Các bài suy niệm Lễ Chúa Ba Ngôi Năm B

1192

LỄ CHÚA BA NGÔI – Năm B

Lời Chúa: Dnl 4,32-34.39-40; Rm 8,14-17; Mt 28,16-20

——-

Mục lục

1. Thiên Chúa không đơn độc (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Suy niệm và cầu nguyện lễ Chúa Ba Ngôi  (Lm. Thái Nguyên)

3. Thật là hạnh phúc  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

4. Ba ngọn nến lung linh (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

5. Thiên Chúa ở với con (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

6. Hiệp thông nên một  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

7. Dấu Thánh Giá – Logo của Giáo hội  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Tôn thờ Chúa Ba Ngôi trong đời sống  (Lm. Trần Bình Trọng)

9. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. (Lm. Trầm Phúc)

10. .Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ)

11. Sống tình huynh đệ theo khuôn mẫu Chúa Ba Ngôi (Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)

12. Một Thiên Chúa  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

13. Hình ảnh  (Lm. Vũ Đình Tường)

14. Đệ nhất Mầu Nhiệm (Trầm Thiên Thu)

15. Sống Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thế nào?  (Phêrô Phạm Văn Trung)

16. Dấu thánh giá và sự nối kết  (Giuse Hoàng Thanh Phong, SJ)

 

Mục lục

1. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần  (Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)

2. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

3. Mầu nhiệm tình yêu (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

4. Làm Dấu Thánh Giá (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyển)

5. Tôn vinh Thiên Chúa Tình yêu  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

6. Huyền nhiệm tình yêu (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

7. Tam Vị Nhất Thể  (Trầm Thiên Thu)

8. Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

9. Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi_B (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)

10. Lễ Chúa Ba Ngôi  (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

11. Niềm vui có Chúa  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

12. Yêu thương hiệp nhất chia sẻ như Chúa Ba Ngôi  (Lm. Đan Vinh – HHTM)

 

THIÊN CHÚA KHÔNG ĐƠN ĐỘC

Tgm.GM Giuse Vũ Văn Thiên

 “Thiên Chúa không đơn độc”. Đó là tựa đề một tác phẩm của nhà thần học Jean-Noel Besançon. Trong cuốn sách này, tác giả suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi ở nhiều khía cạnh khác nhau, đồng thời trình bày mối tương quan giữa mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và đời sống Kitô hữu. Phụng vụ hôm nay khẳng định với chúng ta: Thiên Chúa duy nhất nhưng không đơn độc. Khi nói đến Chúa Ba Ngôi là chúng ta đứng trước một mầu nhiệm cao cả, và chỉ có thể thốt lên như lời ông Môisen: “Có thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa các dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã giang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đởm, như Thiên Chúa của anh em không?” Những gì được trình bày về Chúa Ba Ngôi trong khoa thần học chỉ là những nét chấm phá, dựa trên mạc khải và lý trí để suy niệm về chính Thiên Chúa, Đấng chúng ta tin kính và tôn thờ.

Thiên Chúa không đơn độc, vì Ngài là Tình Yêu. Đã là tình yêu thì phải có đối tượng để chia sẻ và trao đổi tình yêu, chứ không thể đơn độc một mình. Từ những trang đầu của sách Sáng thế, Kinh Thánh đã trình bày với chúng ta hình ảnh Thiên Chúa là Đấng sáng tạo. Ngài sáng tạo vì yêu thương con người và muốn san sẻ cho con người sự thánh thiện của Ngài, ngõ hầu nhờ đó mà con người được hưởng hạnh phúc.

Khi sáng tạo con người, Thiên Chúa nói với chính mình: “Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh và giống như chúng ta” (St 1,26). Nên chú ý ở đây Thiên Chúa dùng động từ ở ngôi thứ nhất số nhiều. Một cách nào đó, chúng ta có thể hiểu, nếu Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng vô hình, thì con người có thể nhận ra Ngài nơi chính khuôn mặt của con người, của đồng loại, vì Thiên Chúa đã dựng nên họ giống hình ảnh của Ngài. Chiêm ngưỡng con người để gặp gỡ Chúa. Khởi đi từ con người để gặp gỡ Chúa. Gặp gỡ Chúa nơi chính anh chị em đồng loại, đó là điều sau này Đức Giêsu luôn nhấn mạnh trong giáo huấn của Người.

Sau khi sáng tạo ông Ađam, Thiên Chúa nói: “Con người ở một mình không tốt” (St 2,18). Một tác giả đã viết rất hài hước: “Thiên Chúa ở một mình không tốt”. Thực ra Thiên Chúa không bao giờ là một mình, không bao giờ là đơn độc. Dựa trên mạc khải trong Tân ước, Giáo Hội Kitô khẳng định và tuyên xưng: Thiên Chúa Ba Ngôi, là Cha, và Con và Thánh Thần. Nhiều người ngộ nhận khi cho rằng mầu nhiệm Ba Ngôi chỉ là diễn tả chính hữu thể của Thiên Chúa, chứ không liên quan đến đời sống người tín hữu. Chúng ta cũng hãy nhận ra mối tương quan căn bản mang tính hiện sinh giữa người tín hữu với mầu nhiệm này.

Chúa Ba Ngôi là cội nguồn và đích điểm của đời sống Kitô hữu. Được thanh tẩy và được tái sinh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, Chúa Ba Ngôi là cội nguồn và khởi đầu hành trình Đức tin của người tín hữu. Tuy chỉ là một cá nhân bình thường trong cuộc đời mênh mông này, người tín hữu là công trình của Ba Ngôi Thiên Chúa. Con người được sáng tạo bởi Chúa Cha, được cứu chuộc bởi Chúa Con và được thánh hoá bởi Chúa Thánh Thần. Khi diễn tả như thế, chúng ta không tách rời hoạt động của mỗi ngôi vị trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Bởi lẽ những hoạt động ấy luôn liên kết với nhau. Vì vậy mà chúng ta khẳng định: mỗi người là một công trình tuyệt tác của Thiên Chúa.

Là cội nguồn tức là nơi xuất phát, Chúa Ba Ngôi cũng là đích điểm hướng tới của cuộc sống tín hữu. Quả vậy, hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa Giêsu hứa ban cho người công chính, là sự chiêm ngưỡng và kết hợp với Chúa Ba Ngôi. Thánh Phaolô đã diễn tả một cách cụ thể: lúc đó chúng ta không còn thấy Chúa lờ mờ như trong gương, nhưng mặt giáp mặt như chúng ta nhìn thấy nhau trong cuộc đời. Lúc ấy cũng không cần đến Đức tin nữa, bởi vì người ta chỉ đòi hỏi tin vào một điều chưa nhìn thấy. Hạnh phúc vĩnh cửu là được chiêm ngắm Chúa Ba Ngôi và được chia sẻ hạnh phúc viên mãn của chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Con muốn rằng, con ở đâu thì chúng (những kẻ Cha đã ban cho Con) cũng ở đấy với Con và chúng được chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con”.

Không chỉ chờ đợi sau khi chết mới được hưởng thánh nhan Chúa, người Kitô hữu tin Chúa Ba Ngôi luôn đồng hành với họ từng giây từng phút của đời sống hiện tại. Nhờ Chúa Giêsu mà chúng ta trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa. Nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà chúng ta được gắn bó với Chúa Cha trong lời cầu nguyện và trong tâm tình yêu mến. Tất cả đời sống người Kitô hữu đều quy hướng về Chúa Cha, nhờ đó mà chúng ta được chia sẻ vinh quang của Người ngay khi còn sống ở đời này. “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”, lời đọc này, kèm với cử chỉ phác hoạ hình thánh giá trên thân mình, vừa là lời tuyên xưng Đức tin, vừa là lời nhắc bảo người tín hữu phải sống ngay lành trong cư xử hằng ngày, bởi lẽ một khi mang danh Kitô hữu, họ không còn sống cho mình mà thôi, nhưng họ đang góp phần làm vinh danh Chúa. Khi nói năng, ứng xử và hành động, người Kitô hữu nhân danh Chúa, chứ không còn nhân danh cá nhân mình.

Như trên đã nói: Thiên Chúa không đơn độc. Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần. Thiên Chúa là Tình Yêu, là nguồn mạch và đích điểm của người Kitô hữu. Những ai tin Chúa cũng không còn đơn độc ở đời này. Họ luôn có Chúa đồng hành bao bọc chở che.

Về mục lục

SUY  NIỆM VÀ CẦU NGUYỆN LỄ CHÚA BA NGÔI

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Từ ngữ “Chúa Ba Ngôi” (Trinitas) không có trong Kinh Thánh, nhưng là chân lý mà Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Hình ảnh đặc trưng nhất về Chúa Ba Ngôi là khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, có Chúa Thánh Thần dưới hình chim bồ câu và tiếng phán từ trời, là ba hình ảnh tạo nên một chân dung sống động về Chúa Ba Ngôi (Mt 3,16-17).

Thánh Phaolô gửi lời chào các tín hữu trong Chúa Ba Ngôi: Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em (2Cr 13,13). Còn thánh Luca trong sách Công vụ và trong Phúc Âm, đã nhìn nhận lịch sử cứu độ mang chiều kích Chúa Ba Ngôi: Cựu Ước là thời của Chúa Cha, Tân Ước là thời của Chúa Con, và hiện nay là thời của Chúa Thánh Thần. Trong Kinh Tín Kính, chúng ta cũng tuyên xưng: Chúa Cha là Đấng sáng tạo, Chúa Con là Đấng cứu độ và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá. Nhưng Chúa Cha ở đâu, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cũng ở đó. Ba Ngôi luôn là mầu nhiệm thâm sâu, vừa đơn nhất vừa đa dạng.

Hằng ngày ta rất gần gũi với dấu thánh giá trên mình: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, nhưng xem ra lại xa lạ khi cảm nhận. Những suy tư thần học về Ba Ngôi thật phong phú, cũng như những từ ngữ “ngôi vị” và “bản tính” rất cần thiết để minh định tín điều, nhưng lại rất trừu tượng và khó khăn cho sự gặp gỡ với một Thiên Chúa sống động. Thiên Chúa đúng là Đấng siêu việt, Đấng “ở trên” nhưng đồng thời cũng là Đấng “ở với” và “ở trong” con người cũng như lịch sử.

Thiên Chúa là Đấng “ở trên”, vì là “Đấng trường sinh bất tử, ngự trị trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy” (1Tm 6,16). Thiên Chúa “ở trên” vũ trụ và nhân loại vì “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi” (Mt 16,23). Nếu ai nói rằng mình hiểu được Thiên Chúa thì chắc chắn vị Thiên Chúa ấy không còn là Thiên Chúa đích thực nữa. Những khám phá khoa học ngày nay càng làm cho ta thấy tính bất khả đáo đạt về Thiên Chúa. Trái đất của chúng ta đây mới chỉ là một thành phần của dãy ngân hà, đã là điều quá vĩ đại, thế mà nó còn nằm trong hằng tỷ giải ngân hà. Quả thật, vũ trụ như vô cùng vô tận. Nếu thế, Thiên Chúa còn vô biên vô ngần đến mức nào, vì Ngài là nền tảng cho mọi hiện hữu.

Thiên Chúa còn là Đấng “ở với” con người. Đây là mạc khải trung tâm và độc đáo của Kitô giáo. Ngay từ Cựu ước, khi sai ai đi thi hành sứ mạng, Thiên Chúa cũng chỉ hứa điều quan trọng nhất là:“Ta ở với ngươi”. Từ Môsê đến Đức Maria đều như thế (Xh 3,12; Lc 1,28). Lời hứa “ở với” đã vươn đến cao điểm trong Đức Giêsu Kitô, Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta (Mt 1,23). Ngài không chỉ hiện diện với con người, mà còn chia sẻ phận người trong mọi tình trạng, kể cả đau thương và chết trong khổ nhục. Cho đến thời của Hội Thánh, lời hứa của Chúa Kitô Phục sinh dành cho các môn đệ vẫn là: “Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Ngoài ra, Thiên Chúa còn “ở trong” con người. Tin Mừng Gioan tràn ngập cụm từ “ở trong”:“Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy… ” (15,9-10); Chúa Giêsu đã xin Cha cho một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với các môn đệ. Đó là Thần Khí Sự Thật… “Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (14,16-17). Ngoài ra, Giáo Hội còn cho chúng ta biết: lương tâm là “tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa, và tiếng nói của Ngài vang dội trong lòng họ” (GS, số 16).

Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi không gì khác hơn là mầu nhiệm tình yêu: là một trong nhau và trong đời sống mỗi người chúng ta. Khi sai chúng ta đi rửa tội cho mọi người nhân danh Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu muốn ta đem tình yêu rửa sạch những oán ghét hận thù đang tàn phá thế giới. Ngài muốn ta đem ngọn lửa tình yêu thắp sáng những nơi tối tăm và ngục tù. Ngài muốn ta đem mưa tình yêu tưới gội những vùng đất khô cằn vì thiếu vắng lòng nhân từ và tha thứ. Ta hãy cảm nhận, tuyên xưng và loan truyền tình Chúa Ba Ngôi cho hết mọi tâm hồn.

Cầu nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa!
Nhìn vào vũ trụ muôn loài,
chúng con nhận biết chính Ngài làm nên,
nhưng Ngài là Đấng siêu nhiên,
vô tiền vô hậu vô biên vô cùng,
xem ra cũng rất mông lung,
chúng con cảm thấy mịt mùng xa xôi.

Cũng nhờ Con Chúa xuống đời,
cho con được biết Chúa Trời Ba Ngôi,
Chúa Cha sáng tạo đất trời,
Chúa Con xuống thế cứu đời lầm than,
Ngôi Ba là Chúa Thánh Thần,
chính Ngài thánh hóa bản thân mỗi người.

Tuy là mầu nhiệm cao vời,
nhưng là Thiên Chúa sáng ngời tình yêu,
vì Ngài cư ngụ trong con,
để con biết sống vẹn tròn yêu thương.

Giêsu nhân ái khôn lường,
chính là hình ảnh tỏ tường của Cha,
để con không cảm thấy xa,
mà là gần gũi thiết tha trong lòng.

Cho con luôn sống cậy trông,
để lòng con mãi hiệp thông với Ngài,
cho con đừng sống bề ngoài,
nhưng là trong Chúa hôm mai từng ngày.

Xin cho con quyết từ nay,
lòng tin cậy mến hằng ngày bên Cha,
Dưới tác động của Ngôi Ba,
để con luôn dám đi ra khỏi mình,
một đời gieo rắc an bình,
sáng lên trần thế bóng hình Giêsu. Amen.

Về mục lục

THẬT LÀ HẠNH PHÚC

Lm. Jos DĐH.

Trông thấy, vui mừng, nghe, hiểu, và sống, chính là quy trình nhiều người đang thao thức, tập luyện, thực hành, hầu đạt tới thành quả tốt đẹp nhất. Tính hợp lý cho ta một cảm giác: sợ người “ba phải”, nói sao cũng gật, bảo gì cũng “ô-kê”. Phản xạ tự nhiên nơi các học trò, sợ thầy kiến thức lỏng, lý thuyết vòng vo, lại đầy mâu thuẫn giữa nói là và làm. Trong tình ái, không phải người ta chỉ đau khổ khi tình yêu xa cách, nhạt phai, khổ đau vì hờn giận vu vơ, khủng khiếp hơn là cảm thấy bị lừa dối: khi yêu nói nhớ nói thương, hết yêu nhớ thương bay theo cùng người. Đồng ý rằng, vui buồn sướng khổ, có danh thơm tiếng tốt, là tùy mức độ mỗi người xử trí vấn đề, đã ý thức sống đúng, sống đẹp, vì chưng, hạnh phúc thật không thể tự đến.

Thật là hạnh phúc cho các tông đồ khi đó còn đầy giới hạn, các ông đã được mắt thấy tai nghe: “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”. Hạnh phúc thật, trào tràn với niềm vui không phải thoáng qua nơi các môn đệ năm xưa, song niềm tin Đấng chiến thắng tử thần đang mở mắt tâm hồn cho các ông. Thật là hạnh phúc cho những ai nhận ra mình có một sức khỏe dẻo dai, vì: không ốm không đau, làm giầu mấy chốc. Thật là hạnh phúc cho những ai đang nắm giữ quyền lực trong tay, như dân gian cho rằng: con vua thời lại làm vua. Thật là hạnh phúc cho những đang lắm tiền nhiều của, vì đâu phải tự nhiên mà người xưa nói: có tiền mua tiên cũng được. Vâng, khi mắt tâm hồn mở ra, mắt đức tin sẽ thấy Đấng phục sinh chính là Thầy, họ sẽ hiểu rõ hơn, Chúa Cha giầu lòng thương xót, và họ đủ cảm nhận trước hoạt động của Thánh Thần.

Thật là vui, thật là phấn khởi, là vinh dự cho các môn đệ, Đấng phục sinh trao ban sự sống thần linh, trao ban cả sứ mạng đặc biệt: hãy nhân Danh Ba Ngôi, giảng dạy và làm phép rửa cho muôn dân. Quả thực, muôn dân thiên hạ đều gật đầu thán phục trước kinh nghiệm của tiền nhân: cho vàng cho bạc không bằng chỉ đàng đi buôn. Tất cả những ai đang là học trò, là môn đệ Đức Kitô, đều tâm phục khẩu phục khi được bình an của Đấng phục sinh: họ đủ tình yêu, đủ ơn Chúa, hầu chu toàn ơn gọi và nén bạc mình đang có. Phải thật là khôn ngoan, các thánh hiền mới có thể khuyên dạy con cháu: một ngày quên nghĩ đến điều thiện, sự ác đã tự dấy lên rồi. Thật là vui, là trưởng thành thật, khi các đồ đệ Đấng phục sinh được thấu hiểu: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”, thứ hạnh phúc không gì diễn tả đủ.

Hạnh phúc ở đời, không ít người cho rằng, đó là cái ghế quyền lực. Niềm vui trong các tương quan xã hội, vẫn được biết đến là lắm tiền nhiều của: tuy tiền bạc không phải là tất cả, nhưng không có tiền, vấp ngã, đau bệnh, liệu ai đỡ nâng ? Đúng là tiền, quyền, có một sức hút đáng sợ, người kitô hữu, luôn coi tiền quyền chính là cám dỗ triền miên. Dù gọi là gì đi nữa, thì cuộc sống có ý nghĩa, không thể là ngu dốt, làm sao gọi là hạnh phúc, khi vắng bóng tình yêu thương, thiếu bình an ? Hiệp thông với đại gia đình Hội Thánh, tất cả những ai tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa, là Đấng cứu độ trần gian, đều trực tiếp hoặc gián tiếp có sứ mạng làm sống động tình yêu Ba Ngôi: nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.

Thật là hạnh phúc, thật là chính đáng, khi người tín hữu thực thi lệnh truyền của Đấng phục sinh: tuyên xưng niềm tin Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, rao giảng và cùng sống lời nhắn nhủ yêu thương. Ba Ngôi Một Chúa là mầu nhiệm trung tâm của đức tin kitô giáo: giám mục, linh mục, tu sĩ, người gia trưởng, hiền mẫu, thiếu nhi, đều được gọi là môn đệ Đức Kitô, khi mỗi người đang hiệp thông, tuân giữ, và sống điều Đấng phục sinh truyền dạy. Thật là hạnh phúc biết bao, dù ta không được trí cao tài rộng, nhưng ta luôn tự tin vì trí lòng mình đủ thấm nhuần đạo làm con là đủ: ở hiền thì lại gặp lành, những người nhân đức trời dành phúc cho. Thật là phúc đức biết bao, khi các thành viên gia đình Hội Thánh: tin, hiểu, Chúa Ba Ngôi hoạt động nơi các tông đồ, nơi từng tâm hồn người tín hữu hôm nay, vẫn chính là tình yêu Chúa Ba Ngôi hiệp thông, nên một trong đức tin và đức ái.

Thật là hạnh phúc sẽ không dừng lại ở khẩu hiệu, không chỉ giới hạn nơi các tông đồ, hạnh phúc thật, niềm vui thật, khởi đầu và lan tỏa từ Đức Kitô, Đấng là cội nguồn, là chuẩn mực của tình yêu Ba Ngôi. Các tông đồ được cuốn hút bởi tình yêu của Đấng đã chiến thắng sự chết, các ngài cũng được thu phục để nên một tình yêu Ba Ngôi, loan truyền hạnh phúc thật đến khắp muôn phương. Thật là hạnh phúc, thật là mừng vui cho sự khăng khít giữa tình yêu của Đấng phục sinh với gia đình nhân loại: “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”. Thật là hạnh phúc cho các môn đệ, cho những ai tín thác vào tình yêu: không ai yêu con bằng cha, không ai hiểu con bằng mẹ. Yêu và hiểu, tin và sống niềm tin, chính là câu trả lời thật là hạnh phúc: “và đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Amen.

Về mục lục

BA NGỌN NẾN LUNG LINH

 Lm Jos Tạ duy Tuyền

Ngọn nến tượng trưng cho sự hy sinh quên mình để cống hiến cho đời. Nét đẹp của cây nến là sự tiêu hao, là sự từ bỏ mình đi để đem lại ánh sáng cho con người.

Nhạc sĩ Ngọc Lễ đã thành công khi cho rằng gia đình sẽ hạnh phúc và đẹp lung linh khi mỗi người đều là cây nến thắp sáng hòa quyện để tạo thánh một gia đình. Sự hài hòa của nét đẹp gia đình qua ba gam màu sắc nơi từng thành viên trong gia đình càng thêm lung linh huyền diệu. Ba là cây nến Vàng tượng trưng cho một niềm tin sắt son. Mẹ là cây nến Xanh tượng trưng cho bình an, dịu dàng đầy hy vọng. Và con là cây nến Hồng luôn hồn nhiên tươi vui. Ba ánh nến hòa quyện vào nhau làm cho gia đình lung linh đáng yêu.

Vẻ đẹp của nến sáng chính là ánh “lung linh” của nó, và cái lung linh duyên dáng của gia đình chính là sự hoà hợp sắc màu của các thành viên; vừa hoà hợp nhưng vẫn giữ được sắc thái độc đáo của riêng mình.

Lung linh của ánh nến chính là sự nỗ lực vươn lên cho dù ngòai trời có gió dông. Lung linh của gia đình chính là sự hy sinh của từng thành viên  trao cho nhau sự quan tâm, chia sẻ và cống hiến cho nhau. Ánh lung linh sinh động của gia đình cùng chia sẻ vui buồn với nhau dưới một mái nhà như nhạc sĩ Ngọc Lễ đã mô tả : “Lung linh lung linh tình mẹ tình cha, lung linh lung linh cùng một mái nhà, lung linh lung linh cùng buồn cùng vui, lung linh lung linh hai tiếng GIA ĐÌNH”.

Hôm nay chúng ta nhìn lên Chúa Ba Ngôi như một gia đình. Tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cũng tỏa sáng lung linh một tình yêu huyền diệu. Ba Ngôi Thiên Chúa như ba ngọn nến lung linh hòa quyện để tỏa sáng tình yêu trao hiến cho trần gian. Một tình yêu tỏa sáng qua tạo dựng, hiến dâng qua cứu chuộc, và bao trùm qua thánh hóa con người nên con cái của Thiên Chúa.

Khi con người ở trong huyền nhiệm tình yêu của Ba Ngôi sẽ cảm nhận sự ấm áp yêu thương, che chở của Thiên Chúa. Khi Tin vào tình yêu của Chúa, con người sẽ để Chúa bao bọc chở che bằng tình yêu quan phòng của Ngài. Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương con người và tìm muôn nghìn cách để hiến ban chính mình nuôi dưỡng, chở che con người. Qua đó, Thiên Chúa cũng mời gọi con người hãy tiếp tục san sẻ tình yêu ấy cho những người lân cận của mình. Thế giới hôm nay đang lạnh giá vì thiếu tình yêu và sự sum vầy. Con người không phải vì Covid mới cách ly nhau mà chính lối sống ích kỷ đã khiến con người lâu nay vẫn tự cách ly nhau.  Cách ly ngay trong mái nhà ta vẫn thấy thiếu ngọn lửa lung linh của thương. Cách ly trong thôn xóm khi con người sống dửng dưng với đau khổ của người khác. Người cần tình thương chưa hẳn là người ăn xin  ngoài đường phố mà là những người đang ở trong nhà mình, nhưng vẫn có thể đang lạnh vì thiếu cảm thông, nâng đỡ bao bọc. Họ đang bị cô đơn và bị loại trừ ngay trong gia đình mình.

