này như thế nào. Nhưng ai cũng hy vọng chị sẽ đổi mới cuộc đời của mình giống như Mathêu, Giakêu, Mađalêna sau khi gặp Chúa Giêsu. Tức là cái mới thay thế cho cái cũ, đời sống tốt lành sẽ thay thế cho đời sống tội lỗi, như lời mời gọi của Bài đọc thứ nhất: “Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Ðây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện”(x. Is 43, 18-19). Chính Thánh Phaolô đã thực hiện triệt để lời mời gọi này. Sau cú ngã ngựa trên đường Đamát, Ngài đã quên đi quá khứ tội lỗi của mình và hướng tới tương lai để sống trọn ơn kêu gọi của Thiên Chúa. Ngài nói: “Tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Ðức Giêsu Kitô”(Pl 3,13-14). Ước gì mỗi người chúng ta cũng luôn biết quên đi quá khứ tội lỗi để hướng tới tương lai, với một lòng dốc quyết mạnh mẽ “Từ nay tôi sẽ không phạm tội nữa”.
Lạy Chúa Giêsu, vì lòng thương xót, Chúa đã tìm cách để cứu người phụ nữ ngoại tình trước cái bẩy mà người Do Thái giăng ra. Xin cho mỗi chúng con có được lòng thương xót của Chúa, luôn biết nghĩ cách để cứu anh em mình hơn là kết án họ. Xin cho chúng con biết nhận ra tội lỗi của mình để thống hối ăn năn xưng tội và quyết tâm từ nay không còn phạm tội nữa. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY_C
Lm Giuse Đinh tất Quý
“Thôi, chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”(Ga 8,11).
1. Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe chẳng khác gì một phiên toà. Bị cáo là một người phụ nữ. Nguyên cáo là các kinh sư và những người Pharisiêu. Tội phạm là tội ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách bị ném đá. Thực ra các kinh sư và những người Pharisiêu không cần đến Đức Giêsu làm quan toà. Họ có thể căn cứ vào luật Môise để thi hành án. Họ đến hỏi ý kiến Đức Giêsu không phải với thiện ý nhưng nhằm gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Chúa tha cho người phụ nữ họ có cớ để tố cáo Chúa chống lại luật Môisê. Nếu Chúa kết án người phụ nữ họ sẽ rêu rao với mọi người rằng Chúa là Người mâu thuẫn với chính mình vì Chúa vẫn giảng dậy về lòng nhân từ thương xót. Cái bẫy thật hiểm độc. Đằng sau bản án dành cho người phụ nữ họ hy vọng sẽ có một bản án khác dành cho Đức Giêsu.
Đứng trước sự việc đó Chúa đã phản ứng thế nào?
Chúa đã im lặng, và Người cúi xuống viết trên đất. Người im lặng vì không đồng tình với thái độ của họ. Người im lặng để mọi người có thời gian trở về với cõi lòng của mình và thấy được những gì đang lắng đọng ở trong đó. Người không trả lời vì câu hỏi họ đặt chưa đúng chỗ. Người không trả lời câu hỏi của họ để rồi sau đó Người đưa ra cho họ một câu hỏi khác cơ bản hơn.
Vì họ cứ hỏi mãi nên Người đành ngẩng lên. Họ chờ đợi Người lên tiếng thì Người lên tiếng. Nhưng lời Người khiến họ chới với. “Ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném trước đi”(Ga 8,7). Họ mời Đức Giêsu làm quan toà xét xử người phụ nữ, nhưng thật không ngờ là Đức Giêsu lại trở thành quan toà xét xử họ. Họ đợi chờ Đức Giêsu kết án người phụ nữ, nhưng thật không ngờ là Đức Giêsu lại kết án họ. Họ mang đá đến để ném vào người phụ nữ, nhưng thật không ngờ là Đức Giêsu lại ném một hòn đá vào chính lương tâm họ.
Chỉ có điều, họ muốn Đức Giêsu làm quan toà để giết chết, nhưng Đức Giêsu lại là quan toà để cứu sống. Những hòn đá họ mang đến với mục đích ném vào người phụ nữ cho chị ta chết đi, thì hòn đá Đức Giêsu ném vào lương tâm đã giúp họ sống lại. Họ như được bừng tỉnh khỏi cơn mê muội, nhận biết mình tội lỗi, và ngay sau đó họ đã lần lượt rút lui không dám kết án người phụ nữ nữa.
Xét xử các kinh sư và những người Pharisiêu rồi, Đức Giêsu mới quay lại xét xử người phụ nữ. Với ánh mắt dịu dàng, với những lời lẽ hiền từ, Đức Giêsu đã đưa ra lời phán xét: “Tôi không kết án chị đâu! Thôi, chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”(Ga 8,11).
Thật là một lời phán xét lạ lùng. Lời phán xét của Chúa không tàn nhẫn độc đoán nhưng dịu dàng và nhân hậu.
Lời phán xét của Chúa không soi mói xét nét nhưng đại lượng và bao dung.
Lời phán xét của Chúa không cay đắng trách móc nhưng ân cần và vỗ về.
Lời phán xét của Chúa không làm sỉ nhục con người tội lỗi nhưng giúp họ phục hồi nhân phẩm của mình.
Lời phán xét của Chúa không giam cầm tội nhân trong quá khứ, nhưng mở ra cho họ một tương lai.
Ở đây chúng ta thấy Chúa đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm lỗi tội nhân. Chúa hoàn toàn tin tưởng khi trao tương lai vào tay người phụ nữ: “Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
2. Vâng kính thưa anh chị em. Đó là nội dung câu chuyện qua bài Tin Mừng hôm nay.
Khi chú giải về sự kiện này Thánh Augustinô viết một câu rất vắn nhưng cũng rất hay: “Relicti sunt duo:miseria et misericordia” Chỉ còn lại hai: một bên là sự khốn nạn và bên kia là lòng xót thương” Cha Nil Guillemetre còn viết thêm :”La misericorde en face de la misère. C’ est tout l Évangile “Lòng xót thương giáp mặt với sự khốn cùng đó là tất cả Tin Mừng”.
Phiên tòa bây giờ không có nguyên cáo và cũng không có ai phán xét. Và Chúa Giêsu lại một lần nữa minh chứng cho những gì mà Chúa đã từng tuyên bố :”Con người đến không phải để xét xử thế gian nhưng để thế gian nhờ Ngài mà được cứu” (Ga 3,17).
Kính thưa anh chị em.
Tới đây thì chắc anh chị em đã thấy được tấm lòng của Chúa như thế nào. Bao nhiêu lần Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Chẳng ai trong chung ta trong sạch. Tất cả mọi người chúng ta đều nhận được tình thương tha thứ của Chúa. Rồi cũng lại bao nhiêu lần chúng ta đọc kinh lạy Cha. Thánh lễ nào cũng vậy chúng ta hát hay đọc thật rõ lời của Chúa và tha cho chúng con như chúng con cũng tha.
Thế nhưng thực tế trong cuộc sống sự việc đã thường xẩy ra như thế nào. Hình như tự trong đáy lòng của chúng ta, chúng ta ít nhiều cũng đang là những biệt phái và luật sĩ như trong bài Tin Mừng hôm nay. Lời Kinh Thánh vẫn còn đó: Hãy cẩn thận khi đoán xét người khác.
Để kết thúc tôi xin gửi đến anh chị em câu chuyện rất cảm động và tác giả kể lại câu chuyện này không ngần ngại xếp nó vào loại những câu chuyện lạ lùng nhất của thế giới. Đây là câu chuyện có thật. Chuyện có liên hệ đến một tên tử tù. Anh tên là Demay. Anh bị bắt vì tội giết người. Anh giết tới 5 người trong đó có viên thanh tra cảnh sát tên là Pierre Bréant.
Khi bị đưa ra tòa, Demay bị lãnh án tử hình. Ai cũng cho như thế là đính đáng.
Thế nhưng tổng thống Vicent Auriol đã ân xá cho anh ta. Phải chăng tổng thống quá nhân từ. Không phải thế. Sau khi ân xá cho Demay trong một cuộc phỏng vấn tổng thống đã tâm sự như thế này: “Có những vấn đề đã làm tôi phải thức trắng đêm. Trường hợp của Demay cũng vậy. Tại sao tôi lại không chấp thuận để đưa nó lên đoạn đầu đài? Vì lẽ gì tôi đã bằng lòng ân xá cho nó. Đây là lý do. Lý do này tôi đọc được trong bản báo cáo của phiên tòa xử Demay. Đây là lời của Demay nói trước quan tòa:
“Tôi muốn nói với quí vị một vài lời. Tôi xin thưa với quí vị rằng mẹ tôi thường không cho tôi bú sữa dầu tôi có phải khóc lên vì đói. Mẹ tôi say sưa cả ngày. Cha tôi cũng vậy. Ông thường dùng gậy để đập vào đầu tôi.
Qúi vị là những người được may mắn sinh trưởng trong một gia đình khá giả, đủ ăn đủ mặc, được học hành đầy đủ. Quí vị đâu có biết cái cảnh những đứa trẻ con nghèo đói rách nát phải đi lang thang bới những thứ người ta vất đi ở thùng rác mà sống.
Quí vị đâu có thấy được cái cảnh một bà mẹ say sưa nằm chết sõng sượt trên vũng bùn nhơ, rồi đứa con thơ phải cố lôi xác mẹ vào trong một túp lều ở dưới hầm cầu, tắm rửa, thay quần áo cho mẹ, rồi đợi để đưa mẹ đi chôn. Hình ảnh đứa bé vừa lên chín ấy là tôi.
Tôi sống trong sự cơ hàn. Mãi đến năm 20 tuổi tôi vẫn chưa có được một ly rượu ngọt để uống.
Quí vị là những người tượng trưng cho cái xã hội thượng lưu. Quí vị là những người có nhiệm vụ lo cho đời sống của mọi công dân trong nước… Thế mà quí vị đã để cho tôi đói khát, không chút tình thương, không được học hành, không hiểu thế nào là đạo đức, là luân lý. Vậy mà bây giờ quí vị lại đứng ra buộc tội tôi. Tôi muốn tố cáo ngược lại quí vị, tố cáo cái xã hội đầy bất công là nguyên nhân đã gây ra tội lỗi này.”
Kính thưa anh chị em
Đọc xong câu truyện này tôi tự hỏi không biết Chúa sẽ xử trí như thế nào nếu Chúa phải đứng trước một hoàn cảnh tương tự như thế. Chẳng cần phải nói anh chị em cũng thấy những câu chuyện như thế chẳng còn xa lạ gì với chúng ta nhất là trong cái xã hội mà chúng ta đang sống hôm nay.
Công bình mà nói thì chúng ta phải cám ơn Chúa. Dù sao thì chúng ta cũng còn có mái nhà để ở, có bát cơm để ăn. Chúng ta còn được giáo dục cho biết đâu là điều hay lẽ phải. Hơn nữa chúng ta còn được Chúa dạy dỗ.
Nhưng bên cạnh chúng ta, trước mắt chúng ta còn biết bao nhiêu người đang phải quằn quại trong đau khổ vì….nghiện ngập, thiếu tình thương? Tại ai thưa anh chị em? Biết đâu chúng ta chẳng có một phần trách nhiệm trong đó? Đừng đổ tội cho ai nhưng hãy thành tâm xét mình trước mặt Chúa và hãy làm một điều gì đó để sửa lại lỗi lầm của mình. Amen.
.
SUY NIỆM VÀ CẦU NGUYỆN CN 5 MÙA CHAY_C
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Bị bắt quả tang phạm tội là điều đáng xấu hổ.
Nhưng nếu tội đó là tội ngoại tình
thì thật là kinh khủng.
Ta cần hình dung người phụ nữ ấy, xốc xếch, rối bù,
bị lôi đi, mắt cúi xuống tránh những cái nhìn khinh miệt.
Trời tang tảng sáng, nơi Ðền thờ Giêrusalem,
Ðức Giêsu đang ngồi giảng dạy cho đám đông.
Chị ta bị đặt trước mặt Ngài, đứng ngay giữa.
Các kinh sư và Pharisêu hí hửng với cái bẫy của mình.
Người phụ nữ này thật là một cơ may hiếm có
để họ có bằng chứng tố cáo Ngài.
“Luật Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng người này
Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”
Quả là một câu hỏi bất ngờ, lịch sự và nham hiểm.
Ðức Giêsu không thể nói ngược với luật Môsê,
và cũng không thể nói ngược với trái tim của mình.
Ngài cúi xuống, lấy tay vẽ nguệch ngoạc trên đất.
Có vẻ như Ngài thờ ơ, không muốn can dự vào
hay Ngài đang suy nghĩ cho ra câu trả lời thích hợp.
Thời gian thinh lặng trôi qua, các kẻ tố cáo sốt ruột.
Họ đắc thắng gặng hỏi, tưởng Ngài bị dồn vào thế bí.
“Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi”.
Ngài trả lời, rồi lại cúi xuống viết trên đất.
Câu trả lời của Ngài bất ngờ vang trong tĩnh lặng,
bắt người ta phải trở về đối diện với lòng mình.
Ai dám tự hào mình vô tội?
Có bao tội bất trung nặng chẳng kém tội ngoại tình.
Có bao tội ngoại tình thầm kín không bị bắt quả tang.
Có bao tội ngoại tình trong tư tưởng và ước muốn.
Khi tố giác người khác, người ta thường quên tội của mình.
Không thấy cái xà ở mình mà lại thấy cái rác nơi người khác.
Các kinh sư và Pharisêu đã khiêm tốn xét mình.
Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội.
Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước.
Chúng ta trân trọng thái độ chân thành của họ.
Họ ra đi, để lại hai người mà họ tố cáo và định tố cáo.
Cuối cùng chỉ còn lại người đáng thương và chính Tình Thương.
Bầu khí trở nên nhẹ hơn, êm hơn cho cuộc đối thoại.
Ðấng duy nhất có thể ném đá lại nói:
“Tôi không lên án chị đâu! Chị về đi,
từ nay đừng phạm tội nữa”.
Lắm khi việc áp dụng luật lại dẫn đến bế tắc.
Ném đá quả là một hình phạt răn đe hữu hiệu,
nhưng lại không ích lợi gì cho người phạm tội.
Ðức Giêsu chẳng những đã cứu một mạng người,
Ngài còn làm sống lại một đời người.
Dù con người vốn yếu đuối, dễ sa ngã,
nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và hy vọng vào họ.
Ngài không dung túng cái xấu, nhưng Ngài khơi dậy cái tốt
còn đang yên ngủ nơi người phụ nữ và cả nơi các kinh sư.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
.
Lm Ignatiô Trần Ngà
Con người có đôi mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Người ta thường nhìn ra ngoại giới nhưng rất ít khi hướng vào nội giới, vào nội tâm mình. Chúng ta có thể nhìn thấy khuôn mặt của những người chung quanh nhưng khuôn mặt duy nhất trên đời chúng ta không bao giờ có thể nhìn thấy trực diện, đó là khuôn mặt của chính mình! Một nốt ruồi nhỏ trên khôn mặt người khác, ta thấy rõ ràng; còn vết sẹo lớn trên trán mình, ta không nhìn thấy được. Lỗi lầm nho nhỏ của người khác, ta thấy tỏ tường; còn những lầm lỗi tệ hại của mình thì lại không hay biết. Thế rồi, chúng ta dành nhiều thì giờ để phê phán người khác mà chẳng mấy khi phê phán bản thân.
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng thế. Họ nhìn thấy rõ ràng tội lỗi của người phụ nữ ngoại tình, nhưng không nhìn thấy tội lỗi của họ. Họ bận tâm đến việc kết án người khác, nhưng không quan tâm đến việc sửa chữa lầm lỗi của bản thân. Chính vì thế, Chúa Giê-su muốn dạy cho họ một bài học tâm linh cần thiết là hãy trở về với nội tâm để nhận ra tội lỗi của mình trước, hãy trách mình trước rồi trách người khác sau. Cổ nhân cũng thường dạy như thế: “Tiên trách kỷ hậu trách nhân.”
Bấy giờ, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giê-su. Họ hối thúc Chúa Giê-su đưa ra ngay một phán quyết định đoạt số phận của người đàn bà tội lỗi. Về phần mình, Chúa Giê-su muốn dẫn dắt những người tưởng mình vô tội trở về với nội tâm để nhận ra tội lỗi mình mà hoán cải trước đã.
Thế nên, đứng trước những con người đang lăm le kết án người phụ nữ và mưu toan ám hại mình, Chúa Giê-su im lặng. Người thinh lặng và tạo nên bầu khí tĩnh lặng để tạo cơ hội cho mọi người tự vấn lương tâm. Người muốn kéo dài sự thinh lặng bằng cách ngồi xuống viết trên đất.
Khi người ta cứ hỏi mãi, phá tan sự im lặng cần thiết cho sự rà soát tâm hồn, Chúa Giê-su lên tiếng kêu mời họ hãy xét lại mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”.
Rồi Người lại ngồi xuống thinh lặng, tiếp tục viết, viết trên đất để tạo bầu khí yên tĩnh cho mọi người hồi tâm.
Sau một hồi nhìn lại nội tâm mình trong yên lặng, những con người hăm hở kết tội người phụ nữ giờ đây dần dần nhận ra tội lỗi của họ, có khi còn nhiều hơn, còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của người phụ nữ. Thế là những viên đá trên tay họ lụp cụp rơi xuống. Ai nấy xấu hổ lặng lẽ rút lui, để lại một mình Chúa Giê-su và người thiếu phụ. Hoá ra rốt cuộc ai cũng nhận ra mình là người có tội, mà đã là người có tội thì sao không kết án mình trước? Sao lại đang tâm lên án người khác, có khi còn ít tội hơn mình!
Trở về với nội tâm để thấy được tội lỗi của mình là điều kiện tiên quyết để cải thiện bản thân.
Nếu tôi biết được mình hôi hám, tôi sẽ đi tắm ngay. Còn nếu tôi không nhận ra mùi hôi của cơ thể mình, thì mãi mãi tôi vẫn là người hôi hám.
Nếu tôi biết khuôn mặt mình dơ bẩn, tôi sẽ lau rửa tức khắc; bao lâu chưa thấy những vết dơ trên mặt, thì không hi vọng có khuôn mặt sạch sẽ hơn.
Nếu tôi thấy được sự xấu xa của nội tâm, sự bê bối của đời sống mình, tôi sẽ cải thiện ngay không trì hoãn.
Sự chuyển hóa bản thân, cải thiện cuộc sống chỉ thực sự bắt đầu lúc ta tự nhận biết tội lỗi mình.
***
Lạy Chúa Giê-su, trở về với nội tâm để rà soát chính mình, để thấy được tội mình là điều rất khó thực hiện và cũng chẳng được bao người quan tâm. Xin Chúa thương giúp đỡ chúng con thực hiện công việc hệ trọng nầy.
Xin cho Lời Chúa trở nên tấm gương soi tâm hồn, giúp chúng con nhận ra những nết xấu làm vấy bẩn lòng trí, làm suy thoái nhân cách và giúp chúng con cải thiện kịp thời để trở nên người có phẩm chất cao đẹp đáng được Chúa và mọi người mến yêu.
.
Lm. Gioan M. Nguyễn thiên Khải
Thưa anh chị em,
Lịch sử cứu độ là một chuỗi dài vô tận về một Thiên Chúa bao dung tha thứ.
Đầu tiên, Thiên Chúa đã tha thứ cho ông bà nguyên tổ, tha thứ cho Vua Đavít ngoại tình, nhiều lần Chúa tha thứ cho dân Israel không trung thành với lời giao ước… đến thời Tân ước, Đức Giêsu bày tỏ dung mạo lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Ngài tha thứ cho cho Phêrô sau ba lần chối Chúa, tha thứ cho đám lý hình: “Lạy Cha! Xin Cha tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết, Chúa tha thứ cho người trộm lành: “Ta bảo thật ngươi, ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Chúa nhật tuần trước chúng ta chiêm ngắm lòng tha thứ của Thiên Chúa như người cha nhân hậu, dang rộng đôi tay chờ đón đứa con hư đốn trở về, để tha thứ và mở tiệc ăn mừng. Tuần này, Giáo hội mời gọi chúng ta tiếp tục nhìn lên tấm lòng tha thứ của Chúa qua câu chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình.
Thánh sử Gioan trình bày câu chuyện này như một phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ. Nguyên cáo gồm giới lãnh đạo Do thái. Xét xử về tội ngoại tình. Bản án tử hình là ném đá cho chết. Thực ra họ không cần đến Đức Giêsu làm quan toà. Họ có thể dựa vào luật Môisen để thi hành án. Thế nhưng, giới lãnh đạo Do thái muốn đặt câu hỏi với vị thẩm phán Giêsu, họ có ý gài bẫy Ngài: “Thưa Thầy! Thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môisê thì hạng phụ nữ này phải ném đá cho chết, còn Thầy, Thầy dạy sao?”. Và rồi họ chờ xem Đức Giêsu sẽ xét xử như thế nào. Nhìn thoáng qua là như thế.
Thế nhưng, nếu chúng ta suy niệm sâu xa hơn, thì sẽ thấy đây không chỉ là vụ án người phụ nữ bị xử về tội ngoại tình, mà đúng hơn là vụ án Giêsu. Tại sao vậy! Bởi vì bị cáo ở đây là chính là Đức Giêsu, khi giới lãnh đạo Do thái lập mưu bày kế đặt ra câu hỏi: Còn Thầy, Thầy dạy sao! Ném đá hay là không ném đá?.
Giả như Đức Giêsu bảo cứ ném đá thì ngay lập tức, Tin mừng Đức Giêsu rao giảng về một Thiên Chúa giàu lòng thương xót sẽ sụp đổ tan tành. Hình ảnh của một Giêsu có lòng từ tâm, nhân hậu, bao dung và tha thứ sẽ trở nên vô nghĩa. Còn ngược lại, nếu Chúa bảo không ném đá, thì họ cho rằng: Đức Giêsu phá bỏ luật Môisen. Trả lời cách nào cũng chết.
Nhưng không ngờ câu trả lời của Đức Giêsu không còn là vụ án về người phụ nữ phạm tội ngoại tình, cũng không phải là vụ án Giêsu mà là trở thành vụ án lương tâm của mỗi người.
Khi Đức Giêsu lên tiếng rằng: “Ai trong các ông sạch tội thì hãy ném đá người này trước đi”. Với câu nói này, Đức Giêsu biến tất cả những nguyên cáo trở thành những người bị cáo. Bởi vì nhìn lại lương tâm người nào cũng thấy mình có tội cả. Vua Đavít đã cảm nghiệm được điều này nên đã thưa lên cùng Chúa:
“Lạy Chúa! Ngài thấy cho lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 50,7).
Thánh sử Gioan ghi nhận từ người lớn tuổi cho đến người nhỏ tuổi từ từ rút lui hết. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì những người tố cáo này cứ tưởng là mình vô tội, cho nên trong tay họ cầm hòn đá sẵn sàng ném người khác, nhưng bây giờ khi được mời gọi nhìn lại chính mình, thấy tâm hồn mình đầy tội nhơ, thì bỏ hòn đá xuống không còn dám ném đá ai nữa. Vì nếu tôi ném đá người khác, cũng có nghĩa là tôi tự ném đá lương tâm tôi, tôi tự lên án chính mình tôi.
Bởi tất cả chúng ta đều là tội nhân, mà đã là tội nhân thì đâu có quyền lên án buộc tội ai. Tất cả chúng ta chỉ trông cậy vào lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa mà thôi. Giống như Chúa nói với người phụ nữ ngoại tình: “Ta không kết tội chị đâu …”(Ga 8, 11). Ngày nay, tình thương tha thứ của Chúa cũng nói với mỗi chúng ta như vậy, ước gì chúng ta hãy sống chứng nhân lòng thương xót và nói với nhau những lời tha thứ như thế.
Anh chị em thân mến,
Thánh Philipphê-Nêri ngày xưa, khi chứng kiến người ta dẫn một phạm nhân ra pháp trường xử tử, đang khi mọi người hò la lên án, thì Ngài cúi đầu xuống thầm thỉ với Chúa rằng: “Lạy Chúa! Giả như con ở trong hoàn cảnh như phạm nhân kia, chắc là con phạm tội gấp đôi”.
Vì thế, chúng ta cần nhìn lại chính mình. Nếu tôi sinh ra trong một gia đình quá đỗi nghèo khó, hay trong một gia đình mà cha mẹ ly thân ly dị, và lớn lên trong gia đình thiếu giáo dục lành mạnh, thì ngày hôm nay liệu tôi có được như thế này không? Khi đặt cho mình câu hỏi như thế, thì có lẽ chúng ta sẽ sống khiêm tốn hơn, biết thông cảm và tha thứ cho nhau hơn.
Qua câu chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình hôm nay, như một lời nhắc nhở chúng ta nhìn lại con người thật của mình trước mặt Chúa, tất cả chúng ta đều là tội nhân.
Như vậy, không ai trong chúng ta là người vô tội, cho nên xin đừng lên án, xin đừng buộc tội làm khổ cho nhau. Không ai trong chúng ta là người công chính, vì thế, xin cùng ăn năn, xin cùng thống hối lỗi lầm đã qua. Amen.
.
THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Tuần trước chúng ta đã được thánh Luca kể lại câu truyện đứa con hoang đàng để nói lên lòng thương yêu tha thứ của Thiên Chúa. Tuần này chúng ta lại được thánh Gioan tông đồ kể lại câu truyện người phụ nữ bị ném đá vì phạm tội ngoại tình và thái độ của Đức Giêsu trước cảnh tượng này. Tất cả đều nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay, các luật sĩ và biệt phái gài bẫy Đức Giêsu để tìm cách bắt Ngài hay ít ra làm cho Ngài mất uy tín hay bớt ảnh hưởng với dân chúng, nhưng Ngài đã xử lý một cách rất khôn ngoan : Ngài không bị mắc kẹt trong việc đòi ném đá hay tha ném đá cho người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình, mà còn cho họ một bài học đích đáng : đừng xét đoán, đừng lên án ai, trái lại phải có lòng thương cảm đối với người tội lỗi.
Chúng ta thấy có một nghịch lý đáng buồn và cũng đáng trách : một đàng Thiên Chúa là Đấng thánh thiện vô cùng mà lại đầy lòng thương xót và khoan dung đối với người tội lỗi… Còn con người thì ai cũng mắc tội không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ lại hay xét đoán, phê bình chỉ trích và lên án người khác nhất là những kẻ tội lỗi. Do đó, nhiều khi đã vô tình xô đẩy thêm kẻ có tội vào vũng lầy không lối thoát.
Hôm hôm nay Chúa dạy chúng ta một bài học là phải dành quyền xét đoán cho Thiên Chúa vì chỉ ai không có tội mới có quyền xét đoán và lên án, còn chúng ta là nghững người tội lỗi phải có lòng thương cảm đối với tội nhân. Về phía mình, Chúa nhắc nhở ta phải biết hồi tâm, phải nhận ra mình là kẻ có tội, phải đi xưng tội để làm hòa với Chúa. Khi đã có một tâm tình như vậy, tự nhiên chúng ta không dám xét đoán và lên án ai.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 43,16-21.
Đoạn này được trích trong phần II sách Isaia. Hoàn cảnh lúc đó là dân Do thái đang bị lưu đầy bên Babylon. Vị tiên tri nói với dân bị lưu đầy nhằm khích lệ họ và mở ra cho họ thấy những viễn cảnh tương lai. Cuộc hồi hương sau cuộc lưu đầy sẽ còn phi thường hơn cuộc xuất hành khỏi Ai cập ; cuộc xuất hành mới sẽ còn tuyệt vời hơn lần đầu.
Như vậy, bài đọc 1 chứa đựng một bức thông điệp của niềm hy vọng gửi cho người Do thái đang bị lưu đầy : sẽ có một cuộc xuất hành mới, rất vinh quang, đến nỗi nó sẽ đẩy lùi những sự việc vĩ đại của cuộc xuất hành đầu tiên vào bóng tối. Và tất cả những điều này sẽ xẩy ra, bởi vì Thiên Chúa là Đấng trung thành với dân của Ngài.
+ Bài đọc 2 : Pl 3,8-14.
Ở đây thánh Phaolô cho thấy đối với ngài việc biết Đức Kitô là thế nào, một khám phá khiến mọi sự còn lại xem ra như không vậy. Biết Đức Kitô là tìm cách chiếm đoạt Ngài sau khi đã được Ngài chiếm đoạt. Là nhờ Ngài mà đạt đến quyền năng phục sinh của Ngài. Bằng cách chấp nhận thông phần vào đau khổ của Ngài.
Thánh nhân được Chúa mời gọi tiếp tục chạy bộ không ngừng trên đường xuất hành. Để được sống lại với Đức Kitô, ông phải chia sẻ với Ngài sự đau khổ và sự chết, bằng cách liên tục vượt qua chính mình và luôn luôn hy vọng.
+ Bài Tin mừng : Ga 8,1-11.
Biết Đức Giêsu thương người tội lỗi, nhóm luật sĩ và biệt phái tìm cách gài bẫy Ngài để Ngài mất uy tín với dân chúng. Họ dẫn đến trước mặt Ngài một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Theo luật Maisen, ai bắt được người phạm tội quả tang, kẻ ấy có quyền xét xử tội nhân. Trước khi ném đá người phụ nữ này, họ hỏi Đức Giêsu :”Theo luật Maisen thì người phụ nữ này phải bị ném đá, vậy theo ý Ngài thì người phụ nữ này sẽ bị xử như thế nào” ?
Đức Giêsu trả lời bằng cách hỏi lại họ, làm cho họ phải thức tỉnh, không dám kết tội người khác :”Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá đi” (Ga 8,7). Đúng là một gáo nước lạnh giội lên đầu họ vì không ai trong bọn họ là người vô tội. Họ lần lượt rút lui trong sự thẹn thùng.
Qua câu trả lời ấy, Đức Giêsu cho chúng ta biết chỉ mình Thiên Chúa là người vô tội, là người có quyền xét xử. Nhưng Chúa đã xét xử theo lòng từ bi thương xót. Thay vì luận phạt, Ngài đã cứu chị ta. Một người tuyệt vọng như người phụ nữ ấy, đã tìm được nguồn hy vọng. Quả thực, Thiên Chúa là Đấng chẳng làm cho ai tuyệt vọng.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. BA HỒI CỦA MỘT VỞ KỊCH.
Trong Mùa Chay chúng ta hay đọc câu thánh vịnh:”Thiên Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung”. Người Do thái vẫn đọc câu thánh vịnh này, nhất là những luật sĩ và biệt phái, nhưng họ chưa hiểu được hết nội dung của nó. Lòng thương xót của Chúa quá thẳm sâu, ai hiểu thấu được. Câu truyện người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin mừng hôm nay không phải là đề tài chính, không chủ ý nhằm nói lên tội của con người mà chỉ là cơ hội thuận lợi để nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa và khuyên bảo chị ta đừng phạm tội nữa :”Tôi cũng thế, Tôi không kết án chị đâu” (Ga 8,11).
Đọc câu truyện người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta coi câu truyện này như một vở kịch được chia làm ba hồi. Tất cả đều nói lên lòng thương xót của Chúa.
- Hồi nhất : Xử án người phụ nữ ngoại tình (Ga 8,1-5).
Người Do thái có nhiều lễ trong một năm. Lễ Lều Trại có lẽ là cơ hội để người ta lạm dụng, ăn ở phóng túng. Trong suốt 8 ngày sốùng ở lều, ngoài rừng, thuận tiện cho những cuộc gặp gỡ lả lướt. Những cuộc giao du nơi này qua nơi khác vẫn hay có những hội ngộ tình cờ, không hợp với luân thường đạo lý là bao. Chính sau cuộc lễ này mà xẩy ra câu truyện trong bài Tin mừng.
Sau bài giảng trong Đền thờ nhân dịp lễ Lều Trại của người Do thái, Đức Giêsu đi ra nghỉ tại núi Cây Dầu. Bao giờ có dịp về thủ đô, Ngài cũng qua nghỉ đêm tại đó. Tảng sáng hôm sau, Ngài lại vào Đền thờ và toàn dân đến cùng Ngài, nên Ngài ngồi xuống đất mà giảng.
Tình cờ người ta đem đến cho Ngài một người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Tất nhiên tội ngoại tình bị lên án, nhưng các người tố cáo thời đó, dù họ là luật sĩ cũng không yêu sách lắm về cách áp dụng khoản luật trong sách Lêvi dạy ném đá người ngoại tình (Lv 20,10). Tuy thế, các luật sĩ và biệt phái muốn dựa vào hai đoạn văn của lề luật : ra lệnh giết chết người đàn ông và người đàn bà ngoại tình (Lv 20,10) và dạy ném đá người đàn bà ngoại tình với người tòng phạm (Đnl 22,22-24) , để cố ý ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Các luật sĩ và biệt phái dựa vào cơ hội này để thử thách Đức Giêsu (Ga 8,3-6). Họ thật thâm độc, họ đặt Đức Giêsu và thế gọng kìm, tiến thoái lưỡng nan. Nếu Đức Giêsu đồng ý cho ném đá, Ngài sẽ bị kẹt vào hai điều : trước hết, vi phạm luật của chính quyền Rôma, chỉ chính quyền Rôma mới có quyềàn xử tử hình mà thôi. Thứ đến, Ngài mất uy tín, và ảnh hưởng của Ngài như một người bạn của những người tội lỗi và bậc thầy giảng dạy về tình yêu thương tha thứ. Mặt khác, nếu Ngài từ chối giữ luật Maisen, không ném đá người phụ nữ ngoại tình, tức là Ngài ủng hộ cho hành động vô luân lý, như vậy làm sao xứng danh một tiên tri, một Đấng Thiên Sai đến từ Thiên Chúa được ?
- Hồi hai : Đức Giêsu với việc xử án (Ga 8,6-9).
Đứng trước câu hỏi hóc búa này, Đức Giêsu đã có một cách giải quyết rất khôn ngoan. Ngài không trả lời mà chỉ ngồi mà vẽ xuống đất cái gì đó. Vậy Ngài viết những gì ? Theo thánh Giêrônimô, Đức Giêsu viết tội những kẻ đứng tố cáo. Còn bản Tân ước tiếng Amêri dịch như sau :”Chính Ngài cúi xuống, lấy ngón tay viết trên mặt đất để tuyên bố tội lỗi họ, và họ thấy nhiều trọng tội của họ trên mặt đất”. Ý ở đây là Đức Giêsu đã viết trên mặt đất các tội lỗi của chính những kẻ đang tố cáo người phụ nữ ấy. Điều này có thể đúng, vì từ viết “Katagraphein” được dùng ở đây có nghĩa là viết (một bản cáo trạng) chống lại một người nào. Có thể Đức Giêsu buộc những kẻ đang tố cáo người khác phải đối diện với bản liệt kê các tội lỗi của chính mình.
Dầu vậy, các luật sĩ và biệt phái vẫn một mực đòi hỏi Đức Giêsu phải trả lời, và họ đã được trả lời :”Ai trong các ông sạch tội thì cứ lấy đá mà ném trước đi”(Ga 8,7). Ai có thể là người vô tội ? Trong thư thánh Gioan Tông đồ Ngài dạy rằng :”Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta”(1Ga 8,7). Người phụ nữ phạm tội ngoại tình thì quá rõ ràng. Còn những luật sĩ và biệt phái đang tố cáo người phụ nữ với hậu ý rất thâm độc và một lòng thù ghét Đức Giêsu, họ đang tìm cách giết Ngài. Tội của họ còn lớn lao hơn tội người phụ nữ ! Nhưng họ lại tự lừa dối mình là những người đạo đức. Chúa đã vạch tội họ ra cho thấy rằng làm sao một người tội lỗi lại lên án một tội nhân khác được ?
Cúi xuống và viết tội là Chúa nhìn thẳng vào quá khứ và cuộc đời tội lỗi của những người đang tố cáo. Chúa hỏi :”Ai trong các ông sạch tội thì cứ ném đá trước đi”. Câu nói đó chắc là đã khơi động lương tâm các người tố cáo, già thì nhiều tội hơn, lại bị cắn rứt nhiều hơn nên đã tự biết mình rút lui trước, cho đến người cuối cùng.
- Hồi ba : Tha án cho người phụ nữ (Ga 8,10-11).
Sau khi họ đã rút lui hết, chỉ còn lại có một mình Đức Giêsu và người phụ nữ, Ngài mới hỏi chị ta :”Không còn ai lên án chị sao” ? Chị ta đáp:”Thưa không”. Ngài phán :”Ta cũng không lên án chị. Hãy đi làm lại cuộc đời và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).
Khi bàn về câu truyện này, thánh Augustinô dùng hai từ bằng tiếng La tinh rất khéo là “Miseria và misericordia” : bây giờ chỉ còn lại một nỗi khổ đau tràn đầy và một tấm lòng thương xót vĩ đại , bởi vì “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”(Ga 3,17).
II. BÀI HỌC TỪ MỘT VỞ KỊCH.
- Thiên Chúa giầu lòng thương xót và tha thứ.
Qua câu truyện này, chúng ta mới thấy rõ tâm tình của Thiên Chúa qua Đức Giêsu là lòng thương xót đối với tội nhân. Đứng trước lỗi lầm của con người, Đức Giêsu luôn có lòng thương cảm. Ngài không hề phạm tội (x. 1Pr 2,22), nhưng Ngài lại không lên án ai. Ngài đã từng chịu ma quỉ cám dỗ, nên Ngài rất am hiểu sự yếu đuối của con người. Vì thế, đứng trước người phụ nữ này, Ngài hiểu biết những tình huống đã dẫn chị ta đến cơn cám dỗ, và từ cơn cám dỗ đến những hành vi tội lỗi. Ngài hoàn toàn thông cảm với chị. Ngài ghê tởm những kẻ tuy cũng cảm thấy mình yếu đuối như chị, cũng đã từng sa ngã khi gặp cám dỗ như chị, nhưng lại muốn kết án chị. Dường như kết án chị, họ mới thỏa mãn lòng kiêu hãnh phát xuất từ một ảo tưởng rằng họ vô tội. Họ thích sống trong ảo tưởng đó, và muốn củng cố ảo tưởng đó bằng cách kết án người khác. Họ nghĩ càng kết án càng chứng tỏ mình sạch tội, vô tội.
Vì thế cần phải biết hồi tâm. Bằng chứng: chỉ vài phút trước đó, người ta hung hăng tố cáo đòi ném đá, và bây giờ người ta lại lặng lẽ rút lui. Một sự chuyển biến bất ngờ phát sinh từ lời mời gọi của Đức Giêsu :”Ai trong các ông sạch tội thì hãy ném đá trước đi”. Khi người ta đòi ném đá tha nhân, người ta tự cho mình là kẻ sạch tội và có quyền lên án kẻ có tội. Nhưng khi người ta khám phá ra mình cũng là tội nhân, người ta không dám lên án nữa vì như thế cũng là lên án chính mình. Sự khám phá có được là do cái nhìn về phía bên trong chính mình.
Chúng ta đều đã phạm tội nên đáng chịu hình phạt ném đá như người phụ nữ kia, nhưng Chúa luôn thương xót chúng ta, không nỡ đoán phạt chúng ta. Tiên tri Ôsê (2,4-25) đã so sánh dân Israel với một người vợ được Chúa yêu thương mà lại “ngoại tình” bằng những hành động “đáng điếm”. Mọi sự lìa bỏ Chúa đều là một thứ ngoại tình, vì xúc phạm đến một Thiên Chúa dễ bị tổn thương và si tình. Nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương một cách không mệt mỏi và tha thứ cho người vợ bất trung, là nhân loại tội lỗi. Chúng ta là dân Israel mới, cũng như người phụ nữ ngoại tình đáng bị trừng phạt nhưng Thiên Chúa luôn xót thương và tha thứ.
Truyện : Hoàng đế Napoléon và lòng thương xót.
Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin hoàng đế Napoléon tha thiết cho con trai của bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đãõ rõ rệt. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý. Nhưng bà mẹ năn nỉ :
– Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý.
Hoàng đế Napoléon trả lời :
– Nhưng hắn ta không xứng đáng được thương xót.
Bà mẹ nói :
– Thưa bệ hạ, nếu nó xứng đáng, thì không cần gọi là lòng thương xót nữa.
Hoàng đế Napoléon đáp :
– Thôi được. Ta sẽ rủ lòng thương xót nó.
Và ông sai thả người thanh niên đó ra.
(Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 192)
- Đừng xét đoán và lên án ai.
Qua câu trả lời của Đức Giêsu :”Ai trong các ông sạch tội thì hãy ném đá người phụ nữ này đi”, chúng ta tìm ra nguyên tắc của Đức Giêsu là chỉ người vô tội mới được đoán xét những lỗi lầm của người khác. Ngài đã cảnh cáo chúng ta :”Các ngươi đừng đán xét ai, để mình khỏi bị xét đoán”(Mt 7,1). Khi nhìn vào người khác chúng ta chỉ biết được cái vỏ bề ngoài, còn cái ruột người khác thì làm sao biết được. Vì thế người ta mới nói :
Dò sông dò biển dễ dò,
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.
Một trong những lỗi lầm thông thường nhất trong đời sống là chúng ta đòi hỏi người khác đạt những tiêu chuẩn mà chính mình không hề cố gắng đạt tới; nhiều người trong chúng ta kết án người khác về những lỗi lầm mà chính mình đã mắc phải. Không thể dựa trên kiến thức để xét đoán kẻ khác, vì ai cũng có tri thức. Phải dựa trên sự thành đạt đạo đức để xét đoán, nhưng không ai trong chúng ta là người toàn thiện cả. Thực trạng của con người cho thấy chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán, lý do hết sức đơn giản là không ai lành thánh đủ để đoán xét kẻ khác.
Thích xét đoán và kết án người khác là cái chuyện trầm kha của con người. Không ai nghĩ đến cái xấu của mình mà chỉ nghĩ đến cái xấu của người khác. Chính vì thế ông bà tổ tiên chúng ta đã để lại một lời than trách nhắc nhở chúng ta đừng xét đoán người khác vì mình cũng có tội :
Chân mình thì lấm lê mê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Truyện : Không ai là người vô tội.
Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn ông đó đã nói với người cai ngục rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của anh chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng khi xử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên, trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói rằng thật đáng tiếc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi theo cái chết của anh, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết này cho nhà vua.
Viên cai ngục quá bị gây ấn tượng, đến nỗi anh ta lưỡng lự trong việc thi hành án, và giải tù nhân trở lại trước mặt vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói :
– Thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được.
Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên quan của nhà vua và nói :
– Ngài có thể trồng hạt giống này được chứ ạ ?
Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng :
– Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi.
Sau đó, người ăn trộm quay sang người giữ kho tàng của nhà vua và nói :
– Vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ ?
Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối :
– Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi.
Và cứ như thế, cuối cùng chỉ còn lại có một mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn trộm nói :
– Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống này ?
Nhưng nhà vua nói :
– Ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta.
Sau đó, người ăn trộm nói :
– Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ.
Nhà vua tha thứ cho anh ta. Câu chuyện này sẽ có kết thúc khác hẳn, nếu nhà vua không được chuẩn bị để lắng nghe. Thay vào đó, nhờ sự kiên nhẫn của nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của người đàn ông đã bị kết án, mà không phải chết, và tất cả đều học được một bài học bổ ích.
(Flor McCarthy, sđd, tr 193-194)
- Phải biết thông cảm và tha thứ.
Điều khác nhau căn bản giữa Đức Giêsu và nhóm Do thái là họ muốn kết tội, còn Đức Giêsu thì muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu chuyện chúng ta thấy họ chỉ muốn ném đá người phụ nữ này cho chết, và họ cảm thấy rất thích hợp làm điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi hành quyền kết tội, còn Đức Giêsu vui sướng khi hành quyền tha thứ. Đức Giêsu nhìn tội nhân với sự thương cảm phát xuất từ tình yêu thương, còn các luật sĩ và biệt phái nhìn tội nhân với thái độ ghê tởm, bắt nguồn từ việc coi mình là thánh thiện.
Đức Giêsu thực sự có lòng thương xót đối với tội nhân. Đây là một thứ tình cảm đặc biệt ngoài “thất tình” mà chúng ta vẫn biết : hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Vậy thương xót là gì ?
