Thiên Chúa chúc lành cho hôn nhân và muốn là Phu Quân của từng người

71

2Phép lạ hoá nước thành rượu tại tiệc cuới làng Cana là một dấu chỉ Thiên Chúa chúc lành cho hôn nhân. Tình yêu giữa một người nam và một người nữ là một con đường tốt giúp sống Tin Mừng, nghĩa là bước đi trên lộ trình của sự thánh thiện. Nhưng mỗi một người đều được mời gọi gặp gỡ Chúa như Phu Quân của cuộc đời mình.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với 50.000 tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật hôm qua tại quảng trường thánh Phêrô.

Mở đầu bài huấn dụ ĐTC đã đề cập đến trình thuật phép lạ biến nước thành rượu ngon trong tiệc cuới làng Cana, nơi Mẹ Maria, Chúa Giêsu và các môn đệ đầu tiên được mời tham dự. Khi nghe Mẹ Maria cho biết họ thiếu rượu, Chúa Giêsu trả lời là giờ con chưa đến, nhưng rồi ngài đã làm phép lạ. Thánh sử Gioan ghi: “Đây là khởi đầu các dấu lạ Chúa Giêsu làm. Ngài biểu lộ vinh quang Ngài, và các môn đệ tin nơi Ngài” (Ga 2,11). ĐTC định nghĩa các phép lạ như sau:

Như thế các phép lạ là các dấu chỉ kèm theo lời rao giảng Tin Mừng, và chúng có mục đích khơi dậy và củng cố niềm tin nơi Chúa Giêsu. Trong phép lạ thành toàn tại Cana, chúng ta có thể nhận ra một cử chỉ lòng nhân hậu của Chúa Giêsu đối với đôi vợ chồng, một  dấu chỉ phước lành của Thiên Chúa đối với hôn nhân. Như thế, tình yêu giữa một người nam và một người nữ là một con đường tốt giúp sống Tin Mừng, nghĩa là để tươi vui bước đi trên lộ trình của sự thánh thiện.

Nhưng phép lạ Cana không chỉ liên quan tới đôi vợ chồng. Mỗi người đều được mời gọi gặp gỡ Chúa như Phu Quân của cuộc đời mình. Đức tin kitô là một ơn chúng ta nhận được với bí tích Rửa Tội, và nó cho phép chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa. Đức tin trải qua các thời gian tươi vui, đau khổ, ánh sáng và bóng tối, như trong mọi kinh nghiệm của tình yêu. Trình thuật đám cưới Cana mời gọi chúng ta tái khám phá ra rằng Chúa Giêsu không tự giới thiệu như là một thẩm phán sẵn sàng lên án các tội lỗi của chúng ta, cũng không như là một vị chỉ huy bắt buộc chúng ta theo lệnh của mình một cách mù quáng. Ngài tự biểu lộ như Phu Quân của nhân loại: như là Đấng đáp trả các chờ mong và các lời hứa của niềm vui ở trong con tim của từng người trong chúng ta.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Như vậy chúng ta có thể tự hỏi: tôi có thật sự biết Chúa như thế không? Tôi có cảm thấy Ngài như là Phu Quân cuộc đời tôi không? Tôi có đang đáp trả lại trên cùng làn sóng của tình yêu hôn nhân, mà Ngài biểu lộ cho tôi và cho mỗi người mọi ngày hay không? Đây là việc ý thức rằng Chúa Giêsu tìm chúng ta và mời gọi chúng ta dành chỗ cho Ngài trong cùng thẳm con tim của chúng ta. Và trên con đường đức tin này với Ngài chúng ta không bị bỏ rơi một mình: chúng ta đã nhận được ơn Máu Chúa Kitô. ĐTC giải thích ý nghĩa các chum nước như sau:

Các chum nước bằng đá, mà Chúa Giêsu khiến đổ đầy nước để biến thành rượu, là dấu chỉ việc bước từ giao ước cũ sang giao ước mới. Thay vì nước dùng cho việc thanh tẩy theo lễ nghi, chúng ta đã nhận được Máu Chúa Giêsu, đã đổ ra một cách bí tích trong Thánh Thể, và một cách đổ máu của cuộc Khổ Nạn và trên Thập Gía. Các Bí Tích tuôn trào từ Mầu Nhiệm Phục Sinh đổ vào trong chúng ta sức mạnh siêu nhiên, và cho phép chúng ta nếm hưởng lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.