Xin Chúa giúp chúng ta luôn sống hiệp nhất với nhau trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa và xin cho chúng ta biết gìn giữ ngọn lửa yêu thương của Thiên Chúa để toả sáng gam màu tình yêu của mình trong mái ấm gia đình và tỏa lan cho mọi người chung quanh. Amen

Về mục lục

THIÊN CHÚA Ở VỚI CON

Bông hồng nhỏ

Khi yêu, ai cũng muốn được ở bên cạnh người mình yêu, chẳng ai muốn phải xa cách người ấy bao giờ. Nếu có phải xa nhau vì ngăn sống cách núi, người ta cũng hướng lòng về nhau, luôn mang trong trái tim mình bóng hình của người yêu. Tình yêu luôn mang đến một sức mạnh phi thường giúp cho người ta có thể thay đổi bản thân, chỉ vì họ muốn trở nên giống người mình yêu. Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa nhưng đã xuống thế làm người chỉ vì tình yêu dành cho Chúa Cha và yêu nhân loại đến cùng. Tình yêu nào cao đẹp như tình yêu của Thiên Chúa!

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các môn đệ lệnh truyền: “Anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 19). Hành trình ra đi truyền rao Tin Mừng của người môn đệ luôn có sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ đã luôn bắt chước Thầy Giêsu trong mọi sự: từ việc đón nhận sứ vụ cho đến cách thi hành sứ vụ; mọi việc họ làm đều để tôn vinh danh Chúa và phục vụ anh chị em. Là người môn đệ của Chúa, ta có để cho tình yêu Đức Kitô thúc bách mình trong mọi hành động không? Chúa Giêsu đã luôn lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa Cha trong mọi sự. Người luôn sống trong sự hiện diện đầy tràn của Chúa Thánh Thần. Người cũng muốn mỗi người môn đệ hãy nhận lấy Thánh Thần và ra đi thi hành sứ vụ. Ta cảm thấy thật khó để làm cho một người ngoại đạo tin vào tình yêu của Chúa. Giới thiệu Chúa cho mọi người là trách nhiệm của ta. Ta phải trở nên nhà truyền giáo ngay trong chính môi trường mình hiện diện. Mẹ Têrêxa Calcutta là tấm gương truyền giáo tuyệt vời. Mẹ đã từng nói: “Nếu chúng ta cầu nguyện, chúng ta sẽ tin tưởng, nếu chúng ta tin tưởng, chúng ta sẽ yêu thương, nếu chúng ta yêu thương, chúng ta sẽ phụng sự”. Muốn truyền giáo, ta phải có tinh thần cầu nguyện. Đức Cha Lambert- Đấng sáng lập dòng Mến Thánh Giá cũng đã kín múc nguồn sức mạnh truyền giáo bằng tinh thần cầu nguyện. Ta hãy để Thiên Chúa bước vào cuộc đời mình, Người sẽ thực hiện trên cuộc đời ta những gì Người muốn.

Chúa Giêsu đã hứa: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Chúa Giêsu đã yêu các môn đệ cho đến cùng. Người hiểu rất rõ những gian nan khốn khó mà người môn đệ sẽ trải qua trong cuộc đời; nhất là để sống và làm chứng cho Tin Mừng, các ông phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Có Thầy ở bên, các ông sẽ vững dạ an tâm vì Thầy sẽ ban bình an và tiếp thêm sức mạnh, củng cố đức tin cho các ông. Thử thách và khó khăn là điều không tránh khỏi, nếu không cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu, không tin vào tình thương của Người, làm sao ta có thể sẵn sàng dấn thân cho sứ vụ được. Hay nói cách khác, nếu không còn tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa trong cuộc đời mình, mọi việc làm của ta trở nên ngớ ngẩn và vô nghĩa. Mỗi khi vấp ngã, ta có nhận ra bàn tay của Chúa Giêsu đang hướng về ta, ta có mau mắn đưa tay ra để Người nắm lấy và kéo ta trỗi dậy không?

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh! Cảm tạ Chúa đã ban cho con được sống trong tình yêu của Chúa. Xin ban Thần Khí của Ngài cho con và biến đổi trái tim con, lấy khỏi mình con trái tim chai đá và ban tặng một quả tim biết yêu thương (x.Ed 11,19) để con trở nên chứng nhân về tình yêu của Chúa giữa đời. Cảm tạ Chúa đã luôn ở cùng con và yêu thương con, dù cho con đã từ chối Ngài bao lần. Ngài đã ở đó với con và luôn rộng lòng xót thương con. Amen.

Về mục lục

HIỆP THÔNG NÊN MỘT

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Gia đình Thiên Chúa[1], ba Ngôi nên một

Nhân ngày lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cùng chiêm ngắm ba Ngôi Thiên Chúa như một “Gia đình” huyền nhiệm. “Gia đình” nầy có ba vị hay ba ngôi riêng biệt: Ngôi thứ nhất là Chúa Cha, ngôi thứ hai là Chúa Con, ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần.

Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy rằng: “Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần thực sự phân biệt với nhau… Chúa Con không phải là Chúa Cha và Chúa Cha không phải là Chúa Con, Chúa Thánh Thần không phải là Chúa Cha hoặc Chúa Con” (GLHTCG số 254).

Mặc dù Chúa Cha không phải là Chúa Con, nhưng cả hai hiệp nhất nên một trong tình yêu thương như lời Chúa Giê-su nói: “Thầy với Chúa Cha là một” (Ga 10,30). Vì thế, “Ai thấy Thầy là đã xem thấy Chúa Cha” (Ga 14,9).

Còn Chúa Thánh Thần tuy không phải là Chúa Cha hoặc Chúa Con, nhưng được xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con, là một với Chúa Cha và Chúa Con.[2]

Từ “một” ở đây không nhằm chỉ số lượng ít nhiều, nhưng có ý nói đến sự hiệp nhất. Chẳng hạn như khi Chúa Giê-su nói: “Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.” (Mc 10,8). Hai vợ chồng tuy trở nên “một” do tình yêu thương nối kết, nhưng xét theo số lượng, họ vẫn là hai.

Cũng thế, trong “Gia đình Thiên Chúa”, tình yêu thương sâu đậm giữa ba Ngôi đã liên kết Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần nên một, thế nên Hội thánh dạy rằng dù có ba Ngôi, nhưng chỉ có một Chúa.

Chúa Giê-su mong muốn gia đình chúng ta yêu thương hiệp nhất như gia đình của ba Ngôi Thiên Chúa

Gia đình ba Ngôi Thiên Chúa là trung tâm của tình yêu thương, hoan lạc và hiệp nhất, là mẫu mực tuyệt vời nhất cho các gia đình khác noi theo.

Vì thế, hôm xưa, trước khi rời xa các môn đệ để bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giê-su mong ước các môn đệ Ngài yêu thương gắn bó nên một với nhau như ba Ngôi Thiên Chúa hằng hiệp nhất trong yêu thương, nên Ngài tha thiết cầu nguyện với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, xin cho tất cả chúng nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha…. để họ được nên một như Chúng Ta là một…” (Ga 17, 20-23).

Và hôm nay, Chúa Giê-su cũng mong ước gia đình của mỗi chúng ta luôn sống trong yêu thương và hiệp nhất như gia đình của Ngài nên Ngài hướng nhìn về mỗi thành viên trong gia đình chúng ta và cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho người cha, người mẹ và đứa con nầy nên một, “như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha… để họ được nên một như Chúng Ta là một.”

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con quyết tâm chọn “Gia đình” của Chúa làm mẫu mực lý tưởng để xây dựng gia đình chúng con, xây dựng giáo xứ chúng con thành gia đình yêu thương và hiệp nhất bền chặt như “Gia đình” ba Ngôi Thiên Chúa, nhờ đó mỗi gia đình sẽ trở nên hình ảnh sống động về Thiên Chúa ba Ngôi như lời nhắn nhủ của Hội đồng Giám mục Việt Nam: “Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Ki-tô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa ba Ngôi Thiên Chúa.[3]

——-

[1] “Gia đình Thiên Chúa” là cụm từ mà Đức Giám mục Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền phát biểu tại Công đồng Vatican II và được các nghị phụ hoan hỉ đón nhận.

[2] GLHTCG số 245

[3] Thư mục vụ HĐGMVN năm 2002

Về mục lục

DẤU THÁNH GIÁ – LOGO CỦA GIÁO HỘI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 “Tôi còn nhớ, một trong những câu hỏi trong sách giáo lý cho trẻ em ngày xưa: ‘Dấu chỉ của Kitô hữu là gì? Thưa, là dấu thánh giá’. Tất cả các thể chế, các thương hiệu ngày nay đều có một dấu hiệu riêng biệt, một logo nói lên nét đặc biệt của cơ quan, công ty mình. Tôi nghĩ đến các Kitô hữu đầu tiên, họ đáng được nhận giải thưởng quảng bá giỏi nhất, họ đã tạo ra một logo biểu tượng cho hình ảnh của Giáo hội. Người ta khó có thể tìm một hình ảnh nào đơn giản hơn, trọn vẹn hơn, qua chiều sâu, chiều rộng, tầm nhìn, sứ mệnh, các giá trị của Giáo hội, cây thánh giá hội đủ các yếu tố trên” (x. phanxico.vn, 12.12.2016).

Theo truyền thống của Giáo hội, khi bắt đầu bất cứ công việc gì, người tín hữu làm “Dấu Thánh Giá” để tuyên xưng danh Chúa Ba Ngôi; và khi kết thúc công việc, họ đọc kinh “Sáng Danh” để tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi.

Hôm nay Giáo hội mừng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Bởi thế, con người chỉ có thể biết được Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ mạc khải trong Kinh Thánh.

Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, đó là sứ điệp cơ bản của Cựu ước (Đnl 6,4-5) và Tân ước cũng đã ghi nhận lại (Mc 6,4-5).

Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần. Ngài đã từng bước vén lên bức màn của mầu nhiệm Ba Ngôi. Ngài cho biết : Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, cùng bản tính với Chúa Cha. Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài với Chúa Cha là một Thiên Chúa. Ngài cũng cho biết : Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau. “Đức Giêsu là Chúa Con, Đấng tỏ cho chúng ta biết Chúa Cha đầy lòng thương xót, Đấng đã mang “lửa” vào mặt đất. Lửa ấy chính là Chúa Thánh Thần” (x.Bài giảng lễ Chúa Ba Ngôi năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô).

Tân Ước mạc khải Ba Ngôi: sự hợp nhất của Ba Ngôi trong sứ mạng của ngôi thứ hai – Ngôi Con : Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan bắt đầu sứ vụ, bầu trời mở ra với tiếng Chúa Cha phán cùng sự hiện diện của Chúa Thánh Thần bằng hình ảnh của chim bồ câu (x. Mt 3, 16-17; Mc 1, 9-11; Lc 3, 22-22). Tin Mừng Gioan đã nhiều lần đề cập Chúa Ba Ngôi mà Chúa Giêsu đã mạc khải: “Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”(Ga 14,16). Sự gắn bó giữa Chúa Cha và Chúa Con luôn khắng khít “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 14,10), gắn bó đến nỗi như Chúa Giêsu thổ lộ : “Ta và Cha Ta là một” (Ga 10,30), và “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9). Chính Thánh Thần là Tình yêu khăng khít giữa Cha và Con, Thánh Thần làm chứng về Ngôi Lời : “…Thần Khí sự thật, từ nơi Cha xuất phát ra, Ngài sẽ làm chứng về Ta” (Ga 15, 26 ). Như Chúa Giêsu sau đó loan báo : “Khi nào Thần Khí sự thật đến … tất cả những gì Người đã nghe, Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết … Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16,13.14).

Sách Công vụ Tông đồ ghi lại bài giảng của Tông đồ Phêrô về Giáo huấn Thiên Chúa Ba Ngôi trong công trình cứu độ và cả trong giây phút hiện tại: “Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống. Đó là điều anh em đang thấy đang nghe”(Cv 2,33).

Chúa Ba Ngôi hiện diện ở trong ta nếu như ta sống theo lời Chúa Giêsu dạy: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến và cư ngụ nơi người ấy” (Ga 14,23). Giữ Lời Thầy, Lời Cha Thầy và chúng ta như Chúa Giêsu nhấn mạnh là Ba Ngôi Thiên Chúa đến ở cùng.

Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa Ba Ngôi tỏ mình ra cách rõ ràng qua các vai trò và hoạt động của từng ngôi vị: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc nhân loại và Chúa Thánh Thần thánh hóa và hoàn tất công trình cứu độ của Thiên Chúa. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi cao cả, nhưng rất gần gũi với đời sống của mỗi người Kitô hữu. Qua phép rửa nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, chúng ta trở thành nghĩa tử của Chúa Cha (x. Rm 8,15), em của Chúa Con (x. Rm 8,29) và đền thờ của Thánh Thần (x. 1Cr 6,19), hợp thành Giáo Hội là “dân thánh được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi” (Hiến chế Giáo Hội 4).

Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm cơ bản của đức tin Kitô giáo. Chính vì khẳng định có Ba Ngôi trong Thiên Chúa mà đức tin khác biệt trong phần cơ bản với các tôn giáo khác, kể cả những tôn giáo độc thần như Do thái giáo và Hồi giáo. Đồng thời đức tin vào Ba Ngôi trong Thiên Chúa là luồng ánh sáng soi chiếu tất cả các yếu tố khác của Kitô giáo. Người ta chỉ có thể hiểu được một cách đúng đắn hình ảnh và sự nghiệp của Đức Giêsu Kitô với tất cả các chiều kích dưới ánh sáng đức tin ấy mà thôi.

Mầu nhiệm Thiên Chúa: Cha, Con và Thánh Thần được mạc khải cho các kitô hữu trước hết không phải như một đạo lý cần phải thấu hiểu, nhưng như một kinh nghiệm để sống trong Thánh Thần, bước theo Chúa Giêsu để đến với Chúa Cha. Qua Bí tích Thánh tẩy, người tín hữu đón nhận đời sống mới từ Chúa Cha, được đồng hoá với Chúa Kitô nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Đời sống ấy phản ánh sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi, được thể hiện trong cộng đoàn Giáo hội là Thân mình của Đức Kitô (Ep 4,4-5).

Ngay từ thời các Tông đồ, đời sống mới trong Ba Ngôi còn được hiểu như là đời sống theo ba nhân đức hướng thần: Tin, Cậy, Mến (1Tx 1,3; 5,8; 1Cr,7.13; Rm  5,1-5; 12,6-12).

Nhờ Bí tích Thánh tẩy, người tín hữu trở thành con của Chúa Cha và phản ánh nét độc đáo của Chúa Cha, đó là tình yêu trao ban và sáng tạo. Phản ánh ấy là đức Mến, đó là ân huệ lớn lao nhất (1Cr 13.13), nhờ đó con người nên giống “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8) và có thể đi bước đầu để yêu mến một cách vô vị lợi và với óc sáng tạo.

Nhờ Bí tích Thánh tẩy, người tín hữu được tháp nhập vào Chúa Con nhập thể và phản ánh trong cuộc sống của mình nét độc đáo của người Con ấy, đó là khả năng đón nhận tình yêu. Phản ánh này là đức Tin. Khi sống đức tin người tín hữu tham dự một cách nào đó vào động tác vĩnh cửu của tình yêu, qua đó người Con hoàn toàn chấp nhận sự sống từ Chúa Cha và trở thành hình ảnh của Người.Tin là chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu mình, là phó thác và là vâng phục (Rm 1,5; 6,17; 2Cr 10,4).Như vậy Đức Kitô là đối tượng của đức tin, đồng thời cũng là gương mẫu cho đức tin của chúng ta, vì Người đi trước chúng ta trong cuộc chiến đấu của đức tin (Dt 12,2).

Nhờ Bí tích Thánh tẩy, người tín hữu được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần và phản ánh nét độc đáo của Người, đó là mối dây liên kết và sự cởi mở tự do đối với tình yêu. Phản ánh này trong đời sống của người kitô hữu là đức Cậy, nó mở rộng cõi lòng của tín hữu để đón nhận tương lai của Thiên Chúa. Đức cậy khơi động đức mến và khích lệ sự vâng phục của đức tin.Đức cậy liên kết sự táo bạo của đức mến với sự kiên nhẫn của đức tin và sẽ không làm cho người tín hữu phải thất vọng (Rm 5,5).(x.Thiên Chúa Ba Ngôi, Norberto).

Làm dấu Thánh Giá là lời tuyên xưng đức tin, tôn vinh Chúa Ba Ngôi của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác.

Dấu Thánh Gía là một chương trình cho ngày sống của con người buổi sáng, buổi chiều, lúc ăn uống cùng cả khi đi đường, lúc đứng qùy hay nằm trên giường.Làm dấu Thánh Gía trên thân thể là lời cầu nguyện, đồng thời cũng là chúc lành cho chính mình cùng cho người khác nữa.

Trước khi dùng cơm, phần lớn trong chúng ta đều làm dấu Thánh Giá và đọc nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khi đọc kinh trong nhà thờ hay tại nhà, chúng ta đều bắt đầu bằng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Có những người có thói quen tốt là trước khi làm bất cứ việc gì, họ đều làm dấu thánh giá. Qua đài truyền hình, thỉnh thoảng chúng ta thấy, có những cầu thủ bóng đá quốc tế làm dấu thánh giá sau khi đá lọt lưới đối phương, hoặc trước khi đá phạt đền.

Làm dấu trên trán, chúng ta tuyên xưng Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Làm dấu trên ngực, chúng ta tuyên Chúa Con là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Làm dấu trên hai vai chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần là Chúa và Đấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Dấu chữ thập mà chúng ta làm chỉ thánh giá của Chúa Giêsu, nơi mạc khải trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đối với nhân loại.

Dấu Thánh Giá là lời tuyên xưng đức tin vắn tắt nhất của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác. Lời kinh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần tóm tắt đức tin mà chúng ta đã nhận lãnh khi chịu phép rửa tội, mà nội dung là ba điều khoản lớn của đức tin công giáo, điều khoản thứ nhất tuyên xưng Chúa Cha, điều khoản thứ hai tuyên xưng Chúa Con, điều khoản thứ ba tuyên xưng Chúa Thánh Thần và Hội thánh.

Dấu Thánh Gía – Logo của Giáo Hội, là một công thức ngắn gọn nhất, nhưng lại đầy đủ nhất về đức tin vào Một Thiên Chúa Ba Ngôi. Như vậy cách thực tế và đơn giản nhất để tôn vinh Chúa Ba Ngôi là chúng ta hãy làm dấu Thánh Giá cách sốt sắng và ý thức, với tất cả lòng yêu mến và kính trọng.

Lạy Chúa, khi làm dấu Thánh Giá, xin cho con biết “khắc ghi tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu, Chúa mãi ở trong con, con ở trong Chúa”. Amen.

Về mục lục

TÔN THỜ CHÚA BA NGÔI TRONG ĐỜI SỐNG

Lm Trần Bình Trọng

Trong thời Cựu ước, mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi không được mạc khải cho dân được chọn. Bị bao vây bởi các dân thờ đa thần, dân Do thái được Thiên Chúa truyền dạy qua Môsê là họ phải tôn thờ một Thiên Chúa là Chúa tể duy nhất,

hằng hữu, toàn năng và chân thật, ngoài ra không có chúa nào khác (Ðnl 4:39). Ðó là điều thiết yếu trong tôn giáo độc thần của họ. Do đó, đề cập đến mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi có thể khiến họ lầm tưởng rằng có ba chúa hay ba thần. Mà ba chúa hay ba thần là điều trái nghịch với nền tôn giáo độc thần của họ, lại còn có thể làm giảm lòng tin của họ vào một Chúa.

Thế nên Thánh kinh Cựu ước không nói gì rõ rệt về mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi. Ðôi khi Thánh kinh Cựu ước mới ám chỉ, chứ không nói rõ, về Ba ngôi Thiên Chúa. Chẳng hạn như trong sách Sáng thế, Thiên Chúa dùng số nhiều để nói về mình: Chúng ta hãy tạo dựng con người theo hình ảnh chúng ta (St 1:26). Ðại danh từ ngôi thứ nhất số nhiều ở đây là chúng ta, ám chỉ rằng có hơn một ngôi vị nơi Thiên Chúa.

 Phải chờ cho tới khi Chúa Giêsu xuống thế làm người và tự xưng Người là con Thiên Chúa, tín điều Ba Ngôi Thiên Chúa mới được tỏ hiện. Khi ông Gioan tiền hô làm phép rửa cho Ðức Giêsu ở sông Giođan, thì Chúa Thánh thần và Thiên Chúa Cha cũng được bày tỏ. Khi ra khỏi nước, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán: Ðây là Con yêu quí của Ta, Ta hài lòng về Người (Mt 3:16-17). Trong bữa tiệc ly, Ðức Giêsu còn bầy tỏ cho các tông đồ về Chúa Thánh thần: Thầy ra đi thì có lợi cho chúng con hơn. Nếu Thầy không đi, Ðấng Phù Trợ sẽ không đến với chúng con (Ga 16:7).

Như vậy trong dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa Cha được bầy tỏ trước tiên, rồi đến Chúa Con, rồi đến Chúa Thánh thần. Ba ngôi trong một Chúa là một Mầu nhiệm. Người ta có thể dùng hình tam giác cân và đều để diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong hình tam giác cân và đều, ta thấy ba cạnh và ba góc đều nhau và bằng nhau, nhưng chỉ là một hình tam giác. Thánh Patriciô dùng một lá thố tương thảo (shamrock) có hình tam diệp thể để so sánh mầu nhiệm Ba Ngôi Một Chúa. Ngài hỏi dân Ái Nhĩ Lan xem họ thấy bao nhiêu cọng tam diệp thể. Họ trả lời có một. Rồi Ngài hỏi vậy có bao nhiêu lá. Họ nói có ba. Khi học kinh bổn thời tiền Công đồng Vaticanô II và sau đó một thời gian, người công giáo Việt Nam học bằng cách tự hỏi, rồi tự thưa. Những người sinh trước Công đồng Vaticanô II hẳn còn nhớ thưa thế nào cho câu hỏi: Hỏi Ðức Chuá trời có mấy ngôi? Rồi người học tự thưa theo sách, hay thưa theo những người đọc thuộc lòng: Thưa Ðức Chúa trời có Ba ngôi: Ngôi Nhất là Cha, Ngôi Hai là Con, Ngôi Ba là Thánh thần. Rồi Sách lại hỏi thêm: Hỏi trong Ba Ngôi, có Ngôi nào trước, Ngôi nào sau, Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém chăng? Họ lại tự thưa theo sách Bổn: Thưa Ba Ngôi cũng bằng nhau. Sở sĩ trước đây giáo dân học kinh bổn thuộc lòng như vậy là vì người ta thiếu sách vở, và có những người lại không biết đọc. Việc học thuộc lòng còn có điểm lợi là ghi tạc vào tâm khảm của họ một niềm tin vững chắc như đanh đóng cột hay kiềng ba chân vậy.

Một trong những điều Giáo hội muốn nhắc nhở cho người tín hữu về Chúa Ba ngôi là dấu thánh giá. Dấu thánh giá nhắc nhở cho ta lòng tin vào hai mầu nhiệm quan trọng trong đức tin công giáo là: mầu nhiệm Một Chúa Ba ngôi và mầu nhiệm Cứu chuộc. Ta thấy linh mục rửa tội nhân danh Chúa Ba ngôi như lời Chúa dạy trong Phúc âm hôm nay: Hãy làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh thần (Mt 28:20). Các bí tích khác cũng được cử hành nhân danh Chúa Ba ngôi. Trong phần đầu lễ, linh mục chủ tế dùng lời chúc bình an của thánh Phaolô để chào đón giáo dân tham dự thánh lễ như sau: Nguyện xin ân sủng Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em. Linh mục kêu cầu Chúa Ba ngôi khi cử hành Bí tích Giải tội. Linh mục sức dầu bệnh nhân, nhân danh Chúa Ba ngôi. Ðức giám mục cử hành Bí tích Thêm sức trong dấu thánh Chúa Ba ngôi. Ta bắt đầu và kết thúc kinh đọc bằng dấu thánh giá tuyên xưng đức tin vào Chúa  Ba ngôi. Trước khi dùng bữa, ta cũng làm dấu thánh giá, tạ ơn Chúa Ba ngôi cho ta của ăn hàng ngày.