Thưa là một tâm trạng đặc biệt vừa êm đềm ngọt ngào (thương) vừa đau đớn đắng cay (xót) Hai cảm giác mâu thuẫn vừa thương lại vừa xót ấy trổi dậy trong lòng chúng ta khi chúng ta đứng trước một người chúng ta thương nhưng người ấy vừa phạm một lỗi lầm.
Khi đó chúng ta phải đối xử thế nào ? Lên án chăng ? Không được, vì làm như thế là không thương. Bỏ qua chăng ? Cũng không được, vì làm như thế là dung túng cho sự xấu. Vậy phải làm thế nào bây giờ ? Chúng ta hãy nhìn Đức Giêsu : Ngài nói với người phụ nữ ngoại tình “Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Ngài lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nữa. Nếu Ngài bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời (Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm C , tập 1, tr 198).
Một khi đã thông cảm với tội lỗi người khác, thì chỉ còn biết tha thứ, bỏ qua, rồi lại tiếp tục yêu thương, tôn trọng họ, tạo điều kiện và khuyến khích họ sống tốt lành hơn.
Truyện : Tha thứ cho người vợ.
Câu truyện xẩy ra ở một hải đảo của nước Ý. Tại đây người ta qui định : Nếu một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, người ta sẽ buộc vào cổ người đàn bà này một tảng đá lớn, và quẳng xuống biển cho chết chìm.
Vào một ngày kia, một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội này. Bà đã bị kết án tử hình theo như luật định. Nhưng đến ngày xử mà người chồng vẫn còn đánh bắt cá ngoài khơi, khiến tòa án phải gia hạn thêm mấy ngày nữa. Người ta đã phải gia hạn nhều lần mà vẫn không thấy anh chồng trở về. Cuối cùng họ quyết thi hành án tử hình cho chị vợ, cho dù chồng có mặt hay không. Họ định ngày xử án dùng thuyền đưa chị ra vùng nước sâu, cột một hòn đá vào cổ chị ta, trước khi quăng chị ta xuống biển cho chết chìm.
Nhưng thật lạ lùng, ngày hôm sau mọi người đều kinh ngạc khi thấy chị ta xuất hiện ở trong làng. Thì ra, ngay từ đầu, nhờ được hai người bạn thân giúp đỡ, người chồng đã hay biết mọi sự. Cho dù bị vợ phản bội, nhưng người chồng vẫn luôn yêu thương và sẵn sàng tha thứ tội bất trung của vợ. Anh và mấy người bạn kia đã đặt ra một kế hoạch hoàn hảo để giải cứu người vợ. Do đó, thay vì sớm xuất đầu lộ diện để tham gia xét xử, anh ta đã lẩn trốn trong rừng một thời gian để làm kế hoãn binh. Đến ngày thi hành án, anh bí mật bơi lặn đến núp dưới một tảng đá ngầm, ngay tại nơi mà người chị vợ sẽ bị quăng xuống biển. Khi chị vợ bị quăng xuống, thì người chồng đã mau tiến lại gần, dùng dao cắt đứt sợi dây cột đá và bí mật đưa vợ đi đường tắt về nhà.
- Hãy đi xưng tội.
Mọi người đã phạm tội, cần phải ăn năn sám hối và làm hòa với Chúa. Cách giao hòa với Chúa hay nhất là đi xưng tội, đặc biệt cho những người phạm tội trọng. Những người phạm tội trọng muốn được tha tội, trong những điều kiện bình thường, chỉ còn cách duy nhất là đến tòa giải tội. Những người phạm tội nhẹ, tuy không buộc phải xưng tội, có nhiều cách để được tha, nhưng việc xưng tội sẽ đem lại cho họ được nhiều lợi ích.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II gọi bí tích giải tội là con đường thanh tẩy và kết hợp với Đức Kitô. Ngài nhận định rằng bí tích Giải tội có mục đích không chỉ tha tội nhưng còn và trên hết dẫn đưa người tín hữu vào cuộc gặp gỡ sâu xa với Đức Kitô.
Khi tiếp kiến với các Linh mục và chủng sinh đang tham dự một khoa học về “internal forum” do tòa Âân giải tổ chức, ngài bầy tỏ suy tư về những phương diện chính yếu của bí tích này :”Hoa trái của việc xưng tội”không những chỉ là tha thứ tội lỗi, điều cần thiết cho bất cứ ai đã phạm tội” nhưng còn mang lại “sự phục sinh thiêng liêng” thực sự, một sự phục hồi phẩm giá và những điều thiện hảo cho sự sống của con cái Thiên Chúa, mà điều quí giá nhất là “Tình bằng hữu với Thiên Chúa”.
Do dó, “sẽ ảo tưởng cho việc nên thánh, tùy theo ơn gọi Chúa ban cho mỗi người, mà không thường xuyên và sốt sắng lãnh nhận bí tích sám hối và thánh hóa này” như Đức Giáo hoàng đã khẳng định.
Truyện : Thánh Phanxicô Salêsiô với việc xưng tội.
Ngày kia thánh Phanxicô Salêsiô cho một người xưng tội. Người này xưng rất thành thật, khiêm nhường và hết lòng ăn năn. Thánh nhân cảm động lắm. Sau khi xưng tội xong, người ấy hỏi :
– Bây giờ cha biết tất cả những sự xấu xa của con rồi. Cha nghĩ thế nào về con ?
– Bây giờ cha nhìn con như một đấng thánh.
– Chắc cha phải nói ngược lại mới được.
– Không, Cha nói theo lương tâm của cha. Con bây giờ hoàn toàn khác trước rồi.
– Nhưng tội lỗi con đã phạm thì luôn luôn ở với con mà ?
– Không phải thế đâu con ạ. Khi bà Mađalena đã ăn năn trở lại, Chúa xem bà như một đấng thánh. Chỉ có bọn Pharisêu giả hình cứ coi bà là kẻ tội lỗi.
– Nhưng đối với cha, con muốn biết cha nghĩ thế nào về quá khứ của con ?
– Cha không nghĩ thế nào cả. Điều gì không có trước mặt Chúa thì cha không nghĩ đến. Cha chỉ biết ngợi khen Chúa và vui mừng vì con đã trở lại với Chúa. Cha muốn cùng các thánh trên trời vui mừng với con.
Nói xong, thánh nhân khóc. Người kia bỡ ngỡ hỏi :
– Cha khóc à ? Chắc cha khóc vì thấy con phạm nhiều tội quá ?
– Cha khóc vì thấy con đã sống lại với Chúa.
Thánh nhân biết rõ phép giải tội không phải chỉ là che giấu tội, phủ kín tội ta đã phạm, nhưng là rửa sạch hết mọi tội ta đã khiêm nhường xưng ra.
.
THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG VÀ THA THỨ
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Trọng tâm và cao điểm của mạc khải Ki-tô giáo là Thiên Chúa yêu thương và tha thứ cho loài người khi họ phản bội và xúc phạm đến Thiên Chúa. Thiên Chúa đã mạc khải mình là Đấng yêu thương và tha thứ, cho dân Ít-ra-en nói chung và cho các ngôn sứ nói riêng, trong suốt dòng lịch sử dân Chúa của Cựu và Tân Ước.
Và điều quan trọng nhất của Mùa Chay Thánh là mỗi Ki-tô hữu khám phá ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương và tha thứ, trong đời sống cá nhân và cộng đoàn của mình. Các bài Thánh Kinh hôm nay có thể giúp chúng ta chuyện ấy, nên hãy đọc và suy niệm cho đến nơi đến chốn.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 43, 16-21): “Đây Ta sẽ làm lại những cái mới và sẽ cho dân Ta nước uống” Chúa là Đấng mở đường dưới biển, mở lối đi dưới dòng nước; Chúa là Đấng dẫn dắt xe, ngựa, quân binh và dũng sĩ. Tất cả đều ngủ và không chỗi dậy nữa; chúng bị ngộp thở và tắt đi như tim đèn. Người phán: “Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Đây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa, và khai sông nơi đất khô khan. Thú đồng, muông rừng và chim đà sẽ ca tụng Ta, vì Ta đã làm cho hoang địa có nước và đất khô khan có sông, để dân yêu quý của Ta có nước uống; Ta đã tác tạo dân này cho Ta, nó sẽ ca ngợi Ta”.
2.2 Trong bài đọc 2 (Pl 3,8-14): “Vì Đức Ki-tô, tôi đành chịu thua thiệt trong mọi sự, và tôi trở nên giống Người trong sự chết” Anh em thân mến, tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa tôi. Vì Người, tôi đành chịu thua thiệt, và coi mọi sự như phân bớn, để lợi được Đức Ki-tô, và được ở trong Người, không phải do sự công chính của tôi dựa vào lề luật, nhưng do sự công chính bởi tin Đức Giê-su Ki-tô: sự công chính bởi Thiên Chúa là sự công chính bởi đức tin để nhận biết Người và quyền lực phục sinh của Người, để thông phần vào sự đau khổ của Người và trở nên giống Người trong sự chết, với hy vọng từ cõi chết được sống lại.
Không phải là tôi đã đạt đến cùng đích, hoặc đã trở nên hoàn hảo, nhưng tôi đang đuổi theo để chiếm lấy, bởi vì chính tôi cũng đã được Đức Giê-su Ki-tô chiếm lấy. Anh em thân mến, chính tôi chưa tin rằng tôi đã chiếm được, nhưng tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Đức Giê-su Ki-tô.
2.3 Bài Tin Mừng (Ga 8,1-11): “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi” Khi ấy, Chúa Giê-su lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Mô-sê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?” Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giê-su cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giê-su với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giê-su đứng thẳng dậy và bảo nàng: “Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?” Nàng đáp: “Thưa Thầy, không có ai”. Chúa Giê-su bảo: “Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI KINH THÁNH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
3.1.1 Bài đọc 1 (Is 43, 16-21) là một đoạn văn rất độc đáo của ngôn sứ I-sai-a. Độc đáo ở chỗ Thiên Chúa muốn lôi kéo sự chú ý, sự quan tâm của dân Ít-ra-en không phải về những chuyện đã xẩy ra trong quá khứ – mặc dầu những việc Chúa làm cho dân trong quá khứ là rất nhiều và rất kỳ diệu – mà là về tương lai, về những gì Chúa sẽ làm cho Ít-ra-en: “Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn. Ta sẽ khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta tuyển chọn được giải khát. Ta đã gầy dựng cho Ta dân này”.
Trong đoạn sách Is 43,16-21 trên chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng có lòng yêu thương bao la là dường nào. Chúa làm cho dân những điều kỳ diệu trong quá khứ và nhất là trong tương lai, không phải vì Ít-ra-en xứng đáng hay biết ơn (thật ra Ít-ra-en nổi tiếng là vong ân bạc nghĩa) mà chỉ vì Chúa yêu thương Ít-ra-en mà thôi. Câu hỏi đặt ra ở đây là mỗi người chúng ta có tìm thấy hình bóng mình trong dân Ít-ra-en không?
3.1.2 Bài đọc 2 (Pl 3,8-14) phải được kể là một trong những đoạn thư hay nhất của Thánh Phao-lô Tông Đồ, trong đó, Thánh Phao-lô cho thấy: đối với ngài Chúa Giê-su là Ai và quan trọng như thế nào (Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người) và tất cả ao ước, khát vọng của Thánh Phao-lô là gì? (Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước). Sở dĩ được như thế là vì Thánh Phao-lô đã cảm nghiệm sâu xa Tình Yêu của Chúa Giê-su, đã sống gắn bó mật thiết với Chúa Giê-su ở một mức độ rất cao, rất sâu, đã trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su”
Trong đoạn 2 Cr 5,17-21 trên, chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng làm cho những ai tin yêu Chúa được nên công chính; là Đấng mời gọi chúng ta cảm nghiệm Tình Yêu của Người và là Đấng muốn chiếm hữu chúng ta để biến chúng ta nên “đồng hình đồng dạng với Người.”
3.1.3 Bài Tin Mừng (Ga 8,1-11) là một trong những tường thuật vừa có tính hiện sinh vừa mang tính siêu việt của Phúc Âm Gio-an.
Có tính hiện sinh vì câu chuyện là một phần của cuộc sống con người thời xưa cũng như thời nay, khi cho thấy không chỉ người phụ nữ ngoại tình là tội nhân, mà tất cả những người khác (những người kết án chị, những người muốn thử, muốn ám hại Chúa) cũng đều là tội nhân.
Có tính siêu việt vì câu chuyện được kết thúc bằng một thái độ và tấm lòng siêu-trần-gian của Chúa Giê-su: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Qua Bài Phúc Âm Ga 8,1-11, chúng ta có dịp làm quen, kết thân với Chúa Giê-su thêm một mức nữa, đi sâu thêm một chút nữa vào lòng Người và hiểu ở một mức độ cao hơn nữa sứ mạng cứu chuộc của Người: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9,13).
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là Thiên Chúa yêu thương và tha thứ. Sứ điệp ấy được hàm chứa
* trong lời này của sách I-sai-a: “Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn. Ta cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta tuyển chọn được giải khát. Ta đã gầy dựng cho Ta dân này, chúng sẽ lên tiếng ngợi khen Ta.”
* và trong lời này của bài Phúc Âm: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa
Là Đấng thương yêu chăm sóc Ít-ra-en là dân riêng của Người bằng cách mở cho họ một tương lai tươi sáng;
Là Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa làm người là Đấng từ bi, nhân hậu và thứ tha mọi tội lỗi của con người.
4.2 Thực thi Sứ điệp của Người
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi nên lấy phương châm sống của Phong Trào Cursillo là Hiểu Đạo, Mộ Đạo và Hành Đạo. Câu hỏi giúp tôi xét mình là: “Trong ngày hôm nay, trong tuần lễ này, trong mủa chay thánh này, tôi đã làm gì:
* để biết Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô hơn?
* để yêu Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô hơn?
* để giúp người khác biết và yêu Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô hơn?”
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các dân tộc trên địa cầu này, nhất là cho phần nhân loại đang sống trong cảnh lầm than tuyệt vọng, có được niềm hy vọng về một tương lai tươi sáng và một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.2 «Tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất các cả các Ki-tô hữu, cách riêng cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế, để mọi người tín hữu biết sống đức tin một cách triệt để như Thánh Phao-lô!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.3 «Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Ki-tô Giê-su» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy quyết tâm và bền chí trên con đường đi theo Chúa Ki-tô và làm môn đệ Người!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.4 «Tôi cũng vậy tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa»Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người đang sống trong tội lỗi để họ được ơn sám hối và hoán cải nhờ tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu và tha thứ vủa Thiên Chúa!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
.
Trầm Thiên Thu
Tội Lỗi Xấu Xa Tách Rời Thiên Chúa
Tình Thương Chan Chứa Che Phủ Tội Nhân
Thánh Mark khổ tu vừa khuyên nhủ vừa giải thích: “Ai đã phạm tội thì đừng thất vọng. Đừng bao giờ. Chúng ta không bị đoán phạt vì số lượng tội lỗi đã phạm, nhưng vì chúng ta không muốn sám hối và học biết những phép lạ của Chúa Kitô”.
Một trong các cặp đôi có thái cực đối lập là Tội và Tình. Trong đó có một khoảng im lặng hoàn toàn, nhưng có khác nhau: Sự im lặng đó nặng nề và ngột ngạt đối với những kẻ lòng lang dạ thú, nhưng lại nhẹ nhàng và thông thoáng đối với những người thiện tâm.
Sự im lặng có thể là vàng – nghĩa là thực sự cần thiết, nhưng cũng có thể là “rác rưởi” vô ích, không cần thiết, thậm chí có thể là “chất độc” vì gây nguy hiểm. Tội trái ngược với Tình, nhưng Tình liên quan mật thiết với Tha Thứ. Các mẫu tự T độc đáo, mà cũng thực sự quan trọng trong cuộc đời chúng ta – đặc biệt đối với các Kitô hữu.
Kinh Thánh cảnh báo hai điều quan trọng liên quan tội lỗi: [1] “ĐỪNG tưởng mình là công chính trước mặt Đức Chúa” (Hc 7:5), và [2] “ĐỪNG để tội nào trói buộc con đến hai lần, vì một lần thôi cũng đủ để bị phạt” (Hc 7:8). Đó là dạng ảo tưởng và không nỗ lực (hoặc cố chấp). Kinh Thánh cũng đề cập một dạng hệ lụy tất yếu: “ĐỪNG làm điều xấu thì cái xấu sẽ KHÔNG THẮNG được con” (Hc 7:1). Chắc chắn là vậy, như người Việt cũng nói: “Cây ngay không sợ chết đứng”.
Đối với nhân loại, tội ác luôn trái ngược với tình yêu, tội lỗi luôn đối nghịch với lòng thương xót. Tốt và xấu, hoặc lành và dữ, là những “cặp đối”, những thái cực hoàn toàn đối nghịch nhau, không thể “chung đường chung lối”. Thật vậy, có tội ác thì không có tình yêu – và ngược lại. Nhưng đối với Thiên Chúa thì lại khác hẳn, vì Lòng Thương Xót của Ngài còn lớn hơn tội lỗi của cả nhân loại này, có thể hóa giải mọi thứ. Đó là Mầu Nhiệm Tình Yêu mà loài người không bao giờ có thể hiểu được với trí óc hữu hạn phàm tục.
Quả thật như vậy, bất cứ điều gì đối với loài người là không thể thì đều có thể đối với Thiên Chúa, vì chính Ngài có thể biến hòn đá thành con cái của Áp-ra-ham (x. Mt 3:9) kia mà. Như vậy, tư tưởng loài người chúng ta không làm sao có thể hiểu được ý Ngài. Ngay như một người mẹ xả thân hy sinh vì một đứa con hư hỏng, chúng ta vẫn cho đó là một người mẹ nhu nhược, dại dột, hoặc ngu xuẩn. Nhưng “yêu như điên” mới là yêu thật, yêu vì người được yêu, yêu vị tha chứ không chút vị kỷ. Các dạng tình yêu của loài người dù có vị tha bao nhiêu thì vẫn có chút gì đó vị kỷ, chỉ có tình yêu của Thiên Chúa là tuyệt đối vị tha.
TỘI THỪA – TÌNH THIẾU
Từ thời Cựu Ước xa xưa, ngôn sứ Isaia nói rõ về quyền năng của Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ: “Đức Chúa là Đấng đã vạch một con đường giữa đại dương, một lối đi giữa sóng nước oai hùng, cho xuất trận nào chiến xa chiến mã, nào tướng mạnh binh hùng: tất cả đã nằm xuống, và không còn trỗi dậy, đã bị dập đi, tắt ngấm như tim đèn” (Is 43:16-17). Thật tuyệt vời, bởi vì chúng ta diễm phúc được tôn thờ một vị Chúa Tể như vậy, mặc dù “những lời chúng ta ca tụng Chúa không ích lợi gì cho Chúa, nhưng lại sinh ích lợi cho phần rỗi của chính chúng ta” (Kinh Tiền Tụng). Thật là quá kỳ diệu, vượt trên cả sự tuyệt vời!
Rồi chính Thiên Chúa cũng đã căn dặn: “Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước” (Is 43:18). Cái gì đã qua thì cho qua – Let bygones be bygones. Bỏ qua chuyện cũ có nghĩa là yêu thương, là tha thứ, là quên cái Tội mà chỉ nhớ cái Tình. Thiên Chúa sẵn sàng mở “con đường sống” cho dân chúng bằng cách thẩm vấn: “Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn” (Is 43:19). Hỏi thì hỏi nhưng Ngài lại trả lời. Vả lại, chính câu hỏi đó lại là cách trả lời xác định mạnh mẽ hơn.
Thật tuyệt vời về Thiên Chúa của chúng ta, vì chính Ngài minh định: “Loài dã thú, chó rừng và đà điểu, đều sẽ tôn vinh Ta; vì Ta cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta tuyển chọn được giải khát” (Is 43:20). Bởi vì Ngài “đã gầy dựng cho dân” nên “chúng sẽ lên tiếng ngợi khen Ngài” (Is 43:21a). Thế nhưng buồn thay cho con người, chính “Israel bội nghĩa vong ân” (Is 43:21b). Israel là dân Chúa, mà dân Chúa không chỉ là Israel mà còn là chính chúng ta – nghĩa là chính chúng ta cũng là những kẻ vong ân bội nghĩa. Thật khốn biết bao!
Vì thế, chúng ta phải mau thức tỉnh mà trở về giao hòa với Ngài, càng sớm càng tốt, vì thời gian chẳng đợi chờ ai, giờ G đã điểm rồi. Vả lại, Mùa Chay là thời điểm thuận tiện để sám hối, nhờ đó mà được Thiên Chúa thi ân và cứu độ (x. 2 Cr 6:2).
Thời điểm trở về là khoảnh khắc hạnh phúc vỡ òa bất ngờ, vì được chính Thiên Chúa dẫn đưa: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ”, và rồi họ “vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Tv 126:1-2). Người ta ngạc nhiên khi thấy vậy, có những người trong dân ngoại xôn xao bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:2). Quả thật, “việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 126:3). Chẳng phàm ngôn nào có thể diễn tả hết niềm vui sướng của tù nhân được phóng thích, ai đã ở tù rồi mới cảm nhận được rõ nét, có thể nói rằng chẳng khác chi từ hỏa ngục được bước vào thiên đàng, hoặc niềm hạnh phúc của đứa con hư hỏng được cha mẹ tha thứ và yêu thương như trước. Khó có thể diễn tả trọn vẹn niềm hạnh phúc lớn lao như thế.
Noi gương Thánh Vịnh gia, chúng ta cùng chân thành cầu xin Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam” (Tv 126:4). Cầu xin chân thành thì sẽ được xót thương, và niềm hạnh phúc sẽ dâng trào. Thánh Padre Pio (Piô Năm Dấu) khuyên: “Hãy cầu nguyện, cứ hy vọng, và đừng lo lắng chi cả!”.
Thật đơn giản mà kỳ diệu, chính niềm hạnh phúc khôn tả đó được ví như nông dân vất vả khi gieo hạt: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:5-6). Hình ảnh rất thực tế và gần gũi với chúng ta – dù dân miền quê hay thành thị.
Cuộc sống bình thường nhưng vẫn luôn có những điều kỳ lạ. Sau cú ngã ngựa “chí tử”, một Saolê của Tội đã biến thành một Phaolô của Tình. Với kinh nghiệm bản thân, ông thật lòng tâm sự: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Kitô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Pl 3:8-9). Phải thực sự cảm nghiệm Thiên Chúa sâu sắc lắm mới khả dĩ có quyết định rõ ràng như vậy. Thật không dễ chút nào, thế nhưng nhờ tín thác và nhờ hồng ân Thiên Chúa, ai cũng có thể hành động như Thánh Phaolô vậy.
Không thể dừng lại, không thể không nói, Thánh Phaolô cho biết thêm: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10-11). Cảm nghiệm được như vậy nhưng thánh nhân vẫn khiêm nhường bộc bạch: “Nói thế, không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang CỐ GẮNG chạy tới, MONG chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Kitô Giêsu chiếm đoạt. Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Pl 3:12-13). Đó cũng là điều mà ai cũng phải cố gắng – cố gắng triền miên, cố gắng không ngơi nghỉ.
Tuy nhiên, vấn đề không phải là chúng ta chiếm đoạt Đức Kitô, mà là tự nỗ lực hướng thiện để được Đức Kitô chiếm đoạt chúng ta. Bởi vì mang thân phận phàm nhân, chúng ta quá yếu đuối, chỉ sơ sảy một chút là sa ngã ngay, chẳng ai dám nói khôn. Vì thế, hãy không ngừng cố gắng học theo “phong cách” của Thánh Phaolô: “Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3:14).
TÌNH THƯƠNG THẮNG TỘI
Trình thuật Ga 8:2-11 ngắn gọn lời kể, nhưng đó là một bộ phim dài và hay, cốt truyện thú vị, tương phản hai cách đối xử – cách đối xử tồi tệ của đám đông (chủ yếu là những tay đầu xỏ) đối lập với cách đối xử khôn khéo và nhâ từ của Chúa Giêsu. Khi tư vấn hôn nhân và gia đình, người ta cũng thường lấy “điển tích” của đoạn Tin Mừng này để trưng dẫn. Điều này cho thấy người đời, dù không là Kitô hữu, cũng vẫn phải công nhận cách cư xử tuyệt vời của Chúa Giêsu đối với một người yếu thế – một phụ nữ bị người ta bắt quả tang phạm tội ngoại tình và bị kết án tử.
Thánh sử Gioan cho biết: Vừa tảng sáng, Chúa Giêsu trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Ngài. Ngài ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Ngài: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8:4-5).
Đúng là họ đểu thật, vì chính họ gọi Chúa Giêsu là Thầy nhưng lại nói xỏ nói xiên nhằm thử Ngài, đặc biệt là họ muốn có bằng cớ để tố cáo Ngài. Kinh tởm với những ác nhân có mặt người mà lòng lang dạ thú. Thế nhưng Đức Giêsu vẫn thản nhiên, Ngài lặng lẽ ngồi xuống rồi lấy ngón tay viết trên đất. Chẳng ai biết Ngài viết gì, có lẽ Ngài vẽ lên cát như trẻ con chơi đùa vậy thôi. Tuy nhiên, Ngài làm vậy vừa hay vừa lạ. Đúng như ca dao Việt Nam: “Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo”. Lúc đó, chắc hẳn các kinh sư và người Pharisêu tức điên lên được, nhưng cũng đành “bó tay” thôi. Bồ hòn có vị đắng chát cỡ nào thì cũng đành ráng coi như vị ngọt.
Tuy nhiên, lũ ác nhân cứ gạn hỏi mãi, dai như đỉa đói, thế nên Ngài ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8:7). Ui da, “sốc” ghê đi! Rồi Ngài lại cúi xuống tiếp tục loáy ngoáy viết trên đất như chẳng có chuyện gì xảy ra. Ai ngon thì cứ chơi? Và rồi như kịch bản được viết sẵn, họ nghe Chúa Giêsu hỏi vậy thì cứ từ từ rút lui có trật tự, người trước bước đâu người sau bước đó, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Họ “đau” lắm mà không nói lại được gì. Kể cũng “căng” dữ nghen!
Tại sao người lớn tuổi đi trước? Bởi vì người lớn tuổi là người sống lâu năm, mà càng sống thọ thì càng tội nhiều. Rất minh nhiên. Nói ít, hiểu nhiều. Chúa Giêsu chẳng học luật, không làm luật sư, và cũng chẳng làm thẩm phán, thế mà lý lẽ thâm thúy dù cách nói rất đơn giản, ai cũng có thể hiểu. Chúa Giêsu đúng là thần tượng và vô địch. Thật tuyệt vời!
Ngay sau đó, chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, còn người phụ nữ vẫn đứng đó. Có lẽ lúc này chị còn run rẩy và cũng vẫn sợ lắm. Nhưng Chúa Giêsu ngẩng lên và nhẹ nhàng hỏi: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”. Chị khép nép và run giọng đáp: “Thưa ông, không có ai cả”. Đức Giêsu nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8:11b). Khi nói lời tha thứ này, có lẽ Chúa Giêsu cười rất hiền từ. Án tử dành cho ả giang hồ chợt chuyển thành trắng án, hoàn toàn được tha bổng.
Thế là xong. Chữ Tình đã hóa kiếp chữ Tội. Nhưng vẫn có dấu hỏi to lớn. Còn thắc mắc hoặc hỏi han gì nữa? Còn chứ! Liệu chúng ta có dám nhận mình cũng đã và đang có cách hành xử như các kinh sư ác ôn và nhóm biệt phái giả hình? Có lẽ chúng ta không dám hành động rõ ràng như họ, nhưng sự thật là chúng ta vẫn hành xử như họ một cách tinh vi hơn họ đấy!
Chúa Giêsu ghét tội chứ không ghét người có tội. Ai đã ngã mới biết đau, ai đã lỗi lầm mới biết cần được thông cảm. Có một hệ lụy mang tính triết lý sống mà chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai được tha thứ nhiều thì yêu mến nhiều” (Lc 7:41-43; Mt 26:6-13; Mc 14:3-9; Ga 12:1-8. Đó là chuyện cô nàng lấy tóc lau chân Chúa tại nhà ông Simôn cùi (không phải người phụ nữ ngoại tình trong Tin Mừng hôm nay). Chúng ta cũng như phụ nữ ngoại tình, đã phạm tội, bị người ta ghét bỏ, nhưng lại được Thiên Chúa tiếp nhận và phục hồi cương vị làm con. Niềm hạnh phúc lớn lao vô cùng!
Lạy Thiên Chúa, mặc dù chúng con là những tội nhân bất xứng, nhưng chúng con vẫn được Ngài tha bổng biết bao lần, mở con đường sống cho chúng con. Xin cảm tạ Ngài đã không kết án chúng con, xin giúp chúng con biết thể hiện lòng thương xót với bất kỳ ai để minh chứng cụ thể. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
P.Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn Lời Chúa Chúa Nhật tuần trước cho chúng ta một “bài học” về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Một Ngôi Vị Thiên Chúa rất đỗi xót thương, đến độ Danh Ngài được gọi là “ THƯƠNG XÓT” . Qua trang Tin Mừng theo thánh Luca( 15, 1-3 . 11 -32), chúng ta thấy “Dụ Ngôn Người Cha nhân hậu” là một trong ba dụ ngôn nói về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, nhưng “Dụ Ngôn Người Cha nhân hậu” cho chúng ta một bài học rất đỗi nhân văn, phản ánh rõ nét nhất lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Rõ ràng, qua đó, chúng ta nhận biết Thiên Chúa là ai? Chúng ta không còn sợ hãi Thiên Chúa như một Người Cha “hà khắc”, mà là một Người Cha vô cùng nhân hậu, chúng ta không còn nghi ngờ về Lòng Thương Xót của Ngài, nhưng tin tưởng quay về với Thiên Chúa để đón nhận một sự khoan dung mà không một nơi nào có được. Chúng ta không thể bắt chước tội lỗi, quá khứ không tốt của anh ta, nhưng chúng ta bắt chước về sự can đảm trở về, khi nhận ra “Cha mình” là Người Cha nhân hậu.
Nhưng, chúng ta đừng bắt chước thái độ so đo, phân biệt, ganh tỵ, khinh chê người khác của người con cả.
Lời Chúa tuần nầy, cho chúng ta một “Lòng nhân hậu” của một Vị “ Quan Tòa”, một Vị Quan Tòa đích thực là Ngôi Hai Thiên Chúa. Tin Mừng V MC theo thánh (Ga 8, 1 -11), bối cảnh Tin Mừng cho chúng ta biết, Chúa Giêsu đang rao giảng về chính Người, trước lúc sắp thi hành sứ vụ Cứu Chuộc nhân loại, Người tỏ cho họ biết, chính Người là Nguồn mạch sự sống, Nguồn Nước Hằng Sống.
Cũng chính vì điều nầy, mà người Dothai và thủ lãnh tìm cớ để bắt Người, nhưng chưa tìm được. Sau đó, họ bắt quả tang một người phụ nữ phạm tội ngoại tình, thế là họ có cái “bẫy” để hại Người. Họ liền đem người phụ nữ ấy đến trước mặt Người và nói :” Thưa Thầy,người đàn bà nầy bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môisen truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” ( c 4- 5)
Thừa biết dã tâm của họ, Chúa Giêsu không nói gì, Người ngồi xuống lấy ngón tay viết lên đất. Chúng ta thấy, cử chỉ của Chúa Giêsu thật bình thản, Người không phán xét vội. Theo luật Môisen tội ngoại tình không nhẹ, việc xét xử phải “ ném đá” cho đến chết.
Chúa Giêsu không thể “kết án” như Luật Môisen vì Người là Đấng Cứu Chuộc, Người đang rao giảng lòng thương xót của Thiên Chúa. Người không kết án như người Dothai muốn. Nhưng, Người không thể bãi bỏ Luật Môisen, ngay khi người Dothai cho rằng họ “ tuân “ giữ luật Môisen, nhưng họ lại “kết án” Chúa Giêsu cách vô tội. Theo đó, người Dothai đối với “ bản án” Chúa Giêsu họ vừa vi phạm Luật Cựu Ứớc vừa vi phạm Luật Tân Ứơc, giết người vô tội.
Chúa Giêsu dùng chính “âm mưu” của họ để vạch trần dã tâm của họ cách khéo léo. Như vậy, chúng ta thấy “ bàn tay” satan đã thua cuộc cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa, giờ đây nó lại âm mưu cách “kín đáo”. Chúng ta thấy lời lẽ satan thật thâm độc , nó cũng “ Thưa Thầy”, chúng ta thấy “ ngọt mật, chết ruồi”, lời ngon ngọt sẽ đưa xuống âm ty là như vậy.
Âm mưu thâm độc của người Dothai tìm cách hại Chúa Giêsu, vì cách trả lời nào cũng chết, mà không trả lời , thì họ cứ hỏi mãi, và câu trả lời hay nhất là : “ Ai trong các người sạch tội, hãy ném đá người nầy trước “ , rồi Người lại tiếp tục viết.
Vâng, vì ngay chính bản thân của họ là kẻ có tội, người càng nhiều tuổi, tội càng nhiều, nghe vậy họ lần lượt bỏ đi hết, chỉ còn lại người đàn bà và Chúa Giêsu, Người ngẩng lên và nói :” Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao? … Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu ! Thôi chị cứ về đi , và từ nay đừng phạm tội nữa!” (c 11) .
Chúng ta thấy, cách phán xét của Chúa Giêsu thật nhân từ, không như người Dothai :” Đóng đinh nó đi, đóng đính nó đi ! ”, dù Người vô tội.
Cách tha thứ một cách nhân từ và khéo léo của Chúa Giêsu đối với nhân loại là như thế, nhưng nhân loại lại lên án , một bản án bất công đối với Chúa Giêsu, nhưng bản án bất công đó là của chúng ta, cho chúng ta , vì chúng ta. Vì xã hội loài người luôn bất công, dù cho xã hội chủ nghĩa, hay tư bản, vì con người hữu hạn, nên sự giới hạn của con người mà đòi thay quyền Thượng Đế thì sự hữu hạn ấy sinh ra bất công.
Theo đó, Bí Tích hòa giải căn cứ vào hai Đoạn Lời Chúa thứ IV và V (MC) là “Lòng Thương Xót và nhân từ” của Thiên Chúa. Thiên Chúa lại trao quyền tha tội cho Giáo Hội của Người tại trần gian. Như vậy, cứ mỗi lần vào tòa giải tội, là chúng ta được gặp gỡ chính Chúa Giêsu, Đấng cầm quyền tha tội, đồng thời là lúc chúng ta trở lại ngôi nhà, mà có Người Cha nhân hậu đang đón chờ chúng ta. Qua vị linh mục, chúng ta sẽ được nghe : “ Thôi anh/chị/em cứ về đi, Thiên Chúa không lên án a/c/e đâu, tôi cũng vậy, hãy về bình an, và đừng phạm tội nữa”.
Lời tha tội là Lời hằng sống, Lời có giá trị của sự sống, là Lời Thần Khí, vì vậy, Lời tha tội của Chúa Giêsu ban cho Hội Thánh là Lời của Chúa Thánh Thần có giá trị tha thứ tội lỗi. Vì thế, Lời tha tội của vị linh mục qua Hội Thánh có giá trị tha thứ tội lỗi đã được ủy thác là như vậy.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng Thánh Thần mà ban ơn tha tội, và dùng chính cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người để cứu chuộc chúng con, hầu Chúa chính là sự phán xét chí công. Xin cho mọi người nhận ra tình Chúa cao vời mà tín thờ cho nên ./. Amen
.
JM. Lam Thy
Bài Tin Mừng hôm nay (CN V/MC-C – Ga 8, 1-11) trình thuật câu chuyện đám kinh sư và Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ hỏi Đức Giê-su nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Đó là một cách gài bẫy để có chứng cớ xử án Người (“Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình” – Mt 26, 59). Họ nghĩ rằng với câu hỏi của họ, trả lời cách nào thì Đức Giê-su cũng dính trấu. Trả lời là cứ ném đá người phụ nữ thì phạm luật Rô-ma (It-ra-en đang bị đế quốc Rô-ma đô hộ, chỉ những người đại diện cho luật pháp Rô-ma – như tổng trấn Phi-la-tô, chẳng hạn – mới được quyền kết án tử hình). Còn nếu tha, thì lại phạm luật truyền thống của It-ra-en (“Khi người đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ người đồng loại, thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử.” – Lv 20, 10; “Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với môt người đàn bà có chồng, thì cả hai sẽ phải chết: người đàn ông đã nằm với người đàn bà, va cả người đàn bà.” – Đnl 22, 22). Chỉ cần Đức Ki-tô trả lời là họ “xử” Người ngay.
Cái bẫy đã giương lên chỉ chờ cơ hội sập, nhưng con mồi là Đức Giê-su lại không trả lời ngay, mà Người “cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất” (Ga 8, 6). Hành động ấy của Đức Ki-tô càng khiến nhóm Pha-ri-sêu tin chắc họ sẽ thắng (vì họ cho rằng Người lâm thế cờ “bí”, nên mới lúng túng, phải viết loăng quăng trên đất để tìm cớ hoãn binh), nên họ càng dồn dập hỏi tiếp. Vì trong sách Tin Mừng không ghi rõ những lời Đức Ki-tô viết trên đất, nên cũng có nhiều người cố suy đoán xem Người viết những gì. Thực ra, Người cũng chẳng để tâm đến việc viết gì, bởi tác dụng cũng chẳng tới đâu. Nó sẽ mau chóng bị xoá đi trên đất (và thậm chí ngay cả trong tâm hồn những kẻ đọc được Lời Người viết trên đất) mà thôi. Hành động viết trên đất chỉ là cố ý kéo dài thời gian cho đám kinh sư càng nuôi ảo tưởng chiến thắng và đến khi chiến bại mới thật thấm thía. Cho đến khi thời gian nóng ruột của đám kinh sư vừa độ chín, thì Đức Ki-tô mới “ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” (Ga 8, 8). Ấy thế là… cái bẫy sập và thay vì con mồi mắc bẫy thì chính người gài bẫy lại mắc kẹt. Gậy ông lại đập ngay vào lưng ông, khiến cho “Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi” (Ga 8, 9). Cảnh tượng y hệt đám “mèo bị cắt tai”, chỉ còn nước “tam thập lục kế, đào vi thượng sách” (36 kế, chạy trốn là hay nhất).
Chỉ với một câu nói ngắn gọn, Đức Giê-su đã cứu người đàn bà ngoại tình thoát khỏi án tử khủng khiếp (ném đá cho đến chết). Một vấn nạn được đặt ra: “Như vậy thì phải chăng Đức Ki-tô đã cho rằng người đàn bà này không có tội, và như thế Người đã chống lại Lề Luật của Thiên Chúa (Luật Mô-sê vẫn được coi là Luật Thiên Chúa)?” Thực ra, nếu chi căn cứ vào vế trước của câu nói trên (“Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu!”) thì có thể nghĩ là Đức Ki-tô cho rằng chị ta không có tội nên Người mới không lên án. Nhưng ngay sau đó, Đức Giê-su lại khuyên người phụ nữ: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” Rõ ràng Đức Giê-su vẫn coi chị ta là người có tội, nhưng vì lòng thương xót, Người đã cứu chị, đồng thời còn là dịp cảnh tỉnh đám người Pha-ri-sêu chỉ chuyên đi kết án người mà không biết xét tật mình.
Đối với Lề luật, cũng đã nhiều lần Đức Giê-su dạy các môn đệ: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” (Mt 5, 18). Còn đối với bọn kinh sư, luật sĩ, Pha-ri-sêu, thì Người lên án trực tiếp; chớ không hề đụng tới Lề Luật (“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.” – Mt 23, 23). Điều đó cho thấy, Đức Ki-tô không hề chống lại, mà rất tôn trọng Lề Luật. Duy chỉ có điều Người muốn mọi người – nhất là đám kinh sư và Pha-ri-sêu – hiểu rằng “điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật”. Áp dụng Luật mà thiếu một trong ba điều đó thì chưa thể coi là hiểu biết và tôn trọng Luật. 2 bài học đắt giá cho người Ki-tô hữu khi suy niệm bài Tin Mừng hôm nay, đó là:
1- Tội lỗi: Ngay từ khi Nguyên tổ loài người sa ngã, thì loài người đã bị tội lỗi thống trị. Là con người thì ai cũng có tội, không nặng thì nhẹ, chẳng nhiều thì ít. Vâng, “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.” (Rm 5, 12). Vì thế, muốn được cứu khỏi chết vì tội lỗi, thì phải biết ăn năn hối cải tìm đến với Thần Khí ban sự sống (“Như có lời đã chép: con người đầu tiên là A-đam được dựng nên thành một sinh vật, còn A-đam cuối cùng là thần khí ban sự sống.” – 1Cr 15, 45). “Người duy nhất đã sa ngã” là “A-đam đầu tiên”, là Nguyên tổ loài người; còn “A-đam cuối cùng” – “A-đam Mới” – không ai khác hơn là chính Đức Giê-su Ki-tô.
2- Xét đoán: Tâm lý chung của con người thường chỉ “thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới” rồi làm như người đạo đức nói với anh em: “Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn” mà cố tình quên đi cái xà trong con mắt mình. Đức Giê-su đã phải thốt lên “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.”(Mt 7, 3-5). Quả thật người ta chỉ thích phê bình chớ không muốn tự phê bình. Xét đoán người thì rất giỏi nhưng chẳng hề muốn tự phê bình, xét tật mình. Và vì thế, “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em.” (Mt 7, 1-2).
Tóm lại, là con người, ai cũng có những sai lầm thiếu sót, chẳng có ai hoàn toàn tốt, nhưng cũng chẳng có ai hoàn toàn xấu. Như vậy thì tại sao lại cứ cố tình “tốt phô ra, xấu xa đậy lại”? Con người với nhau có thể ém, có thể che giấu tội lỗi của mình, nhưng như thế cũng không có nghĩa là che giấu nổi Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi điều thầm kín nhất (Mt 6, 1-6.16-18). Chúa đã bị đóng đinh vì tội lỗi của chúng ta, xin đừng tiếp tục đóng đinh Người nữa, mà hãy bóc trần con người của mình ra, can đảm nhìn thẳng vào đó, rồi mạnh dạn vác thập giá mình đi theo Chúa và cuối cùng hãy tự đóng đinh mình vào thập giá với lời van nài thống thiết: “xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con cùng chết với Ngài”, nhiên hậu sẽ “để được sống với Ngài vinh quang” (Văn Chi – “Con đường Chúa đã đi” – TCCĐ).
Vâng, không lo sợ thài quá vì tội lỗi đã mắc phạm với Thiên Chùa và với anh em, cũng dứt khoát không bao giờ cho rằng mình sạch tội để chỉ đi xét đoán anh em; mà hãy nhìn lại mình để thực lòng canh tân và sám hối, đồng thời sống Đạo một cách kiên trì mặc lấy Đức Vua Tình Yêu trong đức Mến. Ấy cũng bởi vì “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.” (Cl 3, 14). Ôi! “Lạy Chúa, vì yêu thương nhân loại, Ðức Giê-su Ki-tô đã hiến thân chịu khổ hình; xin ban ơn trợ giúp, để chúng con biết noi gương Người tận tình yêu thương mọi anh em. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN.V/MC).
.
Fx Đỗ Công Minh
Ném đá, một hình phạt của người Do Thái ngày xưa, điều này có trong luật của họ. Người bị kết án và chịu hình phạt này sẽ bị đám đông những người theo dõi phiên tòa dùng những viên đá được chất đống trước đó, tại nơi hành hình, ném cho đến khi chết. Những người ném đá là những người thi hành án. Bên cạnh việc hành hình nói trên, còn có việc đóng đinh hay treo cổ, tùy theo tội trạng. Hiện nay một số nước vẫn còn hình phạt treo cổ như tại IRAQ, Sadam Husein bị hành hình theo cách này.