Xin Đức Trinh Nữ, mẫu gương của việc suy gẫm các lời nói và các việc làm của Chúa, giúp chúng ta tái khám phá ra với đức tin vẻ đẹp và sự phong phú của Thánh Thể và các Bí Tích khác làm cho tình yêu của Thiên Chúa hiện diện cho chúng ta. Như thế, chúng ta sẽ luôn luôn ngày càng say mê Chúa Giêsu hơn, Phu Quân của chúng ta, và đi gặp Ngài với đèn sáng của đức tin tươi vui, và như vậy trở thành các chứng nhân của Ngài trong thế giới.

Tiếp đến ĐTC đã đọc Kinh Truyền Tin và ban phép lành toà thánh cho mọi người.

Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã nhắc tới Ngày Quốc Tế của người Di Cư và Tỵ Nạn, trong bối cảnh Năm Thánh Lòng Thương Xót, được cử hành như Năm Thánh của người di cư. Ngài nói: Tôi vui sướng thân ái chào các cộng đoàn chủng tộc hiện diện tại đây đến từ Italia, đặc biệt là vùng Lazio. Anh chị em di cư và tỵ nạn thân mến,  mỗi người trong anh chị em đều mang trong mình một lịch sử, một nền văn hoá, các giá trị quý báu. Nhưng rất tiếc thường khi cũng là các kinh nghiệm của bần cùng, áp bức và sợ hãi. Chúng ta đừng để đánh cắp đi niềm hy vọng này và niềm vui sống vọt lên từ kinh nghiệm của lòng thương xót Chúa, kể cả nhờ những người đã tiếp đón và trợ giúp anh chị em. Ước chi việc bước qua Cửa Thánh và Thánh Lễ, mà anh chị em sẽ sống trong chốc lát nữa đây, làm cho con tim của anh chị em tràn đầy niềm vui. Tôi xin cám ơn các tù nhân nhà tù Opera đã dâng cúng bánh lễ  chính họ đã làm cho buổi cử hành này. ĐTC đã mời mọi người vỗ tay hoan hô các tù nhân.

Tiếp đến ngài chào nhiều nhóm khác nhau như hiệp hội Napredak Sarajevo, các sinh viên vùng Badajoz và Palma de Mallorca bên Tây Ban Nha cũng như các bạn trẻ Osteria Grande tỉnh Bologna Trung bắc Italia. Sau cùng Ngài xin mọi người cùng đọc một Kinh Kính Mừng cầu nguyện cho các nạn nhân của các vụ khủng bố xảy ra trong các này vừa qua bên Indonesia và Burkina Faso. Xin Chúa tiếp nhận họ vào Nhà Ngài và nâng đỡ dấn thân của cộng đoàn quốc tế trong việc xây dựng hoà bình.