Biết được có mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi còn làm giàu cho đời sống thiêng liêng của người tín hữu. Biết được có Chúa Cha là Ðấng tạo dựng loài người, Chúa Con là Ðấng cứu chuộc nhân loại, Chúa Thánh Thần là Ðấng thánh hoá, an ủi, ban sức mạnh thiêng liêng sẽ giúp ta dễ dàng cầu nguyện, biết phải xin với Ngôi Vị nào cho thích hợp. Xét về phương diện thần học thì khi ta cầu nguyện với một Ngôi Vị là ta cầu nguyện với hai Ngôi Vị kia vì Ngôi Cha, Ngôi Con, Ngôi Thánh thần là một Chúa. Tuy nhiên xét theo tâm lý học, thì để cho mình cảm thấy chắc ăn, ta có thể cầu nguyện với cả Ba Ngôi Vị cùng lúc như: Lậy Thiên Chúa Ba Ngôi, con thờ lạy, chúc tụng và tạ ơn Ba Ðấng. Con xin Ba Ðấng ban cho con được thế nọ, thế kia vân vân…

Thiết tưởng hôm nay nhân ngày lễ kính Chúa Ba ngôi ta cần trả lời vài thắc mắc sau đây: Ta có ý thức được chỗ đứng của Chúa Ba ngôi trong đời sống chưa? Dấu thánh giá ta làm có nhắc nhở cho ta về lòng tin vào Chúa Ba ngôi không? Ta có làm dấu thánh giá cách ý thức và kính cẩn, hay làm một cách  cẩu thả, vô ý thức cho qua lần chiếu lệ?

Lời cầu nguyện: xin cho được ơn biết tôn thờ Chúa Ba Ngôi.

 Lậy Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng!

Thờ lạy, đội ơn và chúc tụng Ba ngôi Thiên Chúa.

Cảm tạ Chúa Cha đã tạo thành nên con.

Xin Ngôi Hai Thiên Chúa tiếp tục công việc cứu độ nơi con.

Nguyện xin Chúa Thánh Thần thánh hoá đời sống con.

Xin đến phù trợ mỗi khi con làm dấu thánh giá,

kêu cầu đến Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen

Về mục lục

NHÂN DANH CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN.

Lm Trầm Phúc

Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm và là mầu nhiệm quan trọng nhất mà chúng ta vẫn tin. Vì là mầu nhiệm, chúng ta không thể nào hiểu thấu vì nó thuộc về bản thể của Thiên Chúa.

Các nhà thần học, căn cứ vào Kinh Thánh là kho tàng mạc khải, đã cố gắng giải thích cho chúng ta hiểu và đó là những cố gắng đáng khâm phục, nhưng các ngài giải thích được gì về Thiên Chúa Ba Ngôi? Một thi sĩ người Pháp, bà Marie Noel, có một nhận xét thật dễ thương và rất chính xác: “Nếu Chúa đọc những sách thần học, Ngài sẽ nghĩ thế nào? Nhưng Chúa không biết đọc”.

Thật vậy, dù chúng ta có tìm cách giải thích về Chúa hay ho như thế nào đi nữa, chúng ta có nghiên cứu sâu xa thế nào, những gì chúng ta có thể nói về Chúa chỉ là những gì thô sơ thôi.

Thế nhưng chúng ta tin, vì chính Chúa đã nói ra cho chúng ta biết về bản thân Ngài. Ngài đã nói bằng một lời duy nhất mà thánh Gioan gọi là Ngôi Lời, là Con Một của Ngài. Ngài sai Chúa Con đến trần gian nói cho chúng ta biết Ngài là ai: “Khi xưa bằng nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết nầy, Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua Thánh Tử…”

Thánh Phaolô, trong thư gửi giáo đoàn Côlôxê đã nói: “Chúa Giêsu là hình ảnh của Chúa Cha vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo…” Chính Ngài đã đến mạc khải cho chúng ta biết Chúa Cha. Trong thư gửi giáo đoàn Do thái, tác giả viết: “Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa”. Ngài là khuôn mặt hữu hình của Chúa Cha. Chính Ngài mạc khải cho chúng ta biết Chúa Cha và khi biết được Chúa Cha, chúng ta mới biết được Chúa Thánh Thần. Chỉ nhờ Chúa Con, Đấng là Đường là Sự Thật, chúng ta mới biết được Chúa Cha: “Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”, và cũng nhờ Chúa Con mà chúng ta biết được Chúa Thánh Thần, và biết được Thiên Chúa là Tình Yêu.

Vậy tình yêu là gì?

Tình yêu là nghèo nàn, là lệ thuộc và là khiêm tốn.

Cha Francois Varillon giải thích: Người yêu nói với người yêu: “Em là niềm vui của anh”. Đó là thú nhận sự nghèo nàn của mình vì nếu không có em, anh sẽ nghèo nàn về niềm vui. Hay nói: “Anh là tất cả của em”. Đó là thú nhận sự nhỏ bé của mình. Không có anh, em sẽ không có gì cả. Yêu chính là hiện hữu nhờ người yêu, và cho người yêu. Nhờ người yêu, tức là đón nhận. Cho người yêu, tức là hiến dâng. Không có hai yếu tố trên, tình yêu sẽ bị tổn thương.

Trong thế giới của chúng ta, tình yêu luôn ít nhiều bị tổn thương. Nơi Thiên Chúa, Ngài chỉ là Tình Yêu và không có gì cản trở hay hạn chế khả năng đón nhận và hiến dâng của Ngài. Những liên hệ giữa Ba Ngôi Thiên Chúa là như thế. Vì thế, Thiên Chúa tuyệt đối nghèo nàn. Chúa Cha cho đi tất cả cho Chúa Con, và Chúa Con cũng hiến dâng tất cả cho Chúa Cha, và Thánh Thần phát xuất từ mối tình tuyệt đối đó.

Đây cũng chỉ là một lối giải thích, và chúng ta có thể tìm thấy được những giải thích khác, khi Thánh Thần Chúa hoạt động trong mỗi người chúng ta.

Chúa Giêsu không nói rõ về Ba Ngôi, chỉ một lần là khi Ngài sắp lên trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần…”

Nhưng trong suốt những năm rao giảng, Ngài đã cho chúng ta biết Chúa Cha và mối tình tuyệt đối giữa Ngài với Chúa Cha. Trong những lần tranh luận với người Do Thái, Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định Ngài là Con của Chúa Cha đến nỗi người Do thái cho Ngài là phạm thượng và ném đá Ngài. Không biết bao nhiều lần Chúa Giêsu lặp đi lặp lại tiếng Cha tôi, Đấng đã sai tôi. Với các môn đệ Ngài nói rõ hơn: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha vì Cha với Thầy là một”. Như thế, chúng ta thấy mối liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con thâm sâu như thế nào.

Chúng ta cũng nghe Ngài nói về Chúa Thánh Thần, Ngài trao ban Thánh thần và có nơi Ngài nói là Thánh thần của Ngài, là hơi thở của Ngài. Làm như Ngài luôn hoạt động cùng với Thánh Thần và khi Ngài lên trời, Ngài tiếp tục hoạt động cùng với Thánh Thần nơi các tông đồ và hôm nay vẫn còn hoạt động trong mỗi người chúng ta vì chúng ta là thành phần của Thân thể Chúa Giêsu.

Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được thể hiện nơi Chúa Giêsu. Tin vào Chúa Giêsu tức là tin vào Ba Ngôi. Thiên Chúa Ba Ngôi nhưng chỉ có một, mà vẫn là ba vì Thiên Chúa là Tình Yêu.

Tin vào Chúa Ba Ngôi là chấp nhận tình yêu của Chúa. Chính Chúa Giêsu cũng nói: “Chúa Cha yêu thương Thầy thế nào thì cũng yêu thương anh em như vậy. Và Chúa Cha đã yêu trần gian đến nỗi ban Con Một cho trần gian”, tức là ban cho mỗi người chúng ta. Chúa Con đã yêu thương chúng ta đến nỗi chấp nhận hy sinh tất cả để cứu chúng ta, và Thánh thần đã yêu thương chúng ta đến nỗi đến cư ngụ trong những túp lều thối tha hôi hám là tâm hồn chúng ta, để tẩy sạch và thánh hóa chúng ta.

Thánh Phaolô nói: “Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó ta được kêu lên: “Abba, cha ơi”. Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa”. Đó là hồng ân trên hết mọi hồng ân, và là nguồn suối của mọi hồng ân. Mấy người trong chúng ta hiểu được giá trị của hồng ân nầy. Chúng ta chỉ biết mà không hiểu.

Hãy nguyện xin Thánh Thần Chúa soi sáng để chúng ta thấy được hạnh phúc tuyệt vời của chúng ta, và dìm mình trong tình yêu tuyệt vời đó.

Hãy nguyện xin cho chúng ta dám giữ điều răn của Chúa để sống trong tình yêu Ngài, vì “ai yêu mến Ta người ấy giữ lời của Ta”. Hãy xin Chúa cho chúng ta trở nên nghèo nàn như Chúa để Chúa trở thành sự giàu sang duy nhất của chúng ta. Làm sao chúng ta có thể nói: “Chúa là tất cả của con, vì ngoài Chúa, con chẳng có gì. Chúa là niềm vui của con vì ngoài Chúa niềm vui trần thế chẳng đem lại cho con được gì”. Nghèo nàn, lệ thuộc và khiêm tốn.

Chúa không đòi hỏi chúng ta làm gì cho Chúa, và chúng ta cũng chẳng làm được gì cho Chúa. Chúa chỉ muốn chúng ta hoàn toàn đón nhận và nếu có làm được gì thì cũng chỉ là hiến dâng sự nghèo nàn của chúng ta thôi. Nhưng Chúa vẫn muốn đón nhận sự nghèo nàn đó vì nhờ đó, Chúa mới cảm thấy Chúa là Tình Yêu. Lúc đó, Chúa mới trao ban được tất cả tình yêu của Ngài. Lúc đó, chúng ta mới có thể gọi Chúa là Abba, Cha ơi, với tất cả con tim nhỏ bé của chúng ta. Và đó là thiên đàng ở trần thế.

Để chúng ta thực sự là con của Chúa Cha, Chúa Giêsu đến bằng tấm bánh tình yêu. Ngài vào trong chúng ta bằng một phương tiện trong tầm tay chúng ta, để cùng với chúng ta yêu mến Cha, thực hiện lời nguyện hằng ngày của chúng ta: “Xin cho danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến”.

Về mục lục

.NHÂN DANH CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Tiếp liền sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta long trọng cử hành lễ Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta nhận biết và tôn thờ Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi, một trong những mầu nhiệm người tín hữu phải tin cho được rỗi linh hồn. Nhưng làm sao chúng ta có thể diễn tả hay thấu hiểu về Thiên Chúa Ba Ngôi này. Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Tự sức trí khôn con người là không thể. Phải nại đến Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, qua Ngài mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Người mà chúng ta biết có Một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.

Thánh Augustinô viết: « Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được ».

Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại, sâu thẳm, chúng ta không thể nào diễn tả được. Trí tuệ và miệng lưỡi con người không tài nào giải thích được những mối tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; tuy nhiên các giáo phụ đã tìm cách diễn tả nội dung chính yếu này và một trong những cách đó là Dấu Thánh Giá: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Dấu tôn vinh, chúc tụng và nguyện cầu

Thường ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần, khởi đầu ngày mới cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm …

Khi đặt tay lên trán chúng ta tôn vinh Chúa Cha toàn năng. Đưa tay xuống ngực chúng ta chúc tụng Chúa Con tình yêu. Đưa tay sang trái, phải vinh danh Chúa Thánh Thần, Nguồn ơn Thánh Thiêng hồng phúc của đời chúng ta. Mỗi lần làm Dấu Thánh chúng ta xin Chúa Ba Ngội ngự đến biến đổi tâm hồn chúng ta nên giống Ngài trong lời nói cũng như việc làm.

Như vậy, Dấu Thánh Giá bao trùm toàn thể xác và linh hồn; tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi. Vì thế, Dấu Thánh Giá gói trọn lời tuyên xưng đức tin và nền tảng cầu nguyện của chúng ta.

Dấu kẻ có Đạo. 

Đức Giêsu đến trần gian nhằm cứu chuộc chúng ta, Người đã chết trên Thánh Giá để trao ban sự sống cho chúng ta. Chính nhờ hy tế của Người trên Thánh Giá mà chúng ta, những người « kitô hữu », nghĩa là thuộc về Đức Kitô. Dấu Thánh Giá là dấu chỉ người kitô hữu. Chính nhờ dấu này mà chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đã đến thế gian để cứu chuộc chúng ta.

Trong năm Phụng vụ, có hai thời điểm giúp người kitô hữu ý thức về giá trị của Dấu Thánh Giá.