Trở lại bài Tin Mừng Ga (8,1-11), khi Đức Giêsu đang giảng dạy cho dân chúng thì các kinh sư và người Pharisiêu dẫn đến trước mặt Chúa một người Phụ nữ bị bắt quả tang ngọai tình. Theo luật Môisen thì người phụ nữ phải bị ném đá. Họ muốn xem thái độ của Ngài trước luật lệ của nhà cầm quyền và luật lệ của người Do Thái. Ngài sẽ dùng thứ luật lệ nào? Đức Giêsu biết rõ tâm địa của họ tìm cách tố cáo Ngài trước tòa án La Mã. Ngài không phải là thẩm phán của chính quyền nên không thể quyết định thi hành án. Ngài cũng không lên án theo lề luật đạo cũ mà những kinh sư và phái Pharisiêu thường vin vào đó để xét đóan, bắt lỗi người khác. Ngài truyền giảng một thứ đạo lý mới là yêu thương, tha thứ. Ngài mở cho tội nhân một con đường sống, trở về và thay đổi cuộc sống cũ. Từ bỏ cách sống tội lỗi, từ bỏ quá khứ xấu xa để trở nên một con người mới. “Còn Thầy, Thầy nghĩ sao ?”. Họ cho rằng Chúa là đấng trọn lành nên không thể chấp nhận tội lỗi, chắc hẳn Ngài sẽ có thái độ nghiêm khắc với những người phạm pháp.
Nhưng đức Giêsu không dừng lại ở lầm lỗi của con người, không xét đến quá khứ mà nhìn thái độ hiện tại. Ngài đề nghị và đưa ra giải pháp: mỗi người hãy nhìn lại cuộc sống mình, biết nhìn nhận những sai sót, lầm lỗi con người mình trước anh em, mà sẵn sàng tha thứ, bao dung, đón nhận nhau.
“Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Chúa cúi xuống viết trên đất, còn lại những người đang chờ câu trả lời của Chúa, để ném đá, thì lần lượt bỏ đi. Tin mừng còn nói rõ : “Kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi ”. Phải chăng “Đa thọ đa lỗi ?”. Khi không còn ai nhận mình là người sạch tội, Chúa đã hỏi người phụ nữ :” Không ai lên án chị sao? “ và Ngài nói rất rõ”Tôi cũng vậy, Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Lạy Chúa,
Nếu con có mặt trong đám đông những ngày ấy, con có bỏ đi ? hay viên đá đầu tiên ném vào người phụ nữ chính là con ? Bởi con đã có lúc tự cho mình không có tội so với chị và bao người khác. Ngày hôm nay, trước bao hành vi xấu xa diễn ra trong xã hội: trộm cắp, làm ăn gian dối, lừa lọc, ngọai tình, dâm ô và nhiều điều xấu xa khác con không vấp phạm. Con là người sạch tội chứ ! Dường như ý thức về tội lỗi không còn có trong con, nên con dễ dàng lên án, xét đóan người khác. Coi rẻ, coi khinh, không gần gũi những người trót lỡ lầm, vì e rằng “Gần mực thì đen “, điều đó có là tội ? Nói hành, nói xấu người khác, viết bình luận vô tội vạ, hùa theo xỉ vả người khác trên mạng xã hội Facebook, Zalo. . . Con có đang “Ném đá” anh chị em mình thời đại hôm nay ?
Xin cho con luôn biết khiêm tốn nhìn lại cuộc đời mình. Không mắc nợ ai, không làm phiền ai, không nhờ vả ai, không quan tâm đến ai cũng là có tội rồi. Huống chi ! ! !
Chớ gì cuộc đời con là chuỗi ngày sống kết hiệp với Chúa và với mọi người đang sống bên con. Con biết đối chiếu đời mình với đời Chúa, với đời những người sống bên con, mà biết nhận ra những thiếu sót, lầm lỗi của mình, hầu đón nhận ơn tha thứ và bình an, ơn trở về trong Mùa Chay Thánh này. AMEN.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY_C
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay gợi lên sự tha thứ có sức mạnh giải thoát: đoạn tuyệt với quá khứ để mà hướng đến một cuộc sống mới.
Is 43: 16-21
Qua ngôn sứ I-sai-a, Đức Chúa loan báo rằng Ngài sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh giam cầm ở Ba-by-lon: quên đi quá khứ ô nhục, nước hằng sống sẽ tuôn trào trong miền đất khô cằn.
Pl 3: 8-14
Từ kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô rút ra một bài học vĩ đại: đoạn tuyệt quá khứ gắn bó với luật Mô-sê để kết hợp với chỉ một mình Đức Ki-tô.
Ga 8: 1-11
Tin Mừng thuật câu chuyện người phụ nữ ngoại tình có nguy cơ bị ném đá. Khi ban cho chị ơn tha thứ của Thiên Chúa, Đức Giê-su giải phóng chị khỏi tội lỗi và sự nhục nhã, đồng thời mở ra cho chị một cuộc sống mới.
BÀI ĐỌC I (Is 43: 16-21)
Đoạn văn này được trích từ “Sách An Ủi” của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ ở giữa những người lưu đày thời Ba-by-lon. Ông an ủi họ khi loan báo rằng họ sắp được giải phóng và hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem.
Những người lưu đày bất hạnh này nghi nan ngờ vực. Một biến cố như thế làm thế nào có thể xảy đến được? Họ đã mỏi mòn ngóng trông gần suốt năm mươi năm rồi. Vị ngôn sứ cũng nhắc họ nhớ đến những việc kỳ diệu Đức Chúa đã thực hiện để giải phóng cha ông họ khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập: Đấng đã mở lối giữa sóng nước oai hùng để cho dân Do thái vượt qua Biển Đỏ và đã chôn vùi chiến mã với kỵ binh hùng mạnh của Pha-ra-ô trong lòng biển cả, lại không thể đánh bại đế quốc Ba-by-lon với binh hùng tướng mạnh sao?
Cuộc xuất hành ra khỏi Ai-cập được ghi khắc trong tâm trí của dân Ít-ra-en như biến cố tiêu biểu, bảo chứng cho những lần Thiên Chúa can thiệp trong tương lai để ra tay cứu giúp dân Ngài, đó là nền tảng đức tin và đức cậy của họ. Đó là những ý tưởng mà vị ngôn sứ gợi mở cho đồng bào của mình: Đức Chúa sẽ ra tay cứu độ họ. Không có lý do gì phải thất vọng cả.
- Một thế giới mới
Ngôn sứ I-sai-a kêu mời dân chúng đừng nhìn lại quá khứ như một niềm hối tiếc, nhưng hãy đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa để thấy một điều kỳ diệu Thiên Chúa sắp làm cho dân Ngài: “Đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước. Nay Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao?”. Ngôn sứ I-sai-a đặt mọi niềm hy vọng của mình vào vua Ba tư, vị vua tiến quân như vũ bảo và chắc chắn sẽ sớm đánh bại đế quốc Ba-by-lon.
Bằng những biểu tượng, vị ngôn sứ gợi lên giờ hồi hương trở về trong vinh quang, những giây phút lạ lùng đến mức sa mạc sẽ không còn vùng đất hoang vu khô cằn nữa, những loài dã thú sẽ không còn hung tợn nữa. Đó sẽ là như một cuộc tạo dựng mới.
- Biểu tượng của nước
Thế giới mới này sẽ sinh ra dưới dấu hiệu của nước: “Vì Ta cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta được tuyển chọn được giải khát”. Vị ngôn sứ biết rất rõ rằng trên đường hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem, một trong những khó khăn sẽ là băng qua sa mạc Xy-ri Pa-lét-tin. Chẳng sao cả, Thiên Chúa sẽ cho nước tuôn tràn. Trong Kinh Thánh, đề tài nước không chỉ gợi lên yếu tố tự nhiên đem lại sự sống cho thiên nhiên, nhưng còn là biểu tượng sức sống thần thiêng. Đề tài này chạy xuyên suốt Cựu Ước; chúng ta có thể trích dẫn biết bao ví dụ. Mối liên hệ giữa nước và thần khí được gặp thấy trong Cựu Ước (Ed 47: 9) và sẽ được lấy lại trong Tin Mừng (Ga 7: 37-39).
- Trở về cùng Thiên Chúa
Linh đạo mà vị ngôn sứ gợi lên ở đây là cuộc trở về cùng Thiên Chúa, Ngài sẽ tha thứ và đổ tràn muôn phúc lộc của Ngài: “Ta đã gầy dựng cho Ta dân này, chúng sẽ lên tiếng ngợi khen Ta”. Vào Chúa Nhật V Mùa Chay này, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta lắng nghe lời kêu gọi của vị ngôn sứ thời lưu đày này, và qua những hình ảnh tiên trưng, hiểu cuộc sống phong phú của các bí tích, đặc biệt bí tích Thánh Tẩy.
BÀI ĐỌC II (Pl 3: 8-14)
Đoạn thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê này được trích từ chương 3, trong đó thánh nhân cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái, đừng gắn bó với luật Mô-sê và tìm cách áp đặt vài đòi hỏi luật này trên những Ki-tô hữu gốc lương dân.
Từ kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô trình bày cho họ biết thánh nhân đã được hướng dẫn như thế nào để đoạn tuyệt với Lề Luật. Cung giọng vừa tâm sự vừa xác tín là nét đặc trưng của thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này, vì thánh nhân đã kinh qua những dằn vặt đau đớn mới có thể đoạn tuyệt với luật Mô-sê.
- Đoạn tuyệt với quá khứ
Thánh Phao-lô vừa mới kể ra tất cả những đức tính mà xưa kia thánh nhân đã tự hào tự phụ: “Tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-sêu; nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi” (3: 5-7). Cũng vào thời kỳ này, thánh nhân viết cho tín hữu Ga-lát-ta: “Trong việc giữ đạo Do thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông” (Pl 1: 14).
Thánh nhân nhắc lại cuộc sống xưa kia của mình đã khiến đồng bào của ngài phải nể phục. Tất cả những mối lợi này cho phép thánh nhân được liệt vào hàng công chính, thì nay thánh nhân công bố với tín hữu Phi-líp-phê ngài xem như đồ bỏ đi, như đồ rác rưởi kể từ khi được biết Đức Ki-tô.
Cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh trên đường Đa-mát (thánh nhân ám chỉ một cách kín đáo) đã khiến cho niềm kiêu hãnh trước đây của thánh nhân bỗng chốc tan thành mây khói. Thánh Phaolô quả quyết rằng được như vậy, không phải do công trạng của thánh nhân trong việc tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng nhờ niềm tin vào Đức Ki-tô, đó là sự công chính nhưng không do Thiên Chúa ban. Một lời tự thú huy hoàng nhưng biết bao đớn đau.
- Sự công chính là một thiên ân
Ở đây, chúng ta gặp thấy đề tài cốt yếu về sự công chính do lòng tin chứ không do việc tuân giữ Lề Luật, đề tài mà thánh Phao-lô sẽ khai triển rộng lớn trong thư gởi tín hữu Rô-ma. Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê mô tả cho chúng ta nguồn gốc tâm lý và hiện sinh về đề tài này, nhờ đó tránh mọi lời giải thích sai lầm.
Đức tin mà thánh nhân đề cao là một đức tin huy động toàn thể con người. Người Ki-tô hữu được sánh ví như một lực sĩ chạy đua trên thao trường, nhất quyết dồn hết mọi sức lực của mình, lao mình về phía trước, chạy thẳng tới đích để mong chiếm lấy phần thưởng. Thay vì tuân giữ nghiêm nhặt những huấn thị nghi thức của Lề Luật, người Ki-tô hữu nhắm một điều thiện tuyệt mức: được biết Đức Ki-tô.
- Biết Đức Ki-tô
Thuật ngữ “biết” phải được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh mà thánh Gioan thường hằng sử dụng: một chuyển động của cả trí tuệ lẫn tâm tình, một sự kết hợp của cả khối óc lẫn con tim, một sự hiểu biết không suy luận nhưng dẫn đến mối tâm giao: “Vấn đề là được biết Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người”. Tiến trình hiểu biết này là tiến trình mà thánh Phao-lô theo đuổi. Lộ trình thông thường của người Ki-tô hữu thì ngược lại. Thánh Phao-lô cũng định nghĩa lộ trình ngay liền: “nhờ đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết”. Vả lại, đây là điều mà thánh nhân miệt mài sống trong sứ mạng của mình, khi theo đuổi cuộc đua vẫn chưa đến đích, nhưng “đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt”.
- Bài học
Bài học mà thánh Phao-lô muốn rút ra từ kinh nghiệm cá nhân của ngài, gởi đến các Ki-tô hữu Phi-líp-phê gốc Do thái này nhằm khai mở cho họ hiểu vấn đề đức tin của họ: đức tin là kết hợp với Đức Ki-tô chứ không gắn bó với những hình thức bên ngoài. Nguồn mạch và nguyên lý về sự tự do của người Ki-tô là ở đó. Về sự tự do tối thượng này, thánh nhân có thể nói ở nơi khác, khi nhắc nhở rằng điều cốt yếu của Lề Luật từ nay được chứa đựng ở nơi một nguyên lý duy nhất: mến Chúa và yêu người. Về vấn đề này, lời nhận xét trong sách “Mỗi Ngày Một Tin Vui” thật thích đáng: “Ki-tô giáo thiết yếu không chỉ là một hệ thống luân lý gồm những điều phải giữ hay phải tránh. Quan niệm Ki-tô giáo như thế dễ đưa người tín hữu đến thái độ tính toán so đo, tự phụ; sống đạo dễ trở thành một thứ biểu dương bên ngoài. Chúa Giê-su đưa chúng ta vào cốt lõi của đạo: đạo thiết yếu là tình yêu nhưng không của Thiên Chúa đối với con người; sống đạo là đón nhận tình yêu ấy và đáp trả với tất cả lòng tín thác và quảng đại” (“Mùa Vọng-Giáng Sinh, Mùa Chay-Phục Sinh”, tr. 158).
TIN MỪNG (Ga 8: 1-11)
Câu chuyện “Người phụ nữ ngoại tình” này là một trong những câu chuyện rất cảm động về tấm lòng xót thương của Đức Giê-su; tuy nhiên, đề tài này là đề tài rất tâm đắc của thánh Lu-ca chứ không của thánh Gioan. Xét về phương diện văn phong, ngôn từ, câu chuyện này gần với Tin Mừng Lu-ca hơn Tin Mừng Gioan. Ngoài ra, câu chuyện này không được gặp thấy trong các bản sao chép cổ nhất của Tin Mừng Gioan. Hơn nữa, các Giáo Phụ Hy-lạp dường như đã không biết đến bản văn này, ngoại trừ thánh Giê-rô-ni-mô (thế kỷ thứ tư) biết và chú giải câu chuyện này. Trong bản dịch La-tin của thánh nhân, câu chuyện cảm động này được đưa vào vị trí của Tin Mừng Gioan như hiện nay.
- Bối cảnh
“Sau đó, ai nấy trở về nhà mình. Còn Đức Giê-su thì đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống và giảng dạy họ”. Bài trình thuật bắt đầu từ buổi chiều sau một ngày Chúa Giê-su thuyết giáo trong Đền Thờ: “ai nấy trở về nhà mình” (7: 53), còn Chúa Giê-su thì lên núi Ô-liu qua đêm một mình, và sáng sớm Ngài trở lại Đền Thờ tiếp tục giảng dạy cho dân chúng như thói quen của Người. Bối cảnh này rất phù hợp với Tin Mừng Lu-ca: “Ban ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu. Sáng sớm, toàn dân đến với Người trong Đền Thờ để nghe Người giảng dạy” (Lc 21: 37-38).
Nếu câu chuyện người phụ nữ ngoại tình này thuộc về Tin Mừng Lu-ca, nó được định vị vào những ngày cuối cùng Đức Giê-su giảng dạy ở Đền Thờ, trước cuộc Tử Nạn của Ngài, và báo cho biết những cạm bẫy mà những đối thủ của Ngài giăng ra cho Ngài: nguồn gốc về quyền bính của Ngài, nộp thuế cho Xê-da, kẻ chết sống lại (Lc 20: 1-47).
- Tiến thoái lưỡng nan
“Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang”. Luật Mô-sê rất nghiêm khắc đối với tội ngoại tình, được đặt vào số những hành vi gây thiệt hại đến người thân cận. Người thân cận bị thiệt hại ở đây là người chồng. Tội không chung thủy của người chồng chỉ bị trừng phạt trong trường hợp gian díu với một người phụ nữ đã lập gia đình, vì làm thiệt hại đến người chồng của người phụ nữ này. Theo Luật Mô-sê, người phụ nữ ngoại tình, cũng như người tòng phạm, bị kết án ném đá (Đnl 22: 22-23).
Cạm bẫy mà các kinh sư và người Pha-ri-sêu giăng ra cho Chúa Giê-su tương tự với vấn đề nộp thuế cho Xê-da (Lc 20: 21-25). Nếu Ngài khuyên nên khoan dung tha thứ, thì Ngài vị phạm luật Mô-sê. Nhưng nếu Ngài tán thành việc ném đá người phụ nữ ngoại tình này, thì Ngài vi phạm luật Rô-ma theo đó người Do thái không được phép thi hành án tử (Ga 18: 31). Ngoài ra, nếu Ngài chấp nhận ném đá người phụ nữ ngoại tình này, thì Ngài mâu thuẫn với chính mình: tiếp đón những người tội lỗi và rao giảng tấm lòng xót thương của Thiên Chúa. Như vậy, câu hỏi của họ“Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” đặt Chúa Giê-su vào thế “tiến thoái lưỡng nan”.
- Thái độ của Chúa Giê-su
“Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất”. Việc Chúa Giê-su giữ thái độ thinh lặng nêu lên biết bao điều. Trước hết, xem ra Ngài không quan tâm đến vấn đề này, vì có những quan tòa ở Giê-ru-sa-lem, Ngài không phải thay thế vai trò của họ; đó không là trách nhiệm của Ngài. Tuy nhiên, lập luận này không thể đứng vững, vì trái ngược với cách hành xử thông thường của Ngài: làm thế nào Ngài có thể khoanh tay đứng nhìn để cho người ta hành động ngược lại tấm lòng xót thương của Ngài được chứ?.
Chúng ta thử nghĩ đến tình cảnh thật ê chề nhục nhã mà người phụ nữ này phải đối mặt. Người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang và bị dẫn đến vào tảng sáng; đám người đến nghe Chúa Giê-su trong lòng Đền Thờ đã đông rồi. Mọi ánh mắt chất chứa những điều đê hèn, giả tâm, nhìn chòng chọc vào người phụ nữ. Đối với người phụ nữ này, những ánh mắt kia đã là những lời xét đoán rồi, hơn những lời xét đoán, còn là những lời kết án nữa; vì thế, việc Chúa Giê-su giữ thái độ im lặng cúi xuống viết trên đất là để tránh cho người phụ nữ đáng thương này thêm một ánh mắt xét đoán nữa. Tuy nhiên, Chúa Giê-su có sứ điệp phải truyền đạt cho chị; nhưng trước tiên, Ngài phải có việc cần tính sổ với những kẻ đòi lên án chị. Cái thinh lặng của Ngài là cái thinh lặng hùng hồn của các bậc hiền nhân. Các kinh sư và những người Pha-ri-sêu đắc chí, tưởng rằng đã dồn Ngài vào thế bí nên cố nài ép Ngài trả lời.
- Đặt mỗi người đối diện với tiếng lương tâm của mình
Vì người ta cố nài ép, Đức Giê-su đứng dậy và đưa ra ý kiến của mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Câu trả của Đức Giê-su là câu trả lời bất ngờ nhất, nằm ngoài mọi dự đoán của mọi người. Chúa Giê-su không phải không thừa nhận Lề Luật; thậm chí khi phát biểu ý kiến của mình như vậy, Ngài dựa trên các bản văn của sách Đệ Nhị Luật: “Các nhân chứng phải là người đầu tiên phải tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp theo sau” (x. Đnl 13: 10 và 17: 7). Nhưng đồng thời, Ngài đặt mỗi người đối diện với tiếng lương tâm của mình. Thái độ này hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Ngài: nội tâm hóa luật luân lý.
Đoạn, tiếp tục từ chối ánh mắt phán xét của quan tòa, Đức Giê-su lại cúi xuống viết trên đất, để cho tâm trí mình chìm sâu trong cõi xa xăm nào đó như thử chẳng quan tâm đến những gì đang diễn ra chung quanh Ngài. Ở đây nữa, Ngài không muốn đưa ánh mắt nghiêm khắc nhìn những người mà Ngài mời gọi họ hãy tự phán xét chính mình; Ngài không muốn gây áp lực trên sự tự do của bất kỳ ai.
- Chỉ còn lại một người đáng xót thương và một Đấng đầy lòng xót thương
Mọi người đều đã bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất, những người sáng suốt nhất hay những người có tiếng lương tâm nhạy bén nhất do từng trải cuộc đời.
Thánh Âu-tinh nhận xét rất tinh tế: “Chỉ còn lại hai người: một người đáng xót thương và một Đấng đầy lòng xót thương”. Quả thật, cuộc đối thoại ngắn gọn sau cùng giữa Chúa Giê-su và tội nhân thật cảm động, không bút mực nào diễn tả được:
– “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”
– “Thưa Ngài, không có ai cả”.
– “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Chỉ mình Ngài là Đấng thanh sạch mới có thể ném đá chị; ấy vậy, Ngài đem đến cho chị lòng xót thương hay tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng lòng xót thương hay tha thứ của Thiên Chúa không là thái độ nhu nhược mà là sự giải thoát: “Từ nay đừng phạm tội nữa”. Một cái nhìn đầy yêu thương tha thứ mở ra một khởi điểm mới. Đó là thế quân bình tế nhị giữa hai nhân đức gần như mâu thuẫn nhau: sự công bình không cho phép Chúa Giê-su dung thứ tội lỗi, nhưng lòng xót thương buộc Ngài phải tha thứ tội nhân. Tội nghịch lại Thiên Chúa và anh chị em của mình phải loại trừ, nhưng tội nhân là đối tượng lòng yêu thương của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ đánh mất niềm hy vọng vào khả năng hoán cải của bất kỳ một ai. Như vậy, Luật không bị hủy bỏ như vài người lo sợ, nhưng trở nên “nhân đạo”, mở ra con đường sống và cứu độ. Thánh Giáo Phụ I-rê-nê đã quả quyết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”.
Đây thật sự là một câu chuyện tuyệt vời để diễn tả sâu sắc chương trình và cách thức Thiên Chúa cứu độ loài người. Cả những kẻ tố cáo lẫn người phụ nữ bị tố cáo đều trải nghiệm nơi Đức Giê-su lòng thương xót hay tha thứ của Thiên Chúa. Những người tố cáo thì hiểu rằng chính họ cũng cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, nên họ không được cư xử cách tự phụ và thiếu lòng xót thương với người thân cận. Người phụ nữ đã được cứu thoát khỏi hoàn cảnh nguy hiểm và qua Đức Giê-su, đã trải nghiệm ơn tha thứ của Thiên Chúa. Hẳn là những người chứng kiến sự cố hôm ấy có thêm một lý chứng để xác tín về đạo lý cứu độ của Đức Giê-su.
.
Mai Ly
Tôi là người đàn bà ngoại tình. Tôi bị người ta bắt quả tang tại trận. Họ lôi tôi đi, rồi xô ngã dúi xuống đất, bức bối chửi rủa… Thôi rồi! Tôi sắp chết. Chắc chắn là thế. Họ đang phẫn nộ. Họ đã sẵn sàng kết liễu đời tôi.
Tôi bấn loạn. Tủi hổ. Nhục. Nhưng mà trời ơi! Tôi sắp chết thật ư? Khung trời xanh trước mắt tôi mênh mông hơn. Tôi chơi vơi. Run và sợ. Sợ đến hãi hùng. Bây giờ thì xấu hổ nhục nhã cũng không còn quan trọng nữa, vì tôi sắp phải chết rồi. Có ai cứu tôi không? Tôi muốn khóc to lên vì sợ. Nhưng tôi gắng nén lại, cúi gằm mặt, chỉ dám nhìn xuống đất. Tôi – kẻ bị vạch mặt xấu xa không có quyền khóc. Có oan đâu mà khóc!
Nhưng trong lòng tôi chỗi dậy tiếng van lơn. Có ai thương tôi? Có ai cứu tôi không! Xin hãy cứu tôi! Tôi không muốn chết! Và rồi, đôi tai lùng bùng của tôi chỉ kịp nghe loáng thoáng rằng người ta mang tôi đến chỗ một người mà người ta thường gọi là “Thầy Giêsu” để thử xin một lời phân giải từ con người này….
Hiện diện trước Thầy, tôi thấy mình thật tủi, thật nhục. Nhưng tôi nhận ra mình cũng muốn lắng nghe phán quyết từ Thầy. Tôi muốn thổ lộ lời van xin Thầy cứu mạng. Những giọt nước mắt của tôi, từ lúc đó, cứ thi nhau lăn dài. Một nỗi niềm khó diễn tả chỗi lên trong tâm hồn tôi, dường như là một nỗi đau cô đơn sâu thẳm. Trước Thầy, tôi tan nát. Tôi muốn chết hay tôi muốn thoát chết, tôi cũng không biết nữa…. Tôi muốn đứng lên. Mà đứng lên để làm gì! Nhưng tôi hết cơ hội rồi. Mà có cơ hội sống để làm gì….! Có ai thương tôi đâu!
Khi mọi người hỏi: “Trong sách luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi ném đá hạng đàn bà đó, còn thầy, thầy nghĩ sao? (Ga 8, 5), tôi nghe tiếng Thầy trả lời: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8, 7). Thế là từ già đến trẻ bỏ đi. Còn mình tôi ở lại với Thầy. Trời ơi! Chết tôi. Giờ kết án đã đến. Nãy Thầy bênh tôi, giờ chỉ còn hai người, Thầy sẽ hỏi tội. Tôi sợ. Tiếng Thầy hỏi: “Này chị, họ đâu cả rồi?” Tôi lặng người, bất ngờ vì câu hỏi. Tôi loay hoay. Lại im lặng… Không nên thế, tôi thoáng nghĩ rồi ngước lên, bắt gặp ánh nhìn trìu mến của Thầy. Thầy gợi chuyện để trấn an tôi? Tôi muốn vỡ òa, nhưng lại vội nhìn xuống. Thời gian trôi thật chậm… Tôi đáp như bị hụt hơi “Thưa ông! Không ai cả”. Tôi hoang mang. Ngạc nhiên. Thầy chẳng hỏi tội tôi, rằng tôi đã làm gì để tệ đến nỗi này… Một tâm tình tín thác thật thiêng liêng lớn dần lên trong tôi. “Tôi cũng không lên án chị đâu, thôi chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa”… Trời ơi! Thầy nói thế ư? Thầy bỏ qua. Tôi được sống rồi!
“Dạ”. Tôi đáp lí nhí, đứng dậy, bước đi với niềm bình an khôn tả. Tôi lâng lâng một nỗi vui vì được sống lại. Lời Thầy âm vang trong sâu thẳm trái tim tôi: “Thôi chị cứ về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!”. Lời Thầy cho tôi bước những bước quay về nhà với một niềm tự do thực sự, hạnh phúc thật sự mà tôi chưa từng có. Đó là tôi được Chúa tha thứ, được Chúa cứu sống. Chỉ có Chúa mới cho tôi phục sinh. Tôi nhận ra và tin rằng Chúa thương tôi trọn vẹn.
Lạy Chúa! Con phạm tội, Chúa thứ tha và cho con cơ hội làm lại từ đầu. Xin cho con biết sám hối, tin tưởng mình được Chúa thương, và Chúa luôn trao cho con ánh nhìn tha thứ bao dung. Đồng thời, Chúa không ngừng mời gọi con yêu thương tha thứ cho tha nhân. Xin cho con nhớ mãi Lời Chúa: “Tôi cũng không lên án chị đâu, thôi chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa”.
.
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
“Ném đá” là một thuật ngữ rất thông dụng trên mạng xã hội hiện nay. Mạngxã hội phát triển thìngày càng nhiều “anh hùng bàn phím” tự cho mình cái quyền lập một “tòa án công lý ảo” trên Internet để phán xét, chửi rủa, kết tội những hành vi mà họ cho là đánglên án.
Người ném đá và kẻ bị ném đá nhiều khi chẳng biết gì về nhau nhưng cũng sẵn sàng tương ra những lời cay độc giết hại lẫn nhau. Ném đá trong mọi tình huống và trong mọi chuyện. Từ chuyện tâm linh cho đến chuyện gia đình, từ chuyện tình yêu, mẹ chồng-nàng dâu cho đến kinh doanh đối nhân xử thế, công việc gia đình, công sở… bất cứ chuyện nào được các thành viên chia sẻ họ đều có thể hùanhau lên ánném đá.
Chúa Giê-su đã từng nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”. Tiếc thay, phong trào “ném đá” mang màu sắc… Việt Nam lại khác xa tinh thần đó.Nhiều người đã mạnh tay ném đá người khác mà không hề nhìn lại bản thân còn đầy bất toàn, khiếm khuyết và tội lỗi.
Có lẽ chúng ta còn vẫn còn nhớ vụ cô bé 15 tuổi ở Đồng Nai bị người yêu cũ tung clip sex lên mạng đã uống thuốc tự tử vì bị chỉ trích lăng loàn, ngu si… Người chịu trách nhiệm cho cái chết của em là gã người yêu cũ nhưng cólẽ, hung thủ thật sự chính là sự soi mói, chỉ trích độc ác của cư dân mạng. Một lời chê bai có thể chưa mang lại nhiều tác động tiêu cực nhưng khi một đám đông hung hãn “hùa” vào thì hậu quả thật khó lường. Nó chẳng khác gì một con dao vô hình, có thể lấy đi sự tự tin, niềm vui, cướp đi ước mơ, hoài bão, thậm chí sinh mạng con người.
Về hiện tuợng thích ném đá trên mạng xã hội, nhiều ý kiến cho rằng: “Một số người có thói quen thích đùa cợt, chê bai ác ý, a dua theo số đông mà không nghĩ tới hậu quảcó thể giết chết một con người”.Điển hình là vụ một cô giáo Bình Thuận vào nhà nghỉ với cậu học trò lớp 10, đã bị rất nhiều người ném đá, nhưng ngay cả người chồng quay clip và cả hàng ngàn người lao vào ném đá cô giáo đâu ai nhìn thấy họ đang ân ái với nhau. Vào nhà nghỉ với nhau thì chưa gọi là tội . . . Đi đêm với nhau đâu chắc họ đã phạm tội. Điều đáng tiếc, là con người chúng ta đã thiếu tình yêu thương để có thể cảm thông những yếu đuối của nhau.
Cách đây hơn 2000 năm cómột người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Các luật sĩ và biệt phái đã dẫn người phụ nữ này đến trước mặt Chúa Giêsu. Mỗi người một hòn đá. Mỗi người một khuôn mặt mang đầy sát khí hôi tanh. Tất cả đang sẵn sàng némđángười phụ nữ thấp cổ bé miệng, lại cô thân cô thế. Ngườiphụ nữ thật tội nghiệp, chỉ biếtcúi đầu chẳng dám nhìn ai. Chị biết tội mình đã làm nên chẳngdámthốt lên lời van xin.
Chúa Giêsu đã không kết án, nhưng cũng không dung túng sự xấu mà chị ta đã phạm. Ngài đã im lặng lấy tay viết trên cát. Ngài đã viết trên cát chứ không ghi khắc vào bia đá hay giấy vở. Cát sẽ bị xoá nhoà. Tội lỗi con người luôn được Chúa khoan dung tha thứ, vì “nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được, nhưng Chúa luôn rộng lượng thứ tha”. Có nhiều ngừơi cũng cho rằng: Ngài muốn trì hoãn thời gian, để mỗi người tự vấn lương tâm. Có cần kết liễu một đời người mà thanh danh đã bị bôi nhọ bởi hành vi lăng loàn của mình hay không? Ngài muốn có một khoảng thời gian tĩnh lặng để những cảm xúc: hỉ, nộ, ái, ố được lắng dịu hầu có thể đối xử công bằng với nhau hơn. Cuối cùng, Ngài đã nói với đám đông rằng: “ai trong các ông trong sạch, thì hãy ném đá người này đi”.
Tất cả đều lặng lẽ bỏ cuộc. Từ người lớn tới người nhỏ, xem ra không ai là người trong sạch đủ để có thể thi hành một lề thói dã man này. Họ đã bỏ đi hết. Lúcnày, Chúa Giê-su đã mở ra cho chị một con đường mới: “Ta cũng không kết án chị phải chết đâu! Chị hãy về bình an và từ nay đừng phạm tội nữa”. Một làn gió của yêu thương đã xoá bỏ quá khứ tội lỗi của chị. Làn gió của yêu thương đã mang lại cho chị một niềm hy vọng những điều tốt đẹp sẽ đến trong cuộc đời của chị.
Kính thưa, qúi OBACE, Có bao giờ chúng ta đã từng nói điều đó với anh em chúng ta chưa? Có bao giờ chúng ta đã đối xử khoan hồng với nhau chưa? Có bao giờ chúng ta đã can đảm xoá bỏ đi những thành kiến xấu về người anh em hay chưa?
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: “đừng kết án để khỏi bị kết án”. Hãy sống độ lượng với nhau để xây dựng một thế giới thanh bình. Và hãy nhớ rằng: “điều gì anh em không muốn ngừơi khác làm cho mình thì cũng đừng làm cho người ta như vậy”. Amen
.
TIẾN LÊN TRÊN CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH
Lm. Giuse Lê Danh Tường
Nhận ra thân phận tội lỗi của mình là khởi điểm cho con đường nên thánh, là sự giác ngộ căn bản để tiến vào con đường giải thoát. Dừng lại và mãi nấn ná trong quá khứ đau thương là sa lầy trong thung lũng khổ ải. Vất bỏ lại tất cả sau lưng, vươn mình tiến về phía trước, ngắm thẳng đích điểm là Giê-su Ki-tô mà tiến bước, đó là lời mời gọi trìu mến của Thiên Chúa và cũng là con đường chắc chắn đạt tới vinh quang, thoát khỏi mọi muộn phiền thế gian.
Ở lại trong đau khổ là chết
Người ta dễ dàng nhận ra lòng khao khát nên thánh trong thân phận con người. Cho dù là Thánh Cô hay Thánh Cậu, Thần, Phật, hay Tiên thì cũng là ao ước vượt lên trên số phận tầm thường của người trần. Trong mọi con đường tiến lên làm thánh, sự buông bỏ luôn là điều tối quan trọng. Sự giác ngộ ấy là nhận ra sự vô thường nơi mọi sự để rồi thấy nó chẳng là gì cả để mà bám víu. Buông bỏ là bước vào sự giải thoát, là trở nên con người tự do, thong dong thả bước.
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia thuật lại Lời Chúa kêu gọi dân Israel hãy buông bỏ quá khứ: “Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa” (Is 43,18). Cái quá khứ của dân Israel chẳng khác gì quá khứ tội lỗi của người phụ nữ phạm tội ngoại tình mà thánh Gioan thuật lại trong bài Tin Mừng.
Níu kéo sự thù hằn và ở lại dày vò tội lỗi của quá khứ đã qua đã làm cho bao người thân tàn ma dại. Trong số họ, kẻ có sức mạnh thì quằn quại đêm ngày với quá khứ, người yếu đuối không chịu được thì tìm đến cái chết cho xong. Đau khổ là đấy, chấp mê là vậy. Buông bỏ để được sống hoặc dày vò để rồi chết. Thiên Chúa không muốn dân Israel ở lại trong quá khứ của họ, Đức Giê-su muốn người nữ ngoại tình hãy ra khỏi cuộc đời tăm tối và những người kết án chị hãy thôi đi sự gen ghét và kết án tha nhân, thánh Phaolô với tất cả trải nghiệm của cuộc đời đã dứt khoát “quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước” (Pl 3,13).
Từ bỏ để tiến bước là sống
Điều mà dân Israel có được sau khi quên đi quá khứ là một tương lai rạng rỡ: “Ðây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa, và khai sông nơi đất khô khan” (Is 43,19). Một con đường được mở ra trong lúc tăm tối và sự sống được khai thông trong tâm hồn chẳng khác gì dòng nước tuôn trào giữa đồng hoang khô cháy.
Đức Giêsu đã chẳng còn nhớ những tội lỗi của người nữ ngoại tình, những người kết án chị đã bỏ đi, chẳng còn ai ném đá chị nữa, chị đã thoát khỏi bàn tay của tử thần. Bấy giờ một con đường thênh thang mở ra trước mắt chị. Những lời của Đức Giêsu khi ấy quả thực là lời khích lệ, động viên chị đứng dậy và tiến bước trên con đường nên thánh: “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).
Thánh Phaolô khi quyết định buông bỏ, ngài đã rất rõ ràng trong bước đường tiếp theo của mình: “tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Ðức Giêsu Kitô” (Pl 3, 14). Ngài đã chẳng còn theo đuổi những vinh hoa phú quý hay chức tước bổng lộc ở đời. Ngài “coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Ðức Giêsu Kitô” (Pl 3,8). Vì Chúa Giêsu, ngài “đành chịu thua thiệt, và coi mọi sự như phân bón, để lợi được Ðức Kitô, và được ở trong Người” (Pl 3,9).
Con đường Giêsu
Mỗi con người được mời gọi đi vào con đường từ bỏ, để rồi tiến bước trên con đường yêu thương tha thứ giống như những gì Đức Giê-su đã sống. Dù bằng cách này hay cách khác để tu tập, thì khi tôi được giải thoát, được trở nên thong dong là lúc tôi được tự do. Sự tự do trong tâm hồn là khởi đầu tuyệt vời cho hành trình tiến bước nên thánh. Đức Giêsu đã là một con người hoàn toàn tự do trước mọi hoàn cảnh, luôn chủ động tiến bước. Chính Ngài đã mở lối và chính Ngài đã đi hết con đường để tới đích vinh quang, chiến thắng mọi muộn phiền, chiến thắng cả cái chết để bước vào vinh quang của đời sống vĩnh cửu.
Nếu tôi đã nỗ lực chừa cải mọi tội lỗi, bỏ lại quá khứ, thoát khỏi bến mê và mỉm cười thong dong đi giữa chợ đời, thì tôi chẳng khác gì vị Kinh sư Do thái năm xưa đã được Đức Giê-su khen: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12,34). Lời mời gọi của Chúa Giê-su với bạn và tôi sẽ chẳng có gì khác hơn là lời Ngài mời gọi chàng thanh niên Do thái khát khao nên thánh năm xưa “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (x. Mt 19, 16-22).
Biết bao người đã sẵn sàng từ bỏ quá khứ thương đau, quyết tâm lên đường tìm về chốn an nhiên. Nhưng có bao người đã có được đích điểm rõ ràng như thánh Phaolô? Con đường thoát khổ, con đường từ bỏ thì nhiều nhưng sẽ về đâu trên con đường nên thánh. Có một con đường ấy là đường Giê-su mà chính Ngài đã quả quyết “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Đó là con đường dẫn đến sự sống và được sống dồi dào. Con đường dẫn ta đi về nhà Cha, về với cội nguồn của chính mình, về với Gia đình yêu thương. Phụng vụ Chúa nhật tuần tới sẽ trình bày về con đường ấy.
Lạy Chúa, xin hướng dẫn con, xin đồng hành với con, xin trợ lực cho con để con được tiến vào vui sống bên Cha trong an vui hạnh phúc.
.
Lm. Giuse Nguyễn
Tự Sắc “Cửa Đức Tin” của Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI có viết: “Một điều có tính quan trọng là trở lại lịch sử đức tin của chúng ta, được đánh dấu bằng mầu nhiệm khôn lường của việc đan kết giữa thánh thiện và tội lỗi”. Hành trình đức tin của chúng ta không phải chỉ là thánh thiện, cũng không hẳn là tội lỗi, nhưng là sự “đan kết giữa thánh thiện và tội lỗi”. Chính điều này làm cho hành trình đức tin của chúng ta trở thành một “mầu nhiệm khôn lường”. Để rồi chúng ta biết cám ơn Chúa về sự thánh thiện, đồng thời phải: “Thôi thúc nơi mỗi người việc hoán cải chân thành và trường kỳ” (Cửa Đức Tin, số 13) về tội lỗi của mình. Qua đó chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, nhưng không phải để kết án, mà để mở ra cho chúng ta một con đường sống. Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều đó.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Is 43, 16-21
Dân Do Thái bị lưu đày ở Babylon, Isaia nhắc lại cho họ biết chính Thiên Chúa đã giải thoát cha ông họ bên Ai Cập bằng những dấu lạ điềm thiêng, thì cũng chính Ngài sẽ giải phóng dân một lần nữa, Ngài nói: “Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn”. (Is 43, 19b)
Đáp ca: Tv 125
Đây là thánh vịnh ca tụng việc Thiên Chúa đã giải thoát dân khỏi cảnh lưu đày: “Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi như người đang mơ…”. Vì vậy họ đã thốt lên: “Chúa đã đối xử nhân từ với chúng tôi, nên chúng tôi mừng vui bao hân hoan”.
Bài Đọc II: Pl 3, 8-14
Thánh Phaolô nói đến sự công chính, nhưng không phải sự công chính do lề luật mang lại, mà sự công chính do lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Ngài chia sẻ kinh nghiệm của chính bản thân Ngài: “Quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước” (Pl 3, 13b). Nếu chỉ nhìn về quá khứ thì Ngài là một con người thật tệ hại vì đã bách hại Đức Giêsu Kitô, nhưng trong hiện tại Ngài là một con người rao giảng về Đức Giêsu Kitô không biết mệt mỏi.
Tin Mừng: Ga 8, 1-11
Người Do Thái xác tín rằng: con người chỉ trở nên công chính khi tuân giữ trọn vẹn luật Môsê. Điều đó tự bản chất là tốt, nhưng cái làm cho họ trở nên xấu, thậm chí độc ác nữa là họ vênh vang, tự đắc về thành tích giữ luật của mình, và nhất là họ tự biến mình thành chó săn, thành quan tòa để rình mò, kết án người khác, trong khi bản thân của họ đã giữ tốt 100 % chưa? Câu chuyện người đàn bà ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay là minh chứng cho sự kiêu ngạo và độc ác của họ. Mặc dù đó là điều họ vẫn thường xuyên làm khi khoe khoang bản thân mình và dò xét người khác, nhưng câu chuyện hôm nay chỉ là cái cớ để họ kết án Đức Giêsu mà thôi. Họ đem đến cho Chúa một người phụ nữ mà họ nói là “bị bắt gặp quả tang đang phạm tội ngoại tình”.Rình mò người khác, nhất là trong những chuyện kín đáo, thì rất nhục nhã, xấu xa! Vậy mà họ tự hào, cười một cách hớn hở, nham nhở, man rợ, lôi xồng xộc người phụ nữ đó đến trước mặt Chúa để hỏi Ngài phải làm gì. Họ đã chặn đầu Chúa trước rồi:“Thưa Thầy, trong sách luật Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà này, còn Thầy, Thầy nghĩ sao” (Ga 8, 5). Từng lời, từng chữ của họ như cây đinh đóng vô đầu người ta, nhức nhói lắm! Đằng nào cũng chết. Nếu Chúa đồng ý ném đá thì họ sẽ đưa Chúa tới tổng trấn Philatô, vì thời đó quyền này thuộc về tổng trấn, và chỉ một mình ông mà thôi. Còn nếu Chúa không đồng ý thì họ sẽ đưa Ngài ra trước thượng hội đồng Do Thái giáo, vì Ngài không tuân giữ luật Môsê. Thực sự ra cái bẫy họ giăng chưa chắc và còn nhiều sơ hở. Việc ném đá người ngoại tình nằm trong sách Đệ Nhị Luật chương 22, câu 22 : “Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình sẽ bị ném đá cho đến chết cùng với người đàn ông phạm tội với bà ta”. Nhưng ở đây người đàn ông đó đâu? chẳng lẽ là một trong số bọn họ sao? Và Đức Giêsu cũng có thể nói với họ: quyền cho ném đá người ta là quyền của tổng trấn. Tuy nhiên Đức Giêsu cứ thinh lặng và “cúi xuống lấy ngón tay viết trên cát”. Tại sao Ngài thinh lặng? Thưa Ngài muốn cho những ai muốn kết án người khác phải quay trở về với cõi lòng mình để xem xét lại chính bản thân mình, nhưng họ đã không chịu làm nên Ngài buộc lòng phải nói lên sự thật và cũng là chân lý: “Ai trong các ngươi sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Ngài nói như vậy vừa không phạm luật Môsê, vừa không phạm luật của tổng trấn. Nhưng hơn thế nữa, Ngài còn cho thấy chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền kết án.