Vào lúc bốn giờ chiều ĐTC đã đến thăm hội đường Do thái tại Roma. Đây là lần thứ ba một vị Giáo Hoàng đến thăm hội đường này, sau Đức Gioan Phaolo II  và Đức Biển Đức XVI. Ngỏ lời với cộng đoàn Do thái, ĐTC đã khẳng định rằng các tín hữu Do tháí là các anh chị lớn của các kitô hữu trong đức tin của những người thuộc cùng một gia đình của  Thiên Chúa. Như là tín hữu do thái và công giáo chúng ta được mời gọi lãnh các trách nhiệm đối với thành phố Roma, bằng phần đóng góp tinh thần và tạo thuận tiện cho việc giải quyết các vấn đề khác nhau hiện nay. ĐTC cầu mong sự gần gũi, hiểu biết và quý mến nhau ngày càng gia tăng giữa hai cộng đoàn lòng tin. Chính vì thế mà ngài đến thăm cộng đoàn do thái đúng ngày 17 tháng giêng, là ngày HĐGM Italia cử hành “Ngày đối thoại giữa các tín hữu công giáo và do thái”. Ngài cũng lập lại điều đã nói ngày 28 tháng 10 năm vừa qua nhân kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn Nostra aetate về đối thoại giữa Công Giáo và Do Thái giáo và biết ơn Thiên  Chúa đã khiến cho tương quan giữa hai bên thay đổi trong 50 năm qua. “Sự thờ ơ và chống đối biến thành cộng tác và nhân hậu. Từ thù địch và xa lạ trở thành bạn hữu và anh em. Với Tuyên ngôn Nostra aetate Công Đồng đã vạch ra con đường: “có” với việc tái khám phá ra gốc rễ do thái của Kitô giáo; “không” với mọi hình thức bài Do thái và lên án mọi xỉ vả, kỳ thị và bách hại bắt nguồn từ đó”. Tài liệu đã định nghĩa trên bình diện thần học lần đầu tiên một cách rõ ràng các tương quan của Giáo Hội Công Giáo với Do Thái Giáo. Ngày mùng 10 tháng 12 năm 2015 Ủy ban đối thoại với Do thái giáo cũng đã công bố một tài liệu mới, liên quan tới các vấn đề thần học nảy sinh trong các thập niên qua. Để hiểu biết chính mình các kitô hữu không thể không quy chiếu gốc rễ do thái, và tuy tuyên xưng ơn cứu độ qua niềm tin vào Chúa Kitô, Giáo Hội thừa nhận tính cách không thể thu hồi của Giáo Ước Cũ và tình yêu liên lỉ và trung thành của Thiên Chúa đối với dân Israel.

Cùng với các vấn đề thần học các tín hữu do thái và kitô không thể quên các thách đố mà thế giới đang phải đương đầu như cống hiến cho nhân loại sứ điệp kinh thánh về việc săn sóc thụ tạo cho một môi sinh toàn vẹn; dấn thân và củng cố hoà bình và công lý trước các xung khắc, chiến tranh, bạo lực và bất công xâu xé nhân loại. Bạo lực của con người trên con người trái nghịch với mọi tôn giáo, đặc biệt đối với ba tôn giáo nhất thần. Sự sống là thánh thiêng, Thiên Chúa là Thiên  Chúa của sự sống và Ngài luôn luôn muốn thăng tiến và bảo vệ nó. Mọi bản vị con người như thụ tạo của Thiên Chúa, là anh em của chúng ta, một cách độc lập với nguồn gốc hay tôn giáo của họ. Mọi người đều được nhìn với lòng nhân hậu như Thiên Chúa là Đấng giang bàn tray thương xót cho tất cả mọi người và săn sóc mọi người cần đến Ngài nhất: những người đau yếu, bị gạt bỏ ngoài lề, không được bênh đỡ. Nơi đâu sự sống gặp nguy hiểm, chúng ta lại càng được mời gọi che chở nó…

Trong lịch sử của mình dân Do thái đã phải sống kinh nghiệm bạo lực và bách hại cho tới vụ diệt chủng người do thái âu châu. Chỉ vì là dân Do thái sáu triệu người đã là nạn nhân của sự dã man vô nhân được thi hành nhân danh một ý thức hệ muốn thay thế Thiên Chúa bằng con người. Ngày 16 tháng 10 năm 1943 hơn một ngàn người đàn ông phụ nữ và trẻ em của cộng đoàn do thái Roma đã bị đầy sang trại tập trung Auschwwitz. Hôm nay tôi muốn đặc biệt tưởng niệm họ. Không bao giờ được quên các khổ đau, các âu lo và nước mắt của họ. Và quá khứ phải là bài học cho hiện tại và tương lai. Cuộc diệt chủng Do thái Shoah dậy chúng ta phải rất tỉnh thức để tức tốc can thiệp bảo vệ nhân phẩm và hoà bình.

Linh Tiến Khải