– Mùa Phục Sinh chỉ cho ra rằng chúng ta được cứu chuộc nhờ cây Thánh Giá.

– Lễ Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta tuyên xưng Một Chúa Ba Ngôi.

Dấu Thánh Giá là dấu của người chịu phép Rửa tội, người thuộc về Chúa. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được « vẽ » và « ghi » dấu Thánh Giá. Dấu này bề ngoài không thể thấy được, nhưng in trong tâm hồn người kitô hữu. Đồng thời cũng là hành động Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.

Hành động Đức Tin 

Dấu Thánh Giá tóm lược Ba Mầu Nhiệm Cả trong Đạo Công giáo.

1 – Chúng ta vẽ Dấu Thánh Giá trên mình, vì Chúa Giêsu đã mặc lấy thân xác người phàm đến để cứu chuộc ta. Đây là mầu nhiệm Nhập Thể.

2 – Dấu Thánh Giá nhắc lại rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta. Đây là mầu nhiệm Cứu Chuộc. Thánh Giá là chiến thắng của Đức Giêsu trên sự dữ và ma quỉ. Chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ hy tế của Chúa Giêsu trên Thánh.

3 – Dấu mà chúng ta vẽ trên mình kèm theo lời đọc: « Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần ». Chúng ta khẳng định mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.

Hiểu như thế sẽ giúp chúng ta làm dấu Thánh giá nghiêm túc hơn.

Hành động của Đức Cậy. 

Niềm hy vọng của chúng ta là về Trời như các thánh đã ái mộ những sự trên Trời. Chính vì Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu độ chúng ta, nên chúng ta có thể về Trời. Khi vẽ trên mình Dấu Thánh Giá, chúng ta nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để cứu chúng ta, Người đã mở cửa Trời cho chúng ta.

Vậy, chúng ta khẳng định với nhau rằng, cuộc sống lữ hành của chúng ta là đi về Trời nơi chúng ta hy vọng sẽ tới sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế.

Hành động Đức Mến.

Thánh Giá gồm hai thanh gỗ ngang và dọc. Thanh dọc trình bầy tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, thanh ngang diễn tả tình yêu của chúng ta đối với « tha nhân ».

Cần phải ghi nhận rằng khi được đưa lên khỏi đất, thanh dọc của cây Thánh Giá đỡ lấy thanh ngang: ngụ ý nói rằng tình yêu của chúng ta đối với tha nhân được « nâng đỡ » bởi tình yêu Thiên Chúa.

Nếu thanh dọc của cây Thánh Giá thiếu (tình yêu Thiên Chúa), thanh ngang bị bỏ nằm trên đất, không thể đưa lên khỏi đất. Ý muốn nói, trong hành động của đức Ái: « yêu tha nhân là yêu chính Chúa ».

Nhưng nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, (yêu tha nhân), hỏi rằng có còn là cây Thánh Giá nữa hay không ?

Hai điều cần thiết: « là mến Chúa và yêu người ». Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình nhiều lần: « Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần ». Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.

Xin dâng lời chúc tụng, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.

Về mục lục

SỐNG TÌNH HUYNH ĐỆ THEO KHUÔN MẪU CHÚA BA NGÔI

Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm cả trong đạo. Theo Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 234 khẳng định “mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống kitô hữu”. Đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa “cho chúng ta”. Mầu nhiệm này còn là nguồn mạch phát sinh mọi mầu nhiệm khác của đức tin và là ánh sáng chiếu soi các mầu nhiệm ấy. Giáo huấn về mầu nhiệm này là giáo huấn cơ bản và trọng yếu nhất theo “phẩm trật các chân lý đức tin”.

Ba Ngôi Thiên Chúa, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, tuy ‘Ba’ nhưng là ‘Một’ Thiên Chúa duy nhất. Sự hiệp nhất nên một giữa Ba ngôi vị. Điều này sẽ được hiểu rõ hơn khi chúng ta đọc Giáo lý của Giáo hội công giáo: “Đức tin công giáo là thế này, chúng ta thờ kính Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi, và Ba Ngôi trong Một Thiên Chúa, mà không lẫn lộn các Ngôi Vị, không phân chia bản thể: thật vậy, Ngôi Cha là khác, Ngôi Con là khác và Ngôi Thánh Thần là khác; nhưng thần tính, sự vinh quang ngang nhau và uy quyền vĩnh cửu của Chúa Cha, của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần là một.” (số 266).Theo đó, nơi Ba Ngôi Thiên Chúa, tuy ‘Ba’ nhưng là ‘Một’, tuy ‘Một’ là ‘Ba’. Nơi Ba Ngôi, khác biệt nhưng không tách biệt. Nơi đâu có Chúa Cha, nơi đó có Chúa Con, nơi đâu có Chúa Cha và Chúa Con thì nơi đó có Chúa Thánh Thần. Sự đồng nhất với nhau trong kế hoạch cứu độ con người của Ba Ngôi Thiên Chúa dẫu mỗi ngôi vị có một sứ vụ khác nhau: Chúa Cha với vai trò sáng tạo, Chúa Con với vai trò cứu chuộc và Chúa Thánh Thần với vai trò thánh hoá. Trong công trình sáng tạo diễn tả sự nối kết trọn vẹn nơi Ba Ngôi Thiên Chúa: “Chúng ta” hãy dựng nên con người giống hình ảnh của chúng ta. (St 1, 26-27) Nơi dòng sông Giordan, khi Đức Giê-su bước xuống để lãnh nhận phép rửa của ông Gioan Tẩy Giả thì có sự hiện diện của Chúa Cha ngang qua đám mây và Chúa Thánh Thần ngang qua hình ảnh chim bồ câu. (x. Mt 3, 13-17; Lc 3, 15-16.21-22; Mc 1, 7-11) Ba Ngôi Thiên Chúa đã luôn hiện diện bên nhau như là ‘tiếp sức’ và ‘cùng hành động’ trong sứ vụ cứu độ nhân loại. Sự gần gũi và gắn chặt nơi Ba Ngôi Thiên Chúa được so sánh có thể hơi khập khiễng nơi một ngón tay có ba đốt, nơi nguồn nước có thể lỏng, thể rắn và thể khí,…Sự hiện diện nên một mà không thể tách biệt nơi hình ảnh Chúa Ba Ngôi. Do đó, sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa là khuôn mẫu cho đời sống con người nơi trần gian đầy dẫy những xua tan và chia cắt. Như vậy, nơi khuôn mẫu hiệp nhất giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, chúng ta áp dụng như thế nào nơi đời sống hằng ngày, nhất là trong bối cảnh nhân loại đang đối diện với đại dịch Covid-19 này?

Quả thật, hơn bao giờ hết trong lúc này, trước diễn biến phức tạp mà thế giới chúng ta đang phải oằn mình khi phải đối diện với cơn đại dịch cực kỳ nguy hại cho con người, chúng ta càng được mời gọi sống tình huynh đệ và nối kết hơn là chia rẽ và loại trừ nhau. Sự hiệp nhất và cùng chung tay góp sức để chống lại đại dịch Covid phải là điều tiên quyết và quan trọng đối với gia đình nhân loại chúng ta. Thiết tưởng những xung khắc về chính trị, văn hoá hay tôn giáo giữa các nước, tập thể hay cá nhân phải nhường chỗ cho tình liên đới, nối kết, chia sẻ, hợp lực, hợp sức nhằm chống lại căn bệnh đang hoành hành trên toàn thế giới này. Từ những người bấy lâu nay xem là xa lạ, hận thù, ghen ghét, chia cắt, loại trừ,…nay chúng ta được mời gọi noi gương bắt chước tình yêu nối kết nơi Ba Ngôi Thiên Chúa để chung sức, chung lòng, xây dựng chiếc cầu nối kết, bao dung và yêu thương để đẩy trừ dịch bệnh nguy hiểm chết người này.

Mặt khác, để hiệp nhất và sống tình huynh đệ trong bối cảnh nhiễu nhương và lo sợ này, mỗi chúng ta đòi buộc phải chấp nhận bỏ đi cái tôi của chính mình, bỏ đi cái ý riêng của cá nhân, xua đi cái xung khắc, hiềm khích, ích kỷ nơi bản thân để sống cho, sống với, sống cùng anh chị em đang hiện diện xung quanh. Như Ba Ngôi Thiên Chúa dù khác biệt nhưng không tách biệt, mỗi chúng ta cũng chấp nhận gắn kết với nhau dẫu ‘bá nhân bá tính’, dẫu có nền văn hoá, tôn giáo khác nhau vì lợi ích chung nơi mái nhà chung là nhân loại. Đôi khi rất khó khăn để chơi với nhau, đối thoại với nhau, gặp gỡ nhau nhưng để chung tay xây dựng nền văn minh tình thương, chúng ta phải cố gắng nỗ lực quên mình để tha nhân được hiện diện, chấp nhận lu mờ chính mình để người khác được tỏ rạng, như lối nói của Gioan Tẩy Giả “Người phải lớn lên, còn tôi thì nhỏ lại” (Ga 3, 30) là vậy. Như Ngôi này sẵn sàng hy sinh và yêu thương Ngôi kia trong Ba Ngôi Thiên Chúa, chúng ta cũng sẵn sàng hy sinh và yêu thương anh chị em đồng loại. Tuy nhiên, không phải bằng đầu môi chót lưỡi, chúng ta phải sống yêu thương, liên đới và nối kết bằng hành động cụ thể như nước giàu biết san sẻ cho nước nghèo, nước lớn mạnh biết giúp đỡ và quan tâm đến các nước yếu, những cá nhân và tập thể khá giả biết chia sẻ những của cải cho những cá nhân, gia đình nghèo đói và bệnh tật,…Quả thật, lối sống ích kỷ, vô cảm, dửng dưng và chia rẽ như là ‘kẻ thù’ của đời sống hiệp nhất và tình huynh đệ đối với mọi người trong nhân loại chúng ta. Vì vậy, sống tình huynh đệ và liên đới với nhau quả là ‘hành động’ cần làm ngay mà không chần chừ trong mỗi chúng ta, nhất là trong bối cảnh cả và nhân loại đang đối diện với ‘giông tố bão bùng’ của đại dịch Covid -19 này. Thật vậy, đời sống hiệp nhất và yêu thương nơi Thiên Chúa Ba Ngôi trở nên ‘kim chỉ nam và thước đo’ cho mỗi chúng ta trong hành trình sống mỗi ngày giữa con người với nhau và giữa con người với thiên nhiên vũ trụ. Thế nhưng, để sống được mối tương quan liên đới đó tốt đẹp, thiết nghĩ tiên vàn chúng ta phải nỗ lực sống tương quan khẳng khít và bền chặt với Thiên Chúa Ba Ngôi trong từng giây phút của cuộc đời. Bởi vì chính Chúa là nguồn sức mạnh, nguồn mạch tình yêu, nguồi suối ân sủng mà con người tự sức chẳng là gì nếu thiếu đi tương quan thâm sâu với Ngài. Quả thật, con người chỉ thật sự trở nên người hơn, trở nên anh chị em với nhau hơn, trở nên bạn tri kỷ với thiên nhiên vũ trụ hơn, khi con người biết ở lại liên lỉ và mật thiết với Thiên Chúa Ba Ngôi, là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, như cành nho chỉ thật sự sinh được hoa trái khi gắn chặt với cây nho.

Tóm lại, khuôn mẫu Ba Ngôi Thiên Chúa đã thật sự trở nên ‘cứu cánh và đường hướng’ cho mỗi chúng ta dõi theo để sống tương quan với nhau trong cộng đồng xã hội. Dấu chỉ sống tình huynh đệ và yêu thương hiệp nhất nơi mỗi chúng ta như thế, không chỉ diễn tả lối sống là hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta còn trở nên dấu chỉ loan báo Tin mừng cho tha nhân, nhất là cho những người chưa nhận biết Thiên Chúa Tình Yêu ngang qua Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ duy nhất. Ước mong rằng mỗi lần làm dấu Thánh Giá, là chúng ta ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi nơi con người trong mọi tư tưởng, lời nói và việc làm hầu cuộc sống chúng ta trở nên “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lãng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm”, (trích Kinh Hoà Bình) nhờ đó đạo Chúa, đạo yêu thương được lan rộng khắp hang cùng ngõ hẻm. Như vậy, chúng ta đang thực thi mệnh lệnh của Chúa Giê-su trong Tin mừng hôm nay: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 19-20).