Lời Chúa ngày hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống lòng nhân từ và sự yêu thương, thông cảm cho người khác. Dĩ nhiên Đức Giêsu không đồng lõa với tội, mà Ngài biết mở ra cho tội nhân một con đường sống. Ngài đã nói: “Chị hãy về, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Chúa cũng nghiêm khắc, nhưng sự nghiêm khắc của Ngài không phải để giết chết, mà để cho người ta sống tốt hơn.
II. MỞ RA CON ĐƯỜNG SỐNG
- Thiên Chúa là nguồn sống:
Thiên Chúa là nguồn sống, vì vậy Ngài không muốn bất cứ một ai phải chết. Chính Ngài đã nói: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống”. Chính vì Ngài muốn con người được sống nên khi nguyên tổ phạm tội, Ngài không bỏ họ, nhưng đã sai Con Một của Ngài xuống thế làm người để chuộc lại lỗi lầm cho con người. Khi đến thế gian này Đức Giêsu đã minh chứng Ngài là nguồn sống: “Ta đến để chiên được sống và sống dồi dào”. Để rồi nguồn sống đó được thể hiện một cách mạnh mẽ nơi Bí tích Thánh Thể để “Ai ăn thịt và uống máu Con Người thì sẽ được sống”. Rõ ràng như vậy.
- Đấu tranh cho sự sống
Nối tiếp sứ mạng của Đức Giêsu, Giáo Hội không ngừng đấu tranh cho sự sống. Sự sống đó không chỉ là sự sống thể xác mà còn là sự sống tinh thần. Giáo Hội luôn luôn lên án những biện pháp ngừa thai nhằm chọn lựa và loại trừ sự sống, nhất là hành động phá thai. Giáo Hội luôn đấu tranh cho quyền sống khi không đồng ý cho cái chết êm dịu… Tuy nhiên Giáo Hội lại rất thông cảm cho những con người lầm lỡ. Có những nhà dòng lập ra mái ấm cho những phụ nữ lầm lỡ để họ được sống, được yêu thương, được sinh con. Có những người đã âm thầm đi nhặt xác thai nhi để chôn cất. Có những người đã một mình nuôi nấng hàng chục trẻ mồ côi… Đặc biệt là Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Ngài đã phê bình các linh mục trong Giáo phận của Ngài không chịu rửa tội cho những đứa con ngoài giá thú vì lý do “để bảo vệ sự thánh thiện của hôn nhân”. Ngài nói: “Những phụ nữ này đã can đảm giữ con mình lại trong thế gian, thay vì trả nó lại cho tạo hóa, vậy mà họ phải lang thang từ giáo xứ này qua giáo xứ khác để xin được rửa tội cho con mình”. Qua đó chúng ta thấy Giáo hội luôn đấu tranh cho sự sống và thông cảm cho những con người lầm lỡ.
- Bác ái là cảm thông
Còn chúng ta, một trong những việc phải làm thường xuyên, nhất là trong mùa chay là sống bác ái. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy biết sống bác ái bằng cách cảm thông với anh chị em của mình, nhất là những con người lầm lỡ.
Phải cảm thông vì chúng ta cũng là những con người lầm lỡ. Lịch sử đời ta được đan xen bởi thánh thiện và tội lỗi, nhưng hình như tội lỗi nhiều hơn. Cảm thông không phải là đồng lõa với tội lỗi với cái xấu, nhưng trong mọi hoản cảnh hãy có cái nhìn hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.
Trong khi nhiều người lên án hành động của “Khá Bảnh” hay “Cu Thóc” ; miệt thị vị cựu phó Viện Trưởng VKSND Tp. Đà Nẵng ; phẫn nộ với hành vi man rợ của một số người thiếu nữ giao gà trong dịp tết nguyên đán vừa qua ; chỉ trích, chống đối Giáo Hội vì những vụ bê bối hoặc thành kiến cá nhân với những vị lãnh đạo trong Giáo hội… Thì trong thực tế cuộc sống vẫn có cậu bé đạp xe hàng trăm cây số để thăm đứa em bệnh tật của mình, sau đó người ta bán đấu giá chiếc xe đạp và đôi dép lê đã mòn vì dùng làm phanh của em để dùng số tiền đó giúp chữa bệnh cho đứa em bệnh tật của cậu bé. Cái đẹp vẫn còn đó trong đời. Hay những nhà truyền giáo đã bỏ mạng nơi đất khách quê người vì lòng nhiệt thành truyền giáo của mình…
Cụ thể trong hoàn cảnh của chúng ta, chắc chắn còn rất nhiều người chưa được tốt cả về xã hội lẫn tôn giáo. Cái nhìn thông cảm của chúng ta là đừng làm cho những cái tệ hại lan rộng thêm, nhưng hãy cố gắng giới thiệu những nét đẹp trong cuộc đời, ít nhất là bản thân chúng ta lo sống đạo cho tốt, rồi lôi kéo, nhắc nhở người ta để họ cũng được quay về với Chúa.
“Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa” Con đường sống Đức Giêsu đã mở ra cho người tội lỗi, cũng là mở ra cho mỗi người chúng ta. Hãy bắt chước Ngài để có cái nhìn cảm thông và nâng đỡ.
Lạy Chúa, xin tha thứ tội lỗi cho chúng con! Xin cho chúng con cũng biết thông cảm, tha thứ cho người khác.
.
SỰ THA THỨ CÓ SỨC CHỮA LÀNH TÂM HỒN
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Trong một phiên tòa tại bang Florida – Hoa Kỳ xét xử một tên tội phạm giết người máu lạnh, hắn đã từng giết tới tám thiếu nữ một cách dã man. Các nhân chứng và gia đình cũng được mời đến tham dự phiên tòa. Họ mang theo hình ảnh con em của họ đã bị tên này giết chết. Trong phần buộc tội, vị thẩm phán cho phép gia đình các nạn nhân lên tiếng, họ lần lượt đứng lên nguyền rủa, chửi bới, kết tội hắn ta. Tên tội phạm nghe những lời cáo buộc và nguyền rủa đó chỉ gật đầu, trên gương mặt không hé lộ một chút cảm xúc hối hận nào. Sau cùng có một người là cha của một nạn nhân đứng lên nói: “Này anh, anh có biết rằng tôi yêu con gái của tôi đến chừng nào! Anh có biết rằng chính anh đã gây biết bao đau khổ cho tôi và gia đình trong suốt những năm qua. Thời gian qua là thời gian vô cùng tồi tệ đối với gia đình chúng tôi vì đứa con của tôi đã bị anh giết. Tôi cũng muốn lên án anh, kết tội anh, nguyền rủa anh xuống đến đáy địa ngục. Nhưng tôi không làm như thế. Hôm nay vì Chúa, tôi tha thứ cho anh về những gì anh đã gây ra cho gia đình tôi”. Nghe đến đây, sắc mặt của tên tội phạm đã thay đổi, hắn cúi xuống và khóc.
Thưa quý OBACE, chỉ có sự tha thứ mới có thể làm mềm lòng con người, có sức mạnh chữa lành những vết thương trong tâm hồn và có thể mở ra cho người khác một tương lai. Tuần trước chúng ta cùng suy gẫm về Thiên Chúa như người cha nhân hậu vui mừng vì con cái trở về làm hòa với cha và với nhau. Hôm nay, chúng ta lại được chiêm ngắm Thiên Chúa nhân hậu và hay tha thứ, luôn tạo điều kiện và cơ hội cho con người làm mới lại cuộc đời qua câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Tin Mừng thuật lại: Những người Do Thái đã đem đến truớc mặt Chúa Giêsu một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và đặt vấn đề: Thưa Thầy, người phụ nữ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Theo luật Môsê, hạng phụ nữ này sẽ bị ném đá. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao? Câu chuyện cho thấy cách cư xử và thái độ khác nhau của những người Do Thái và của Chúa Giêsu.
Trước hết những luật sĩ và biệt phái đã đối xử với chị như một con vật. Họ lôi chị đến giữa đám đông, đặt chỉ đứng đó và cáo tội chị trước mặt mọi người. Họ làm như vậy để thể hiện sự đạo đức, liêm chính của bản thân khi cho mình cái quyền kết án người khác. Việc làm này gây sự nhục nhã cho một phụ nữ. Họ lớn tiếng kết án chị: Cứ theo luật, hạng phụ nữ này đáng bị ném đá cho đến chết. Họ đối xứ bất công khi chỉ buộc tội người phụ nữ còn đồng phạm của chị lại không bị kết án, không hề nhắc tới.
Những luật sĩ và biệt phái còn có một âm mưu thâm độc hơn, họ muốn đưa ra cho Chúa Giêsu một cái bẫy và nghĩ rằng, Chúa Giêsu không thể nào thoát khỏi cái bẫy này. Họ đặt vấn đề với Chúa Giêsu: Theo luật Môsê, phụ nữ này sẽ bị ném đá cho đến chết, còn Thầy, Thầy dạy làm sao? Nếu Chúa Giêsu trả lời, cứ ném đá theo luật Môsê, thì chứng tỏ giáo lý và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu không có gì mới mẻ. Trái lại, nếu trả lời: Tha cho chị ta, thì những người này sẽ có cớ cáo buộc Chúa Giêsu là người chống lại luật của Môsê.
Chúa Giêsu đã không trả lời ngay, Ngài cúi xuống lấy tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất”.Với cách phản ứng này, Chúa Giêsu đã tạo ra một khoảng lặng để cho các luật sĩ và biệt phái phải nhìn lại bản thân mình. Chúa cũng muốn nhắc họ, trước khi lớn tiếng kết án người khác cần phải nhìn lại bản thân: “Ai sạch tội thì ném đá trước đi”.Vì trong thực tế cuộc sống, có nhiều người lớn tiếng kết tội người khác là để cho người khác khỏi chú ý đến cái sai của mình, ném đá người khác là để che giấu tội lỗi của mình.
Các luật sĩ và biệt phái khi nghe Chúa Giêsu nói như thế, họ đã giật mình nhìn lại và lẳng lặng bỏ đi, kẻ trước người sau, bắt đầu từ người lớn tuổi. Lời Chúa nói đã chạm vào tận lương tâm của những con người giả hình này. Họ thấy rằng, Chúa Giêsu đã biết mưu đồ và sự tính toán thâm độc của họ, nên đã bỏ đi. Các luật sĩ và biệt phái bỏ đi vì từ trước đến giờ, họ chỉ khoe khoang cái áo và hình thức đạo đức bên ngoài, còn đời sống và con người thật của họ lại hoàn toàn ngược lại. Họ thấy con người thật của mình chưa phải là người sạch tội và vì vậy, họ không mạnh mẽ để kết tội người phụ nữ nữa, trái lại họ đã buông những hòn đá xuống và bỏ đi.
Cuối cùng chỉ còn lại một mình Đức Giêsu và người phụ nữ vẫn đứng đó. Khác với những luật sĩ và biệt phái, người phụ nữ nhận thấy sự sai trái tội lỗi của mình, chị không bỏ đi, chị vẫn đứng đó để chờ sự phán quyết của Chúa Giêsu. “Chúa Giêsu ngẩng lên và nói với người phụ nữ: Họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao? Chị trả lời: Thưa ông, không còn ai cả. Chúa Giêsu đáp: Tôi cũng vây, tôi không lên án chị đâu! Chị về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.Với thái độ này, Chúa Giêsu cho thấy tấm lòng xót thương của Thiên Chúa đối với tội nhân. Ngài đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi. Ngài đến để cứu chữa và tha thứ chứ không phải để giết chết. Chúa Giêsu đã chạnh thương trước một thân phận phụ nữ tội nghiệp, bị xã hội coi thường, bị đồng loại kết án và loại trừ.
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy sự nhân từ của Thiên Chúa là Cha: “Tôi cũng không kết án chị đâu! Chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.Thiên Chúa không chấp nhận tình trạng tội lỗi, nhưng lại hết sức nhân từ và thông cảm đối với tội nhân. Thiên Chúa không dung túng hoặc làm ngơ trước điều xấu, nhưng mở ra cho con người một cơ hội, một tương lai mới: “Chị về đi và từ nay đừng phạm tội nữa!”Người phụ nữ này đã được một cơ hội để đổi đời. Tin Mừng cho thấy, sự tha thứ có sức chữa lành tâm hồn và biến đổi con người. Theo nhiều nhà chú giải Kinh Thánh, người phụ nữ này đã trở thành một trong các phụ nữ đi theo Chúa Giêsu và cũng chính là cô Maria Mađalêna sau này theo Chúa đến chân thập giá cùng với Đức Maria, là người được Chúa Giêsu trao phó cho việc loan báo sứ điệp phục sinh đầu tiên.
Chỉ có con người mới tìm cách trói buộc và kết án nhau, còn Thiên Chúa luôn tháo cởi và tha thứ; chỉ có con người mới đóng kín và chặn đường tương lai của kẻ khác, còn Thiên Chúa luôn mở ra tương lai hy vọng cho con người. Đó cũng là điều tiên tri Isaia đã dùng nhiều hình ảnh để diễn tả về Thiên Chúa trong bài đọc một: “Đây là lời của Đức Chúa, Đấng đã vạch một con đường giữa đại dương, mở lối đi giữa sóng nước oai hùng…: Các ngươi đừng nhớ lại các chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước… Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn”.Với những lời này, tiên tri cho thấy Thiên Chúa luôn muốn cho con người được sống chứ không phải chết, Ngài luôn mở ra tương lai tốt đẹp cho con người. Tuy nhiên, con người có đi theo con đường Chúa đã mở ra cho mình hay muốn tìm một con đường riêng mà không cần Thiên Chúa, điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào sự chọn lựa của con người.
Kết án thì dễ, tha thứ thì khó; cáo buộc người khác thì dễ, nhìn lại bản thân thì khó. Trong cuộc sống gia đình và cộng đoàn, chúng ta cũng dễ dàng lên án kết tội nhau, ném đá nhau và tránh né nhìn lại trách nhiệm của bản thân. Chúng ta cần mạnh dạn buông hòn đá xuống để có thể bước đến với nhau, cầm lấy tay nhau và nâng nhau chỗi dậy làm lại cuộc đời. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại bản thân, đã nhiều lần chúng ta được Thiên Chúa tha thứ, thì xin cho chúng ta cũng dễ dàng tha thứ cho người khác. Thiên Chúa đã mở ra cho chúng ta cơ hội đổi đời, thì xin cho chúng ta đừng bao giờ chặn lối trở về của anh chị em, đừng chặn đứng tương lai của họ, nhưng xin cho chúng ta cũng có được trái tim nhân hậu thương xót của Chúa để chúng ta sửa chữa lại sai lầm thiếu sót của mình.
Ta không kết tội con đâu! Con về đi và từ nay đừng phạm tội nữa. Đó cũng là lời Chúa đang nói với mỗi chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ thất vọng về tình trạng của mình, nhưng luôn tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa để sám hối và thay đổi cuộc sống bản thân nên hoàn thiện hơn. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong Tin Mừng thánh Gioan (8,1-11), theo các nhà nghiên chính cũng thường được điểm tô đậm nét bằng những yếu tố “phản đề”. Có một cái nhìn cặn kẻ về sự gian ác của con người hẳn nhiên sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa.
Tội ngoại tình: Thoặt xem ra đây là một loại tội dễ lượng thứ, vì bản tính con người mỏng dòn, yếu đuối. Và người ta thường dùng cụm từ “tính xác thịt” như để bào chữa mỗi khi lỗi phạm. Nếu xét tội này theo chiều kích “sự yếu đuối” thì cũng có thể dễ thông cảm. Tuy nhiên, nếu nhìn đây là một sự bất tín, bất trung, là một hành vi phản bội, phá vỡ sự bền vững của đời sống hôn nhân-gia đình, vốn là tế bào của xã hội thì tội này thật đáng sợ.
Nhân loại chúng ta đã và đang phải lao đao vì căn bệnh được gọi là bệnh thế kỷ, bệnh HIV-AIDS. Cái nguy hiểm chết người của căn bệnh này là tế bào dần mất khả năng kháng khuẩn. Khi tế bào hỏng hư thì cả cơ thể có thể gặp hiểm nguy mọi lúc, vì bất cứ vi khuẩn gây bệnh nào, dù là bệnh thường gặp như cảm cúm…Chúng ta đều biết cái nền tảng của xã hội và cũng là của Giáo Hội chính là gia đình. Và nền tảng này được dệt xây trên tình yêu chung thủy và sự tín nhiệm lẫn nhau. Khi đã bất trung thì sự tín nhiệm ít nhiều bị đánh mất. Có thể cái tội bất trung vì yếu đuối không quá trầm trọng nhưng hậu quả của nó thì thật khó lường. Các ngôn sứ thường dùng thứ tội này: “ngoại tình”, để nói đến việc dân xưa bỏ Thiên Chúa mà đi thờ các thần ngoại bang.
Nhất tiển diệt song điêu. Một mũi tên giết hai con chim. Câu nói có thể dùng trong cả trường hợp tích cực lẫn tiêu cực, nhưng thường ám chỉ những hành vi gian ác gây hại cho nhiều đối tượng. Cái bẫy mà nhiều kinh sư và người biệt phái ngày xưa giăng ra để hãm hại Chúa Giêsu quả là hiểm độc. Đã nhiều lần, và nay thêm một lần nữa họ dồn Chúa Giêsu vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”. Để thực hiện mưu đồ này họ đã không ngần ngại sử dụng sự yếu đuối, tội lỗi của một con người. Có thể nói rằng họ đã kiếm tìm và tận dụng tội lỗi của đồng loại để phục vụ gian kế của mình. Đã là gian ác thì sẽ không chừa một thủ đoạn nào, kể cả việc lợi dụng tội lỗi, sự yếu đuối hay nỗi khốn khổ của tha nhân để thủ lợi hoặc để thực hiện ý đồ đen tối của mình.
“Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Tin Mừng minh nhiên cho ta biết rằng những người biệt phái và luật sĩ hôm ấy cố tình gài bẫy Chúa Giêsu hầu có bằng chứng tố cáo Người, Đấng đã từng tuyên bố rằng “đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn”(x.Mt 5,17). Chắc hẳn những người cố tình gài bẫy hôm ấy nghĩ rằng phen này Chúa Giêsu không thể thoát. Nếu Người không giữ luật Môsê thì khó mà thuyết phục dân chúng. Còn nếu cứ nhất nhất hành xử theo luật truyền thì sẽ đi ngược với lời giảng dạy của Người về lòng nhân từ, tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22).
Nhất ngôn độ bách tính: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”(Ga 8,7). Một lệnh ban để thi hành án ư? Xét về hình thức văn tự thì đúng vậy. Nhưng ẩn sâu bên trong lệnh ban ấy, chính là lời mời gọi xét mình, tự kiểm. Ai là người vô tội? Người Do Thái vốn không xa lạ gì với khái niệm tội lỗi, nếu không muốn nói là rất bén nhạy. Cùng với tổ phụ Đavít xưa họ luôn ý thức thân phận tội lỗi của mình để rồi không ngừng cầu xin ơn tha thứ. “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm…(Tv 50).
Một lời tuyên phán đã cứu sống người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Lời tuyên phán ấy cũng đã giải thoát cả đám đông gian ác hôm ấy. Hành vi rút lui, bỏ đi, kẻ trước người sau, bắt đầu từ người lớn tuổi, là một lời xưng thú tội lỗi công khai, dù vô ngôn nhưng lại đủ ý. Rút lui là tự nhận mình cũng tội lỗi không kém gì người phụ nữ phạm tội ngoại tình mà có khi còn tồi tệ và xấu xa hơn. Tình yêu thật vạn năng và diệu kỳ. Tình yêu luôn chiến thắng sự hiểm độc, gian ác.
Ai thực sự vô tội? Chúng ta dễ dàng kết luận đó là Chúa Giêsu, vì chỉ còn lại một mình Người và người phụ nữ. Chỉ mình Chúa Giêsu mới có quyền kết án, thế mà Người lại phán: “Tôi không lên án chị. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Người rộng lượng tha thứ cho tội nhân, khoan dung với người phạm tội, nhưng lại cương quyết loại trừ tội lỗi. Để làm điều này thì Đấng vô tội đã cam chịu kết án cách bất công.
Một hành vi vừa nhân ái vừa dịu hiền và tinh tế: “Cúi xuống”. Khi nghe những người biệt phái và kinh sư tố cáo người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, thì Chúa Giêsu đã cúi xuống và viết cái gì đó trên đất. Sau khi người ta hỏi mãi, Người đã ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội…” Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Không biết Chúa Giêsu viết những gì nhưng hành vi cúi xuống của Người thật nhân hậu và đầy tế nhị. Nếu giả như Người cứ chăm chăm nhìn vào đám đông thì chắc gì đã có chuyện người ta can đảm nhận mình là tội nhân để rồi rút lui tuần tự. “Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.”(Kn 11,23).
Ai trong chúng ta sạch tội? Một câu hỏi khiến chúng ta cần khiêm nhu nhìn nhận con người thật của mình. Tiên vàn hãy lấy cái đà ra khỉ mắt mình hơn là cứ chăm chăm vào cái rác trong mắt tha nhân. Ai trong chúng ta cũng là tội nhân. Mọi người đều cần ăn năn sám hối. Để có thể trở về thì ngoài tình yêu và ân sủng Chúa, chắc hẳn cũng cần sự khoan dung và thái độ ứng xử tế nhị trong sự tôn trọng phẩm giá của nhau. Chúa Kitô không chỉ cúi xuống rửa chân cho chúng ta mà con cúi xuống, làm ngơ để tạo cơ hội cho chúng ta là những tội nhân hoán cải trong danh dự. Người đã nêu gương cho chúng ta thì chúng ta cũng phải bắt chước Người để sống với nhau cho có tình trong sự tôn trọng phẩm giá của nhau.
.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Tin Mừng hôm nay kể lại câu chuyện rất nổi tiếng về một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, bị những người Biệt Phái và Luật Sĩ mang đến cho Chúa Giêsu để xét xử. Ý đồ của họ là xem Chúa Giêsu sẽ xử lý như thế nào trước tình huống này. Xét theo luật Môsê, người đàn bà này phải chịu ném đá cho đến chết vì tội ngoại tình. Nếu Chúa Giêsu xử theo luật này thì xem ra những lời Đức Giêsu nói về lòng thương xót mâu thuẫn với cách hành xử của Người.
Trong khi họ chờ đợi câu trả lời, Chúa Giêsu không nói gì, nhưng chỉ viết trên đất. Các Giáo Phụ giải thích là Chúa Giêsu viết những tội của họ. Sau đó, Chúa Giêsu đứng dậy và nói: “Ai trong các người sạch tội thì hãy ném đá người này trước.”
1- Đức Giêsu: “có với tội nhân, không với tội lỗi”
Với câu nói này, Đức Giêsu đã đảo lộn tình thế. Thay vì lên án và đòi ném đá người phụ nữ, người ta bắt đầu phải quay trở về với chính mình và xét mình có sạch tội hay không mà đòi kết án người khác. Từ đó, từng người một, bắt đầu từ người già nhất cho đến người trẻ, lần lượt bỏ viên đá xuống và rút lui. Chỉ còn lại Chúa Giêsu và người phụ nữ đứng ở đó. Bây giờ, Chúa Giêsu hỏi: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao? Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả.” Chúa Giêsu nói với chị: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8,11).
Đây quả là những lời đẹp nhất của Tin Mừng! Thật vậy, Đức Giêsu đến mạc khải cho chúng ta biết về một Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chậm bất bình và rất mực khoan dung. Chính Đức Giêsu là hiện thân của lòng thương xót Chúa Cha. Người đến để cứu vớt, chứ không phải để tiêu diệt hay kết án. Đức Giêsu là Thiên Chúa, Người có quyền tha thứ mọi tội lỗi và cho con người cơ hội để làm lại cuộc đời. Như thế, qua cách hành xử theo lòng thương xót, Chúa Giêsu cho thấy rằng: Người luôn có thái độ cảm thông và thương xót đối với mọi tội nhân. Người không kết án họ. Đồng thời, Chúa Giêsu bày tỏ thái độ không chấp nhận tội lỗi khi quả quyết: “Tôi không kết án chị, nhưng từ nay chị đừng phạm tội nữa.” Chúa Giêsu mở ra cho mọi tội nhân một tương lai và một cuộc sống mới. Người chính là hiện thân của một vị Thiên Chúa nói “có” với tội nhân, nhưng lại cương quyết nói “không” với tội lỗi. Đó là niềm hy vọng cho bất cứ tội nhân nào muốn trở về với Chúa.
2- Dễ dàng ném đá người khác
Cũng như những Biệt Phái và Luật Sĩ, chúng ta thường mù lòa về những khuyết điểm của mình, nhưng lại thấy rõ những khuyết điểm người khác. Về điểm này, thánh Têrêsa Avila có một câu nói rất sâu sắc: “Mỗi người chúng ta thường đeo hai cái túi. Một cái sau lưng đựng những điều tốt của người khác. Còn một cái trước mặt đựng những khuyết điểm của họ.” Tâm lý con người thường có khuynh hướng thích lên án và ném đá người khác, khi tự cho mình trong sạch và vô tội. Nhiều lúc chúng ta còn trút lên người khác trách nhiệm và lỗi lầm của mình. Ađam ngày xưa đổ lỗi cho Evà, còn Evà thì đổ lỗi cho con rắn. Điều này cũng có thể xảy ra trong các lãnh vực chính trị, xã hội và đời sống gia đình: vợ đổ lỗi cho chồng, chồng đổ lỗi cho con; cán bộ đổ lỗi cho nhân dân, thầy giáo đổ lỗi cho học trò v.v… Có lẽ đây là căn bệnh kinh niên của con người, căn bệnh không dám nhận lỗi mình nhưng lại đổ lỗi và thích ném đá người khác. Đó là một thứ đạo đức giả và phán xét bất công!
Những người Luật Sĩ và Biệt Phái trong Tin Mừng không phải là những người xấu hơn chúng ta đó sao? Họ thấy cái rác trong mắt của người khác nhưng lại không thấy cái xà trong mắt mình. Chúng ta cũng thường có cám dỗ khi suy nghĩ rằng thế giới này sẽ tốt hơn, xã hội này sẽ công bình hơn nếu người khác biết thay đổi đời sống, nhưng chính chúng ta lại không muốn thay đổi. Tuy nhiên, chúng ta quên rằng gốc rễ của sự dữ và những điều xấu xa phát xuất từ lòng mỗi người. Chúng làm tổ trong chúng ta. Nhiều lúc những điều xấu xa thường trá hình với những lý do cao thượng vì danh Chúa hay vì lợi ích chung. Chúng ta thường bào chữa cho lòng ích kỷ, sự vô cảm và những thói hư tật xấu của mình.
Thay vì biết mình và nhìn nhận những khuyết điểm của mình, chúng ta tự coi mình là thẩm phán của những người khác. Rõ ràng đây là một điều vô lý. Bởi lẽ, thẩm quyền này chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa, chỉ có Người là vị thẩm phán tối cao. Người thấu rõ tường tận mọi ẩn dấu và hoàn cảnh của mỗi người. Vì thế, chỉ có Thiên Chúa mới có thể đánh giá chính xác trách nhiệm và tội lỗi của mỗi người.
Chúa Giêsu đã hành xử theo một cách thức rất khác với chúng ta: “Tôi không lên án chị đâu…” Người mời gọi: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa lên án… Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,37-38). Lòng khoan dung của Thiên Chúa chính là bài học mà chúng ta cần noi gương bắt chước. Thay vì lên án người khác, chúng ta học cách hành xử của Chúa Giêsu là sống bao dung và tha thứ cho những lầm lỗi của người khác. Lòng bao dung này mang lại ơn tha thứ mà chúng ta xin trong Kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho những kẻ có nợ chúng con.”
3- Cơ hội quý báu để sám hối
Đức Giêsu đến mở ra cho chúng ta một con đường mới: thay vì lên án người khác, mỗi người chúng ta phải cáo mình, nhận lỗi; thay vì ném đá người khác, chúng ta cần có thái độ bao dung và tha thứ những lỗi lầm của người khác. Bởi vậy, chúng ta cần xin ơn Chúa để thay đổi thái độ sống của mình theo cách hành xử của Chúa Giêsu. Người mời gọi chúng ta hoán cải thái độ sống của mình. Nghĩa là thay đổi cách nghĩ, cách nhìn nhận và đánh giá của chúng ta, để có cách hành xử giống với Chúa Kitô. Chúng ta đang ở trong những tuần cuối cùng Mùa Chay thánh và tiến gần tới lễ Phục Sinh. Đây là cơ hội quý báu Thiên Chúa mời gọi chúng ta sám hối. Mỗi người hãy sống kinh nghiệm tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa qua bí tích Hòa Giải. Nơi đó, Người ban ơn tha thứ cho chúng ta. Chỉ với một tâm hồn sám hối, chúng ta có thể cử hành cách xứng đáng bí tích Thánh Thể.
Lạy Chúa, khi đối diện với Chúa và anh chị em, chúng con là những tội nhân cần đến lòng thương xót. Xin cho chúng con biết từ bỏ thói lên án người khác để sống khiêm tốn và bao dung hơn với tha nhân. Amen!
.
Lm. Jb Nguyễn Minh Hùng
“Tôi không lên án chị! Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Đó là lời đầy yêu thương, ấm áp mà Chúa Giêsu đã ngỏ với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Đó cũng là lời kết cho bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ V mùa Chay: Không những làm nên một cái kết có hậu, mà còn là lời đẹp dẫn tới một cái kết đẹp, cho thấy lòng Chúa Giêsu tha thiết yêu con người. Người đến trần thế không phải để lên án, nhưng để tha thứ và đón nhận con người trong tình yêu thương đầm ấm. Đúng như những lời mà Chúa từng khẳng định: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ” (Ga 3, 17).
“Tôi không lên án chị! Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” là đoạn kết của câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình mà những kinh sư và pharisêu đã muốn dùng chị để khai tử Chúa Giêsu. Nếu Chúa tha cho chị, Chúa sẽ bị coi là kẻ ủng hộ cho hành động tội lỗi, ủng hộ sự vô luân lý. Biết đâu nhân cơ hội này, người ta sẽ nghi ngờ Chúa cũng đã từng phạm tội, nên mới bao che cho tội lỗi… Hơn thế, nếu tha cho chị, Chúa sẽ bị kết án là kẻ chống lại lề luật. Vì theo luật Môisen, phụ nữ phạm tội ngoại tình phải bị ném đá. Một khi bị kết tội chống đối lề luật, viên đá đầu tiên sẽ không rơi vào người phụ nữ, nhưng cầm chắc, nó sẽ nhắm vào chính bản thân Chúa.
Nếu Chúa phán quyết chị phải bị ném đá như luật dạy, Chúa tự mình đi ngược lại lời dạy hãy yêu thương, hãy tha thứ của chính Chúa. Chúa cũng sẽ mất hết uy tín và ảnh hưởng như một bậc Thầy đã từng làm bạn với người tội lỗi, dẫn đưa người tội lỗi trở về với đời sống công chính. Chúa sẽ trở thành kẻ bị coi là lừa bịp trong lời giảng dạy, vì giảng dạy thì hay, nhưng không áp dụng giáo lý của chính mình đưa ra. Chúa sẽ bị kết tội là kẻ độc ác chẳng thua gì lề luật. Ngoài ra, nếu Chúa cho phép ném đá chị, những người thù ghét Chúa có thêm cơ hội để kết tội Chúa vi phạm luật Rôma và chống lại chính quyền đế quốc. Vì chỉ có một mình chính quyền Rôma mới được xử án tử hình mà thôi.
Dẫu sao, người phụ nữ đã may mắn. Chị vẫn sống. Chị thoát chết. Nếu hôm ấy những kẻ tố cáo chị không đưa chị đến trước mặt Chúa Giêsu. Nếu hôm ấy, không có Chúa Giêsu. Nếu hôm ấy, các kinh sư, các pharisêu không thủ đoạn và quỹ quyệt muốn cùng một lúc “bắn một mũi tên, giết chết hai con mồi”, chị đã bị tử hình.
Nhìn lại và đối chếu hai thái độ: một bên là Chúa Giêsu, bên kia là những kẻ lên án người khác, chúng ta cảm nhận một nghịch lý lớn vô cùng. Đó là:
– Chỉ mỗi một mình Thiên Chúa là Đấng vô tội và Chúa Giêsu chẳng biết phạm tội là gì, lại bao dung, khoan nhân, rộng lượng cảm thông với con người cách hết sức dễ dàng.
– Chỉ mỗi một mình Thiên Chúa mới có quyền kết án tội nhân, thì Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa, chẳng những không kết án, lại tha thứ một cách quá nhanh chóng, tha thứ vô điều kiện.
– Còn loài người, không ai không khiếm khuyết, không ai không lỗi lầm, không ai không cần đến sự cảm thông của mọi người, lại khó có thể độ lượng, nhân từ. Lẽ ra, càng biết mình yếu đuối, nhỏ nhoi, chúng ta càng phải cố hết sức trao cho nhau lòng nhân hậu, lòng từ tâm để có thể nhận lại sự cảm thông, sự chia sớt, thì chúng ta lại làm ngược lại: độc đoán, độc ác, lên án nhau, soi mói nhau, hiềm thù nhau, gây mâu thuẫn cho nhau. Đã biết bao nhiêu lần, chúng ta không hề trao cho người khác điều mà chính mình cũng cần như họ. Nếu ai cũng biết trao cho người khác điều mình cần, thế giới sẽ bình an, cuộc sống xung quanh sẽ tốt đẹp biết chừng nào.
– Trong khi không ai trong chúng ta có quyền kết án anh chị em mình, thì chúng ta lại lạm quyền, tự cho mình quyền phán xét và kết án kẻ khác. Chúng ta chẳng có quyền gì trên anh chị em, vậy mà biết bao nhiêu lần, chúng ta bới móc cái xấu của người khác để mà kết án, để mà trị tội. Chúng ta thật xấu xa, ích kỷ, bởi chúng ta cần cái mà chúng ta không muốn trao tặng. Chúng ta muốn người ta làm cho mình điều tốt, trong khi chúng ta đối xử với anh chị em bằng những điều tệ hại.
Thái độ nhân từ của Chúa đối với người phụ nữ ngoại tình là bài học cho chúng ta. Cần phải khắc ghi lòng nhân từ ấy để sống vì phần rỗi của chính mình, vì sự bình an cho hết mọi môi trường chúng ta sống.
Trong một xã hội mà ai cũng đến với nhau bằng tình yêu nhân từ, chắc chắn mọi chia rẽ, mọi oán thù, mọi chém giết sẽ bị tận diện. Lòng nhân từ được đề cao, cũng có nghĩa là tình yêu, sự hòa bình, niềm hạnh phúc sẽ lên ngôi. Chúa Giêsu để lại cho ta bài học quý giá về tình yêu nhân từ. Ta phải học lấy.
Thế giới còn nhiều hận thù. Chúng ta, những Kitô hữu, có trách nhiệm làm giảm và xóa bỏ hận thù theo gương Chúa Giêsu. Nhờ nỗ lực của từng người Kitô hữu như thế, chúng ta sẽ làm cho thế giới, cho môi trường sống xung quanh mình lành mạnh hơn, đáng yêu hơn, đáng sống hơn.
Hãy lột bỏ khuôn mặt không bao giờ biết nhìn nhận mình có tội, chỉ biết giương giương tự đắc mình là Con Thiên Chúa, là kẻ trong sạch của luật sĩ, kinh sư và pharisêu. Hãy lột bỏ khuôn mặt đầy nham hiểm, độc ác, chỉ biết ganh ghét, chỉ biết nuôi lòng thù và tìm cách trả thù, chỉ chuyên lên án và kết tội người khác của luật sĩ, kinh sư và pharisêu.
Hãy học lấy và học thuộc lòng bài học của tình yêu, của lòng khoan nhân, độ lượng lớn lao đến nỗi núi không thể đo, biển không thể lường của Chúa Giêsu. Hãy bắt chước tình yêu cao cả của Chúa mà sống xứng danh môn đệ Chúa.
.
Lm. Thái Sơn
Một cô gái chẳng may chết đuối và lên chầu trời trong bộ bikini. Ngọc Hoàng nhìn cô lắc đầu:
“Con phải qua thử thách là đi trên một thanh gỗ bắt ngang địa ngục. Nếu con còn nghĩ đến những chuyện yêu đương tình ái, sẽ bị rơi xuống đó ngay”.
Thanh gỗ khá rộng và dài, cô gái đi trước, Ngọc Hoàng theo sau để kiểm tra, nhưng do sợ nên cô ta không đi mà chỉ bò… Được nửa đường, cô quay đầu lại thì… không thấy Ngọc Hoàng đâu cả…
Thưa các bạn!
Phải chăng, hãy tự biết mình là bài học khó khăn nhất và cũng là hình ảnh cao quý nhất?
Socrates, triết gia Hy Lạp cổ đại, được xem như ông tổ của triết học phương tây. Có lẽ, ông là lão gàn dở nhất thành Athen, đi khắp thành đô, miệng không ngừng nghỉ câu nói: “Hãy tự biết mình”.
Thiết tưởng, nếu không biết mình thì dễ dàng lầm tưởng về mình và tưởng rằng biết người. Nên chuyện đời thường chê nhau, như ca dao tục ngữ bảo:
“Con Chó chê Khỉ lắm lông, Khỉ lại chê Chó ăn dông ăn dài.
Lươn ngắn lại chê Trạch dài, Thờn Bơn méo miệng chê Trai lệch mồm”.
Hay
“Chuột Chù chê Khỉ rằng hôi, Khỉ lại trả lời cả họ mày thơm! ”.
“Cú lại chê bai vọ rằng hôi, Giẻ cùi chê Khách dài đuôi vật vờ”.
Thật ra, “Chân mình thì lấm mê mê, đi cầm bó đuốc mà rê chân người” hoặc “Cá trê ăn nổi, cá nóc ăn chìm”. Nếu banh mắt ra nhìn, thì chân mình có sạch hơn ai, “vẫn ăn” như thường, không “ăn nổi” thì “ăn chìm”…
Thưa các bạn!
Tin Mừng Chúa Nhật 5 Mùa Chay C thuật lại câu chuyện các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang, nhằm thử để có bằng cớ tố cáo Người.
“Trong sách luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8,5).
Nếu Thầy Giêsu nói “có”, thì Ngài đi ngược lại với những giáo huấn Ngài dạy và chống lại luật Rôma. Còn nếu Ngài nói “không”, thì Ngài chống lại lề luật Môsê đã quy định. Lối nào cũng dính bẫy, sai lỗi.
Thế nhưng, Đức Giêsu không bị sập bẫy, bị lầm lỗi, Ngài chỉ cúi xuống lấy tay viết trên đất. Vì cứ hỏi mãi, nên Ngài ngẩng đầu lên và bảo: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc ném đá trước đi” (Ga 8,7).
Trớ trêu thay, sau khi nghe Đức Giêsu nói, thì bắt đầu từ những người lớn tuổi bỏ đi. Thiết tưởng, bỏ đi vì lương tâm được đánh động, bị cắt rứt, lời lẽ day dứt và thấm thía…
Một trong những câu nói ý nghĩa của Đức giáo hoàng Phanxico trên Twitter là : “Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra cho sự cứu rỗi, một cánh cửa mở ra cho tất cả mọi người”.
Có khi, đôi khi hay nhiều khi “bạn & tôi” cứ đóng lại hay khép lại cửa người khác, thậm chí còn khóa lại hoặc chôn chặt cánh cửa cuộc đời người bên cạnh, không cho họ lối thoát hay con đường sống…
Với Đức Giêsu, Ngài luôn tìm cách mở cửa ra, tỏ lòng thương xót mọi người, nên: “Khi Thiên Chúa đóng cửa chính, thì ở đâu đó trong gian nhà, Ngài luôn mở một cánh cửa sổ”.
Hơn nữa, Đức Giêsu luôn yêu bằng cả con tim, yêu không loại trừ, dù tội ta có tày trời, vẫn biết tha thứ không mỏi mệt. “Có thể ăn nửa bữa, ngủ nửa đêm, nhưng không thể đi nửa đường chân lý, yêu bằng nửa trái tim” (W. Goethe).
Ước gì, “bạn & tôi” không phải là Ngọc Hoàng, nhưng giống như Socrates, tự biết mình, sống hết mình và yêu hết lòng cho hôm nay và cho mọi người nhé. Amen
.
Lm. Antôn
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết từ sáng sớm Chúa Giê-su đi từ núi Cây Dầu xuống đền thờ để giảng dạy. Trong cuộc hành hương Đất thánh vừa qua, tôi có dịp đến tham quan khu vực núi Cây Dầu, nằm về phía Đông, cách đền thờ Giêrusalem không bao xa. Ngày nay có ngôi nhà thờ rất lớn và đẹp, bên cạnh vườn trồng nhiều cây dầu Ô-liu nơi Chúa đã cầu nguyện, và tôi đã có dịp dâng Thánh lễ tại đây. Núi Cây Dầu là nơi đã xảy ra nhiều biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Từ núi Cây Dầu Chúa khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngồi ở núi Cây Dầu, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ về ngày tận thế. Tại vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cầu nguyện và bị bắt.
Bài Tin mừng tiếp tục cho chúng ta biết hôm đó, những người biệt phái và luật sĩ dẫn đến tới Chúa Giê-su một phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại tình để xét xử. Chủ đích của những người biệt phái và luật sĩ là muốn gài bẫy để tố cáo và lên án Chúa Giê-su, vì theo luật Mô-sê người phụ nữ phạm tội ngoại tình này sẽ bị kết án tử hình bằng cách bị ném đá cho đến chết. Nếu Chúa Giêsu đồng ý cho ném đá thì Người sẽ bị họ lên án là độc ác không biết thương người. Nếu không đồng ý thì Người sẽ bị họ lên án chống lại hay phá luật Môsê. Họ tin chắc Chúa Giê-su sẽ bị sa bẫy và họ chờ đợi. Nhưng Chúa im lặng không trả lời. Sự im lặng của Chúa có nghĩa là cho họ một thời gian để họ nhìn vào lương tâm và nhận ra sự độc ác, gian xảo, khoe khoang, kêu căng và khinh ghét của họ. Vì vậy họ đã chột dạ, bồn chồn, lo lắng và hỏi Chúa tới tấp. Câu trả lời của Chúa Giêsu quả thật là một tiếng sét đánh vào lương tâm họ: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi.” Sau đó Tin mừng cho chúng ta biết họ đã lặng lẽ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất. Lúc đó chỉ còn người phụ nữ nên Chúa bảo: “Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.”
Có một câu truyện về một người thanh niên được viết lại như sau. Anh bị bắt vì phạm tội giết người. Anh giết tới 5 người trong đó có một người cảnh sát. Khi ra tòa, anh bị kết án tử hình và ai cũng cho là công bằng, công lý được sáng tỏ. Thế nhưng trong thời gian chờ đợi tử hình, vị tổng thống lúc đó đã ân xá cho anh. Sau khi ân xá và trong một cuộc họp báo, một phóng viên đã hỏi vị tổng thống tại sao ân xá cho anh. Vị tổng thống đã nói rằng, và tôi tạm trích dịch như sau: “Có những vấn đề làm cho tôi thức trắng đêm. Trường hợp của anh thanh niên này cũng vậy. Tại sao tôi không tán thành bản án tử hình mà quyết định ân xá cho anh. Lý do là vì tôi đọc được trong bản báo cáo của phiên tòa xử anh. Và đây là lời anh nói trước vị chánh án: “Tôi xin nói với các vị một vài lời. Khi còn nhỏ, mẹ tôi thường không cho tôi bú sữa dù tôi đã khóc thét lên từng hồi vì đói. Mẹ tôi nghiện rượu say sưa cả ngày. Cha tôi cũng vậy và trong cơn say, ông thường dùng cây đập vào đầu tôi. Quí vị là những người may mắn sinh trưởng trong một gia đình khá giả, giàu có và được học hành đầy đủ. Quí vị đâu có biết cái cảnh những đứa bé nghèo khổ, đói rách phải đi lang thang ngoài đường phố nhặt những thức ăn thừa thãi trong thùng rác mà sống. Quí vị đâu có thấy cảnh người mẹ chết vì say rượu nằm chết cạnh gầm cầu, rồi đứa con thơ phải lôi xác mẹ vào một túp lều ở dưới gầm cầu, tắm rửa, thay quần áo, rồi đợi đưa mẹ đi chôn. Hình ảnh đứa bé đó là chính tôi khi mới lên 9 tuổi. Tôi sống trong cảnh đói khổ, không được dạy dỗ, học hành và sống lang thang không nơi nương tựa. Quí vị là những người tượng trưng cho cái xã hội thương lưu, giàu có, và còn là những người có trách nhiệm lo cho đời sống của mọi công dân trong nước. Thế mà quí vị đã để cho gia đình tôi và tôi đói khát, không chút tình thương, không được học hành, không hiểu thế nào là đạo đức và luân lý, và cơ hội để có cuộc sống bình thường. Vậy mà bây giờ quí vị lại lên án buộc tội tôi. Tôi muốn tố cáo ngược lại và buộc tội quí vị. Tố cáo xã hội đầy bất công là nguyên nhân gây ra tội lỗi này.” Đó là những lời phản cáo của người thanh niên bị kết án tử hình khi đứng trước tòa, và đó cũng là lý do tại sao vị tổng thống đã quyết định ân xá cho người thanh niên này.
Qua phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại tình trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta nhận ra được lòng nhân từ và thương xót của Chúa, và để hiểu một cách tường tận chúng ta tự hỏi: thương xót là gì? Thương xót có thể hiểu là một tâm trạng đặc biệt vừa êm đềm ngọt ngào, vừa đau đớn đắng cay. Hai cảm giác mâu thuẫn vừa thương lại vừa xót ấy trổi dậy trong lòng chúng ta khi chúng ta đứng trước một người chúng ta yêu thương, nhưng người ấy phạm một lỗi lầm. Thế thì khi đó, chúng ta phải đối xử thế nào? Kết án chăng? Không được, vì làm như thế là không thương. Bỏ qua chăng? Cũng không được, vì làm như thế là dung túng, a dua với sự xấu, và nhiều khi đưa đến sự gia tăng, hay khuyến khích người làm sự xấu. Đây cũng là hiện trạng của xã hội hôm nay, nhiều người dung túng hay a dua với người làm sự xấu. Vậy làm thế nào bây giờ? Chúng ta hãy nhìn Chúa Giêsu: Ngườii nói với người phụ nữ ngoại tình: “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.” Nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Người lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nào nữa. Nếu Người bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Người bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta hãy thương xót anh chị em để họ có những cơ hội làm lại cuộc đời, như Chúa cũng đã thương xót và cho chúng ta biết bao cơ hội để hòa giải với Chúa. Mùa chay là thời gian và cơ hội ăn năn thống hối, quay trở về với Chúa, thay đổi đời sống, sống tốt lành, thánh thiện, thể hiện sự hy sinh, bác ái và quảng đại. Và cũng trong mùa chay này, Chúa kêu gọi chúng ta hãy thành tâm nhìn vào cuộc sống và đến với Chúa trong Bí tích Xưng tội, hay còn được gọi là Bí tích Hòa giải. Chúa đã vâng lời và khiêm nhường đến trần gian không phải để lên án nhưng để cứu thoát, và đó cũng mục đích và ý nghĩa của Bí tích Hòa giải. Tất cả chúng ta là những người có tội, cần đến lòng thương xót và tình yêu của Chúa. Đó cũng là lý do tại sao Chúa đến với chúng ta.
.
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Thánh Gioan là tác giả duy nhất ghi lại câu chuyện người phụ nữ ngoại tình. Câu chuyện này được trình bày như một vụ án. Người bị cáo là một phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang (nhưng không có tòng phạm bị tố cáo), người tố cáo là các kinh sư và biệt phái, thẩm phán là Chúa Giêsu. Vụ án được trình bày như một vở kịch, nhân vật trung tâm là Chúa Giêsu. Trong vụ này, các kinh sư và biệt phái muốn gài bẫy thử Chúa. Bởi lẽ nếu Chúa nói đừng ném đá, họ sẽ kết án Chúa bãi bỏ Lề Luật Môisen (x.Lv 20,10;Dnl 22,23-24); nếu Chúa đồng ý cho họ ném đá, Chúa sẽ mâu thuẫn với lời Người rao giảng về đức bác ái yêu thương.
Chúa Giêsu đã ứng xử rất khôn ngoan, không mắc bẫy và không rơi vào hai tình huống trên. Người không phủ nhận Luật Môisen, cũng không làm trái với lời giáo huấn của Người. Với câu trả lời: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”, Chúa đã lưu ý những người đang tố cáo hãy nhìn lại mình. Chính vì vậy, mà không ai dám cầm đá ném người phụ nữ. Và, kết quả là, những người tố cáo dần dần rút lui, chỉ còn lại Chúa Giêsu và người phụ nữ. Khi những lời tố cáo ồn ào đã lắng xuống, chỉ còn lại một bên là tội nhân đáng thương, một bên là lòng thương xót. Lòng thương xót đã chiến thắng. Người phụ nữ đã thoát chết. Chị được phục hồi và còn có một tương lai để làm lại cuộc đời. Lòng nhân từ của Chúa đã cứu sống chị. Những người tố cáo không còn có lý do để bắt bẻ Chúa. Họ cũng không hằn học coi khinh một người đã phạm tội, vì họ nhìn lại chính bản thân mình và nhận ra thân phận tội lỗi của họ. Chúa Giêsu được tác giả Tin Mừng trình bày như một vị tôn sư khôn ngoan, đầy lòng nhân hậu.
Đức Thánh Cha Phanxicô, khi giảng về câu chuyện người phụ nữ ngoại tình, đã nói: “Chúa Giêsu không để cho người đàn bà ngoại tình bị sỉ nhục. Người không nói với chị: “Con đã làm gì? Tại sao? Vì sao con làm như vậy? Con phạm tội với ai? Ngược lại, Người nói: “Con hãy đi và đừng phạm tội nữa. Lòng Thương xót của Chúa thật lớn lao và lòng thương xót của Chúa Giêsu cũng thật lớn lao. Chúng ta được tha thứ và được vuốt ve” (Trích trong cuốn Danh Ngài là Thương Xót, tr. 18).
Câu chuyện người phụ nữ ngoại tình được đọc trong Chúa nhật hôm nay, khi chúng ta đã đi gần hết chặng đường của Mùa Chay. Chúng ta hãy nhìn lại mình, xem mình là nhân vật nào trong vở kịch được kể trên. Có thể chúng ta đang là những kinh sư và biệt phái, chuyên săm soi và kết án người khác mà không nhận ra tội lỗi của mình để ăn năn sám hối.
Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, câu chuyện người phụ nữ ngoại tình mang ý nghĩa đặc biệt. Đây cũng là lời lưu ý nhắc nhở chúng ta hãy thận trọng trong cách nhận định xét đoán người khác, bởi lẽ hết thảy chúng ta đều là tội nhân đang cần được lòng thương xót của Chúa bao bọc che chở. Ngôn sứ Isaia đã ca ngợi lòng thương xót của Chúa đối với nhân loại. Ngài quên quá khứ đen tối của con người, mở ra trước mặt họ một con đường tương lai. Hoang mạc khô cằn sẽ vọt lên dòng suối mát, làm nước uống cho dân được tuyển chọn (Bài đọc I). Tình thương của Chúa sẽ như đại dương, tẩy sạch mọi tội lỗi của con người.
“Con hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu đã giúp người phụ nữ tìm được hy vọng vào tương lai. Chị vẫn còn có một ngày mai tươi sáng, sau những tháng ngày ảm đạm chìm sâu trong tội lỗi. Đây cũng là lời chúng ta được nghe, mỗi nghi lãnh nhận Bí tích Hoà giải. Cha giải tội, sau khi đọc lời tha tội, cũng tuyên bố với chúng ta: “Chúa đã tha tội cho Ông (Bà), Ông (Bà) hãy ra về bình an”. Còn lời nào đẹp hơn là lời tuyên bố được tha thứ? Đây cũng giống như lời của vị quan toà nói với bị cáo là người đó được tha bổng, không còn bị kết án. Lòng thương xót của Chúa thật kỳ diệu, làm cho chúng ta được bình an và niềm vui trong tâm hồn.
Thiên Chúa không lên án chúng ta. Ngài luôn yêu thương và rộng lượng thứ tha mọi tội lỗi ta đã phạm, miễn là chúng ta thành tâm trở về với Ngài. Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định một danh xưng của Thiên Chúa: “Danh Ngài là Thương Xót”.
.
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Tgm. Ngô Quang Kiệt
Càng đi sâu vào mùa Chay, ta càng đi sâu vào tình yêu của Thiên Chúa. Tuần trước ta đã được tắm gội trong tình yêu tràn trề của người cha nhân hậu. Tuần này ta lại được hưởng nếm lòng khoan dung nhân hậu của Chúa Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày một phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ. Nguyên cáo là các Kinh sư và những người Pharisêu. Tội phạm là tội ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thực ra họ không cần đến Chúa Giêsu làm quan toà. Họ có thể căn cứ vào luật Môsê để thi hành án. Họ đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu không phải với thiện ý nhưng nhằm gài bẫy Người. Tha cho người phụ nữ là Người chống lại luật Môsê. Kết án người phụ nữ là Người mâu thuẫn với chính mình vì Người vẫn giảng dậy về lòng nhân từ thương xót. Cái bẫy thật hiểm độc. Đằng sau bản án của người phụ nữ chính là bản án dành cho Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu im lặng, cúi xuống viết trên đất. Người im lặng vì không đồng tình với thái độ của họ. Người im lặng để mọi người có thời gian lắng đọng tâm hồn. Người không trả lời vì câu hỏi họ đặt chưa đúng chỗ. Người không trả lời câu hỏi của họ để đưa ra cho họ một câu hỏi khác cơ bản hơn.
Người cúi xuống để người phụ nữ khỏi xấu hổ. Người cúi xuống để những Kinh sư và những người Pharisêu biết nhìn vào tâm hồn mình. Người cúi xuống buồn phiền vì sự độc ác của con người.
Vì họ cứ hỏi mãi nên Người đành ngẩng lên. Họ chờ đợi Người lên tiếng thì Người lên tiếng. Nhưng lời Người khiến họ chới với. “Ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Họ mời Chúa Giêsu làm quan toà xét xử người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại trở thành quan toà xét xử họ. Họ đợi chờ Chúa Giêsu kết án người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại kết án họ. Họ mang đá đến để ném vào người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại ném một hòn đá vào lương tâm họ.
Có điều, họ muốn Chúa Giêsu làm quan toà giết chết, nhưng Chúa Giêsu lại là quan toà cứu sống. Hòn đá họ mang đến với mục đích ném chết người phụ nữ. Hòn đá Chúa Giêsu ném vào lương tâm giúp lương tâm họ sống lại, bừng tỉnh khỏi mê muội, nhận biết mình tội lỗi, nên họ đã lần lượt rút lui không dám kết án người phụ nữ nữa.
Xét xử các Kinh sư và những người Pharisêu rồi, Chúa Giêsu mới xét xử người phụ nữ. Với ánh mắt dịu dàng, lời lẽ hiền từ, Người đã đưa ra lời phán xét: “Tôi không kết án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thật là một lời phán xét lạ lùng. Lời phán xét của Chúa không tàn nhẫn độc đoán nhưng dịu dàng nhân hậu. Lời phán xét của Chúa không soi mói xét nét nhưng đại lượng bao dung. Lời phán xét của Chúa không cay đắng trách móc nhưng ân cần vỗ về. Lời phán xét của Chúa không sỉ nhục con người tội lỗi nhưng phục hồi nhân phẩm cho ta. Lời phán xét của Chúa không giam cầm tội nhân trong quá khứ, nhưng mở ra cho ta một tương lai. Chúa đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm lỗi của ta. Chúa không nghi ngờ ta vốn hay phản bội. Chúa hoàn toàn tin tưởng khi trao tương lai vào tay người phụ nữ: “Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng tình yêu và sự tha thứ của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng con đáng quý trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương lai, không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi yên tâm đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương lai mới, bước đi trong tình yêu thương và niềm tin tưởng của Thiên Chúa. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng lòng thương xót của Chúa là vô biên. Người không lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không lên án những người tố cáo chị.
Lạy Chúa, con cảm tạ lòng thương xót vô biên của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Lên án và tha thứ, bạn làm điều nào nhiều hơn?
- Mỗi khi xét người, bạn có xét mình trước không?
- Bạn có cảm nhận được lòng thương xót của Chúa trong đời sống của bạn không?
- Khi đã tha thứ cho ai, bạn có hoàn toàn tin tưởng vào thiện chí của người đó không?
.
Lm. GB Văn Hào
Ông Nietzche, một triết gia vô thần đã từng ngạo mạn tuyên bố : “Thiên Chúa đã chết rồi”. Trong xã hội hiện nay, nhiều người ngay cả những kẻ mang danh Kitô hữu cũng đang dần khai tử Thiên Chúa bằng chính cuộc sống vô thần trong thực hành của họ. Chính lối sống mang sắc thái duy vật như thế sẽ làm mất đi cảm thức về tội lỗi. Nhiều bạn trẻ buông mình vào một lối sống hưởng thụ, sơ cứng lương tâm và đang dần đào thải Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mình. Ông Nietzche còn khuyên lớp thanh niên :“ Các bạn đừng tin có tội lỗi, các bạn hãy mạnh dạn tống khứ ý niệm tội lỗi ra khỏi đầu óc của các bạn”.
Nhưng chúng ta hãy lắng nghe sứ điệp trọng tâm mà các bài đọc trong phụng vụ hôm nay gợi nhắc để nhớ rằng tất cả chúng ta đều là tội nhân. Hãy can đảm nhìn thẳng vào nội tâm của lòng mình để khám phá ra biết bao những bẩn thỉu và xấu xa mà chúng ta không thể nào che giấu khi đến trình diện trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta đừng vội vã kết án người này người nọ, giống như đám đông vây quanh người phụ nữ. Chúa nói với họ, đồng thời Chúa cũng đang nói với chúng ta hôm nay: “Ai trong các ông vô tội, cứ việc ném đá chị ấy đi”.
Phiên tòa thứ nhất: Xét xử người đàn bà tội lỗi
Người phụ nữ này bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Không biết chị ta phạm tội cách cố ý hay chỉ vì hoàn cảnh bắt buộc phải bán trôn nuôi miệng. Thánh Luca không quan tâm đến điều đó. Thánh ký chỉ mô tả lại phiên tòa như một truyền thống theo tập tục Do thái. Một đám đông bao quanh người phụ nữ, trên tay mỗi người lăm lăm vài cục đá để chờ ném vào tên tội phạm cho hả dạ. Tình cờ, Chúa Giêsu cũng được mời đến tham dự. Có lẽ các đầu mục Do Thái đã mời Chúa đến để thử xem Ngài xử trí ra sao. Họ đặt ra một tình huống rất khó xử. Nếu Chúa Giêsu hành xử theo luật, thì có khác gì họ. Còn nếu không, thì Chúa lại không tôn trọng luật lệ của tiền nhân, thứ luật mà người Pharisiêu rất trọng thị và tuân giữ tỉ mẩn. Nhưng, Chúa Giêsu hoàn toàn thinh lặng. Ngài không nói một lời và lặng lẽ cúi xuống viết trên đất. Dường như động thái của Chúa nhằm nhắc nhở mọi người, hãy nhớ thân phận bụi đất và đầy tội lỗi nơi mình, đừng kết án kẻ khác. Cuối cùng, khi mọi người từ già đến trẻ tuần tự ‘biến’ một cách có trật tự, Chúa mới nhẹ nhàng nói với chị ta: “ Tôi không kết án chị đâu, hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Phiên tòa thứ 2: Tòa án của Philatô
Phiên tòa mà Thánh Luca thuật lại hôm nay khởi dẫn chúng ta đến với phiên tòa thứ 2 : tòa án của Philatô. Trong phiên tòa thứ nhất, Chúa được mời thủ vai chánh án, còn nơi phiên tòa thứ 2, Chúa đứng trước vành móng ngựa như một tên tội đồ. Ở phiên tòa đầu tiên, phạm nhân bị bắt quả tang đang phạm tội với nhân chứng vật chứng rõ ràng. Còn nơi phiên tòa sau, Chúa bị điệu đến như một can phạm, cho dù Ngài hoàn toàn vô tội. Trong cả 2 phiên tòa Chúa đều im lặng tuyệt đối. Sự thinh lặng mà Chúa biểu tỏ là một loại hình ngôn ngữ phong phú nhất diễn bày lòng thương xót vô hạn đối với các tội nhân. Đồng thời, đó cũng là sự im lặng trong vâng phục sâu thẳm để Thánh ý Chúa Cha được nên trọn. “Ngài hiền lành như một con chiên bị đem đi xén lông mà không kêu ca mở miệng” (Is 53,7). Con chiên vô tội ấy gánh lấy tội lỗi của cả trần gian và đã bị phân thây, hầu khai mở kỷ nguyên ơn cứu độ. Cả 2 phiên tòa này hoàn toàn tương phản nhau, nhưng có một mẫu số chung. Đó là những phiên tòa bày tỏ lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa đối với con người tội lỗi, là chính chúng ta.
Phiên tòa thứ 3: Tòa cáo giải
Đây là phiên tòa do chính Đức Giêsu thiết định. Ngài đã tham dự phiên tòa thứ nhất để nói với đám đông : “Ai trong các ông vô tội cứ việc ném đá đi”. Ngài đã bị xét xử cách oan ức trong phiên tòa thứ 2 để đồng phận với con người tội lỗi và mở toang một chân trời mới, đem lại ơn công chính hóa và sự giải án tuyên công cho những tội nhân. Ơn cứu độ ấy được diễn bày cách cụ thể nơi phiên tòa thứ 3 là chính tòa giải tội. Đây là phương thức tuyệt hảo để tái diễn lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong phiên tòa này, chúng ta được mời đến như những phạm nhân, còn chính Chúa Giêsu sẽ đóng vai thẩm phán để xét xử. Phán quyết cuối cùng trong phiên tòa này luôn là sự tha bổng, tha một cách tuyệt đối và vô điều kiện. Việc đền tội được đưa ra không phải là một hình thức đái tội lập công do công sức của con người, nhưng chính là tâm tình hoan vui và cảm tạ vì chúng ta đã được tha thứ. Không phải chúng ta đọc một vài kinh chiếu lệ để ‘đền tội’ theo ý niệm thông thường, nhưng đúng hơn chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm tình tạ ơn vì tội lỗi chúng ta được xóa sạch do lòng yêu thương và tha thứ vô điều kiện của Ngài.
Nhiều người trong chúng ta từng tham dự các phiên tòa ngoài xã hội. Có những tội rất nặng, nhưng con người dễ luồn lách dựa vào kẽ hở của luật pháp. Hoặc có không ít các vị quan tòa bẩn thỉu đã nhận ăn hối lộ trắng trợn để giảm án hoặc tha bổng cho phạm nhân. Nhưng, cả 3 phiên tòa chúng ta vừa nêu trên không hề có những trò mánh khóe hay bịp bợp giống như vậy. Nơi các phiên tòa ấy đều có sự hiện diện của Đức Giêsu. Dung mạo của Ngài lúc nào cũng phản chiếu lòng thương xót của Chúa Cha. Điều quan trọng nhất, là chúng ta phải nhìn ra thân phận tội lỗi xấu xa nơi mình và tín thác tuyệt đối vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta đừng vội kết án người khác giống như đám người Do Thái đang toan tính ném đá chị phụ nữ cho đến chết. Chúng ta cũng đừng hèn hạ và nhu nhược như Philatô, đã kết án một con người hoàn toàn vô tội chỉ vì sợ đám đông. Chúng ta vẫn thường đeo nơi mình 2 cái bị, một cái phía trước đựng những lỗi lầm của người khác và cái bị phía sau chất đầy tội lỗi to đùng của chính mình. Chúng ta cứ thích bới tìm nơi cái bị trước mặt để bới móc tha nhân và ít khi chịu ngoái cổ lại phía sau để lục soát những tội lỗi tầy đình của chính chúng ta. Chúng ta nhớ lại lời nhắc nhở của Thánh Giacôbê tông đồ: “Chỉ có một Đấng ra lề luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn bạn là ai mà dám xét đoán tha nhân (Gia 4,12).
Kết luận
Mỗi lần tham dự thánh lễ, việc đầu tiên mà Giáo hội mời gọi mọi người là hãy biểu tỏ tâm thức sám hối. Chúng ta vẫn đấm ngực thình thịch và đọc thật to: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Nhưng, nhiều khi vừa bước chân ra khỏi nhà thờ chúng ta lại vội ‘đấm nhầm’ qua ngực người khác, bằng việc chỉ trích, nói hành nói xấu và kết án anh em. Trong mùa chay, chúng ta hãy mạnh dạn lục soát lương tâm, bới tìm những rác rưởi và bẩn thỉu nơi nội tâm của cõi lòng. Có khiêm tốn tín thác tuyệt đối vào Chúa, chúng ta mới hưởng được Lòng Thương xót và ơn tha thứ nơi Ngài.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Gia đình là một xã hội thu nhỏ. Gia đình là tập hợp những phần tử sống chung với nhau thành một gia đình. Thế nên, chấp nhận kết hôn là chấp nhận chung sống lứa đôi. Một cuộc sống không phải lúc nào cũng là màu hồng mà có khi là màu đỏ của giận hờn, màu đen của lạnh lùng. Chén bát bên nhau theo năm tháng cũng va đập sứt mẻ huống chi đời sống chung vợ chồng tránh sao những lúc mà cha ông ta bảo rằng “cơm chẳng lành canh chẳng ngọt”? Vì :
Ngọc nhìn lâu sẽ tìm thấy vết,
Hoa để gần sẽ hết mùi hương.
Có một người vợ khoe rằng: Vợ chồng em ly hôn nhau cả chục lần rồi, toàn em khởi xướng. To còi mà, cứ cãi nhau phát là em gào: Ly hôn đi, tôi không muốn sống với anh nữa. Và thường thì những lúc ấy lão chồng em không trả lời lại. Còn nếu ở trước mặt nhau nói câu ấy thì kiểu gì lão cũng vênh mặt: Cô viết đi tôi ký.
Nhớ có lần cãi nhau to lắm nhưng qua điện thoại, cách mặt nên em rất khẳng khái: Ly hôn mẹ nó đi, sống thêm làm gì , tôi mệt mỏi lắm rồi.
Ấn send phát nằm run và nghĩ bụng: Chết dở, lỡ lão nhắn ok phát thì xong.
Mãi chả thấy trả lời. Cũng đành im lặng . Tận tối thấy lão nhắn: Bình tĩnh chưa con điên.
Em mở cờ trong bụng: May quá. Ai điên, tôi đang rất tỉnh táo, anh cứ đợi đấy, tôi viết đơn rồi.
Lão đáp: Đồ điên, đụng cái đòi ly hôn. Ly hôn xong tao ở với ai, sao ngu thế…
Thế là hết cơn. Nằm cười một mình. (ST)
Thực tế cho thấy cuộc sống Hôn nhân không luôn phẳng lặng như mặt nước hồ ao. Bao nhiêu sóng gió nổi lên vì cá tính dị biệt, anh thì chậm rãi nghiêm trang, chị lại mau chân lẹ miệng. Hoặc chồng thì hào hoa phong nhã, vợ thì kín đáo, keo kiệt; anh mê tân nhạc, chị thích cải lương . . . Đấy là chưa kể đến vấn đề bất đồng quan điểm trong việc làm ăn, sống theo tôn giáo, dạy bảo con cái…
Thế nên, để sống chung với nhau dài lâu nhất thiết phải có một chữ nhịn và một lòng yêu thương tha thứ. Chính lòng yêu thương tha thứ mới có thể ở bên nhau suốt đời cho dù vẫn còn đó những hiểu lầm, nghi kỵ và kể cả sự khó thương.
Phúc âm hôm nay kể rằng người ta bắt được một phụ nữ phạm tội ngoại tình. Ngoại tình theo luật Do Thái là ném đá. Thế mà Chúa Giê-su đã cứu người phụ nữ bằng tình yêu và lòng cảm thông. Chúa nói với đám đông: Ai trong sạch thì ném đá người đàn bà này đi. Chẳng ai trong sạch. Ai cũng có tội. Ai cũng yếu đuối nên đành từng người một rút lui ra về.
Ở đây chúng ta thấy khi Chúa nói người phụ nữ chị hãy về từ nay đừng phạm tội nữa. Nhưng chị về đâu nếu chồng không tha thứ cho mình. Về đâu khi mình đã quá nhục nhã ê chề. Chắc chắn với trái tim đầy tình yêu thì Chúa Giê-su đã đích thân hòa giải cho gia đình. Chúa đã đưa chị về nhà với tình yêu tha thứ của chồng.
Hay có thể nói nếu người chồng không tha thứ thì cho dù Chúa Giê-su có tha thứ nhiều lần thì chị cũng chẳng có cơ hội làm lại từ đầu. Chị cần tình thương tha thứ của chồng. Chị cần chồng bao dung và đón nhận để chị hoàn lương. Chị cần Chúa Giê-su là Đấng hòa giải cho chị và gia đình.
Xem ra đời sống gia đình cũng rất cần lòng thương tha thứ của nhau. Có tha thứ thì vợ chồng mới sống gắn bó suốt đời bên nhau.
Ước mong cho các gia đình luôn học lấy lòng bao dung tha thứ của Đức Ky-tô để có thể quên đi những lỗi lẫm của nhau. Xin cho chúng ta luôn vì Đức Ky-tô mà đón nhận nhau trong yêu thương tha thứ để vợ chồng mãi sum vầy bên nhau trăm năm tình viên mãn. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau khi đã đi được nửa đường với lời mời gọi “Mừng Vui Lên” của Chúa nhật IV Mùa Chay. Nay bước vào tuần thứ I của giai đoạn II, thời gian mà toàn bộ nhà thờ sẽ chuẩn bị cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, nên việc cải đổi đời sống, ăn chay, cầu nguyện và tập luyện các nhân đức càng khẩn thiết hơn. Vì Trước cuộc cải tổ phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, Chúa nhật V Mùa Chay được gọi là Chúa nhật thứ I mùa Thương khó, kéo dài 2 tuần cho đến lễ Phục sinh. Sau Công đồng Vaticanô II, lịch phụng vụ chỉ còn một tuần Thương khó, trùng với Tuần thánh, và Chúa nhật thứ V Mùa Chay là giai đoạn tiếp tục các đề tài huấn giáo theo chu kỳ. Nếu các Chúa nhật Mùa Chay năm A, B trình bày Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống, là Anh Sáng, là Sự Sống dựa theo Tin mừng thánh Gioan. Thì các Chúa nhật Mùa Chay năm C đề cao lòng thương xót của Thiên Chúa và kêu gọi con người đáp trả.
Chúa Giêsu là hiện thân của Lòng Thương Xót. Khi mạc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Xót Thương, dẫn chứng của Gioan đầy sức thuyết phục “Con Một, Ðấng ở nơi cung lòng Cha, chính Ngài đã thông tri” (Ga 1,18). Chân lý về Thiên Chúa được cụ thể hóa nơi Chúa Giêsu Kitô “Cha đầy tình thương xót” (2Cr 1,3), Đấng ghét tội và yêu thương kẻ có tội, không dung túng tội lỗi, nhưng khoan nhân với tội nhân, vì Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn hối cải và được sống (x. Ez 33,11). Đoạn Tin Mừng (Ga 8,1-11) là bằng chứng hùng hồn về lòng xót thương của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thánh Gioan kể lại việc người ta đem đến cho Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Chúa Giêsu không kết án chị, nhưng cứu chị khỏi bị ném đá. Chúa không nói với người phụ nữ: chị không có tội, nhưng nói : “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” ( Ga 8,11). Thật vậy, chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể cứu rỗi con người, vì chính Người mang lấy tội lỗi thế nhân và cho con người cơ hội để thay đổi đời sống.
Ðoạn Tin Mừng cho thấy, sự tha thứ của Thiên Chúa không đồng nghĩa với sự dung túng thường tình, tha thứ có kèm theo điều kiện. Không có nghĩa là bỏ qua sự dữ, hay tệ hơn nữa là chối bỏ sự dữ. Thiên Chúa không tha thứ sự dữ, nhưng tha thứ cho con người, và dạy người ta biết phân biệt giữa một bên là hành động xấu đáng bị kết án, và bên kia là con người cụ thể phạm lấy lỗi lầm đó, và là người mà Chúa muốn ban cho cơ may để thay đổi đời sống, làm lại cuộc đời. Trong lúc con người có khuynh hướng đồng nhất hóa người phạm tội với tội lỗi, và như thế là đẩy người có tội vào ngõ cụt, không có lối thoát. Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, Thiên Chúa Cha lại hành động cách khác, Ngài đã sai Con Một mình xuống trần gian, để mở ra cho cả và nhân loại con đường cứu thoát. Chúa Giêsu chính là con đường này: khi chết trên thập giá, Người đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Chúa Giêsu lặp lại với con người ở mọi nơi, mọi thời đại rằng: “Ta cũng thế, Ta không kết tội. Vậy hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa“.
Khi nghe những lời trên trong đoạn Tin Mừng hôm nay, làm sao chúng ta không cảm nghiệm được một niềm tín thác trào dâng trong tâm hồn chúng ta? Sao không nhìn thấy nơi đó một “Tin Vui” cho cả và nhân loại ở thời đại chúng ta, những con người đang mong ước khám phá lại ý nghĩa đích thật của lòng nhân từ và sự tha thứ.
Thời đại chúng ta đang cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa, một sự tha thứ làm phát sinh niềm hy vọng và phó thác, mà không làm yếu đi cuộc chiến chống lại sự dữ. Cần trao ban và lãnh nhận sự tha thứ. Nhưng chúng ta không trở nên có khả năng tha thứ, nếu trước đó chúng ta không để cho mình được Thiên Chúa thứ tha, vừa nhìn nhận mình là đối tượng của lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ trở nên kẻ sẵn sàng tha nợ cho người khác, chỉ khi nào chúng ta ý thức về mòn nợ to lớn mà chúng ta đã được tha cho. Chúng ta hãy cố khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua bí tích Hòa Giải, và hãy tỏ ra nghiêm khắc đối với tội lỗi nhưng khoan nhượng đối với con người tội lỗi.
Chúng ta hãy nhìn lên Ðức Trinh Nữ Maria và khẩn cầu Mẹ là Mẹ của Lòng Thương Xót. Nơi Mẹ, tình thương nhân từ của Thiên Chúa được nhập thể, và tâm hồn vô nhiễm của Mẹ là nơi trú ẩn an toàn cho người tội lỗi. Ðược Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta hăng hái tiến bước, và nhớ lại lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình, nay Người nói với mỗi người chúng ta rằng: “Hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con đón nhận với niềm vui đã được canh tân, tiếp nhận hồng ân cứu rỗi, ngõ hầu chúng con gặp lại được sự tin tưởng và niềm hy vọng để bước đi trên con đường mới. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Tình thương và lòng tha thứ luôn có mối liên quan lẫn nhau. Tình Thương (và) Tha Thứ gồm 4 mẫu tự T, nhưng phải đạt tiêu chí của 4 mẫu tự T khác: Thương Tha Thật Tình. Nghĩa là không thể giả hình, mà giả hình thì không thương thật.
Có tình thương, người ta có thể làm được tất cả, tử thần cũng không thể làm cho họ hoang mang, sợ hãi.
Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16). Nhưng nhà hóa học Orlando Aloysius Battista (1917-1995, người Mỹ gốc Canada, một tín hữu Công giáo ngoan đạo), lại có nhận xét: “Điểm yếu nhất của hầu hết người ta là do dự nói lời yêu thương người khác khi họ còn sống”. Một nhận xét chính xác, nhưng thật đáng buồn cho nhân loại!
Rainer Maria Rilke (1875-1926, người Áo, một nhà thơ lớn của thế kỷ XX), nói: “Có điều kỳ diệu xảy đến với những người thực sự biết yêu thương: họ càng cho nhiều thì họ càng có nhiều”. Có nhiều thứ gì cũng là “giàu”, nhưng cái “có” theo tỷ lệ thuận với cái “cho” ở đây không nên chỉ hiểu về lĩnh vực vật chất. Những người thực dụng và ưa hình thức thì chắc chắn sẽ không thích “kiểu giàu” này. Đối với Thiên Chúa, cái giàu là cái nghèo, và ngược lại. Đó là triết-lý-sống của Nước Trời, được đề cập trong Hiến Chương Nước Trời (Bát Phúc, Tám Mối Phúc – Mt 5:3-12).
Ngôn sứ Isaia nói: “Đây là lời Đức Chúa, Đấng đã vạch một con đường giữa đại dương, một lối đi giữa sóng nước oai hùng, Đấng đã cho xuất trận nào chiến xa chiến mã, nào tướng mạnh binh hùng: tất cả đã nằm xuống, và không còn trỗi dậy, đã bị dập đi, tắt ngấm như tim đèn” (Is 43:16-17). Đó là hậu quả bi thảm của những người có ý định ngăn cản đường lồi của Thiên Chúa, muốn hại những người theo Ngài.
Thiên Chúa tiếp tục tuyên phán: “Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước. Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn. Loài dã thú, chó rừng và đà điểu, đều sẽ tôn vinh Ta; vì Ta cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta tuyển chọn được giải khát. Ta đã gầy dựng cho Ta dân này, chúng sẽ lên tiếng ngợi khen Ta. Ít-ra-en bội nghĩa vong ân” (Is 43:18-21).
Thiên Chúa toàn năng, có thể làm mọi sự, từ không sẽ biến thành có, từ có sẽ hóa ra không. Ngài là Đấng xót thương, “mau quên” lỗi lầm của tội nhân, nhưng Ngài nhớ mãi những gì tội nhân thực hiện với ý tốt – dù là điều nhỏ nhoi mà thôi. Quả thật, Ngài quá đỗi đại lượng chỉ vì thương xót chúng ta. Vâng, chính sự khốn nạn của chúng ta đã khiến Thiên Chúa chạnh lòng trắc ẩn. Một sự thật mà đôi khi chúng ta không thể ngờ được, chắc chắn có mơ cũng không thấy ở cõi trần gian này, cũng chẳng có vị thần nào khác nhân từ như Thiên Chúa của chúng ta.
Tác giả Thánh Vịnh đã phải thốt lên: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Tv 126:1-2a). Mơ mà thật. Quá bất ngờ, quá ngạc nhiên, và rồi dân ngoại cũng không thể lặng im, mà họ phải bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:2b).
Tác giả Thánh Vịnh tiếp tục minh định: “Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! ta thấy mình chan chứa một niềm vui. Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam” (Tv 126:3-4). Thế cờ cuộc đời của chúng ta ở thế bí vì bị triệt buộc, nhưng Thiên Chúa đã lật lại thế cờ, chuyển bại thành thắng, đổi buồn thành vui, chuyển nước mắt nên tiếng cười: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:5-6). Niềm hạnh phúc quá lớn, vượt ngoài ước mong, trên cả tuyệt vời. Xin tạ ơn Lòng Thương Xót của Thiên Chúa!
Có Chúa là có tất cả. Mất Chúa là mất tất cả. Một khi tin nhận và theo bước Chúa, người ta bất chấp mọi đau khổ, kể cả cái chết. Thánh Phaolô thổ lộ tâm sự: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Pl 3:8-9a). Đối với những người không có đức tin hoặc chưa hiểu được ý nghĩa của sự đau khổ, họ coi những người “cam chịu đau khổ” là những người “không bình thường”, có thể là “điên khùng” hoặc “có vấn đề” về tâm thần. Tuy nhiên, ai khoe mình khôn ngoan thì lại hóa điên rồ mà thôi (x. Rm 1:22).
Người chấp nhận đau khổ và dám chịu đau khổ là người can đảm và khiêm nhường. Thánh Phaolô chia sẻ: “Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Đức Kitô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin. Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:9b-11).
Xây dựng thì khó và lâu, nhưng phá bỏ thì rất mau. Con người vốn dễ ảo tưởng, dễ ngủ quên trong chiến thắng, thế nên phải luôn cảnh giác cao độ, vì tính kiêu ngạo lúc nào cũng chỉ rình “bật lên” mà thôi. Thói kiêu ngạo có thể len lỏi vào những công việc đạo đức, nó có thể làm mờ mắt của chúng ta, khiến chúng ta tưởng là mình tốt lành, nhưng có thể chỉ là giả hình. Kiêu ngạo là đốm lửa nhỏ nhưng lại rất mạnh, trong thoáng chốc nó có thể thiêu rụi hết những gì chúng ta đã khó nhọc tạo dựng.
Thánh Phaolô tâm sự như một lời khuyên nhủ: “Nói thế, không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Kitô Giêsu chiếm đoạt. Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3:12-14). Cầu mong mỗi chúng ta luôn sẵn sàng để cho Thiên Chúa chiếm hữu mình để chúng ta có thể thuộc trọn về Ngài.
Trình thuật Ga 8:1-11 là một tình khúc tha thứ chan chứa lòng thương xót của Thiên Chúa: Nữ tội nhân ngoại tình.
Thánh sử Gioan cho biết rằng, Chúa Giêsu trở lại Đền Thờ lúc trời vừa tảng sáng. Toàn dân đến với Ngài để lắng ngh Ngài giảng dạy họ. Ngay lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Ngài một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Ngài: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”.
Họ nói thế nhằm thử Ngài, cố ý gài bẫy Ngài để có bằng cớ tố cáo Ngài. Nhưng Đức Giêsu không nói gì, rồi cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Ngài ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất.
Họ cứng họng! Chẳng ai bảo ai, lần lượt họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi.
Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ đứng ở giữa. Ngài ngẩng lên và hỏi: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”. Chị khẽ đáp: “Thưa ông, không có ai cả”. Có lẽ lúc đó chị cũng run lắm. Chị run một phần vì sợ bị ném đá, một phần vì xấu hổ. Và có lẽ chị vẫn chưa heết run, dù chỉ còn chị đối diện với Chúa Giêsu. Chắc hẳn chị cũng đã nghe người ta bàn tán về Ông Giêsu nào đó, và hôm nay, chính con người đó đang đứng nhìn chị. Ánh mắt nhân từ của Đức Giêsu “soi” vào chị và chị nhận ra mình là kẻ tội lỗi khốn nạn.
Nhưng Chúa Giêsu ôn tồn nói với chị: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”. Lúc này chị lại run, nhưng chị không run vì sợ, mà chị run vì sung sướng, vì hạnh phúc: Chị được trắng án, thoát án tử, nghĩa là chị được tái sinh. Chắc chắn không còn niềm vui nào to lớn hơn và mãnh liệt hơn!
Tình Thương là Lòng Thương Xót. Tình Thương đó đã tỏa ánh sáng Tha Thứ. Tình Thương đó bao la và tròn đầy mãi mãi – từ hồng hoang tới đời đời. Phụ nữ ngoại tình kia là mỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã tha thứ và giải án tuyên công. Chúng ta được Thiên Chúa cho trắng án thì không thể không xóa án cho người khác. Nghĩa là chúng ta cũng phải mau mắn tha thứ cho bất cứ ai, không chỉ tha thứ bảy lần mà phải tha thứ bảy mươi lần bảy (Mt 18:22), tha thứ hằng ngày và tha thứ mãi mãi. Tha thứ là dấu chỉ yêu thương, dấu chỉ sống lòng thương xót.
Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Ngài luôn thương xót và tha thứ dù con tái phạm nhiều lần, xin giúp con biết thể hiện Tôn Nhan Thương Xót của Ngài và nhân từ với mọi người, hôm nay và mãi mãi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
Lm. Phạm Thanh Liêm
Tiên tri Isaia nói với dân Do Thái: không còn cần nhìn vào quá khứ để nhận biết Thiên Chúa nhưng có thể nhìn vào hiện tại, vì Thiên Chúa đang làm điều mới cho con người. Ngày đó Thiên Chúa đang giải phóng họ khỏi ách lưu đày ở Babylon; hôm nay, Đức Yêsu là điều mới Thiên Chúa đang làm cho con người.
Chị phụ nữ ngoại tình
Hãy nhìn chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Đây là lần đầu tiên chị phạm tội này, hay đã nhiều lần? Phải chăng người ta đã rình rập để bắt quả tang, và họ đã thành công, để chị không còn có thể chối cãi được?
Không còn nét kênh kiệu, không còn thái độ thách thức! Chị biết mình không thể thoát cái chết bởi bao người “đạo đức”, bao người “có trách nhiệm bảo vệ cương thường” đang vây quanh chị. Sợ hãi, hối hận hiện lên gương mặt và thái độ của chị.
Không ai có thể cứu chị trừ phi có một phép lạ, trừ phi chính Thiên Chúa ra tay! Nhưng liệu Thiên Chúa có còn thương người tội lỗi như chị, có nghe tiếng van xin của chị không?
Những kinh sư và biệt phái
Những kinh sư và biệt phái nghiêm khắc. Cứ theo luật thì chị ta phải chết. Phải ném đá chị ta, để bảo vệ sự công bằng của xã hội, để bảo vệ sự trong sáng của đạo giáo, và ai cũng phải làm như vậy thôi.
Họ giải chị ta tới với Đức Yêsu, người hay giảng dạy yêu thương tha thứ, người hay nói Thiên Chúa là Thiên Chúa của những tội nhân. Xem ông ta dạy gì? Đây cũng là dịp để cho thấy con người thực và những giáo huấn của ông ta. Có thể họ cũng chẳng muốn gài bẫy Đức Yêsu, nhưng để làm “cho ra lẽ” một giáo huấn “nhân từ” hay “Thiên Chúa thương xót” không thể có chỗ đứng trong xã hội.
Hãy chờ xem.
Đức Yêsu- Đấng thương cảm và tha thứ
Đức Yêsu cảm thấy khó giải quyết. Ngài cúi xuống và bắt đầu viết. Có người nói Ngài viết tội của từng người hiện diện. Có thể, nhưng cũng có thể giải thích: đó là thái độ bối rối không biết giải quyết ra sao.
Vì người ta tiếp tục ép Ngài phải trả lời, Ngài đứng lên và nói: “ai trong các ông vô tội, hãy là người đầu tiên ném đá chị ấy đi”, rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất. Ngài không thách thức ai. Ngài trách ánh mắt thách thức họ, để có thể vì tự ái họ “làm liều”. Có thể Ngài cầu nguyện cho họ được trung thực với chính mình. Vì chính khi trung thực với chính mình, thì họ không thể ném đá chị phụ nữ.
Tạ ơn Chúa. Không có ai ném đá chị phụ nữ. Đức Yêsu đã thành công. “Không có ai kết án chị ư?” Thưa thầy: “không”! Tôi cũng không kết án chị, hãy đi và đừng phạm tội nữa. Chỉ có mỗi một người có thể ném đá chị, mà người đó lại không muốn ném đá chị. Bởi vì người đó nhân từ, cảm thương con người tội lỗi hơn là lên án họ.
Hãy đi và đừng phạm tội nữa. Có lẽ từ đó trở đi, chị ta là con người mới vì chị ta đã cảm nhận được một tình yêu. Tình yêu tha thứ và tôn trọng. Tình yêu mời gọi chị làm lại cuộc đời. Thiên Chúa làm mới chị, và cũng là một phép lạ đối với những người kinh sư và biệt phái, vì hôm nay họ trung thực với chính họ, hôm nay họ gặp gỡ Thiên Chúa qua hành vi “nhận biết chính mình”.
Phaolô trở thành con người mới nhờ biết Đức Yêsu
Với Phaolô, mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Yêsu. Phaolô sẵn sàng mất tất cả, để được Đức Yêsu. Tương lai của Phaolô ở trong tay Chúa, sự công chính của Phaolô cũng tuỳ thuộc Chúa. Phaolô không cậy dựa vào sức riêng mình. Hiện tại Phaolô không cho mình là người thành toàn, nhưng Phaolô vẫn tiếp tục tiến bước trong niềm hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng đã làm và sẽ làm những điều tốt nhất cho Phaolô.