Về mục lục

MỘT THIÊN CHÚA

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Mừng trọng thể Lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta tôn thờ Một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị: Chúa Cha sáng tạo, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa. Qua lịch sử ơn cứu độ, Thiên Chúa đã mạc khải cho loài người nhận biết về sự sáng tạo vũ trụ và muôn loài. Con người là loài cao quí nhất được chính Con Một Thiên Chúa ban ơn thanh tẩy và cứu độ. Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao quyền tái tạo con người qua Bí Tích Rửa Tội cho các Tông đồ: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 19). Chúng ta được lãnh nhận Bí Tích Thanh Tẩy, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mỗi khi làm dấu thánh giá, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.

Từ xa xưa, khát vọng của loài người là kiếm tìm nguồn cội có uy quyền. Sống giữa vũ trụ bao la, cha ông tổ tiên đã dựa dẫm và nương nhờ chở che vào những đối tượng giả. Họ tôn thờ mọi thứ thần lạ do trí tưởng tượng của con người tạo nên và phong thần cho tất cả sức mạnh tự nhiên như: Thần sông, thần núi, thần sấm sét, thần mưa, thần gió, thần mặt trời, mặt trăng, các con vật và con người cũng được phong thần và đi đến thờ đa thần. Con người tôn thờ những Thần mà họ không hề biết, người Do-thái cũng bị ảnh hưởng bởi các thần dân ngoại, đã có thời họ đúc bò vàng để thờ lạy. Thiên Chúa đã chọn riêng dân Do-thái để mạc khải về Thiên Chúa độc thần và chương trình cứu độ của Ngài.

Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm quan trọng trong đạo. Mầu nhiệm cao trọng nhất nhưng cũng gần gũi với đời sống của các tín hữu. Chúng ta có thể tuyên xưng mầu nhiệm qua việc làm dấu thánh giá. Đã có rất nhiều suy tư thần học về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, nhưng con người vẫn đắm chìm trong thao thức. Có rất nhiều nhà thần học đã dùng những hình ảnh, tỉ dụ và ẩn dụ để giải thích một chút về Chúa Ba Ngôi. Giúp chúng ta dễ hiểu qua các biểu tượng như hình tam giác ba cạnh, ngọn lửa và tia nắng, lá Shamrock, ba thể khí, lỏng và đặc và nhìn xem cây, cành và lá liên kết…Tất cả những giải thích cũng chỉ như giọt nước trong đại dương bao la. Trí khôn con người chỉ còn biết chìm đắm trong nhiệm mầu và qui phục tôn thờ.

Dựa vào nguyên lý nhân qủa, trông qủa thì biết cây. Chúng ta có thể quan sát và dùng lý trí để tìm ngược về dấu vết của các loài thụ tạo. Chúng ta không thể đi ngược tới vô tận, phải có một nguyên nhân đệ nhất. Chúng ta có thể gọi nguyên nhân đó là Thiên, Trời, Thượng Đế, Đấng Tạo Thành, Chủ Tể Vạn Vật, Chúa Trời và Thiên Chúa. Niềm tin của người tín hữu về Thiên Chúa là: Đấng tự hữu, thiêng liêng, hằng có đời đời, quyền phép, thánh thiện, tốt lành, nhân từ, công bằng và chân thật vô cùng. Sách Giáo Lý Công Giáo cũ có câu hỏi: Ta làm thế nào mà biết có Đức Chúa Trời? Thưa: Ta nhìm xem trời đất muôn vật và trật tự lạ lùng trong vũ trụ, liền biết có Đức Chúa Trời là Đấng tạo thành và an bài mọi sự.

Có rất nhiều người chưa tìm hiểu vấn đề, đã vội chối từ và phủ nhận nguyên cội. Họ giống như những chiếc bình gốm tuyệt đẹp nói với chủ nhân rằng tôi không biết ông là ai. Với một trí khôn hạn hẹp, nông cạn và vô thường, nhiều người tưởng rằng họ đã nắm bắt được chân lý. Đã có biết bao nhiêu các nhà triết học, thần học, thần bí và các nhà khoa học đã đang gắng công tìm về nguồn vũ trụ. Trong đó có những Đạo giáo chỉ tập trung vào đời sống con người mà quên đi nguyên lý của vũ trụ bao la hiện hữu. Một số người cố gắng chọn con đường tịnh tâm, tu tâm và luyện tâm để tinh tấn giác ngộ. Những vị này giác ngộ tâm trí nhưng còn rất nhiều thiếu xót trong chức vị và ơn gọi làm người. Họ đã đặt mình là trung tâm của vũ trụ và phủ nhận quyền lực sáng tạo.

Qua quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta đã nhận được tinh thần nghĩa tử. Chúng ta không còn tinh thần nô lệ sợ hãi mà là con cái vì “Chính Thánh Thần đã làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng: Chúng ta là con cái của Thiên Chúa” (Rm 8, 16). Ba Ngôi Thiên Chúa liên kết trong tình yêu. Mỗi khi chúng ta làm Dấu Thánh Giá trên mình, là chúng ta đang được kết hợp mật thiết với tình yêu Chúa Ba Ngôi. Tình yêu hiến thân hy sinh. Tình yêu của sự tha thứ bao dung.

Chúng ta cùng nguyện rằng: Sáng danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, sáng danh Thiên Chúa, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Amen.

Về mục lục

HÌNH ẢNH

Lm Vũđình Tường

Một Thiên Chúa, Ba Ngôi: Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần mầu nhiệm thánh, tuyệt hảo.
Thứ nhất, là mầu nhiệm thánh bởi chínhThiên Chúa là Đấng thánh, nơi Ngài vượt trội hơn tất cả các sự thánh trên đời, bởi mọi sự thánh, tốt lành, đều do Ngài. Nơi Ngài mọi sự tuyệt hảo diệu huyền vượt mức. Không vật gì, dù hữu hình, dù vô hình, ngay chỉ cả một í tưởng nhỏ, đơn sơ, cũng không thể thâm nhập. Nơi Ngài là nguồn gốc mọi điều tốt lành. Dù là trên trời, hay dưới thế, tất cả đều do Ngài mà có. Ngài là suối nguồn tình yêu. Thánh Gioan trong Phúc Âm, ngài viết: Thiên Chúa chính là suối nguồn tình yêu tuyệt hảo. Điều phát xuất từ Ngài đều do tình yêu. Ngài là Chúa mọi loài thụ tạo. Chúa muôn loài, muôn vật, bởi tất cả thụ tạo lớn nhỏ đều do Ngài tạo dựng, và ban cho sự sống. Vì thế tất cả đều phải tôn thờ Ngài. Không tôn thờ Thiên Chúa chính là không nhận biết sự thật, nguồn sống, nguồn hạnh phúc phát sinh từ đâu.
Thứ hai, là mối liên kết thánh, tuyệt hảo bởi chính mối liên kết nơi Ngài nói lên điều đó. Đức Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa, mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Đức Kitô chính là hình ảnh của Chúa Cha; Đức Kitô cũng là hình ảnh Chúa Thánh Thần.
Con người có khả năng họa hình của chính mình, tự chụp hình cho mình, và cho người khác. Nhờ vào khoa học kĩ thuật, con người có thể ghi lại hình ảnh, sinh hoạt, di chuyển, chuyển động với tiếng nói. Đây là những hình ảnh xem ra sống động nhưng thực ra chúng là những hình ảnh, âm thanh chết. Nhờ vào máy móc chuyển tải hình ảnh, âm thanh, mà chúng ta nhìn thấy, nghe được. Ngoài những gì máy móc chuyển tải, những hình ảnh, âm thanh kia không có sự sống, không có cảm xúc, bởi chúng là những hình ảnh, âm thanh chết. Hình ảnh chính xác nhất phản chiếu khi soi gương. Ra khỏi gương hình ảnh đó vĩnh viễn ra đi. Con người không thể lấy lại hình ảnh đã vĩnh viễn ra đi.
Không giống họa hình của ta, hay hình ảnh di động trong phim ảnh, chúng là những hình ảnh chết, không cảm xúc. Hình ảnh Chúa Cha và hình ảnh Chúa Thánh Thần, Đức Kitô mặc khải là hình ảnh thực sự sống động. Những hình ảnh này tràn đầy sự sống, chan hoà tình yêu, tràn ngập lòng Chúa xót thương. Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, mỗi ngôi vị có sứ mạng riêng. Đức Kitô mặc khải hình ảnh Chúa Cha và Chúa Thánh Thần bởi chính Đức Kitô hứa ban cho môn đệ Ngài Ngôi Ba Thiên Chúa, là Thánh Thần, khi Ngài nói:
Khi nào Thần Khí Sự Thật đến… Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến….Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em’ Gn 16: 13-15.
Ngoài Đức Kitô ra ta không thể nhận biết Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Đức Kitô là Đấng duy nhất mặc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Là nguồn tin duy nhất, xác thực vì chính Đức Kitô là Ngôi Hai trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Nơi Ngài không thể sai lầm. Lí do thứ nhất chính Ngài đường, là sự thật, và là sự sống Gn 14,6. Sự thật dẫn đến sự thật, sự sống. Thứ hai, Đức Kitô nói về Chúa Cha, chính là Ngài nên không thể sai lầm.
Đức Kitô còn cho Kitô hữu biết, trở thành môn đệ Đức Kitô chính là quà Chúa Cha trao ban cho Đức Kitô.
Tất cả những gì của con đều là của Cha, và tất cả những gì của Cha đều là của con. Gn 17:10.
Trong lời nguyện hiến tế, Đức Kitô cầu cho các môn đệ được liên kết với Ba Ngôi Thiên Chúa. Môn đệ Đức Kitô liên kết với Đức Kitô và liên kết với Ba Ngôi Thiên Chúa
Lậy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong Danh Cha mà Cha đã ban cho Con, để họ nên một như chúng ta….. Con đã truyền lại cho họ lời của Cha… Xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật… (Con) còn cầu nguyện cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con, để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta’. Gn 17:11-21
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi là niềm tin của Kitô hữu. Nhờ vào niềm tin này ta trở thành môn đệ Đức Kitô. Nhờ vào niềm tin, ta được liên kết với Ba Ngôi Thiên Chúa như lời Đức Kitô cầu xin.
Tuyên xưng một Chúa Ba Ngôi chính là tuyên xưng đức tin của mình.

Về mục lục

ĐỆ NHẤT MẦU NHIỆM

Trầm Thiên Thu

Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi có nhiều cái nhất: đơn giản nhất mà lại khó hiểu nhất, quan trọng nhất, cao cả nhất, đặc biệt nhất, kỳ diệu nhất,… Thiên Chúa là Đấng Vĩnh Hằng. (Br 4:10, 14, 20, 22, 24, 35 và 5:2)

Là tín nhân Công giáo, hằng ngày chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần: khi thức dậy, khi tham dự Thánh Lễ, khi cầu nguyện, khi ăn uống, khi ra đường,… và khi đi ngủ. Chúng ta dùng Dấu Thánh Giá để chúc tụng, tôn vinh và kêu xin Thiên Chúa – mọi nơi và mọi lúc.

Năm 211, thần học gia Công giáo Tertullian nói về việc làm Dấu Thánh Giá như nhiệm vụ hằng ngày: “Trước khi di chuyển, đi xa hoặc đi đâu đó, khi mặc quần áo, khi tắm, khi ngồi vào bàn ăn, khi thắp đèn, hoặc khi làm bất kỳ hành động nào trong cuộc sống đời thường, chúng ta vẫn vẽ Dấu Thánh Giá trên trán.” (The Chaplet – Chuỗi Hạt, Tràng Hạt)

Chúng ta LÀM DẤU chứ không LÀM GIẤU – âm Việt ngữ nghe na ná nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau, viết thì phải cẩn thận về chính tả. Khi làm Dấu Thánh Giá không chỉ xin Thiên Chúa thánh hóa chính chúng ta và những gì chúng ta làm, mà đặc biệt là tôn vinh và tuyên xưng Một Chúa Ba Ngôi. Các giờ Phụng Vụ cũng nhiều lần xưng tụng Chúa Ba Ngôi: “Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần…” Sau mỗi chục kinh Mân Côi, chúng ta cũng vinh danh Chúa Ba Ngôi như vậy.