Một điều rất quan trọng với Phaolô: quên phía sau và lao mình tới trước, nhắm đích Thiên Chúa kêu gọi ngài trong Đức Yêsu. Đức Yêsu đã là tất cả cho Phaolô.
Ngài là ai đối với tôi?
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Điều gì đánh động bạn nhất trong trình thuật “chị phụ nữ ngoại tình”?
- Theo bạn, tại sao Đức Yêsu chi phối đời Phaolô đến thế?
- Đức Yêsu có chi phối đời bạn không? Tại sao? Đến độ nào?
.
P. Trần Đình Phan Tiến
Vâng, kính thưa quý vị, đoạn Tin Mừng Chúa Nhật V Mùa Chay (Ga 8, 1-11) hôm nay, là đoạn Tin Mừng không dài, nhưng được thánh sử Gioan ghi lại thật cụ thể và dễ hiểu, đồng thời nêu bật tính nhân văn rất cao nơi tinh thần Kitô giáo. Đó là sự tha thứ.
Nhưng, sự thâm độc của những người muốn hãm hại Chúa Giêsu thì quá rõ, họ tưởng mình cao siêu, nên gài bẫy Người. Nhưng, Chúa Giêsu thì cao siêu hơn họ, và vì vậy, Người không mắc bẫy họ.
Vâng, kính thưa quý vị, sự lầm lẫn của người Dothai đối với Chúa Giêsu là sự ”cố chấp” và sự “tha thứ”. Vì theo luật Dothai, thì tội ngọai tình phải xử ném đá cho tới chết. Thật dã man, vì khi “tội nhân” bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, thì dường như khó sống, như vậy, thân xác bị cho là tội lỗi đó, và linh hồn không trong sạch đó bị “vùi dập” bởi những cục đá , qua sự giận dữ của con người, thì trở nên một đống thịt nát, xương tan, máu me be bét, thì còn gì là nhân văn, nhân đạo nữa.
Như vậy, chúng ta thấy, một sự so sánh theo nghĩa đen cụ thể, thì Đấng Cứu Thế đến trần gian là để gánh lấy tội nhân loại đó sao ?! Vâng, Người đã chết thay cho kẻ tội lỗi, vì Người đã tha cho kẻ có tội, chứ Người không lên án họ, kể cả những kẻ giết Chúa Giêsu.
Vâng, những lời nói cay độc, sau lưng người khác, đó là những hòn đá ”ném “ vào họ mà mình cho là họ có tội. Vì, ngày nay luật pháp không cho phép tự xử như ngày xưa, nhưng, họ cũng lợi dụng người dân, cai gọi là “nhân dân”, của nhân dân, vì nhân dân, nhưng, thực chất là một bộ phận” ném đá giấu tay”, những chiêu bài thủ đoạn để hãm hại người khác mà họ cho là có tội. Vâng, từ đó hằng ngày, hằng giờ vẫn còn biết bao con người là nạn nhân của những vụ” ném đá giấu tay”.
Còn Chúa Giêsu thì không, Người dứt khoát “nói không” với tỗi lỗi và tội ác. Vâng, Chúa Giêsu mới chính là Vị Quan Tòa công chính, trên cả cái gọi là ”thanh liêm” của con người mọi thời. Bởi vì, Người là Chân Lý và Tình Yêu. Vâng, công lý và hòa bình phải dựa vào chân lý và tình yêu. Chân lý là cái đúng của sự thật, tình yêu là “lòng thương xót” của Thiên Chúa, là bác ái Kitô giáo.
Vâng, chính Chúa Giêsu, Đấng đã đến thế gian, thay vì để xét xử thế gian, nhưng, lại chịu thế gian xét xử, Đấng đến thế gian để lên án thế gian, nhưng, lại tha thứ cho thế gian. Vì, Con Người đến không phải để luận phạt thế gian, nhưng để “CỨU” thế gian. Vì , để thế gian nhờ Người mà được sống sung mãn.
Tại sao vậy, thưa quý vị ? thưa, vì tội lỗi thế gian không tài nào kể xiết. tội lỗi thế gian chỉ có một cách là bỏ vào”hỏa lò” vĩ đại đó là Hỏa Ngục một lần để đốt hết, chứ không tài nào kể xiết. Như thế, chúng ta mới thấy rõ Chương Trình cứu độ của Thiên Chúa qua Đấng Cứu Thế Giêsu- Kitô. Sự tha thứ bởi Thiên Chúa không phải khơi khơi, mà được trả bằng Máu của Người vô tội.
Vâng , Gía Máu Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế mới có quyền tha thứ, đủ sức tha thứ hơn hết, trên cả “hỏa lò” của Hỏa Ngục. Gía Máu của Chúa Giêsu là một Gía Máu của sự cứu chuộc, vì Người tuyên bố “tha tội”, thì Người sẵn sáng gánh tội cho người khác.
Chúng ta thấy, đoạn Tin Mừng của thánh Gioan ( Ga 8, 1-11) hôm nay không phải là một câu chuyện để đọc chơi cho vui, hay là mười một câu nhắc lại chuyện xưa, tích cũ mà là một “Lời” nhắc nhớ muôn đời bởi tội lỗi nhân loại.
Thiên Chúa biết, loài người không thể thánh thiện, nhưng, Thiên Chúa muốn cho loài người thánh thiện, vì sự thánh thiện chính là Thiên Chúa. phàm nhân muốn trở nên thánh thiện, thì phàm nhân phải trả giá. Nhưng, chúng ta có một Đấng đã trả giá cho chúng ta, đó là Đức Kitô.
Vâng, câu chuyện Tin Mừng ( Ga 8, 1 -11) hôm nay là một câu chuyện đầy éo le, nghịch cảnh, cho chúng điều gì?
- Một là : Lòng thương Xót vô tận của Thiên Chúa qua Đấng Cứu Thế.
- Hai là: Cho con người mọi thời biết rằng : Đừng kết án người khác. Vì Thiên Chúa không kết án con người.
- Ba là: Thiên Chúa minh chứng sự tha thứ cho con người qua cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô là một điều duy nhất và hiển nhiên. Vì , không còn luật lệ hay quy định nào lớn hơn Gía Máu Cứu Độ của Đức Kitô.
Trang Tin Mừng hôm nay luôn đặt ra cho mọi thời đại giữa cái thiện và cái ác, giữa công lý và tình yêu, giữa thù hận và tha thứ. Thiên Chúa luôn đong đầy, nhưng con người muốn đón nhận nhiều ít, thấp , cao, nông ,sâu, là tùy thuộc vào con người.
Như vậy, tha thứ để “CỨU” tha nhân cả hồn và xác, tha thứ minh chứng Lòng Thương Xót bởi Thiên Chúa. Vì, sự tha thứ bởi Đức Kitô là một sự tha thứ thiết thực, sự tha thứ mà Người có quyền ban phát là một sự tha thứ được “mua lấy” bởi Thiên Chúa, tức sự tự nguyện “nộp mình” chịu chết, trở nên hy Tế, chứ không phải “chiếm đoạt” cách phi lý, dù là Con Thiên Chúa.
Khởi đi từ bài đọc I ( Is 43, 16 -21) hôm nay cho thấy sự việc ra khỏi Ai-cập của dân Israel là do bởi Thiên Chúa, chính Ngài yêu thương, tuyển chọn, dẫn dắt, qua những thời kỳ nguy hiểm. Nhưng, rồi cuối cùng họ cũng phản nghịch.
Qua bài đọc II ( Pl 3, 8 -14) thánh phao-lô cho chúng ta biết “Tin” vào Đức Kitô, thì được trở nên công chính, chứ không phải do cậy dựa vào thế lực nào khác. Chính ngài là người Dothai thuần chủng, bách hại Kitô giáo như một “ dũng sĩ ” xuất sắc, như một kẻ cuồng tín, cuồng si một đảng phái trong mơ tưởng,vô vọng, không biết cái đảng ấy đưa ta về đâu. Nhưng, tất cả đều vô nghĩa và một ngày đẹp trời, chính Chúa Giêsu dẫn dắt ngài.
Lạy Chúa là Cha toàn năng, Cha đã biểu lộ Lòng Thương Xót qua sự tha thứ tội lỗi cho nhân loại qua Đức Kitô. Xin cho con người mọi thời biết ăn năn sám hối và Tin vào Tin Mừng Cứu Độ, để họ đáng lãnh nhận ơn cứu chuộc của Cha qua Đức Kitô , Chúa Chúa con ./. Amen.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Tôi biết là bài Tin Mừng không nói gì về đức khiết tịnh, ngược lại là đàng khác, nó đang thuật lại câu chuyện về người đàn bà ngoại tình, tức là người lỗi phạm một điều nghịch với sự khiết tịnh ngay trong bậc vợ chồng. Các kinh sư và Pha-ri-sêu rõ ràng đang nhân danh luật Mô-sê để bắt mọi người Do Thái phải sống trung thủy. Nhân danh luật lệ khắt khẽ thì, bất cứ ai không trung thủy nhất là phụ nữ, sẽ lập tức bị lên án; và trong trường hợp bị bắt quả tang có thể lãnh án phạt nặng nề là ném đá cho tới chết. Tạo nên một xã hội lành mạnh có nền luân lý vững chắc là mục tiêu của luật Do Thái, cũng như của luật pháp mọi tôn giáo hay quốc gia. Riêng về diện này thì luật Mô-sê rõ ràng rất cao đẹp, vượt trội so với luật pháp của các dân tộc cùng thời; và đã từng là niềm kiêu hãnh của Do Thái trước các dân tộc khác (xem Đệ Nhị Luật 26:16-19). Khiết tịnh trong đời sống vợ chồng quả là một giá trị lớn cần được bảo vệ trong bất cứ xã hội lành mạnh nào!
Nhưng đối với Tin Mừng mà Đức Giê-su đến để rao giảng, và còn minh chứng bằng chính mạng sống mình, thì giá trị của sự trung thủy vợ chồng, cũng như bất kỳ một giá trị luân lý nào, đều không thể nào sánh được với lòng nhân ái và xót thương. Sự khác biệt chính (thậm chí đối đầu) giữa Đức Giê-su và các kinh sư Pha-ri-sêu, giữa Cựu Ước và Tân Ước chính là hệ tại ở việc đặt giá trị nào lên trên, lòng nhân ái hay luân lý (khiết tịnh hôn nhân trong trường hợp cụ thể này)? Các kinh sư và Pha-ri-sêu thì đã dứt khoát: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.” Đức Giê-su cũng dứt khoát không kém: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ này đừng phạm tội nữa!”
Cựu Ước chọn giá trị luân lý và đặt nó lên hàng đầu, ngược lại Tân Ước thì đặt lòng nhân ái thương xót lên hàng đầu; sự khác biệt đối chọi như vải mới / áo cũ, rượu mới / bầu da cũ!
Đức Giê-su không hề có ý muốn phế bỏ các giá trị luân lý! Không đời nào! Người đã chẳng long trọng tuyên bố: “Thầy đến không phải là để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ… nhưng là để kiện toàn” (Mt 5:17-18) là gì? Điều duy nhất mà Người muốn loan truyền và khắc ghi vào tâm khảm các môn đệ chính là: ‘sự vĩ đại tuyệt đối của lòng nhân ái’, “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9:13). Đúng thế, sự chết và phục sinh của Người đâu có mục đích bảo vệ một giá trị luân lý nào, nhưng là tiếng nói tuyệt đối của tình yêu nhân ái của Thiên Chúa!
Như vậy chúng ta mới nghiệm ra rằng: bao lâu mình còn đặt các giá trị luân lý lên thế thượng phong thì mình vẫn cứ luẩn quẩn trong Cựu Ước. Cựu Ước tất nhiên là không xấu, rất tốt nữa là đàng khác, có điều Ki-tô hữu phải là Tân ước của Tin Mừng Đức Ki-tô Giê-su; mà đã là Tân Ước thì giá trị của lòng nhân ái phải được đặt lên hàng đầu. Trước hết là đối với Thiên Chúa: nắm giữ các giới răn Chúa truyền là điều quan trọng, nhưng còn quan trọng hơn gấp bội khám phá và đi sâu vào lòng từ bi – thương xót của Người trong Đức Giê-su Ki-tô. Còn trong việc mục vụ (trong tư cách linh mục), tôi dành nhiều thời giờ và sức lực cho việc giáo huấn luân lý là điều cần thiết, nhưng còn quan trọng hơn nhiều, nỗ lực ghi khắc vào tâm khảm các tín hữu (nhất là người trẻ) nhận biết lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, và cũng đối sử như thế đối với tha nhân; nếu không làm điều này, ta sẽ không phải là một Ki-tô hữu đích thực, một môn đệ đích thực của Đức Ki-tô Giê-su. Riêng Linh Mục, trong tư cách là một ‘Ki-tô thứ hai’ – alter Christus, chứ không phải là ‘alter Mosis’, nếu tôi không trở thành ‘dấu chỉ và người mang tình yêu Chúa đến cho mọi người’ (như Don Bosco vẫn nhắc nhở các tu sĩ Sa-lê-diêng của người như thế) thì quả là một phản bội đấy: dạy dỗ và sửa bảo luân lý là điều cần làm… nhưng tỏ lòng nhân ái là điều còn cần thiết hơn. Giai thoại về người đàn bà ngoại tình cho thấy: theo gương Đức Giê-su, điều cần làm hơn hết khi phải giáp mặt với một lỗi phạm luân lý (đặc biệt trong lãnh vực khiết tịnh) là hãy tỏ lòng thương xót, từ nhân. Chắc chắn đó không phải là thái độ xuề xòa dễ dãi cho qua, vì phải là “từ nay đừng phạm tội nữa”, nhưng còn đi xa hơn thế, là thái độ thương cảm của chính Thiên Chúa được Đức Giê-su diễn tả: “Tôi không lên án chị đâu!” Bởi vì xét cho cùng, ai trong chúng ta cũng cần được Thiên Chúa xót thương và tha thứ cả, có lẽ mình cần hơn bất cứ ai khác: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ lấy đá mà ném trước đi.”
Tất cả chúng ta đều cần tới ơn cứu độ của Thập Giá và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa!
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, xin cho con biết, mỗi khi giáp mặt với lỗi phạm nơi bản thân mình cũng như nơi tha nhân, quyết tâm không ngừng vun trồng nơi mình và nơi những người con phục vụ không những các giá trị luân lý cao đẹp, nhưng còn biết quyết liệt hơn sống lòng nhân ái và xót thương của Chúa. Xin giúp con không bao giờ kết án bất cứ ai chỉ vì các lỗi phạm của họ, nhưng luôn biết xót thương như Chúa hằng thương xót. A-men.
.
CHUYỆN NGƯỜI ĐÀN BÀ 2000 NĂM TRƯỚC
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Nhạc sĩ Song Ngọc viết ca khúc “Chuyện người đàn bà 2000 năm trước” từ trang Tin Mừng hôm nay.
Chuyện người đàn bà 2000 năm trước. Áo rách tả tơi, xác thân mệt nhoài. Chuyện người đàn bà nơi thành cổ đó. Dấu tích hành thân. Vì đâu? Vì đâu? Vì đâu? Nên tội tình mang nhục hình. Vì yêu, tội yêu, tội tình yêu.
Đoàn người cổ thành vây chặt khu phố. Thế giới hiền lương ánh mắt cuồng căm. Nhìn người đàn bà đang chịu tội chết. Đống đá ngổn ngang. Chờ ai? Chờ tay người ném chết một người không hận thù. Người ơi vì đâu đọa đầy nhau.
Ai người vô tội. Ai người không tội. Hãy mạnh tay ném đá ném đá ném trước đi. Còn, còn đợi gì? Ai, người vẹn toàn. Ai người trong sạch. Còn chờ chi? Ném chết ném chết. Ném chết tội đồ nhân gian.
Chuyện người đàn bà 2000 năm trước. Sách cổ đã nghi, đống đá còn nguyên. Vì người vô tội hay đời giả dối. Thế giới giả nhân, chào thua. Người ơi, tình ơi… Ai tội đồ, ai tỉnh ngộ. Người ơi, đời ơi, cũng vậy thôi…
Nhạc sĩ khéo léo dùng những chữ tương phản như “Thế giới hiền lương, ánh mắt cuồng căm” và đặt câu hỏi, có phải vì người đời giả dối, sợ phải đối mặt với tòa án lương tri với tội của chính mình nên đã lẵng lặng bỏ đi: “Vì người vô tội hay đời giả dối? Thế giới giả nhân? Chào thua! Người ơi, Tình ơi! Ai tội đồ? Ai tỉnh ngộ?…” Nhưng dù sao thì “cũng vậy thôi”, ca khúc có kết thúc tốt đẹp và câu hỏi dành riêng cho lương tâm mỗi người.
Với giai điệu chậm buồn, nhạc phẩm kể về một câu chuyện thật lạ lùng, xảy ra hơn hai ngàn năm về trước tại xứ Do thái. Một phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Các kinh sư và những biệt phái dẫn người đàn bà ấy đến trước mặt Chúa Giêsu, rồi bắt đầu phiên xử. “Trong sách Luật, ông Môsê truyền chúng tôi phải ném đá hạng người này, còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”. Một câu hỏi bất ngờ, nham hiểm và lịch sự. Có lẽ sau khi hỏi Chúa như thế, họ hí hửng với những nụ cười hóm hỉnh ranh mãnh. Họ thì thầm với nhau cách thích thú: lần này thì đừng hòng mà thoát. Họ nắm chắc phần thắng trong tay. Bắn một mũi tên trúng hai con chim. Người đàn bà đã nắm chắc bàn thua trông thấy. Chỉ còn Chúa Giêsu. Ngài đang nghĩ gì và Ngài sẽ làm gì trong cái thế gọng kìm này? Người phụ nữ tuyệt vọng chờ chết với tội danh rành rành. Thật may mắn cho chị khi gặp được Đấng được mệnh danh là “Chiên Thiên Chúa”, là “Đấng xóa tội trần gian”. Ngài xót thương cho số phận bi đát của chị. Ngài muốn cứu chị khỏi án chết trước mắt, nhất là Ngài muốn cứu chị khỏi án chết đời đời. Ngài sẽ cứu chị, đồng thời Ngài cũng sẽ cho những kẻ muốn ám hại Ngài một cơ hội để họ nhìn lại bản thân họ: Chị ta xấu thiệt đó. Nhưng không chừng các ông lại còn xấu xa hơn chị ta bội phần! Tội của chị thì nhiều người biết lắm, vì chị ta không khéo che đậy. Còn tội của các ông thì thiên hạ ít người nhận ra, bởi các ông khéo che giấu, tô son trét phấn. Đã đến lúc các ông phải nhìn lại chính con người mình rồi đấy! Thái độ Chúa Giêsu thật trầm tĩnh “cúi xuống lặng lẽ vẽ trên đất”. Họ cứ hỏi mãi. Chúa ngẫng lên nói với họ một đề nghị nhỏ nhẹ ôn hòa nhưng ngầm chứa một thách thức sinh tử quyết liệt “ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Phiên tòa xét xử lưu động bổng chốc thay đổi cục diện. Từ chỗ nắm dao đằng cán, bây giờ họ lại phải nắm lấy chuôi, không khéo sẽ bị đứt tay. Họ lặng lẽ rút lui, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Công bằng mà nói, những người đàn ông có mặt hôm ấy, ngoài Chúa Giêsu ra, đều là những kẻ còn có liêm sỉ và tự trọng. Chúa Giêsu bị đẩy vào thế làm quan tòa bất đắc dĩ, buộc phải ra một bản án xét xử thật nặng, bỗng nhiên trở thành Trạng sư với một bài biện hộ vỏn vẹn có mỗi một câu rất ngắn. Chỉ một câu nói mà Chúa đã hoá giải bẫy giăng sẵn. Hoá giải, bởi lẽ Chúa mời gọi họ hãy nhìn vào bên trong tâm hồn.
Hiện trường xử án lúc này chỉ còn lại hai người. Chúa Giêsu và người phụ nữ. Đấng có quyền tha tội và người đã lỡ lầm phạm tội. Ánh nắng buổi sáng đang lung linh nhảy múa trên bậc thềm.Với giọng nói ấm áp, Chúa hỏi: “Họ đâu hết rồi? Không ai lên án chị nữa hay sao?”. Lần đầu tiên từ lúc bị lôi tới đây, người phụ nữ ngẩng mặt lên. Chị nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, Ngài có đôi mắt chứa chan tình người, long lanh ánh sáng thiên đàng, đôi mắt hiền dịu sáng lên niềm cảm thông. Chị bưng mặt, giọng nghẹn ngào: “Thưa Thầy, không còn ai nữa. Họ bỏ đi hết rồi”. Bình minh chiếu sáng rạng ngời khuôn mặt, Chúa nói thật nhẹ nhàng: “Tôi không lên án chị đâu! chị về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Tội nhân bị luận tội trước tòa, rõ ràng nằm trong khung án tử hình, nay ngơ ngác thấy mình được tha bổng, kèm một lời dặn dò: từ nay thôi đừng phạm tội nữa! Chúa Giêsu không kết án nhưng là mở cho chị một con đường đi về phía tương lai, về phía trước.
Hai câu nói của Chúa Giêsu với hai hạng người đều nhẹ nhàng mà sâu xa thấm thía. Với các người kết án, Chúa mời họ nhìn vào phía bên trong. Với người bị kết án, Chúa mở ngõ về phía tương lai.
- Nhìn về phía bên trong
Một phiên tòa lạ lùng, xử lưu động theo kiểu nói ngày nay. Phe công tố nhao nhao buộc tội và hằm hè chất vấn, không ngờ sau đó lại lần lượt cúi đầu lặng lẽ rút lui. Chỉ vài phút trước đó, họ hung hãn tố cáo đòi ném đá, và bây giờ họ âm thầm ra về. Một sự chuyển biến bất ngờ phát sinh từ lời mời gọi của Chúa Giêsu: “ai trong các ông sạch tội hãy ném đá người phụ nữ này đi”. Khi người ta đòi ném đá tha nhân, người ta tự cho mình là kẻ sạch tội và có quyền lên án kẻ có tội. Nhưng khi người ta khám phá ra mình cũng là tội nhân, người ta không dám lên án nữa vì như thế cũng là tự lên án chính mình. Sự khám phá có được là do cái nhìn về phía bên trong chính mình. Chi tiết mà Thánh Gioan ghi nhận “bắt đầu từ những người lớn tuổi” rất ý nghĩa. Vì càng lớn tuổi càng có bề dày cuộc sống, càng dễ nhận ra bề dày tội lỗi. Càng lớn tuổi càng có cái nhìn nội tâm nhiều hơn.
Có những cái gần mình nhất mà mình lại khó thấy nhất. Đó là bản thân mình. Có những sự thật người ta tìm cách trốn chạy nhiều nhất là sự thật về chính mình. Sự thật ấy chỉ khám phá ra được khi nhìn vào phía bên trong. Nhìn vào bên trong là đi vào nội tâm để nhìn lại chính mình, soi gương tâm hồn. Nhìn lại cuộc sống, lời nói, việc làm mình đã làm, đã sống. Giáo hội luôn khuyên con cái mình xét mình mỗi ngày. Các linh mục, tu sĩ, giáo dân đều có thời gian tĩnh tâm, linh thao để biết mình mà sửa mình. Biết mình là đầu mối của sự khôn ngoan.
Nhìn vào phía bên trong là một đòi hỏi cần thiết giữa cuộc sống xô bồ, ồn ào với quá nhiều tranh đấu vất vả mưu sinh. Có khi chúng ta ngại vì sợ phải đối diện với chính mình, đối diện với sự thật về mình. Cần có thời gian tĩnh lặng để dâng lễ, cầu nguyện, viếng Chúa. Khi có thời gian nhìn lại chính mình, chúng ta có gương soi và một khoảng cách ngắm nhìn. Tấm gương tốt nhất là Chúa Giêsu. Ngài là mẫu mực. Nơi Ngài và nhờ Ngài mà chúng ta nhận ra những lỗ hổng cuộc đời, nhận ra lý tưởng cần vươn tới.
- Nhìn về phía trước
Người ta đòi ném đá người phụ nữ, đóng khung cuộc đời chị trong quá khứ. Quá khứ được đóng dấu bằng tội lỗi. Người ta đánh giá, phán đoán, hành động trên quá khứ đó. Chúa Giêsu không chấp nhận lối nhìn và cách đánh giá ấy. Ngài không đồng loã với tội lỗi. Ngài nhìn nhận người phụ nữ có tội. Nhưng Ngài mở ra một tương lai, gieo vào lòng chị niềm tin tưởng rằng chị có khả năng xây dựng một tương lai mới, một cuộc đời mới,một con người mới: “Chị hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Chúa Giêsu không kết án cũng như không giảm án, không ân xá cho tội nhân. Chúa mở cho chị một con đường hướng về tương lai, làm lại cuộc đời. Đó là con đường sám hối trở về với tình yêu, trở về với đời sống là con cái Thiên Chúa, trở về với tâm hồn bình an. Người phụ nữ ra về lòng tràn ngập niềm vui hoán cải, quyết tâm làm lại cuộc đời.
Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai. Ngài không khoá chặt cuộc đời một con người cũng như lịch sử nhân loại vào quá khứ, cho dẫu quá khứ ấy có bi thảm và tàn tạ đến đâu chăng nữa. Thiên Chúa luôn luôn mở ngõ và vạch lối cho tương lai.
Vẫn biết tội lỗi trái với đạo giáo, trái với luân thường đạo lý, nhưng đâu chỉ căn cứ vào đạo giáo luân lý để khinh khi, coi thường, kỳ thị sự sống con người được. Đạo giáo luân lý giúp con người sống thăng tiến về mặt tinh thần chứ không bao giờ là bước cản trở nhận chìm con người xuống bùn đen. Đã là người, ai cũng có những khuyết điểm, ai cũng có lúc làm điều lầm lỗi. Nhưng ai cũng có khả năng ý chí ước muốn làm điều lành thánh thiện tốt đẹp. Thiên Chúa dựng nên con người với khả năng như thế.
Chúa Giêsu đã sống và đã nêu gương. Ngài không kết án, không giảm án, nhưng là mở ra con đường hướng về tương lai cho con người tội lỗi làm lại cuộc đời. Lêvi, Giakêu, Mađalêna, Augustinô…và còn biết bao con người đã được Chúa mở ngõ tương lai tươi sáng. Niềm tin đó tạo nên nơi người tín hữu một lối nhìn mới. Đó là nhìn về phía trước, băng mình về phía trước như thánh Phaolô diễn tả: “Tôi chỉ chú ý tới một điều là quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước” (Pl 3,13). Đối với Phaolô quên đi chặng đường đã qua là qua khứ bắt bớ Giáo hội Chúa để lao mình về phía trước, phía tương lai mà Chúa Giêsu đã mở ra, đặt ngài làm khí cụ, làm tông đồ dân ngoại. Và Phaolô đã sống hết mình cho tương lai mới.
Trong cách nhìn về tha nhân, có khi người ta khoá chặt người khác trong quá khứ lỗi lầm của họ. Đã một thời “chủ nghĩa lý lịch” khoá chặt con người trong quá khứ, cái quá khứ đâu có do họ!!! Vì lẽ đó mà nhiều nhiều người trẻ tài năng không có cửa cho tương lai, họ bị loại trừ. Con người vốn vẫn hay nhìn phía đàng sau hơn là nhìn về phía đàng trước. Trong khi niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai lại luôn thúc bách chúng ta nhìn về phía trước.
Nhìn vào phía bên trong để khám phá sự thật về chính mình. Người Hylạp đã từng gắn trên cổng Đền Thờ Deiphes câu châm ngôn “Bạn hãy biết chính mình” và coi sự biết mình như là khởi điểm của khôn ngoan.
Nhìn về phía đàng trước để luôn hy vọng và tin tưởng. Tin vào chính mình, vào con người, vào cuộc đời. Và trên hết là tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai chúng ta.
.
THIÊN CHÚA LÀ VỊ THẨM PHÁN NHÂN TỪ
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Sau buổi đọc kinh Truyền Tin với khách hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô vào ngày 21 tháng Hai, Đức Thánh Cha đã kêu gọi thế giới tiến đến việc bỏ án tử hình. Ngài nói : “Ngay cả một phạm nhân, quyền được sống là một ân huệ của Chúa, không ai được xúc phạm tới”. Đánh dấu buổi khai mạc Hội nghị quốc tế về “Một thế giới không có án tử hình”, Đức Giáo Hoàng đã bày tỏ hy vọng Hội nghị sẽ tăng cường nỗ lực để loại bỏ hẳn án tử hình. Ngài nhấn mạnh rằng : “Tăng cường chống án tử hình trên toàn thế giới là một “khí cụ hợp pháp bảo vệ xã hội và là dấu chỉ của hy vọng. Vấn đề này phải được xem xét để nó ngày càng phù hợp với phẩm giá con người cũng như chương trình của Thiên Chúa dành cho nhân loại và xã hội”. Đức Giáo Hoàng kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới : Hãy làm một cử chỉ can đảm và nêu gương trong việc tìm cách ngưng thi hành những vụ hành quyết trong Năm Thánh của Lòng Thương Xót này. Không những chỉ nỗ lực loại bỏ án tử hình mà còn phải cải thiện điều kiện sinh sống trong nhà tù, tôn trọng phẩm giá của những người bị tước đoạt sự tự do.
Chúa nhật tuần trước, Tin Mừng trình bày cho chúng ta về Thiên Chúa là cha giàu lòng thương xót. Hôm nay, Lời Chúa muốn giới thiệu cho chúng ta Thiên Chúa là vị Thẩm phán khoan dung nhân từ. Ngài không chấp nhận tội lỗi, cũng không im lặng làm ngơ trước sự tội và không chấp nhận đồng loã với kẻ phạm tội, nhưng đối với tội nhân, khi thật lòng ăn năn, Thiên Chúa lại hết sức khoan dung, độ lượng. Thiên Chúa không bao giờ đóng kín tương lai của con người, nhưng luôn tạo cơ hội và cho con người một cánh cửa mở ra với hy vọng và tương lai mới. Đó chính là giáo lý tình thương và cũng là Tin Mừng mà Chúa Giêsu loan báo.
Tuy nhiên, những người Biệt phái đã không chấp nhận một Thiên Chúa quảng đại như thế. Họ chỉ muốn một Thiên Chúa công thẳng, bất khoan dung, một Thiên Chúa đặt lề luật trên phẩm giá con người. Câu chuyện Tin Mừng kể lại : Sáng sớm, lúc Ngài đang giảng dạy, các Kinh sư và các Biệt phái dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Theo luật Môse thì hạng đàn bà này phải bị ném đá. Con Thầy, Thầy nghĩ sao ? Hành động này của những người Biệt phái thể hiện sự bất công. Tội ngoại tình đáng lẽ phải kết án cả hai người. Nhưng ở đây, họ chỉ bắt người phụ nữ phải chịu tội. Họ còn đề nghị bản án ném đá trước khi bị can được xét xử. Không những thế, khi bắt một người phạm tội đưa ra công khai như vậy, không chỉ để làm nhục người phụ nữ, những người Biệt phái muốn thể hiện mình là người công chính, trong trắng và tự cho mình quyền lên án người khác.
Những Biệt phái đã muốn giăng một cái bẫy để bắt bẻ Chúa Giêsu. Họ thấy Chúa Giêsu thường giao du tiếp xúc, ăn uống với những người bị cho là tội lỗi như người thu thuế. Họ cũng thấy Chúa Giêsu tuyên bố tha thứ cho những kẻ có tội, nhất là Chúa tiếp xúc cả với các cô gái xấu. Đặt người phụ nữ trước mặt Chúa, họ lên tiếng hỏi : Còn Thầy, Thầy nghĩ sao ? Đây là một cái bẫy rất nguy hiểm. Nếu Chúa Giêsu tuyên bố tha thứ, cho chị ra về, thì sẽ bị những người này buộc tội không tuân giữ luật Môsê. Nếu Chúa Giêsu nói phải kết án chị theo luật Môsê, thì chứng tỏ giáo lý của Chúa cũng không có gì đặc biệt hoặc mới mẻ.
Chúa Giêsu đã biết ý định của họ. Ngài đã không trả lời trực tiếp câu hỏi. Ngài cúi xuống vạch vẽ trên đất. Vì họ hỏi mãi, nên Chúa Giêsu bảo họ : Ai trong các ông sạch tội, thì cứ lấy đá ném trước đi. Việc Chúa im lặng không trả lời câu hỏi, là lúc Chúa đã tạo ra một khoảng thinh lặng, giúp cho những con người đang hằm hằm giận dữ kia có thời giờ bình tâm nhìn lại chính mình. Câu trả lời : Ai trong các ông sạch tội, thì cứ lấy đá mà ném trước đi, khiến cho họ phải xét lại bản thân. Vì trước mặt Thiên Chúa, có lương tâm làm chứng, không ai là người vô tội, chỉ có điều người ta khéo léo chối tội hoặc che đậy tội mà thôi. Câu trả lời của Chúa cũng ngầm nhắc cho họ biết : Đừng vội kết án anh em, đừng chỉ nhìn một vài hành động bên ngoài của một người mà đã vội kết án họ. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng đủ thẩm quyền để xét xử và kết án về mọi hành vi của con người mà thôi.
Câu trả lời của Chúa Giêsu như mũi tên đã bắn trúng đích. Những con người đang hằm hằm giận dữ, đang lăm le trong tay hòn đá để trút xuống trên đầu anh chị em, thì giờ đây, họ âm thầm buông hòn đá xuống và rút lui, bắt đầu từ những người lới tuổi. Càng lớn tuổi, càng sống lâu lại càng nhận ra mình rất nhiều lầm lỡ, sai lỗi, nhiều lần đáng bị lên án và đáng phải chết, nhưng đã được tha thứ.
Cuối cùng chỉ còn lại Chúa Giêsu và người phụ nữ vẫn đứng đó. Chúa Giêsu ngẩng lên và nói : Họ đâu cả rồi ? Không ai lên án chị sao ? Người phụ nữa đáp : Thưa không có ai. Chúa Giêsu nói tiếp : Tôi cũng không kết án chị đâu ! Chị hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa. Khác với các Biệt phái, họ đứng từ phía trên để lên án người khác, Chúa Giêsu, vì mang thân phận con người yếu đuối, Ngài không đứng từ xa để kết án con người, nhưng đã trở nên đồng hàng với con người, đã cúi xuống thật sâu để nâng con người chỗi dậy và ngẩng lên để tuyên bố tha thứ cho con người.
Khi nói : Tôi không kết án chị. Chúa Giêsu cho thấy, nói như thế không có nghĩa là chị vô tội. Tội của chi thật đáng trách, nhưng chị được thông cảm và thứ tha. Thiên Chúa không ném đá, cũng không loại trừ chị. Chúa Giêsu còn mở ra cho chị một con đường tương lai : Chị đi về và từ nay đừng phạn tội nữa. Được thông cảm và tha thứ không phải để người ta ỷ nại hoặc nằm lỳ trong tình trạng tội, nhưng là để có cơ hội sửa chữa những sai lầm thiếu sót và phải có quyết tâm từ nay không phạm tội nữa.
Thiên Chúa của chúng ta vẫn mãi là một Thiên Chúa yêu thương và luôn tha thứ. Ngài công bằng không chấp nhận điều tội, nhưng lại khoan dung với những kẻ có tội. Tin vào lòng nhân từ khoan dung của Thiên Chúa để Mùa Chay này, chúng ta quyết tâm chỉnh sửa lại đời sống của mình. Để có thể điều chỉnh lại đời sống, chúng ta cần nhận ra mình đang trong tình trạng sai lỗi với Chúa và với anh em. Chỉ khi nhận ra tình trạng tội lỗi của mình, chúng ta mới có thể khắc phục được. Tòa giải tội là nơi chúng ta đón nhận được tình yêu thương và sự tha thứ của Chúa. Hãy thường xuyên đến với Bí tích Giải tội để được nghe những lời yêu thương của Chúa : Cha tha tội cho con, nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.
Chúa đang nói với ta : Ta không kết án con đâu, hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa. Tin vào sự tha thứ của Chúa để chúng ta không bao giờ thất vọng về tình trạng của mình. Dù cho tội lỗi của chúng ta có lớn đến mấy, Thiên Chúa không bao giờ chặn lối tương lai, trái lại, Ngài luôn mở ra một con đường hy vọng phía trước. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta, vì thế, chúng ta cũng đừng bao giờ thất vọng về bản thân mình. Tin vào sự tha thứ không để chúng ta ù lỳ cố chấp, vì Chúa vẫn cảnh báo chúng ta : Từ nay, đừng phạm tội nữa !
Thiên Chúa và vị Thẩm phán nhân từ với chúng ta, không lẽ gì chúng ta lại nghiêm khắc với anh em. Vì được yêu thương tha thứ, chúng ta cũng cần phải học nơi Chúa để quảng đại thứ tha. Xin cho chúng ta biết buông hòn đá trên tay xuống, đó là hòn đá che giấu tội mình và đang chực chờ để ném vào người khác. Hòn đá ấy có thể là những lời nói thâm độc ác ý, có thể là những vu khống đặt điều, khiến cho gia đình người khác bị đổ vỡ. Hòn đá ấy có thể là cái nhìn khinh thường, miệt thị, gây tổn thương cho anh em.
Xin Chúa giúp chúng ta. Amen.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Con người được sinh ra hiện hữu trong thời gian và không gian. Cuộc sống con người được gắn kết với môi trường xã hội, văn hóa, chính trị và tôn giáo riêng biệt. Mỗi người mang một dòng máu, một quốc tịch và định mệnh khác nhau. Tiểu sử của mỗi người liên kết với lịch sử của một bộ lạc, một dân tộc và một quốc gia. Có một mối tương quan liên đới số phận chung của con người cùng thời đại. Vận nước kéo theo vận người. Vì thế mỗi người có trách nhiệm và bổn phận chung trong xã hội, cũng như riêng tư trong đời sống cá nhân gia đình. Trong chương trình cứu độ, dân Do-thái trở thành dân tộc trung gian và máng chuyển ân lộc của Thiên Chúa. Một dân tộc được tôi luyện đã trải qua nhiều gian nan thử thách. Thiên Chúa luôn hiện diện đồng hành để khuyến khích và thức tỉnh: Người phán như sau: “Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước (Is 43, 18). Đây làmột lời khuyến khích yêu thương đổi đời. Cho dù dân từ bỏ Chúa chạy theo các thần dân ngoại và quay lưng lại với tình yêu của Thiên Chúa, Chúa vẫn giữ mối tình trung kiên.
Dân ngưỡng vọng về một tương lai tươi sáng, Thiên Chúa sẽ thực hiện những sự đổi mới và khơi nguồn những phúc lộc chan hòa. Tiên tri Isaia đã loan báo cho dân những dự phóng tương lai đầy hy vọng: Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn (Is 43, 19). Hy vọng chính là nguồn sống. Hy vọng ngày mai tươi sáng hơn, thành công hơn và sinh hoa kết qủa nhiều hơn. Mỗi ngày sống là mỗi cơ hội tốt để hoàn thành những ước mơ. Mong chờ Đấng Cứu Độ đến giải thoát khỏi vòng u mê tội lỗi và sự chết là mơ ước tuyệt đỉnh của dân người. Trong cuộc sống, chúng ta thường có những hy vọng nho nhỏ nối kết từng ngày giúp chúng ta sống vui. Sống là một cuộc lữ hành hoàn thành các ước mơ. Kết thúc dự tính này lại hy vọng ước tính khác. Đời chỉ đẹp khi còn dang dở.
Chính sự dở dang tạo nên uẩn khúc cuộc đời. Bài Phúc âm hôm nay kể truyện người phụ nữ không may bị người ta bắt gặp đang khi có những liên hệ tình dục bất chính. Một hành động trái đạo lý luân lý, không đúng lúc và không đúng nơi. Chị ta bị phát hiện khi sự kiện còn dang dở. Chị ta không thể chối cãi và chỉ biết cúi mặt xấu hổ. Một phút giây lầm lỡ đã hủy phá danh dự cả một đời. Chị biết lỗi mình. Đứng đó, không có nơi nương tựa để giấu mặt hay trốn lánh. Sự thể đã rồi, biết làm sao bây giờ. Chúng ta cũng biết chị ta đâu phạm tội gì đến danh dự của các luật sĩ, biệt phái hay ai khác. Họ tố cáo chị với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?(Ga 8, 4-5). Họ hiểu biết Luật của Môisen, nhưng vẫn muốn thử sự xét đoán của Chúa Giêsu. Đá đã cầm sẵn trong tay và chỉ chờ lời phán quyết kết tội của Chúa là họ ném đá người phụ nữ cho chết. Họ giữ luật vị luật và thiếu lòng nhân ái. Chúa đã cứu chị ta với một câu hỏi tuyệt vời: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.”(Ga 8, 7). Ai là người vô tội. Bằng một lời, Chúa Giêsu dẫn mọi người trở về với lòng mình.
Những người tố cáo chị vẫn còn chút lương tâm nhậy cảm. Họ nhận ra ý nghĩa lời chỉ dậy của Chúa Giêsu ngay. Tâm phục khẩu phục. Qua vài câu đối thoại với Chúa Giêsu, mọi người đã thức tỉnh và những cục đá thù ghét rơi xuống khỏi lòng bàn tay. Họ đã bỏ đi từ kẻ già đến người trẻ. Có lẽ tâm hồn của họ cũng cảm thấy vơi bớt nỗi hờn ghen. Cuối cùng, Chúa Giêsu đầy lòng thương xót đã lên tiếng: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa! “(Ga 8, 11). Một lời nhắn nhủ rất nhẹ nhàng và thuyết phục. Về đi. Như vậy Chúa đã tha thứ rồi. Chúa có uy quyền trên cả Luật Môisen. Chúa đã cất nỗi tủi hổ và nhục nhã cho người phụ nữ phạm tội. Chúa đã cứu sống người phụ nữ cả thân xác lẫn linh hồn.
Khi cầm đất hay đá ném người khác thì tay chúng ta đã dơ và lòng đã bẩn. Tâm chúng ta đã thuận theo để kết án người khác. Có biết bao lần chúng ta đã xét đoán và kết tội người khác, trong khi chúng ta chỉ nghe có một chiều và biết một phần rất nhỏ của câu truyện. Vấn đề này xảy ra thường ngày như cơm bữa. Chúng ta nghe truyện xấu và rồi thêm mắm thêm muối cho câu truyện thêm đậm đà ý vị. Truyện xấu giật gân lây lan nhanh chóng như một thứ vi khuẩn xâm nhập. Cục đá kết án đã nằm sẵn trong tay chỉ chờ cơ hội là ném. Ném mạnh, ném nhanh và ném cho chết, thế là hả dạ. Chúng ta chẳng muốn tìm hiểu nguyên nhân, lý do hay hoàn cảnh xung quanh ảnh hưởng thế nào. Chúng ta biết rằng ai cũng có nhiều tâm tư nỗi khổ cần được thông cảm và giãi bầy chia sẻ. Hãy học lời khuyên của Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh, ai trong anh chị em sạch tội, thì ném đá trước đi.
Chúng ta không nên nghi ngờ và đổ lỗi vội vàng. Có khi sẽ bị bé cái lầm. Truyện kể: Có người mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng lấy trộm. Anh ta trông dáng nó đi, rõ ra đứa ăn trộm búa. Nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa ăn cắp búa. Mọi cử động của nó, tỏ rõ là tên đạo tặc. Ông bị yên trí. Sau khi ông tìm thấy búa, thì từ đó lại thấy thằng bé hiền lành, không có vẻ chi là ăn cắp, ăn trộm nữa. Ở đời không nên vội nghi ngờ, kẻo gây chia rẽ hay làm mất thanh danh người khác. Càng nghi kỵ thì càng nhen nhúm sự dữ trong lòng. Sự đời dối trá dễ lôi kéo chúng ta vào cuộc. Giống như câu truyện của chị phụ nữ, có thể chúng ta không dám ném đá người khác trước đâu. Một mình tôi thì chẳng dám ném, nhưng có vài người vào hùa, tôi sẽ hùa theo. Và cuối cùng chúng ta lại đổ lỗi cho người khác, tôi thấy người ta nói và làm như vậy. Kiểu ném đá giấu tay. Người ta là ai chứ! Dùng chữ ‘người ta’ làm hỏa mù để dấu tội mình và trốn tránh trách nhiệm. Như thế, truyện của người khác mà lại làm cho chúng ta trở nên dơ tay, bẩn lưỡi và xấu lòng. Thật là không đáng!
Thánh Phaolô đã có Chúa Kitô làm gia nghiệp. Ngài có thể hy sinh và từ bỏ tất cả vì danh Chúa. Mối lợi của ngài là chính Chúa Kitô. Đôi khi chỉ vì cái tôi kiêu ngạo và vì tự ái, nhiều người lấy danh nghĩa Chúa Kitô để kết án và loại trừ lẫn nhau. Lịch sử Giáo Hội đã minh chứng qua sự ly khai của các giáo phái và các nhóm trong lòng giáo hội. Niềm tin của chúng ta là chỉ có một Chúa, một phép rửa và niềm hy vọng. Thánh Phaolô đã xác tín: Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô(Phil 3, 8). Dù sống đạo hay hành đạo cách nào, nếu chúng ta chưa kết hợp được với Chúa Kitô, chúng ta vẫn còn lang thang chưa có đích điểm.
Sau khi gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh, Phaolô đã trở thành một con người hoàn toàn mới. Một sự đổi mới đức tin kỳ diệu: Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước (Phil 8, 13). Saulôthay đổi từ một người hăng say bắt bớ và giam tù các Kitô hữu, đã trở thành tông đồ Phaolô rao giảng tin mừng nhiệt tình cho Nước Chúa. Ngài đã cam chịu cực khổ trăm bề để làm cho danh Chúa Kitô cả sáng. Mùa Chay là cơ hội cho mỗi người chúng ta thay đổi cách sống. Học hỏi, lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Gắn bó kết hợp với Chúa qua các Bí tích và việc cử hành phụng vụ. Chúa Kitô là trung tâm của tất cả các sinh hoạt sống đạo.
Lạy Chúa, chúng con đang còn lữ hành dưới trần thế để hướng về quê thật. Xin cho chúng con biết chuẩn bị những hành trang cao quí xứng hợp với cõi thiêng. Niềm hy vọng chính là ánh sao soi đường dẫn chúng con đạt tới sự sống bên Chúa đời đời. Amen.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa nhật thứ 5 hôm nay là Chúa nhật chót của cuộc hành trình 40 ngày mùa chay thánh, chuẩn bị đưa chúng ta đi vào mầu nhiệm tử nạn Phục sinh của Chúa Ki-tô. Chúa nhật tới là Chúa nhật Thương Khó hay Lễ Lá, bắt đầu tuần thánh cử hành những mầu nhiệm biểu lộ tình yêu cao cả và hồng ơn cứu độ quan trọng nhất trong cuộc đời của Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay là một phiên tòa kỳ thú về người đàn bà ngoại tình bị bắt quả tang, bị các người Pha-ri-sêu và biệt phái truy tố đem đến trước mặt quan tòa là Chúa Giê-su để xét xử. Câu chuyện này rất hay và rất quen thuộc với chúng ta. Chúng ta cũng đã được nghe nhiều bài giảng của các linh mục về ý nghĩa rất phong phú của câu chuyện. Ở đây tôi xin được chia sẻ với ông bà anh chị em 2 điểm để giúp ông bà anh chị em chuẩn bị tâm hồn cho tuần tĩnh tâm và Bí tích Hòa giải sắp tới.
Điểm quan trọng thứ nhất là bài Tin mừng kêu gọi và khuyến khích chúng ta có một cái nhìn trung thực và chân thành vào tâm hồn của chính mình. Sau khi đã cầu nguyện trong vườn cây dầu, Chúa Giê-su vào đền thờ để giảng dạy, và hôm đó, những người biệt phái và luật sĩ dẫn đến cho Ngài một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, để cố tình gài bẫy và tố cáo Ngài. Chúa Giê-su nói với họ: “Ai trong các người sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi.” Thật vậy, qua lời này, Chúa kêu gọi người ta hãy chân thành nhìn vào tâm hồn của mình, và khi người ta nhìn sâu vào tâm hồn, họ nhận ra mình cũng không được tốt lành, không sạch tội, và cuộc sống của mình cũng không đạo đức hơn ai, mình cũng đầy tội lỗi. Chính vì thế không ai dám ném đá người phụ nữ ngoại tình nữa, và từ từ bỏ đi, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất rút lui trước. Trong mùa chay thánh này, Giáo hội và Tin mừng lời Chúa kêu gọi mọi người chúng ta hãy hy sinh thời giờ thành tâm nhìn sâu vào tâm hồn mình, nhìn vào đời sống gia đình của mình, và nhìn vào đời sống cộng đoàn của mình, để chúng ta đến với Chúa, trong Bí tích Hòa giải, để được biến đổi, thánh hóa, đưa chúng ta đi vào mầu nhiệm tình yêu và ơn cứu độ một cách tốt đẹp hơn, vui mừng hơn và đầy ơn sủng.
Điểm quan trọng thứ hai mà tôi muốn chia sẻ với ông bà anh chị em là qua câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay chúng ta nhận ra dung mạo tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Chúa ban cho chúng ta nhiều cơ hội và Chúa luôn luôn mở ra một cánh cửa để chúng ta đi về phía trước, đi về phía tương lai, để chúng ta có một đời sống mới trong ơn sủng, trong vui mừng và hy vọng. Để khám phá ra tình yêu và lòng thương xót của Chúa, chúng ta phải trở về với lời Chúa nói qua miệng của tiên tri I-sa-i-a trong bài đọc 1 hôm nay, và đặt mình vào đời sống của người Do thái lúc đó đang sống trong cảnh nô lệ, đau khổ, mất tự do và sống trong tuyệt vọng ở Ba-bi-lon. Trong bối cảnh đó, chúng ta nghe Chúa nhắc nhở họ về biến cố lòng thương xót của Ngài trong thời Mô-sê, dùng quyền năng giúp cho cha ông của họ vượt qua Biển Đỏ về Đất Hứa. Chúng ta nghe Chúa nói: “Ta là Ðấng mở đường dưới biển, mở lối đi dưới dòng nước; là Ðấng dẫn dắt xe, ngựa, quân binh và dũng sĩ. Tất cả đều ngủ và không chỗi dậy nữa; chúng bị ngộp thở và tắt đi như tim đèn.” Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng đã giải thoát họ, mở cho họ một cánh cửa và cho họ một cơ hội tiến về tương lai. Chưa hết, Chúa còn bảo họ: “Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa.” Hay nói một cách khác, Chúa cho họ biết đó là biến cố ngày xưa, nhưng hôm nay, Chúa muốn họ chú ý đến một việc trọng đại và lạ lùng mà Chúa sắp làm cho họ, đó là mở ra một con đường, dẫn đưa họ thoát ra khỏi cảnh lưu đày, nô lệ, đau khổ và tuyệt vọng trở về quê hương. Thiên Chúa không muốn con người sống trong đau khổ, tù đày và tuyệt vọng, nhưng luôn mở ra một cánh cửa, ban cho con người một cơ hội tiến về tương lai trong ơn sủng, vui mừng và hy vọng.
Ông bà anh chị em thân mến. Trong ánh sáng của bài đọc 1, chúng ta nhận ra dung mạo tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa qua Chúa Giê-su trong câu chuyện người người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin mừng hôm nay. Chúa Giê-su không muốn người phụ nữ này sống và chết trong tù đày và tội lỗi bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, vì người ta đang đòi ném đá giết chết chị. Người ta muốn khóa chị trong tù và chôn chị trong đời sống tội lỗi. Chúa Giê-su đã giải thoát chị khỏi cái chết trong tội lỗi, ban cho chị một cơ hội, và mở ra cho chị một cánh cửa, một con đường tiến về tương lai. Chúa nói: “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.” Tôi tin rằng người phụ này sau khi đã được Chúa tha thứ tội lỗi sẽ có một đời sống mới trong ân sủng, vui mừng và tràn đầy hy vọng.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta tin và nhận ra dung mạo tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa cho chúng ta. Nếu chúng ta thật sự tin và nhận ra dung mạo của Thiên Chúa, thì chúng ta không thể giam hãm chúng ta trong quá khứ, trong đau khổ thất vọng và trong tội lỗi. Chúa không muốn chúng ta sống trong nô lệ, giam hãm mình trong tội lỗi và thấy vọng. Chúa là Đấng đầy lòng thương xót luôn mở ra một cánh cửa, và ban cho chúng ta một cơ hội để chúng ta tiến về tương lai. Thánh Phao-lô trong bài đọc 2 hôm nay chia sẻ với chúng ta về cuộc sống của ngài. Ngài nói: “Chính tôi cũng đã được Ðức Giêsu Kitô chiếm lấy. Anh em thân mến, tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Ðức Giêsu Kitô.” Thánh Phao-lô muốn chúng ta biết tình yêu và lòng thương xót của Chúa đã chiếm lấy ngài, cho nên ngài đã từ bỏ, để lại chặng đường dĩ vãng là một kẻ sống trong tội lỗi, để tiến tới trước và có đời sống mới trong ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô. Thánh Phao-lô là một người tin một cách mạnh mẽ vào lòng thương xót của Chúa, luôn mở một cánh cửa rộng để giải thoát chúng ta khỏi sự tù đày tội lỗi và thất vọng, và ban cho chúng ta một cơ hội để chúng ta tiến tới tương lai, sống đời sống mới.
Vì vậy, ông bà anh chị em thân mến, nếu chúng ta tin và nhận ra dung mạo của Chúa, chúng ta cũng không thể giam hãm chúng ta trong tội lỗi và tuyệt vọng, và chúng ta cũng không được giam hãm người khác trong tội lỗi, để chúng ta trở thành sứ giả, khí cụ lòng thương xót của Chúa cho người khác. Người Tôi tớ của Chúa là Đức cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận sau khi được thả ra sau 13 năm trong biệt giam đã nói rằng: “Nếu tôi không tha thứ cho người khác thì tôi vẫn tự giam hãm mình trong tù tội.” Đức Hồng y đã hoàn toàn tha thứ cho những người bắt giam, bỏ tù và ngược đãi ngài, và ngài đã có cuộc sống mới trong vui mừng và hy vọng, trở thành khí cụ, sứ giả lòng thương xót của Chúa cho mọi người. Ngài là một người sống gần gũi với Tin mừng của Chúa và trở thành gương sáng cho chúng ta.
Tuần tới, chúng ta đến với Chúa trong Bí tích Hòa giải, và Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và tuyệt vọng, mở cho chúng ta một cánh cửa đi tới tương lai, và ban cho chúng ta một cơ hội sống trong ân sủng, niềm vui mừng và hy vọng. Giả sử Chúa sẽ nói với chúng ta mọi tội lỗi của chúng ta được tha thứ, và có một cuộc sống mới trong Ngài. Khi về nhà, vợ chồng cũng phải nói với nhau những tội lỗi, những sự bất bình, những cãi vã trong quá khứ, hãy bỏ qua cho nhau, hãy tha thứ cho nhau, để vợ chồng có một đời sống mới trong ân sủng, bình an và vui mừng của Chúa. Và mọi người trong cộng đoàn chúng ta trở thành khí cụ, sứ giả tình yêu và lòng thương xót của Chúa, để làm sáng danh Chúa.
.
KHUẤT TẤT TRONG MỘT VỤ ÁN BẤT THƯỜNG
Jos.Vinc. Ngọc Biển
Bài Tin Mừng Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay, trình thuật vụ án hy hữu và bất thường. Đó chính là phiên tòa xử người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Các Kinh Sư và Pharisiêu mang đến cho Đức Giêsu để xin Ngài phân sử. Nếu đọc thoáng qua, chúng ta sẽ thấy họ tôn trọng Đức Giêsu và nhờ Ngài phán quyết một vụ án di động này. Thật bất ngờ, Đức Giêsu bỗng dưng trở thành thẩm phán. Bị cáo là người phụ nữ ngoại tình. Các người tố cáo chính là Kinh Sư và Pharisiêu.
Phiên tòa bắt đầu với lời tố cáo: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Họ hỏi câu hỏi đó không phải để chờ Đức Giêsu phán làm sao, mà đúng hơn, họ đã có sẵn bản án trong tay, bởi vì họ biết rõ luật!!! Nhưng điều đáng nói ở đây chính là cái tâm đen tối của họ, họ muốn gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu lên tiếng phán: “Phải ném đá”, thì ngay lập tức, Đức Giêsu không phải là một vị Thiên Chúa từ bi nhân hậu, bao dung với người nghèo và yêu thương người tội lỗi. Tất cả những gì Đức Giêsu rao giảng đều tự mâu thuẫn nội tại với Ngài. Bởi vì Ngài đã từng nói hãy tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22). Hơn thế nữa, Đức Giêsu phạm vào cái tội gọi là “tội khi quân” phản loạn và chống lại triều đình.
Còn nếu Đức Giêsu nói “không được ném đá”, thì ngay lập tức Ngài lãnh nhận án tử trong tay. Bởi vì luật Môsê truyền phải ném đá hạng người phụ nữ ngoại tình này. Những ai đi ngược lại với những điều khoản trong luật của Môsê thì kể như là vi phạm và phản bội với truyền thống của tiền nhân. Mặt khác, Đấng đã từng tuyên bố rằng “đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn”(x.Mt 5,17) không lẽ giờ này lại phá luật?.
Quả thật họ đã quá nham hiểm, họ đã dùng phương pháp: nhất tiễn diệt song điêu. Một mũi tên giết hai con chim. Bầu không khí thật ngột ngạt ngay trong khoảng không trống trải giữa trời. Họ nín lặng chờ vị thẩm phán bất đắc dĩ tuyên án. Trong thinh lặng, thay vì nói lời tuyên án, Đức Giêsu đã âm thầm, tế nhị viết trên đất, hành động này theo một số nhà chú giải cho rằng Đức Giêsu viết tội của những người tố cáo chị phụ nữ trên đó. Sau đó Đức Giêsu lên tiếng: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Một câu nói tưởng chừng như êm đềm, trôi vào khoảng không vô tư của những người đang hung hăng tố cáo và thực hiện dã tâm… Không! Đức Giêsu đã lật ngược ván cờ. Bị cáo lại chính là những Kinh Sư và Pharisiêu, thẩm phám không phải là một ai hay một nhóm người hiện hữu nào, mà là một vị thẩm phán vượt lên trên thời gian và không gian, một vị thẩm phán có thể thấu suốt những những điều mà chỉ có họ biết họ. Vị thẩm phán đó là “Lương Tâm”. Chính vị thẩm phán “Lương Tâm” này đã lên tiếng kết tội của họ trong thinh lặng cõi lòng, đã xoáy sâu vào tận nội căn tâm hồn để vạch trần tội ác của họ. Quá bất ngờ, họ bị chưng hửng, không dám đứng đó, nên đã lần lượt ra về, bắt đầu từ những người lớn tuổi.
Khi mọi người đã ra về, chỉ còn lại mình Đức Giêsu và chị phụ nữ. Bấy giờ, Đức Giêsu mới hỏi: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”, và, giờ đã điểm, Đức Giêsu tuyên án: “Còn tôi, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”. Lời tuyên trắng án của Đức Giêsu đã phá tan màn đen của một vụ án khuất tất và những bất thường của nó.
Đây là một trong những câu nói tuyệt đẹp và rất nhân văn. Nhưng xét về chiều sâu đức tin, thì đây còn là một lời nói được phát xuất ra từ cung lòng Thiên Chúa, thể hiện một vị Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu từ bi và hay thương xót. Sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi. Một vị Thiên Chúa luôn đứng về phía người nghèo, bị bỏ rơi và thấp cổ bé họng để yêu thương, nâng đỡ và phục hồi nhân phẩm cho họ. Quả thật, Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan thật sâu xa để cho mỗi người chúng ta suy niệm: “Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.” (Kn 11,23).
Qua bài Tin Mừng hôm nay, sứ điệp Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy nắm lấy tay nhau để dìu nhau đứng dậy và ra khỏi vũng lầy êm ái của tội lỗi. Chứ không phải tìm cách nhấn chìm anh chị em chúng ta xuống tận bùn đen để làm bàn đạp cho ta tiến lên.
Nhưng có lẽ điều quan trọng hơn cả, đó là: Lời Chúa hôm nay muốn đi sâu vào tận nội tâm mỗi người, để mời gọi đương sự hãy tự cật vấn lương tâm của chính mình, nhằm thấy được những lỗ hổng tốt lành, thánh thiện để lấp cho đầy những bác ái, yêu thương và bình an, lo sám hối và quay trở về với Chúa và với nhau; đồng thời phải nhận ra những ứ đầy tội lỗi của tham lam, ích kỷ, ghen tỵ nơi chính mình, để có được sự cảm thông thay vì kết án, để yêu thương thay hận thù.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mặc lấy tâm tư, hành động của Chúa. Xin cho chúng con biết gớm ghét tội, nhưng không ghét những người có tội. Ước gì, trong những ngày này, mỗi người chúng con biết sám hối chân thành, biết nhìn vào trong sâu thẳm đời sống nội tâm, hầu thấy được khuôn mặt thật của mình, để trở về với Chúa và với nhau. Xin tha thứ những lỗi lầm mà thời niên thiếu chúng con vươn lên trong dại khờ. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH
Lên án bất công, phản đối bạo lực, có phải là phản ứng của người sáng suốt, hành động theo lẽ phải, hay thuần túy vì những phần tử đau khổ trong xã hội cần được minh oan ? Suy nghĩ điều tốt, làm việc nghĩa hiệp, hẳn không phải chỉ là trách nhiệm của một vài đối tượng trong xã hội, mà vì bản chất “tình người” luôn liên đới với nhau. Bậc làm cha mẹ có sung sướng gì đâu khi “sửa phạt” con hư hỏng, hoặc giáo dục chúng theo biện pháp la mắng, sử dụng roi vọt ! Quy luật chung, ai biết đi, biết chạy, cũng phải qua giai đoạn biết bò. Ai lầm lỡ mà chẳng mong được thứ tha, nhưng đâu là phương thế hữu hiệu nhận ra mình cũng là tội nhân ?
Có những phi lý bất công xảy đến nơi gia đình xã hội, mà nạn nhân chẳng được phép để minh oan; có những luật lệ nghiêm minh đến độ người phạm tội không còn cơ may sửa chữa ! Các luật sĩ biệt phái trong Tin-mừng hôm nay, họ dẫn đến Chúa Giêsu một tội phạm, không phải mong giúp được minh oan, đúng hơn là để nhằm lấy cớ qui tội Đức Giêsu đã vi phạm lề luật. Điều không ổn trước hết là khi bắt được quả tang người thiếu phụ đang phạm tội, nhưng lại không nói gì đến kẻ đồng phạm là ai ? Bất hợp lý thứ hai là người ta nhân danh luật pháp để hành xử tội phạm, nhưng lại muốn Đức Giêsu người họ đang bất đồng quan điểm cùng tham gia vào cuộc ném đá phạm nhân.
Truyện phim “Bao Công xử án” khá thuyết phục con người trong thế kỷ 21, truyện phim nói lên tâm thức của “quần chúng” luôn hy vọng và mơ ước tới sự “thanh liêm”, “công bằng” về điều thiện ác. Kitô giáo không nhằm thỏa mãn sự minh bạch theo quan niệm kẻ phạm tội phải ra trước “công đường”, nhưng lại hướng tội nhân và 99 người khác phải biết rõ không ai là vô tội trước Thiên Chúa. Đức Giêsu không phải là quan tòa xử án những nghịch lý bất công, những tranh chấp hơn thiệt; bằng phương cách tự vấn lương tâm, Ngài đã cho đám đông đang “cầm đá” trong tay hiểu, tại sao ta không nên ném đá kẻ phạm tội này.
Đức Giêsu Ngài sẽ mãi là “thẩm phán chí công”, mỗi con người không thể chỉ dừng lại ở hy vọng hay mơ ước một sự công bình ở tương lai. Mỗi người đều được mời gọi tin tưởng tuyệt đối vào “Đấng Kitô”, hiện thân của Thiên Chúa giầu lòng thương xót, nhưng không thể thiếu tâm tình sám hối ăn năn. “Những người kết án chị đâu cả rồi ? Ta cũng không kết án chị, vậy chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”. Lời công minh chính trực, hẳn không có ý trả lời riêng cho đám đông đang chuẩn bị hành quyết một tội nhân, mà gợi lên cho cả chúng ta hôm nay, ai cũng phải suy xét về đạo lý làm người, làm con Chúa của mình.
Cháy nhà mới ra mặt chuột, hay “tòa án lương tâm”, không đề cao việc truy xét “đúng người đúng tội”, mà hướng tới sự công bằng tha thứ, phải nghiêm minh trước hành vi của mình : “ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá người này trước đi”. Con người bao giờ cũng cay cú, bực tức với chuyện “thắng-thua”, “cao-thấp”, nên cũng có câu : quân tử trả thù 10 năm chưa muộn. Thắng thua với chính mình, hiểu sâu hiểu rộng về cách sống hiện tại của mình, đó mới cần thiết. Chúa Giêsu có ý kêu gọi mọi người hãy đón nhận “lòng bao dung” của Thiên Chúa, hầu cùng giúp nhau trở nên hoàn thiện trong tình yêu tha thứ.
Thua keo này bày keo khác, hay im lặng, thả lỏng hòn đá trong tay xuống và trở về, vẫn là tự do của đám đông xưa kia và chúng ta hôm nay. Ném đá giấu tay, là câu thành ngữ nói về kẻ tiểu nhân hành động mờ ám, lén lút. Chúa Giêsu hẳn không có ý thách thức chúng ta hãy trở nên người quân tử để ném đá kẻ tội lỗi cách quang minh chính trực. Bạn hãy về đi, “từ nay đừng phạm tội nữa”, đó chính là thông điệp gởi tới từng người trong các thời đại, đừng phạm tội để biết sống giới luật yêu thương : mến Chúa yêu người.
Đức Giêsu đã giải tỏa được đám đông, ai nấy trở về nhà mình, chỉ với lời nhẹ nhàng mà thật hiệu quả, ít là họ đã nhận họ không phải là người “vô tội”. Đức Giêsu không kết án người thiếu phụ ngoại tình, nhưng đã chỉ ra cho các tội nhân biết “niềm vui” trong tâm hồn mới thực ý nghĩa : “từ nay đừng phạm tội nữa”. Mùa chay không chỉ hướng tới sám hối, mà chúng ta còn phải hiểu biết giá trị thật của bao dung tha thứ; qua đó, mỗi người sẽ biết sống tha thứ và giúp nhau đạt tới nguồn ơn cứu độ của Thiên Chúa.
.
TÌNH THƯƠNG THA THỨ VÀ BIẾN ĐỔI
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Ga 8,1-11
(1) Còn Đức Giêsu thì đến núi Ôliu. (2) Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. (3) Lúc đó, các Kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, (4) rồi nói với Người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. (5) Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao? (6) Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. (7) Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. (8) Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. (9) Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu và người phụ nữ thì đứng ở giữa. (10) Người ngẩng lên và nói: “Này chị, họ đi đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” (11) Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả”. Đức Giêsu nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”.
- Ý CHÍNH: Tin mừng hôm nay trình bày tình thương bao dung của Thiên Chúa, thể hiện qua thái độ của Đức Giêsu đối với tội nhân phạm tội ngọai tình. Câu chuyện được trình bày như một màn kịch gồm 3 hồi như sau:
– Hồi một (x Ga 8,1-5): Để có cớ tố cáo Đức Giêsu, các Kinh sư và người Pharisêu đã giải một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến yêu cầu Người xử lý tội nhân.
– Hồi hai (x Ga 8,6-9): Hiểu được ý đồ muốn gài bẫy của họ, Đức Giêsu đã im lặng ngồi xuống và lấy ngón tay viết trên đất. Khi họ gặng hỏi thì Người mới nói: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Câu trả lời của Đức Giêsu đã làm cho những kẻ tố cáo tội nhân phải lặng lẽ rút lui.
– Hồi ba (x Ga 8,10-11): Chỉ còn lại mình Đức Giêsu là người duy nhất trong sạch và có quyền kết án tội nhân. Nhưng Người lại tỏ lòng khoan dung với kẻ có tội khi tuyên bố: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
- CHÚ THÍCH:
– C 1-3: + Đến núi Ôliu: Núi Ôliu còn được gọi là vườn Ghếtsêmani, nằm về phía Đông gần thành Giêrusalem, (x. Lc 22,39). Đây là một nơi yên tĩnh thuận tiện cho việc cầu nguyện. + Trở lại Đền thờ: Đền thờ nằm trong Thủ đô Giêrusalem. Đền thờ đầu tiên do vua Salomon xây dựng vào năm 970 trước Công nguyên. Sau đó nhiều lần được tái thiết. Đền thờ được đề cập trong Tin mừng hôm nay do vua Hêrôđê trùng tu và mở rộng thêm từ năm 20 trước CN, nhưng sau đó đã bị quân Rôma tàn phá bình địa vào năm 70 sau Công nguyên. + Người ngồi xuống giảng dạy họ: Các Thầy “rápbi” Do thái khi dạy Thánh kinh, thường ngồi trên một chiếc ghế hay một tảng đá, còn các thính giả thì đứng ngồi xung quanh. + Một người phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình: Đây là một thiếu phụ đã có chồng, nhưng đã quan hệ bất chính với một người khác không phải chồng mình.
– C 4-6a: + Trong sách Luật, ông Môsê truyền phải ném đá hạng đàn bà đó: Luật Môsê quy định về hình phạt dành cho tội ngoại tình như sau: “Người đàn bà ngoại tình phải bị xử tử” (Lv 20,10). Luật cũng quy định xử tử cả hai kẻ phạm tội bằng hình phạt ném đá (x. Đnl 22,24). Nhưng thời Đức Giêsu, người Rôma đã cấm dân Do thái áp dụng luật này (x Ga 18,31). + Họ nhằm thử Người để có bằng cớ tố cáo Người: Các Kinh sư và người Pharisêu muốn đưa Đức Giêsu vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” để có cớ tố cáo Người. Theo họ nghĩ: Đức Giêsu trả lời đàng nào cũng không ổn: Nếu Người truyền kết án tử hình theo Luật Môsê thì họ sẽ tố Người chống lại nhà cầm quyền Rôma, vì người Do thái đã bị tước quyền xử tử tội nhân, và Người sẽ bị chính quyền Rôma coi là phản lọan. Còn nếu Người truyền tha bổng tội nhân, thì họ sẽ lại nói Người chống lại Luật pháp Môsê và truyền thống của cha ông.
– C 6b-8: + Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay vẽ trên đất: Viết trên đất là để bày tỏ thái độ không quan tâm đến sự việc đang xảy ra. + “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”: Qua câu nói này, Đức Giêsu tuy theo Luật Môsê để cho phép ném đá tội nhân, nhưng Người cũng nhắc cho những kẻ tố cáo kia biết rằng: Chính họ cũng là kẻ tội lỗi đáng bị xử phạt! Họ cần tránh thái độ xét đoán ý trái và kết án kẻ khác cách bất công, để khỏi bị Thiên Chúa xét đóan và kết án sau này. Vì dưới cái nhìn của Thiên Chúa, thì mọi người đều là tội nhân và đều cần được xét xử khoan dung (x. Lc 6,36-38).
– C 9-11: + Họ bỏ đi hết: Tất cả những kẻ tố cáo đều rút lui. + Bắt đầu từ người lớn tuổi: Người lớn tuổi bỏ đi trước, phần vì càng sống lâu thì càng nhiều sai phạm! Phần khác cũng có thể do các người lớn tuổi khôn ngoan hơn, nên khi thấy không làm gì được Đức Giêsu thì áp dụng nguyên tắc “Tam thập lục kế: đào vi thượng sách!” để tránh khỏi bị liệt vào hạng “đạo đức giả” (x. Lc 11,37-54). + “Tôi không lên án chị đâu!”: Đức Giêsu không xét đoán ai vì Ngừơi đầy lòng từ ái khoan dung (x Ga 8,15). Sứ vụ của Người là đến để cứu độ thế gian (x Lc 9,10). + “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”: Tuy tha thứ cho tội nhân, nhưng để tránh lạm dụng, Đức Giêsu cũng đòi hối nhân phải thành tâm sám hối, bằng việc quyết tâm không tái phạm nữa. Trong thực tế, để tránh khỏi tái phạm tội thì hối nhân cần ăn năn dốc lòng chừa. Lòng ăn năn sám hối thực sự được biểu lộ qua việc khiêm tốn xin ơn Chúa trợ giúp, thành thật xưng thú tội lỗi, quyết tâm xa lánh dịp tội và làm việc đền tội cân xứng (x. Kinh Ăn năn tội).
- CÂU HỎI:
1) Hãy cho biết Đền thờ Giêrusalem thời Chúa Giêsu do ai xây dựng và xây từ khi nào ? Số phận cuối cùng của Đền thờ này ra sao ? 2) Luật Môsê qui định hình phạt dành cho các kẻ phạm tội ngọai tình là gì ? 3) Các đầu mục Do thái có ý đồ gì khi bắt người đàn bà phạm tội ngọai tình đến yêu cầu Đức Giêsu xử lý ? 4) Đức Giêsu thể hiện lòng khoan dung đối với tội nhân qua câu nói nào ? 5) Lòng ăn năn thực sự phải được biểu lộ bằng những việc gì ? 6) Phải chăng khi tha thứ cho tội nhân là Đức Giêsu đã gián tiếp khuyến khích họ tiếp tục phạm tội ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
- CÂU CHUYỆN:
1) VỀ CÂY THÁNH GIÁ KHOAN DUNG THƯƠNG XÓT:
Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng Thánh Giá rất đặc biệt: Trên cây thập giá, Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai bàn chân, còn tay phải đã rời khỏi thập giá và giơ ra phía trước như đang ban phép lành cho hối nhân tại tòa giải tội bên dưới.
Chuyện kể rằng: Một lần kia, khi một linh mục đang ngồi tòa thì một tội nhận vào xưng tội. Vị linh mục ngồi tòa nổi tiềng là nghiêm khắc đối với những tội nhân không chịu chừa cải. Anh chàng vào tòa xưng tội lần này đã nhiều lần phạm tội ngoại tình và cha giải tội cũng nhiều lần ngăm đe. Nhưng chứng nào tật đó, cứ ra khỏi tòa giải tội được ít ngày, anh ta lại tiếp tục sa ngã phạm tội mới xưng. Sau nhiều lần tha thứ, cuối cùng trong lần xưng tội mới đây cha giải tội đã phải nói với anh: “Đây là lần cuối cùng ta tha tội cho anh”. Chàng thanh niên ra khỏi tòa giải tội trong tâm trạng nặn trĩu u buồn. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội và lần này anh ta lại vẫn xưng tội đã dốc lòng chừa như mấy lần trước. Nhưng lần này vị linh mục đã từ chối giải tội cho anh như sau: “Anh đừng có đùa với Chúa! Lần này ta không tha cho anh”. Nhưng một điều kỳ diệu đã xảy ra: Cha giải tội và hối nhân trong tòa đều nghe thấy có tiếng của Chúa Giêsu phán ra từ trên cây thập giá phía trên tòa giải tội: “Nhưng Ta tha tội cho hối nhân này!”. Rồi Chúa còn nói riêng với vị linh mục: “Chính Ta mới chịu đổ máu ra để rửa sạch mọi vết nhơ tội lỗi của loài người chứ không phải con!”
Cũng từ ngày đó, người ta thấy trên cây thánh giá tại tòa giải tội trong nhà thờ nói trên, cánh tay phải của Chúa Giêsu không còn gắn vào cây thập giá, nhưng bị bung ra trong tư thế đang cúi xuống ban phép lành cho hối nhân trong tòa giải tội, như một lời mời gọi mọi người mau ăn năn sám hối: “Hãy cứ trở về với Ta, thì các con sẽ được ơn tha thứ”.
2) VỀ CUỘC HÓAN CẢI CỦA MỘT TỘI NHÂN:
TAXIANA là một văn sĩ người Mỹ gốc Liên Xô. Vào năm 1980, cô đã cho ra đời tác phẩm đầu tay tựa đề là “Về một cuộc đổi đời kỳ diệu”. Trong quyển sách đó, cô đã kể lại chi tiết cuộc đời đầy đam mê sóng gió của cô, mà cuối cùng đời cô đã được ơn biến đổi nên tốt hơn gấp bội! Câu chuyện của cô Taxiana được tóm gọn như sau:
Ngay từ khi còn bé, Taxiana đã được chịu phép rửa tội. Nhưng khi lớn lên, cô ít đến nhà thờ dự lễ Chúa nhật vì cha mẹ của cô không mấy ngoan đạo. Do cứng đầu và hay gây gỗ nên cha mẹ và thầy dạy đều xếp cô vào loại trẻ em khó dạy. Ngay từ nhỏ, Taxiana đã tỏ ra căm thù tất cả những gì mang tính gò bó, ép cô vào trong khuôn khổ kỷ luật, vì nó làm cho cô cảm thấy mất tự do và không thể làm theo ý của mình. Lớn lên, nhờ có trí thông minh siêu hạng, Taxiana đã được cấp học bổng lên đại học. Nhưng tại môi trường trí thức này, thay vì kết thân với các sinh viên cùng khóa, thì cô lại thường xuyên giao du với đám macô, đầu trộm đuôi cướp, bợm nhậu, đĩ điếm và xã hội đen…! Trong khi sống buông thả như vậy, cô cũng thích nghiên cứu các môn thần bí phương Đông, đặc biệt là môn Yôga. Khi tập luyện Yôga, mỗi động tác đều đòi người ta phải đọc một câu trong một bài văn vần của môn phái. Có người biết cô là tín hữu nên đã đề nghị cô đọc Kinh Lạy Cha để thay cho bài văn vần kia. Taxiana đã làm theo lời khuyên này. Các câu trong kinh Lạy Cha đã dần dần thấm nhập vào tâm hồn cô. Rồi một ngày kia, một tư tưởng chợt lóe lên trong đầu Taxiana: “Tại sao ta lại không đọc thêm các bản kinh khác nữa, nhất là đọc Lời Chúa trong Thánh kinh?” Càng đọc Lời Chúa, cô càng cảm thấy thích thú về những tư tưởng cao siêu và thánh thiện của Đức Giêsu. Cuối cùng cô quyết định đến với một linh mục đạo đức để tìm hiểu thêm về giáo lý Thánh kinh. Sau đó cô đã cử hành lễ nghi tuyên tín. Cô dọn mình chịu bí tích giải tội và đã được ơn biến đổi hoàn toàn. Từ đây cô tình nguyện hiến thân phục vụ các công việc bác ái xã hội. Về sau cô đã thuật lại phép lạ đổi mới đã xảy ra với cô trong lúc cô đang xưng tội như sau: “Bấy giờ tôi lần lượt kể lại cho vị linh mục nghe các lỗi lầm tôi đã phạm, về những cơn say thâu đêm suốt sáng, các đam mê tình dục quá độ, về những cuộc hôn nhân bất hạnh mà tôi đã từng trải, những lần phải đi phá thai vì bị vỡ kế hoạch dẫn đến hậu quả tai hại là tôi bị mất khả năng sinh con. Cuộc sống đầy đam mê đã biến tôi trở thành một con người dửng dưng với mọi sự: Tôi chẳng còn có thể yêu ai được nữa!” Sau khi thú tội xong, tôi lắng nghe vị linh mục khuyên bảo. Lời của ngài tuy đơn sơ nhưng mỗi lời đều đánh động tận tâm can tôi. Sau cùng tôi rất xúc động khi đón nhận phép giải tội. Ngay lúc ấy, tôi cảm thấy lòng mình thanh thản như vừa trút bỏ được một gánh nặng ngàn cân”.
Sau lần xưng tội ấy, Taxiana đã cảm nghiệm mình đã gặp được chính Chúa Giêsu và được Người tha thứ mọi lỗi lầm quá khứ. Taxiana không những đã được tha tội, mà còn được Chúa chạm đến phần tâm linh sâu thẳm nhất để biến cô nên một tạo vật hòan tòan mới của Người.
- THẢO LUẬN:
1) Trong mùa Chay này, mỗi người chúng ta cần làm gì để biểu lộ lòng tin vào tình thương bao dung của Thiên Chúa ? 2) Bạn sẽ trả lời ra sao khi có người nói: “Cần chi phải đi xưng tội với ông linh mục cũng phạm nhiều tội giống như mình? Hoặc xưng tội làm chi để rồi chỉ sau một thời gian ngắn sẽ lại tái phạm các tội mới xưng? Hãy đợi đến lúc liệt giường sắp chết sẽ xin xưng tội một lần cuối cũng đủ?”
- SUY NIỆM:
1) Nội dung Tin Mừng hôm nay: thuật lại câu chuyện Đức Giêsu đã bênh vực và tha thứ tội cho một phụ nữ ngoại tình. Người còn biến đổi chị nên một con người mới. Mùa Chay nhằm giúp các tín hữu chúng ta nhận biết sự yếu hèn của mình để hồi tâm sám hối nhờ gặp được Chúa Giêsu trong bí tích giải tội. Chắc chắn chúng ta cũng sẽ được Người ban ơn tha thứ và còn được ơn biến đổi nên một người mới.
2) Mấy điểm giáo lý về bí tích giải tội:
– Bí tích giải tội là bí tích do Chúa Giêsu thiết lập, để tha các tội riêng ta đã phạm từ khi lãnh nhận bí tích rửa tội về sau, cùng giao hòa ta với Chúa và Hội thánh. Bí tích giải tội còn được gọi là bí tích giao hòa, hòa giải hay bí tích sám hối. Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích này vào chiều ngày phục sinh, khi Người hiện đến với các tông đồ trong nhà tiệc ly, thổi hơi trên các ông và phán: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
– Bí tích giải tội ban cho ta các ơn này: Một là tha tội ta đã phạm để giao hòa ta với Thiên Chúa và Hội Thánh. Hai là tha hình phạt muôn đời do các tội trọng gây ra và tha một phần các hình phạt tạm. Ba là ban sự bình an cho tâm hồn và gia tăng sức mạnh giúp ta chiến thắng ma quỷ cám dỗ.
– Bí tích giải tội rất cần cho người tín hữu, vì giúp họ nhận được ơn tha thứ các tội đã phạm đến Thiên Chúa, làm tổn thương phẩm giá con người và phá vỡ sự an bình thiêng liêng của Hội Thánh. Chỉ các giám mục và những linh mục có quyền giải tội mới được ban phép giải tội cho các hối nhân, nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Những ai đã phạm tội trọng thì muốn được tha tội cần phải biểu lộ lòng sám hối bằng việc thành thật xưng thú các tội đã phạm trong bí tích giải tội; còn ai chỉ mắc tội nhẹ thì không buộc phải xưng tội, nhưng nếu họ có lòng ăn năn mà xưng ra các tội nhẹ đã phạm thì sẽ nhận được nhiều ơn ích thiêng liêng.
– Muốn lãnh nhận bí tích giải tội ta cần làm bốn việc: Một là xét mình; Hai là ăn năn dốc lòng chừa; Ba là xưng tội; Bốn là đền tội. Trong bốn điều trên, ăn năn dốc lòng chừa là điều quan trọng nhất, thể hiện qua 3 việc sau như lời kinh Ăn năn tội: “Con dốc lòng chừa cải. Và nhờ ơn Chúa thì con sẽ lánh xa dịp tội cùng làm việc đền tội cho xứng”. Ngoài việc xưng tội, Hội Thánh dạy các tín hữu còn phải sám hối bằng một số việc lành là: ăn chay, cầu nguyện, làm việc chia sẻ bác ái và khiêm nhường phục vụ các người đau khổ bất hạnh hoặc bị bỏ rơi.
3) Một số suy nghĩ lệch lạc của con người ngày nay về bí tích giải tội:
Ngày nay một số khá đông các tín hữu không muốn vào tòa xưng tội riêng dựa vào các lý do như sau:
* Do gương xấu của một số vị chủ chăn: Những người này không muốn xưng tội vì cho rằng các chủ chăn cũng chỉ là những con người tầm thường với nhiều tội lỗi bất tòan.
Tuy nhiên, chính Đức Giêsu đã không nghĩ như vậy khi trao quyền tha tội cho các tông đồ vào chiều ngày phục sinh, dù các ông chỉ là những con người đầy sai lỗi khuyết điểm. Khi ban bí tích giải tội, các ông “cầm buộc và tháo cởi” không với tư cách cá nhân nhưng là người đại diện cho Chúa Giêsu, giống như tại tòa án các vị quan tòa nhân danh luật pháp để tuyên án cho các phạm nhân. Đàng khác, các hối nhân được ơn hóan cải hay không là do quyền năng Thánh Thần mà các tông đồ đã được Chúa Giêsu phục sinh trao ban như Tin mừng Gioan đã ghi lại như sau: “Nói xong, Chúa Giêsu thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
* Do hiểu chưa đúng về hiệu quả của bí tích giải tội: Có người nói: “Tôi thường đi xưng tội vào mỗi đầu tháng và lần nào tôi cũng chỉ xưng thú một số tội đã xưng đi xưng lại nhiều lần trước đó, nhưng không sao chừa được. Do đó xưng tội là việc làm thiếu hiệu quả nếu không muốn nói là vô ích.
Để nhìn rõ vấn đề, chúng ta hãy so sánh sức khỏe tâm linh với sức khỏe thể xác: Do di truyền, có lẽ ai trong chúng ta ít nhiều cũng mang một số bệnh khó chữa khỏi như: bệnh cao huyết áp đòi người bệnh phải uống thuốc hằng ngày, bệnh dị ứng nổi mề đay, bệnh “gút” gây đau nhức luôn phải uống thuốc giảm đau… Mỗi khi căn bệnh tái phát nặng hơn, chúng ta phải đến bác sĩ chuyên khoa điều trị và phải dùng một số loại thuốc giống nhau… Nhưng đâu có ai từ chối uống thuốc với lý do rồi bệnh sẽ tái lại?. Nếu ta không đi khám và không uống các thứ thuốc trị bệnh quen thuộc nói trên mới là điều sai lầm. Cũng như mỗi ngày chúng ta đều phải tắm rửa cho sạch, dù biết rằng đến mai cơ thể của mình sẽ lại bị dơ cần phải tắm lại… Về phạm vi tâm linh cũng vậy: Ai trong chúng ta cũng có một số thói hư rất khó chừa như: Dễ nổi nóng, hay nói xấu kẻ mình không ưa, ích kỷ tự ái cao, lười biếng làm việc đạo đức, uống rượu say sỉn, xem phim ảnh xấu rồi thủ dâm để tìm hưởng lạc bất chính… Dù biết sau một thời gian có thể ta sẽ tái phạm, nhưng ta vẫn cần đi xưng tội để đón nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa với hy vọng nhờ ý thức sự xấu xa của tội, quyết tâm xa lánh dịp tội, làm việc đền tội cân xứng… và nhất là nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta sẽ có điều kiện để dứt bỏ thói hư và nên hoàn thiện hơn.
* Do cách xét mình cẩu thả trước khi xưng tội: Có người chữa mình rằng: “Tôi xét mình mãi mà chẳng tìm ra tội gì mới cần xưng. Nhiều khi tôi phải cố tìm lại một “tội trọng cũ” để có tội mà xưng. Việc không tìm ra tội nào mới không chứng minh chúng ta là người thánh thiện, nhưng có thể do chúng ta đã hóa ra chai lỳ về mặt tâm linh, khi cho các việc làm sai trái của mình là không có tội. Thực ra mọi người chúng ta đều yếu hèn như thánh Phaolô đã phải thú nhận: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Những ai tưởng mình không có tội, thực ra là do họ đã xét mình cẩu thả và tự đánh lừa mình, như thánh Gioan đã viết: “Nếu chúng ta nói mình không có tội, là chúng ta đã tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1,8).
* Do chưa ý thức về tầm quan trọng của những điều thiếu sót: Kinh cáo mình có câu: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”. Tội chúng ta phạm có thể là tội cố tình vi phạm một điều luật cấm như dối trá, trộm cắp, ngọai tình, phá thai… hay tội bỏ không làm việc lẽ ra phải làm như: Bất hiếu với cha mẹ, làm ngơ trước người đau khổ cần trợ giúp… Trong Tin mừng, Đức Giêsu đã đề cập đến tội thiếu sót này như dụ ngôn ông nhà giàu đã làm ngơ không giúp đỡ anh Ladarô, một người nghèo khổ nằm trước cửa nhà ông ta (x Lc 16,19-31). Đến ngày tận thế, Vua Thẩm Phán Giêsu cũng sẽ tuyên phạt những kẻ đã nhắm mắt bỏ qua các việc lành như sau: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi không cho ăn; Ta khát các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ các ngươi chẳng đón tiếp; Ta mình trần các ngươi không cho đồ mặc; Ta ở tù các ngươi đã không viếng thăm …” (Mt 25,41-45).
Những tội thiếu sót này tưởng là tội nhẹ mà thực ra cũng có thể trở thành tội nặng nếu ta không có tình thương trong tâm hồn. Nó cũng đồng nghĩa với tội giết người như thánh Gioan viết: “Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1 Ga 3,14b-15).
4) Phải sám hối cụ thể thế nào trong Mùa Chay này ? :
Ngoài việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, mỗi người chúng ta cần dọn mình lãnh nhận bí tích hòa giải với Chúa. Nhưng điều quan trọng là cần xét mình để tìm ra mối tội đầu quan trọng nhất của mình để quyết tâm chừa cải, hơn là chỉ xưng các tội chung chung theo thói quen xưa nay. Nhất là cần ý thức về tình thương của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu, để sẵn lòng tha thứ lỗi lầm cho anh chị em đã xúc phạm đến mình. Cụ thể xét mình từ bản thân, đến quan hệ với người thân trong gia đình và đối với mọi người ta có dịp gặp gỡ tiếp xúc như sau:
– Đối với bản thân mỗi người: Để dễ dàng tha thứ, mỗi ngày cần dành ít phút xét mình trong giờ kinh tối gia đình, để ý thức về sự yếu đuối bất toàn của mình. Tại sao chúng ta lại đòi người khác phải hoàn hảo đang khi chính chúng ta còn nhiều sai sót? Hãy dọn mình xưng tội mỗi đầu tháng để thánh hóa bản thân và duy trì hạnh phúc gia đình. Hãy bỏ đi những đố kỵ ganh ghét, không chấp nhất những câu nói xúc phạm hay hành vi không tốt của người khác đối với mình, để tình mến Chúa yêu người luôn bùng cháy trong lòng mình.
– Đối với người thân trong gia đình: Một trong những lý do chính đưa đến đổ vỡ hạnh phúc và ly hôn nơi các gia đình hiện nay là nhiều đôi vợ chồng trẻ đã không dễ bỏ qua lỗi lầm cho nhau. Nên nhớ rằng chỉ sự tha thứ mới giúp hàn gắn tình cảm sứt mẻ và giúp gia đình sớm tìm lại bình an hạnh phúc. Đôi vợ chồng nên nhất trí với nhau: Mỗi khi có điều chi bất bình hay tranh cãi nhau thì cả hai đều phải mau mắn đi bước trước làm hòa như lời thánh Phaolô: “Anh em đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn. Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng! (Ep 4,26-27). Sau cơn giận, mỗi người hãy lập tức dâng một lời cầu xin Chúa giúp và ai chủ động mỉm cười bắt chuyện trước sẽ là người chiến thắng, vì đã thắng được tính tự ái cao của mình và thắng được ma quỷ cám dỗ. Đầu mỗi thánh lễ hãy nhớ lời Chúa Giêsu: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).
– Đối với tha nhân ngoài xã hội: Điều chúng ta cần làm ngay trong Mùa Chay này là: Mỗi ngày hãy xét mình để biết có ai đó đang bất hòa với mình và chủ động làm hòa với họ. Mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, cần lưu ý câu: “Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Mỗi ngày hãy tìm đọc các đoạn Tin Mừng về sự tha thứ, suy nghĩ về lời Chúa trách mắng tên đầy tớ độc ác đã không có lòng thương xót: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33). Cuối cùng hãy dâng một lời cầu để xin Chúa tha thứ lỗi lầm cho chúng ta với điều kiện chúng ta cũng sẵn lòng tha thứ lỗi lầm cho anh chị em đã xúc phạm đến chúng ta.
- NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊSU. Con rất sợ bị bắt quả tang đang phạm một tội nào đó nghiêm trọng. Nhưng lạy Chúa, có tội nào chúng con phạm mà Chúa lại chẳng thấy và không hay biết? Xin cho chúng con biết bỏ đi những mặt nạ giả dối, những việc đạo đức hình thức bề ngòai nhằm che đậy những tội ác trong tâm hồn chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ luôn sống tình yêu thương và trở nên những chứng nhân tình thương của Chúa trước mặt người đời.
– LẠY CHÚA. Nếu Chúa đã không lên án kẻ có tội, không chấp nhất những điều chúng con sai lỗi, thì xin cũng giúp chúng con tránh kết án tha nhân. Khi thấy anh chị em con sai lỗi, xin cho chúng con biết tự xét và tu sửa lỗi của mình trước đã, rồi mới đủ uy tín để giúp sửa lỗi của anh em con. Bấy giờ xin cho chúng con biết khôn ngoan để nói đúng lúc và đúng phương pháp hầu chu tòan bổn phận “Răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta…”, như kinh “Thương người” đã dạy.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
AM. Trần Bình An
Cuối năm 1894, đại úy quân đội Pháp Alfred Dreyfus, cựu sinh viên Trường Bách Khoa Paris, một người gốc Alsace Do Thái giáo, bị buộc tội đã để lộ cho người Đức một số tài liệu bí mật, bị kết án tù khổ sai chung thân về tội phản quốc và đày đi Đảo Quỷ thuộc Guyane. Vào lúc đó, các quan điểm của giới chính trị Pháp là hoàn toàn ác cảm với Dreyfus. Một ít người không tán đồng bản án, trước hết là người anh trai Mathieu, rồi đến gia đình Dreyfus, đã cố gắng chứng minh sự vô tội của ông, sau được hưởng ứng bởi nhà báo Bernard Lazare. Đồng thời, trung tá Georges Picquart, người chỉ đạo vụ phản gián, khẳng định vào tháng 3 năm 1896 rằng kẻ phản bội thực sự phải là thiếu tá Ferdinand Walsin Esterházy. Tuy nhiên, bộ tham mưu từ chối xem xét lại quyết định của mình và thuyên chuyển Picquart tới Bắc Phi.
Để thu hút sự chú ý về sự yếu ớt trong các bằng chứng chống lại Dreyfus, tháng 7 năm 1897 gia đình ông đã liên hệ với chủ tịch danh dự của Thượng viện Auguste Scheurer-Kestner, người đã thông cáo, sau đó ba tháng, ông đã chịu thuyết phục rằng Dreyfus vô tội, và cũng đã đồng thời thuyết phục Georges Clemenceau , một cựu nghị viên và nhà báo. Cùng tháng đó, Mathieu Dreyfus khiếu nại chống Walsin-Esterházy lên Bộ Chiến tranh. Khi phạm vi những người ủng hộ Dreyfus bắt đầu mở rộng, hai sự kiện xảy ra vào tháng Giêng năm 1898 làm cho vụ việc trở nên có quy mô quốc gia: Esterházy được tha bổng, dưới sự ủng hộ của những người bảo thủ và những người dân tộc chủ nghĩa; và Émile Zola đăng bài “Tôi buộc tội…!”(J’Accuse…!) biện hộ cho phe ủng hộ Dreyfus (dreyfusard) đã lôi kéo được rất nhiều nhà trí thức. Một quá trình chia cắt nước Pháp bắt đầu, điều còn kéo dài cho đến hết thế kỷ. Các cuộc bạo độngbài Do Thái bùng phát ở trên 20 thành phố nước Pháp, và người ta ghi nhận nhiều người đã thiệt mạng ở tỉnhAlger. Nền Cộng hòa bị chấn động, một số người thậm chí tin rằng nó đang lâm nguy và nỗ lực tìm cách chấm dứt vụ Dreyfus để vãn hồi sự ổn định.
Bất chấp mưu mô của quân đội muốn làm sự việc chìm xuống, bản án kết tội Dreyfus đầu tiên bị hủy bỏ bởi Tòa Thượng thẩm sau một cuộc điều tra kỹ lưỡng và một tòa án binh mới được thành lập ở Rennes năm 1899. Trái với mọi mong đợi, Dreyfus bị kết án một lần nữa, mười năm lao động khổ sai, dù sao, với những tình tiết giảm nhẹ. Kiệt sức với đợt đi đày 4 năm trời, Dreyfus đã chấp nhận lệnh đặc xá của Tổng thống Émile Loubet .
Phải đến năm 1906 sự vô tội của ông mới được thừa nhận chính thức thông qua một án quyết không chiếu xét của Tối cao Pháp viện. Được phục hồi danh dự, đại úy Dreyfus trở lại quân ngũ với quân hàm thiếu tá và tham gia vào Thế chiến I. Ông mất năm 1935. Những hậu quả của vụ bê bối này là không kể hết và động chạm tới mọi khía cạnh trong đời sống công chúng Pháp: chính trị (nó cống hiến thắng lợi cho nền cộng hòa và trở thành một thứ huyền thoại lập quốc (mythe fondateur) khi làm sống dậy chủ nghĩa dân tộc, quân sự, tôn giáo (nó đã kéo chậm lại cuộc cải cách Công giáo ở Pháp, cũng như sự dung hợp vào nền cộng hòa của những người Công giáo), xã hội, tư pháp, truyền thông, ngoại giao và văn hóa. Chính trong thời kỳ này mà thuật ngữ giới trí thức (intellectuel) đã ra đời. Vụ việc cũng có tác động tới quốc tế với phong trào phục quốc Do Thái thông qua một trong những người sáng lập, Théodore Herzl, và bởi những cảm xúc do những cuộc biểu tình bài Do Thái gây nên trong cộng đồng người Do Thái ở Tây và Trung Âu. (Wikipedia)
Cuộc xét xử đại uý Alfred Dreyfus bị khuynh đảo bởi chính trị, dân tộc và tôn giáo, nên cán cân công lý sai lệch, thay trắng đổi đen. Đến nay vẫn còn tiếp diễn biết bao vụ án oan sai khắp nơi, vì vị thẩm phản thiếu sáng suốt, hoặc bị động do áp lực của nhà cầm quyền, hay phe phái quyền lực nào đó.
Chúa nhật V Mùa Chay hôm nay, Tin Mừng thánh Gioan giới thiệu Đức Giêsu như một thẩm phán siêu phàm. Cương trực, tự chủ, sáng suốt, Người thoát khỏi áp lực quần chúng, sức ép của lãnh đạo tôn giáo, các kinh sư và biệt phái, để xét xử công minh, chính trực và nhân ái. Mặc dù các kinh sư và biệt phái cố tình gài bẫy Người vào cuộc xét xử tiến thoái lưỡng nan, nhưng Người đã khéo léo, dễ dàng hoá giải theo đạo yêu thương của Thiên Chúa. Hơn nữa, Người vốn từ bi, nhân hậu, tràn đầy Lòng Thương Xót.
Tình thương khoan dung
Trước câu hỏi khá sỗ sàng, không cần giấu diếm dã tâm:“Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy,Thầy dạy sao?” Lòng Thương Xót của Đức Giêsu được dịp công khai biểu lộ. “Người cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất.” Không muốn tỏ ra bất bình, phẫn nộ khi nhìn thấy những gương mặt đểu cáng, giả hình, xảo trá, đang hoan hỉ, đắc thắng, cũng chẳng muốn biểu lộ nỗi xót xa người thiếu phụ đang lẩy bẩy, run rẩy, khiếp hãi, hổ thẹn, tủi nhục. Người trầm ngâm cúi đầu, thinh lặng, với tấm lòng rộng rãi chan chứa bao dung, âm thầm thông cảm, nâng đỡ và che chở tội nhân. Người cũng khoan dung, nhẫn nhục buông xả thái độ hằn học, khiêu khích, sinh sự của nguyên cáo.
Không cần thẩm tra thiếu phụ, cũng chẳng vội trả lời các kinh sư biệt phái, đang đốc thúc dồn Người vào cái bẫy quá ư lộ liễu. Người bình thản làm nguội đi những cái đầu cao ngạo, nôn nóng, quá khích của “bên thắng cuộc.” Người im lặng để chia sẻ nỗi đau đớn, nhục nhã, lo sợ, hối cải muộn màng của tội nhân. Người nín thinh, vì xót xa thấu hiểu lòng dạ rắn độc của các kinh sư và biệt phái, đang mượn tội nhân làm bình phong hòng đấu tố Người. Lòng bao dung vĩ đại đã hoá giải tất cả mưu mô ám muội của họ.
Tình thương thức tỉnh
Thay vì đối chất làm cho ra lẽ sự đối xử bất công, phiến diện, thành kiến với phụ nữ phạm tội, tại sao không bắt cả bị cáo nam đồng phạm, tại sao không tố giác với Hội đồng kỳ mục, với thượng tế, hay với công quyền, Người vẫn cúi đầu im lặng cho mọi người cùng noi theo, cúi đầu nhìn xuống, nhìn vào tâm can, nhìn vào tận đáy lòng hoen ố, để chân thành tự kiểm và tự vấn.
“Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi.” Biết bao lần chính họ cũng đã lén lút gian dâm, hủ hoá, ngoại tình, mà còn may chưa bị lộ, cùng bao nhiêu lần ham muốn dâm tà mà chưa thành. “Ðồ giả hình, hãy liệu lấy cái xà khỏi mắt ngươi trước đã, đoạn ngươi sẽ trông rõ mà kéo cái dằm khỏi mắt anh em ngươi.” (Mt 7, 5)
Đức Giêsu còn gay gắt cảnh báo, không được kết án tha nhân vì hậu quả khôn lường: “Đứng xét đoán, đề khỏi bị đoán xét. Các ngươi xét đoán cách nào thì sẽ bị đoán xét cách ấy, và các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong cho các ngươi bằng đấu ấy.” (Mt 7, 1-2)
Tình thương tha thứ
Đức Giêsu lại cúi đầu, hí hoáy vẽ dưới đất. Bỗng dưng sự lạ nhỡn tiền xảy ra. “Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó.” Các nguyên cáo mới hớn hở, hùng hổ, vênh váo, tự đắc, bất ngờ trở thành bị cáo, cúi đầu hổ thẹn, đành buông rơi hòn đá, lẳng lặng ra về. Bấy giờ Đức Giêsu mới hỏi đến tội nhân: “Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?” Nàng đáp: “Thưa Thầy, không có ai.” Đức Giêsu bảo: “Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.”
Các kinh sư và biệt phái đều cực lực, đồng loạt đứng dậy kết án thiếu phụ phạm tội, thì Đức Giêsu khoan dung, ngồi xuống, thinh lặng, bỏ ngoài tai. Họ đòi ném đá chị, thì Đức Giêsu thản nhiên vẽ trên đất cát, coi như vết nhơ tội lỗi sẽ bị xoá nhoà vì tình thương thứ tha. Họ vẫn chưa buông tha chị, thì Đức Giêsu chẳng phản bác, cũng chẳng đồng tình, chỉ kêu gọi họ thức tỉnh, tự vấn lương tâm, yêu cầu ai trong sạch hãy ra tay. Vị Thẩm Phán siêu phàm xét xử công khai, nghiêm minh, đạt lý thấu tình, kết thúc phiên toà hoàn toàn bất ngờ và có hậu. Tội nhân không phải chết, nhưng được tái sinh nhờ vào Lòng Thương Xót vô biên của Chúa.
“Con đau đớn vì thấy nhiều phản bội với Chúa: tốt, nhưng chưa đủ. Phải làm như Mađelêna “được tha nhiều vì đã yêu nhiều”; phải làm như thánh Gioan: trốn bỏ Chúa trong vuờn Giêtsimani, nhưng trở lại đứng bên thánh giá, dốc quyết hằng yêu mến bằng hành động.” (Đường Hy Vọng, số 890)
Lạy Chúa Giêsu, sau bao nhiêu năm bon chen, đua đòi với đời, chúng con cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, đánh mất niềm tin, lương tâm trong sáng, tâm hồn trong sạch, trở nên chai lỳ với tội lỗi. Kính xin Chúa khoan dung thương xót, thức tỉnh chúng con ăn năn, sám hối, để được Chúa thương yêu thứ tha, được bình an và hạnh phúc trở về xum vầy trong nhà Cha Nhân Từ.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con khoan dung với mọi người, để được Chúa thương yêu. Xin Mẹ dạy chúng con biết sống khiêm nhường, để nhận thức được bản thân phàm hèn, tội lỗi, yếu đuối mỏng dòn, hầu thông cảm với tha nhân sai phạm, mà nâng đỡ, giúp nhau đổi mới, cùng trông cậy vào Lòng Thương Xót Chúa thứ tha, an ủi và chúc lành. Amen.
.
Nam Phong
Chỉ còn một tuần nữa là chúng ta bước vào tuần Thương Khó. Chúa Giêsu sẽ chết vì âm mưu thâm độc của người Do thái. Hôm nay, Giáo hội hé mở cho ta thấy tâm địa của những kẻ chủ mưu giết Chúa Giêsu. Họ muốn gài bẫy Ngài. Sách luật ghi thế này: “Người nào ngoại tình với người đàn bà đã có chồng tất phải chết, cả gian phu lẫn dâm phụ. Các ngươi sẽ điệu cả hai ra nơi cổng thành mà ném đá cho chúng chết đi. Chính các chứng nhân sẽ ra tay trước hết để xử tử nó, và toàn dân sẽ ra tay sau”.
Luật đã ghi như thế nhưng các ký lục và biệt phái không muốn thi hành án ngay. Họ muốn kéo Chúa Giêsu vào cuộc để hạ nhục Ngài, vì Chúa Giêsu thường bênh vực những người tội lỗi. Tâm địa ác độc nhưng mồm miệng họ rất khéo. Họ không xưng hô “ông, tôi” như thường ngày, hôm nay họ “thưa thầy” đàng hoàng tử tế: “Thưa Thầy, phụ nữ ngoại tình này bị bắt tại trận. Trong lề luật, Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà như thế. Vậy Thầy dạy sao?”.
Chúa bảo ném đá ư, thế thì còn đâu là những lời dạy yêu thương của Ngài. Bấy lâu nay những kẻ tội lỗi hy vọng được Ngài bênh đỡ cứu giúp, thì nay Ngài bán đứng họ. Chúa bảo tha thứ ư, nói thế là Ngài công khai chống lại lề luật, chống lại Môsê, tội cũng đáng ném đá ngay tức khắc.
Các ký lục và biệt phái thay vì buồn sầu khi thấy trong cộng đoàn dân Chúa có người phụ nữ mắc tội, thì họ lại hí hửng vui mừng vì sắp hại được Đức Giêsu.
“Trong các ngươi, ai vô tội thì ném đá trước đi”, câu trả lời của Chúa Giêsu đã đưa mọi người hiện diện vào một tình huống oái ăm mà lề luật đã không hề tính đến. “Trong các ngươi, ai vô tội thì ném đá trước đi”, câu nói đánh thẳng vào ruột gan các ký lục và biệt phái lúc ấy. Các bậc sống lâu, lão làng đã lặng lẽ bỏ đi trước, có lẽ vì thấy mình lắm tội hơn đám trẻ. “Trong các ngươi, ai vô tội thì ném đá trước đi”, câu nói của Chúa Giêsu vẫn cứ là câu hỏi cho chính chúng ta bây giờ. Ngài mời gọi chúng ta hãy nhìn lại chính mình.
Có cơ hội tiếp xúc với những người đạo đức thật, những lương tâm ngay lành… ta mới hiểu và cảm nhận được thế nào là cảm thức về tội. Không ít những ông bà cụ bị tai biến, bị những vấn đề đặc biệt về sức khỏe… nhưng luôn áy náy lo sợ vì mình đã bỏ lễ cả, không dự được lễ trọng. Có những thanh niên vì nhập ngũ mà bỏ nhiều tháng Chúa Nhật; Hay các chị em phụ nữ phải sinh con, nuôi bệnh, hoặc các người làm việc ở những môi trường không có điều kiện dự lễ… vẫn rất sốt sắng vui vẻ thú tội với linh mục. Điểm qua một vài thực tế, để thấy rằng lòng đạo và lương tâm ngay lành của anh chị em tín hữu vẫn rất tốt.
Thế nhưng một số bộ phận khác, có thể là nghiêm chỉnh chấp hành việc đi lễ Chúa nhật đấy… nhưng đang khi đi lễ thì nói chuyện, hút thuốc, nhai kẹo cao su mà vẫn chẳng thấy tội tình gì. Có lắm gia đình chồng vợ vẫn trung thành với nhau, nhưng trong đời sống hằng ngày thì chồng hành hạ vợ, vợ đay nghiến chồng. Đối với cha mẹ già thì để họ phải cô đơn, túng thiếu. Với các con cái thì phó mặc cho thầy cô, cho cha xứ, cho giáo lý viên… Thế mà lương tâm vẫn bình an và thản nhiên phê phán người khác.
Báo Tuổi Trẻ Cười có lần đã cười các vị lãnh đạo làm lớn mà mất phẩm chất bằng câu chuyện thế này: Cái gì càng lớn thì càng nhỏ, mà cái gì càng nhỏ thì lại càng lớn. Ví dụ ông lớn thì đi xe nhỏ, cỡ 4 chỗ, còn người nhỏ thì đi xe lớn, cỡ 50 chỗ hay nhiều hơn. Ông lớn thì có vợ nhỏ, còn người nhỏ thì chỉ dám có vợ lớn thôi. Ông lớn thì có nhà nhỏ (biệt thự, villa), còn người nhỏ thì có nhà lớn, lớn như khu tập thể hay chung cư chẳng hạn. Ông lớn thì ở khách sạn nhỏ, có vài sao thôi, còn người nhỏ thì ở khách sạn lớn, có hàng nghìn sao ngoài trời…
Cứ theo Bài Tin mừng hôm nay, thì chắc là ta cần phải bổ sung thêm: Ông lớn thì có tội nhỏ, còn người nhỏ thì có tội lớn. Các ký lục, biệt phái là các bậc cha thầy trong dân chỉ thấy tội mình bé xíu như không có vậy, trái lại họ thấy tội của người thấp cổ bé miệng như người phụ nữ ngoại tình kia thì thật lớn, lớn đến nỗi phải ném đá cho chết đi. Ấy sự thường là thế, tội con nít thì người lớn thấy rõ lắm, nhưng tội của người lớn thi con nít không được phép thấy! Trong gia đình, chuyện lặt vặt của con cái thì cha mẹ xem xét phán đoán kỹ càng, còn chuyện lớn của Cha mẹ thì họ chẳng bao giờ để ý đến. Lắm khi ta cũng tự cười mình.
Tội giáo dân thì các cha các thầy rất quan tâm để ý; Lỗi của bề dưới hay người nhỏ thì bề trên và người lớn in trí xét đoán, phê bình. Tội của giáo dân thì cần phanh phui, tội của lãnh đạo giáo dân thì cần che đậy. Sự đời xưa nay vẫn thế, người ta vốn không thích đấm ngực mình, mà chỉ thích đấm ngực người khác.
“Trong các ngươi, ai vô tội thì ném đá trước đi”, câu nói khiến chúng ta nhìn lại chính mình. Nhìn cho kỹ, lắm khi ta lại thấy mình tội lỗi hơn nhiều người khác. Con cái hay bỏ đi chơi, không muốn ở nhà, nên bị cha mẹ chửi, la rầy. Có ai biết đâu rằng nó không muốn về nhà, vì về thì cứ phải chứng kiến cảnh bố mẹ hục hặc, cắn xé nhau. Thế thì thử hỏi, bố mẹ với con cái, ai tội hơn ai?. Các học sinh vốn thường bị mắng là quay cóp, gian lận thi cử, vậy so với các giáo viên nhận quà, sửa điểm thi, thì ai tội hơn ai?.
“Trong các ngươi, ai vô tội thì ném đá trước đi”, khi nghe Chúa Giêsu nói câu đó, mọi người lần lượt lẳng lặng bỏ đi, chẳng còn hung hổ như trước nữa. Trước đó họ là quan tòa lên án người phụ nữ, bây giờ họ cũng là quan tòa, nhưng là xử án chính mình, vì ai trong họ cũng có tội cả. Chỉ còn lại Chúa Giêsu và tội nhân. Chúa Giêsu không bỏ đi vì Ngài vô tội.
Chỉ có Chúa Giêsu mới đủ tư cách cầm hòn đá lên và ném trước tiên, nhưng Ngài không muốn làm điều đó. Ngài sắp chết thảm thương trên thập giá để cứu những người tội lỗi như người phụ nữ này, thì làm sao Ngài lại ném đá chị được.
Chỉ có Chúa Giêsu mới đủ tư cách là quan tòa và là quan tòa duy nhất trong sạch. Nhưng Ngài là một chánh án quá nhân từ: “Ta cũng không xử tội chị đâu”. Một chánh án không đẩy tội nhân vào đường cùng, nhưng mở cho họ một lối đi lên: “Chị về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Chúng ta hãy tưởng tượng ta đoạn kết của bài Tin mừng hôm nay. Các ký lục, biệt phái ra về mà tâm hồn trĩu nặng. Họ mang trong lòng sự chai đá của họ, mang những tội lỗi không tìm được ơn tha thứ. Còn người phụ nữ tội lỗi kia cũng ra về, nhưng trong lòng rộn rã một niềm vui, bởi chị đã gặp được Đấng Nhân Từ, Đấng không nhìn đến tội lỗi của chị, Đấng cứu chị khỏi chết và mở ra cho chị một tương lai khác: “Từ nay đừng phạm tội nữa”. Tất cả chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, chúng ta có muốn đến với Chúa để được hưởng lòng nhân từ, xót thương của Ngài không?.
.
Huệ Minh
Người Do Thái là những kẻ xác tín rằng con người chỉ có thể được coi là công chính nếu tuân giữ trọn vẹn luật Môsê.
Thật ra, nếu họ là những người sống công chính theo lề luật, thì điều đó tự nó không phải là một chuyện xấu, mà còn tốt nữa là đàng khác. Nhưng cái làm cho họ trở thành những kẻ xấu và thậm chí có thể là những kẻ ác, đó là vì họ vênh vang tự đắc về cái thành tích giữ luật của mình, và nhất là tự biến mình thành những “cảnh sát” của đạo, những loại chó săn, chuyên môn đi rình mò, đánh hơi để tố cáo những người phạm luật. Và rồi, với lòng chai dạ đá trước anh chị em đồng loại để rồi họ không ngại nhân danh lề luật, nhân danh lòng nhiệt thành bảo vệ luật pháp mà lên án và ném đá những kẻ lỗi luật.
Câu chuyện người đàn bà ngoại tình hôm nay thật là tiêu biểu cho cái thái độ đạo đức giả của những tín đồ Do Thái cuồng tín và cái ác ý của họ.
Thực chất, trong câu chuyện này họ không chỉ nhằm tố cáo những phụ nữ yếu đuối đáng thương, nhưng chủ yếu là giăng bẫy để Chúa Giêsu vấp phạm để loại trừ Chúa Giêsu. Họ chỉ lấy chuyện tố cáo người phụ nữ ngoại tình để gài bẫy bắt lỗi chính Chúa Giêsu và như vậy để có bằng chứng tố cáo Ngài.
Chúa Giêsu không thể nói ngược với luật Môsê, và cũng không thể nói ngược với trái tim của mình và chính Ngài đã làm sai lời dạy của mình là “Các con hãy yêu thương nhau”.. Ngài cúi xuống, lấy tay vẽ nguệch ngoạc trên đất. Có vẻ như Ngài thờ ơ, không muốn can dự vào hay Ngài đang suy nghĩ cho ra câu trả lời thích hợp. Một cái bẫy vừa tinh vi vừa nham hiểm.
Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn ngược Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi”.
Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.
Những giây phút thinh lặng khi Chúa Giêsu cúi mình viết trên cát là lúc để cho mỗi người trong cái đám đông hung hãn ấy nhìn sâu vào tận đáy thẳm tâm hồn của mình. Ở đó con người sẽ nhận ra thân phận tội lỗi xấu xa của mình và đồng thời cảm nhận được tình yêu tha thứ của Chúa.
Nhìn lại nội tâm mình trong thinh lặng, những con người hăm hở kết tội người khác giờ đây dần dần nhận ra tội lỗi mình, có khi còn nhiều hơn, còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của người phụ nữ. Thế là các viên đá trên tay lần lượt rơi xuống, họ xấu hổ lặng lẽ rút lui, để lại một mình Chúa Giêsu và người thiếu phụ. Hoá ra rốt cuộc ai cũng nhận ra mình là người có tội, mà đã là người có tội thì sao không kết án mình trước? Sao lại đang tâm kết án người khác cũng tội lỗi như mình!
Thật thế, không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tội ngoại tình lén lút chẳng ai hay.
Khi tố giác người khác, người ta thường quên tội của mình. Không thấy cái xà ở mình mà lại thấy cái rác nơi người khác.
Các kinh sư và pharisêu đã khiêm tốn xét mình. Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội. Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước. Chúng ta trân trọng thái độ chân thành của họ. Họ ra đi, để lại hai người mà họ tố cáo và định tố cáo. Cuối cùng chỉ còn lại người đáng thương và chính Tình Thương.
Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, giấu giếm những hành vi tội lỗi để không ai bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.
Có một điều trớ trêu là khi người ta thấy một ai đó bị bắt quả tang phạm tội, họ không ngại ngùng vung hòn đá ra ném vào người đó. Có lẽ để gián tiếp minh chứng mình vô tội chăng? Người ta dễ dàng bỏ qua cho mình, nhưng lại không buông tha cho kẻ khác. Tuy nhiên, Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân: “Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!”.
Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.
Với lời yêu thương tha thứ của Chúa Giêsu, ta chợt nhận ra rằng tình yêu và sự tha thứ của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu, ta hiểu rằng con đáng quý trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương lai, không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu, ta yên tâm đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương lai mới, bước đi trong tình yêu thương và niềm tin tưởng của Thiên Chúa. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu, ta hiểu và nhận ra rằng lòng thương xót của Chúa là vô biên. Chúa Giêsu đã không lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không lên án những người tố cáo chị.
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi chúng ta dù cho tội đó nặng đến độ phải tử hình như tội ngoại tình nơi anh em Do Thái ngày xưa.
Lòng thương xót của Chúa hải hà trên vết nhơ của tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu trong trang Tin Mừng so với thái độ của các vị luật sĩ và biệt phái cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa mênh mông, bao la hơn tâm hồn con người thế nào, như đại dương với các ao tù nước đọng: một bên thì bình tĩnh thản nhiên, nhẹ nhàng đón nhận cục đá lớn ném xuống, còn một bên sôi nổi sùng sục và hỗn loạn trước cũng một biến cố ấy. Thiên Chúa vẫn đối xử với chúng ta như thế, không phải để ta coi thường tội lỗi, mà là để ta, một khi đối diện với lòng nhân lành của Chúa, sẽ hoán cải mà trở nên tốt hơn.
Chúa Giêsu, Đấng vô tội, chính Ngài đã từ chối không ném viên đá đầu tiên hoặc viên đá cuối cùng, nhưng lời chấp nhận của Ngài đã được gắn lại lệnh truyền: “Chị hãy về và đừng phạm tội nữa”. Có nghĩa là: “Con hãy về đi và từ bỏ cuộc sống tội lỗi của con”. Những kẻ tố cáo, những kẻ sẵn sàng ném đá kia thực ra đã có thể kết liễu cuộc sống của người thiếu phụ nầy, nhưng trái lại phần Đức Giêsu, Ngài đã ban tặng cho chị ta một cuộc sống mới, một sự bắt đầu hoàn toàn mới mẻ: “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Ngày nay, Ngài cũng cư xử đối với nhân loại tội lỗi và đối với mỗi người chúng ta đúng như Ngài đã đối xử với người thiếu phụ ngoại tình nầy. Trên thánh giá, Ngài ban ơn tha thứ cho tất cả và cùng với muôn triệu người được cứu thoát, Ngài tạo nên một dân mới. Một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn vào cõi lòng mình vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa để tự nhận ra mình là kẻ tội lỗi, hầu lãnh nhận ơn tha thứ và từ nay đừng tái phạm nữa.
Xin cho mỗi người chúng ta cảm nếm được hồng ân tha thứ của Chúa để ta cũng biết tha thứ và thương cảm anh chị em đồng loại như Chúa đã tha thứ và thương cảm mỗi người chúng ta.
.
Dã Quỳ
Mùa Chay là thời gian của hồng ân, thời gian thuận tiện để thay đổi cõi lòng và để trở về với Thiên Chúa. Xuyên suốt các bài đọc Sách Thánh và Tin Mừng trong Mùa Chay, Lời Chúa tha thiết mời gọi chúng ta biết nhìn vào tâm hồn và vào đời sống để nhận ra lỗi lầm và để ăn năn sám hối, đón nhận lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã dạy dỗ và bày tỏ lòng thương xót bởi chính Người là Đấng xót thương. Thế mà, những kinh sư và Pharisiêu đã than trách “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.”(Lc 15,2) Và đây là một điều khiến họ bực tức tìm mọi cách hại Chúa. Họ dồn Chúa vào đường cùng khi đưa người phụ nữ ngoại tình bị kết án đến trước Chúa. Luật Môsê cho phép ném đá, còn Chúa Giêsu thì thế nào? Bản án đầu tiên là của người phụ nữ nhưng họ cũng dành sẵn bán án thứ hai cho Chúa Giêsu. Họ chắc chắn sẽ đặt Người vào trong sự mẫu thuẫn với luật Môsê và đạt ý định tố cáo Người.
Chúa Giêsu ở trong một tình thế tiến thoái lưỡng nan: Chọn trung thành với Luật hay Lòng Thương Xót? Chúa đã nói: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê…Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.”(Mt 5,17) Cuối cùng, Người trả lời họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.”(Ga 8,7) Những lời này đã khuấy động lương tâm của những kẻ tố cáo và họ rút lui từng người một. Chúa Giêsu không xét xử họ nhưng Người mở cho họ một lối đi của lòng thương xót, Người dẫn họ đi trở vào trong chính họ. Họ chỉ nhìn thấy người phụ nữ có tội, Chúa cho họ biết nhìn thấy tình trạng tâm hồn của chính họ. Họ chỉ biết kết án người khác, Chúa giúp họ biết kết án chính họ. Vì đã là con người, không ai tránh khỏi lầm lỗi, sai phạm trong cuộc sống và chắc chắn không ai vô tội.
Chúa Giêsu đã khẳng định:”Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.”( Lc 5,32) Người biết rõ con người chúng ta yếu hèn, tội lỗi và không ai công chính ngoài một mình Người. Thế nên, Người đặt cái nhìn nhân hậu trên người phụ nữ đã bị sỉ nhục và Người nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu!”( Ga 8,11) Đây là lối sư phạm tuyệt vời của Chúa Giêsu vì Người biết rằng tình yêu thách thức tình yêu, lòng nhân hậu thì tốt hơn hình phạt. Chúa luôn mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại chính mình, ý thức rằng tất cả chúng ta đều là tội nhân trước Thiên Chúa là Cha nhân hậu, xót thương, kiên nhẫn và hằng tha thứ cho chúng ta.
Đừng tức giận những kinh sư và Pharisiêu, cũng không lên án người phụ nữ này, bởi vì họ là phản chiếu tâm hồn tội lỗi của chính chúng ta. Hãy cậy trông vào lòng nhân hậu của Chúa và thành tâm trở về với Người, chúng ta sẽ được giải thoát khỏi những nỗi kinh hoàng và tội lỗi. Vì Chúa cũng đang nói với ta “Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8,11b) Xin cho chúng ta luôn cảm nhận được lòng thương xót của Chúa, bỏ lại quá khứ lỗi lầm và bước vào con đường tương lai mới với lòng tin tưởng vào tình yêu và ơn tha thứ của Chúa. Rồi đến lượt chúng ta, khi đã lãnh nhận muôn vàn ân huệ của Lòng Thương Xót Chúa, chúng ta cũng trở nên lòng thương xót như Cha chúng ta, phải tỏ lòng thương cảm và tha thứ cho anh chị em mình như Chúa đã hết lòng nhân hậu tha thứ cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian không phải để xét xử nhưng là để cứu độ nhân loại. Chúng con cảm tạ tình yêu xót thương vô biên của Chúa. Xin giúp chúng con biết nhìn nhận những nỗi yếu hèn của mình và tin tưởng trở về với Chúa. Amen.
.
CAN ĐẢM NHÌN VÀO MÌNH, ĐỪNG LÊN ÁN NGƯỜI
Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
Vì muốn nối liền chủ đề nghị lực, ý chí cần cho việc ăn năn hối cải, mà chúng ta đang suy niệm từ đầu mùa Chay đến nay, tôi mời anh chị em cùng tôi chia sẻ một gợi ý nằm trong chủ đề này: “Can đảm nhìn vào bản thân, chứ đừng lên án người khác”.
Nhìn vào bản thân, để nhận ra mình tốt hay xấu. Tốt đến mức nào, và xấu ra làm sao? Can đảm tự nhận ra mình, nhận ra nội tâm của mình, đó chính là sự can đảm của nghị lực, của ý chí mà Thiên Chúa ban cho ta.
Hãy nhớ rằng, dù ta có trở về, có ý chí, có nghị lực, nhờ đó hoán cải đời sống của mình, thì tất cả những điều đó đều do ơn Chúa ban. Ta là người cộng tác với ơn Chúa bằng chính nghị lực của bản thân mình, quyết tâm trở về cùng Chúa. Trước hết, tôi muốn nhìn lại những gì đã suy niệm trong các Chúa nhật vừa qua của mùa Chay này:
- Chúa nhật thứ I mùa Chay, dựa vào Tin Mừng về việc Chúa thắng cám dỗ, tôi xin anh chị em hãy dùng nghị lực và ý chí của mình để chống trả cám dỗ. Nếu vì yếu đuối mà lỡ lầm sa ngã, hãy mau chóng can đảm trở về với Chúa.
- Chúa nhật II mùa Chay, dựa vào câu chuyện Kinh Thánh kể về Tổ phụ Abraham và việc Chúa biến hình trên núi, tôi xin anh chị em noi gương tổ phụ Abraham và các môn đệ của Chúa Giêsu mà vượt qua đau khổ, vượt qua bất hạnh của cuộc đời để giữ vững đức tin của mình.
- Chúa nhật III mùa Chay, tôi dựa vào lời Chúa Giêsu: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị hủy diệt”, mời gọi anh chị em tự tin vào bản thân để tạo ra nghị lực mà trở về với Thiên Chúa.
- Chúa nhật tuần rồi, Chúa nhật IV mùa Chay, Tôi mời gọi tất cả chúng ta “Hãy cậy dựa vào lòng thương xót của Chúa mà trở về với Người”. Lời mời gọi này dựa vào dụ ngôn “Người con hoang đàng trở về”.
- Hôm nay tôi muốn dựa vào câu nói của Chúa Giêsu: “Ai sạch tội, hãy ném đá chị này đi”, tổng kết chủ đề ý chí và nghị lực bằng một chủ đề khác: “Hãy can đảm nhìn vào chính bản thân mình, chứ đừng lên án người khác”, để tuần sau, sống tuần Thánh, ta tưởng niệm Chúa Giêsu chết và phục sinh thật long trọng và ý nghĩa ngay trong tâm hồn của mình.
Tin Mừng kể, Người ta mang đến cho Chúa một người phụ nữ ngoại tình. Chiếu theo luật dạy, họ cứ việc ném đá, không cần Chúa làm “trọng tài”. Nhưng họ dẫn chị đến với Chúa không phải vì tôn trọng, kíng nể, hay biết Chúa là Chúa nên nhường quyền xét xử cho Người, mà chỉ vì muốn thử Chúa, muốn gài bẫy Chúa, muốn xem Chúa xử lý ra sao để bắt bí Chúa. Độc ác hơn: có chứng cớ mà hãm hại Chúa. vì nếu Chúa Giêsu tuyên bố tha thứ cho chị, Người sẽ bị kết tội là vi phạm lề luật, đi ngược lại, thậm chí chống lại lề luật tôn giáo. Nhưng nếu chiếu theo luật mà xét xử, Chúa sẽ phải ra lệnh ném đá chị. Như thế Chúa chẳng hơn gì lề luật, xem ra Người cũng độc ác như những gì luật quy định. Cả hai trường hợp, Chúa đều rơi vào bẫy của họ.
Nhưng sự khôn ngoan của Thiên Chúa không chỉ đánh gục cái mà con người gọi là khôn ngoan của mình, mà còn đánh gục cả lòng kiêu ngạo, chất chứa toàn hận thù, ganh ghét và độc ác của con người: “Ai sạch tội, hãy ném đá chị này đi”.
Có ai sạch tội? Nên có ai dám cầm đá nào ném vào chị, dù là một cục đá nhỏ nhất. Không những không dám ném mà còn bẽ mặt. Bẽ mặt đến mức phải rút lui từng người một, bắt đầu từ những người, không phải trẻ, nhưng là những cụ ông, cụ bà, những người già nhất, có bề dày của thời gian phạm tội, rồi mới đến trẻ dần. Sau cùng chẳng còn ai dù trẻ hay già. Rõ ràng, chỉ một lời nói nhẹ nhàng, Chúa Giêsu đánh gục lòng kiêu ngạo của con người.
Chính lòng đầy kiêu ngạo, những người Dothái xúm nhau kết án chị phụ nữ kia. Bởi kiêu ngạo, họ cũng chẳng thấy mình, chẳng biết nhìn vào bản thân, vì thế chẳng bao giờ nhận ra con người thật của họ. Ai biết được trong đám người hùa nhau đòi kết án chị, có bao nhiêu kẻ phạm cái tội giống như chị, có khi còn nặng hơn, nhưng khéo che đậy, không ai phát hiện, vì thế, vẫn tỉnh bơ lên án chị, làm như mình vô tội lắm.
Nhìn lại và đối chiếu hai thái độ: một bên là Chúa Giêsu, bên kia là những kẻ lên án người khác, chúng ta nhận ra một mâu thuẫn lớn, lớn lắm, lớn vô cùng: Chỉ có mỗi một mình Thiên Chúa là Đấng vô tội, và Chúa Giêsu chẳng biết phạm tội là gì, lại tha thứ một cách quá dễ dàng. Chỉ có mỗi một mình Thiên Chúa mới có quyền kết án tội nhân, thì Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa lại tha thứ một cách quá nhanh chóng, tha thứ vô điều kiện.
Còn con người với nhau, đầy khiếm khuyết, vô vàn lỗi lầm, cũng chẳng bao giờ được quyền xét đoán ai, chẳng bao giờ được quyền kết án ai, lại cứ tìm cái xấu của người khác để mà kết án, trị tội nhau.
Còn chúng ta, anh chị em và tôi thì sao? Chắc cũng không khác gì những người Dothái khi xưa. Nhiều lần mình đã xét đoán, đã lên án anh chị em xung quanh, nhưng bản thân chẳng tốt lành gì. Lắm lúc còn lỗi nặng hơn anh chị em nữa là đàng khác.
Hãy nhìn vào chính bản thân mình trước, chứ đừng kết án anh chị em của mình. Nhìn vào chính mình để mà ăn năn hối cải, để khám phá những lỗi lầm của mình mà chừa bỏ và trở về với Chúa.
Nhìn nhận mình tội lỗi, thấp hèn để cải hóa chính cuộc đời mình, là lòng can đảm, là nghị lực và ý chí của những người thành tâm trở về với Chúa. Chúng ta hãy nhớ điều này là: Hãy xé lòng, đừng xé áo. Hãy xét mình, đừng nhìn anh em!
Chúa nhật tuần sau sẽ là lễ Lá, bắt đầu tuần Thánh. Tin rằng xuyên suốt mùa Chay, cùng nhau suy nghĩ về một chủ đề duy nhất, là ý chí và nghị lực, sẽ giúp mỗi người đón nhận mầu nhiệm đau khổ và phục sinh của Chúa cách thánh thiện và sốt sắng hơn. Cũng ước mong rằng, ý chí và nghị lực sẽ giúp ta trở về với Chúa cách cụ thể qua bí tích giải tội, nhờ đó ta đón nhận sức sống mới của Chúa Phục Sinh.
.