Về ngữ nghĩa, Tam Vị Nhất Thể (Trinity) là Một Chúa Ba Ngôi. Chữ Trinity có từ nguyên Latin là “trinitas” – nghĩa là “ba” (triad), tiếng Hy Lạp tương đương là “triados.” Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của niềm tin Kitô giáo – cách riêng là Công giáo. Tín điều Chúa Ba Ngôi được xác định trong hai giai đoạn: Tại Công đồng Nicê I – năm 325, và tại Công đồng Constantinope I – năm 381.

Ngay từ thuở đầu đời, trẻ em Công giáo được cha mẹ dạy bài học đức tin đầu tiên là làm Dấu Thánh Giá: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.” Chúng ta được đóng dấu ấn thánh này khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, và ấn tín này ghi đậm suốt cuộc đời chúng ta. Tất cả nhờ Ngài, với Ngài, và trong Ngài. Đó là vinh dự và hạnh phúc của đời tín nhân. Chính Thiên Chúa đã minh định: “Chính Ta, chính Ta đây là ĐỨC CHÚA, ngoài Ta ra, chẳng có ai cứu độ.” (Is 43:11)

Thời Tân Ước, chính Ngài tiếp tục xác định: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng.” (Kh 1:8) Ngài là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. (Kh 1:17; Kh 2:8; Kh 22:13) Vì thế, Ngài vừa tuyên ngôn vừa ra lệnh: “Ngươi KHÔNG ĐƯỢC có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi KHÔNG ĐƯỢC tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi KHÔNG ĐƯỢC phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.” (Xh 20:3-6; x. Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 32:39; Is 43:10; Is 44:8; Is 45:6; Is 46:9; Hs 13:4) Thiên Chúa Ba Ngôi là “Thiên Chúa duy nhất.” (Đnl 6:4; Nkm 9:6; Xh 20:3; Đnl 5:7; Đnl 32:39; Gđt 8:20; Kn 12:13; Is 43:10; Is 45:6; Is 46:9; Đn 3:28-29; Đn 14:41; Hs 13:4)

Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã mặc khải qua ông Mô-sê trên núi Khô-rếp: “Anh em cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh em, từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời này đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng? Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám lửa như anh em đã nghe, mà vẫn còn sống không? Hoặc có thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đởm, như Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em tại Ai-cập, trước mắt anh em không?” (Ðnl 4:32-34)

Sau đó, ông Mô-sê đã cho dân chúng biết quyết định của Thiên Chúa: “Anh em phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa. Anh em phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền cho anh em; như vậy anh em và con cháu anh em sau này sẽ được hạnh phúc, và anh em sẽ được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, vĩnh viễn ban cho anh em.” (Ðnl 4:39-40)

Đó là mệnh lệnh rõ ràng, mãnh liệt, chắc chắn, dứt khoát. Điều gì là mệnh lệnh thì phải đực thực hiện nghiêm túc, không thể tùy ý, tùy hứng, dù biết rằng ai thi hành thì được ân thưởng. Thiên Chúa vui vẻ, thoải mái, dễ dàng chứ không dễ dãi, nhưng nghiêm túc, dứt khoát, nói gì làm nấy.

Với trải nghiệm tâm linh, Thánh Vịnh gia nhận xét: “Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất.” (Tv 33:4-5) Quả thật, Thiên Chúa là Đấng hằng hữu, hằng sinh và toàn năng, “một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú.” (Tv 33:6) Kỳ diệu vô cùng, bởi vì Thiên Chúa chỉ phán một lời là “muôn loài xuất hiện,” và Ngài ban lệnh truyền thì “tất cả được dựng nên.” (Tv 33:9) Chắc chắn không có thần linh nào toàn năng như vậy, và cũng chẳng một thần linh nào có thể làm được như Ngài, Đấng mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa duy nhất, Thiên Chúa Ba Ngôi.

Thật hạnh phúc khi đức tin của chúng ta không lệch lạc, và chúng ta đang tôn thờ một Thiên Chúa vô song, độc nhất vô nhị. Đặc biệt là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Đấng giàu lòng thương xót: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì.” (Tv 33:18-20) Tuy nhiên, vì tôn kính và yêu mến, chúng ta vẫn phải không ngừng cầu xin: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài.” (Tv 33:22) Càng trông cậy thì chúng ta càng được thương xót. Chúng ta chẳng mất gì mà lại được thêm nhiều, thế thì còn gì hơn nữa?

Mang thân phận phàm nhân, chúng ta chỉ là tro bụi, là tội nhân, hoàn toàn bất xứng mà lại được gọi Thiên Chúa là Cha, được làm con cái của Ngài. Thật vậy, Thánh Phaolô dẫn chứng: “Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa.” (Rm 8:14) Chúng ta đã và đang có Chúa Thánh Thần, nghĩa là chúng ta thực sự là con cái Thiên Chúa. Đó là sự thật chứ không mạo nhận hoặc ảo tưởng.

Như để giải thích, Thánh Phaolô cho biết: “Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: ‘Áp-ba! Cha ơi!’ Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy đã là con thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.” (Rm 8:15-17)

Bất cứ điều gì, dù nhỏ hay to, bình thường hay quan trọng, cũng đều có hệ lụy riêng. Cuộc sống luôn có những điều tất yếu, được cái gì thì cũng có trách nhiệm kèm theo, đó là điều đương nhiên. Thật vậy, có thành công là nhờ khổ luyện – thậm chí là thất bại, bất cứ dạng hạnh phúc nào cũng có ít nhiều đau khổ.

Theo trình thuật của Thánh sử Mát-thêu, có một cuộc hẹn gặp xảy ra sau khi Chúa Giêsu phục sinh. Hôm đó, mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông. Đến nơi, khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Quả thật, lòng tin của con người rất khó lay chuyển. Tuy nhiên, nói đi cũng cần nói lại, con người là phàm tục, chưa thấy ai chết đi mà sống lại bao giờ, thế nên còn bán tín bán nghi thế thôi. Nếu là chúng ta, chắc chúng ta cũng chưa tin ngay, nghĩa là vẫn “cân, đo, đong, đếm” xem sao.

Chúa Giêsu biết chuyện đó, nhưng Ngài quan tâm vấn đề quan trọng hơn, vì giờ G đã điểm, Ngài biết sắp đến giờ Ngài phải về cùng Cha rồi. Thật vậy, khi đó Ngài đến gần họ và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:18-20) Ngài trao trọng trách đầu tiên cho các môn đệ là loan báo Tin Mừng, đồng thời cũng là trách nhiệm của bất kỳ ai mang danh là Kitô hữu.

Mừng kính và tôn vinh Một Chúa Ba Ngôi cũng là dịp chúng ta nhớ tới mối liên kết giữa thân và cành nho, phải nối liền với nhau, (Ga 15:1-17) và cũng nhắc chúng ta nhớ tới sự hiệp thông trong Nhiệm Thể Đức Kitô: Mọi người phải Nên Một. (Ga 17:1-26) Đó là ý muốn của Chúa Giêsu, là mối liên kết của mọi người trong Giáo Hội.

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin giúp chúng con liên kết với nhau bằng sợi tình thương xót, nhất là trong tình trạng dịch bệnh hiện nay. Chúng con tha thiết cầu xin Ngài thương cứu chúng con. Amen.

Về mục lục

SỐNG MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA BA NGÔI THẾ NÀO?

Phêrô Phạm Văn Trung.

Tin vào một Thiên Chúa duy nhất, và đồng thời cũng tin vào các mối tương quan trong chính Ngài là Ba Ngôi, và tin rằng tất cả Ba Ngôi đều như nhau, đó là một mầu nhiệm lạ lùng. Và hơn thế nữa từ ngữ Ba Ngôi này không xuất hiện trong từ vựng Kinh thánh. Người ta kể rằng Thánh Augustinô, tác giả của một cuốn Luận thuyết tuyệt vời về Chúa Ba Ngôi, đã từng nhìn thấy một em bé đang cố gắng cho tất cả nước biển vào trong một chiếc vỏ sò nhỏ. Khi Giám mục thành Hippo chỉ ra cho em thấy công việc đó khó khăn chừng nào, thì vị thiên thần trong bộ dạng em nhỏ ấy trả lời rằng việc đó còn dễ hơn là việc chỉ với nguồn lực duy nhất và nhỏ bé như vỏ sò,là lý trí con người,mà lại muốn chứa đựng hết mầu nhiệmThiên Chúa Ba Ngôi.

Giáo lý ngày xưa, thường ví Chúa Ba Ngôi được như một hình tam giác đều, có ba góc bằng nhau, hoặc Chúa Ba Ngôi được so sánh với nước ở ba thể: khí, lỏng và rắn…  hoặc như một ngọn nến, vừa có sắc lửa vàng lung linh, vừa có hơi nóng ấm tỏa ra, vừa có ánh sáng soi rọi chung quanh. Hay như thánh Giuse Cupertino(1603-1663, thường được ơn ngất trí bay bổng khi cầu nguyện) ví Ba Ngôi Thiên Chúa tựa một tấm chăn được gấp lại thành ba nếp: ba nếp gấp nhưng khi mở rộng ra thì vẫn chỉ là một tấm chăn. Thánh Y Nhã thì ví Ba Ngôi như một hợp âm. Một hợp âm được tạo bởi vài nốt nhạc nhưng chỉ vang lên một âm thanh.Tuy nhiên, tất cả những lối so sánh ấy dường như không phản ánh một cách trọn vẹnbản tính thật sự của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Một Linh mục kể chuyện: Vào ngày cuối của khoá học về Chúa Ba Ngôi, cha giáo hỏi các học viên:

– Bây giờ các anh chị đã hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chưa?

Gần như cả lớp đồng thanh:

– Thưa cha hiểu.

Cha giáo bật cười:

– Vậy thì các anh chị giỏi hơn tôi rồi! [1]

Dĩ nhiên, con người giới hạn của chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này.

Tuy nhiên, Kinh thánh không im lặng về chủ đề này.

Vào đầu sách Sáng thế, Ábraham được Thiên Chúa viếng thăm dưới hình dạng ba nhân vật bí nhiệm. Bản văn Kinh thánh khi thì dùng số ít khi lại dùng số nhiều,cho nên đối với các Kitô hữu, lòng hiếu khách của Ábraham đã trở thành biểu tượng tuyệt vời và là hình ảnh tiên trưng về Thiên Chúa Ba Ngôi. Các sách Tin Mừng cũng sử dụng ba từ ngữ: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, để chỉ Thiên Chúa. Những bản văn rõ ràng nhất về điểm này là những bản văn về sự Truyền tin: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Luca 1: 35-37), về phép rửa của Chúa Giêsu: “Vừa lên khỏi nước, Ngài liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Máccô 1: 10-11) và ở phần cuối của sách Tin Mừng Mátthêu, nói về việc sai đi truyền giáo: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mátthêu28: 19-20)

Một Thiên Chúa Ba ngôi

Phải mất hơn ba thế kỷ để từ ngữ Ba Ngôi xuất hiện, từ ngòi bút của thánh Athanasiôthành Alexandria. Thuật ngữ này, được hình thành từ chữ “trias” trong tiếng Hy Lạp, mô tả thực tại lạ lùng về một thần tính độc nhất nhưng lại là ba ngôi vị,và thực tại đáng kinh ngạc này được đề xuất thành một tín điều cho đức tin của các Kitô hữu. Phải chăng có thể đây là một phát minh muộn mằn, có phần nào đi xa khỏi thông điệp ban đầu của Chúa Giêsu không? Người ta có “thêu dệt” thêm điều gì vàoThiên Chúa không? Để xác tín vào Ba Ngôi trong Một Thiên Chúa duy nhất, chúng ta phải trở lại lịch sử của những Kitô hữu đầu tiên. Trên hết, người Do Thái chia sẻ niềm tin độc thần, một niềm tin bao trùm Ítraen khi họ phải đối mặt với việc thờ ngẫu tượng đa thần đang thịnh hành trong các dân tộc sống chung quanh họ. Do đó, theo lý mà nói thì họ khá vất vả khi phải thông qua các khái niệm để giải thích những kinh nghiệm mà họ đã trải qua khi tiếp xúc, gặp gỡ với Chúa Giêsu, Đấng tự xưng mình là Con Thiên Chúa:

Chúa Giêsu bảo họ: “Tôi đã cho các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì việc nào mà các ông ném đá tôi? ” Người Dothái đáp: “Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa .” Chúa Giêsu bảo họ: “Trong Lề Luật các ông, đã chẳng có chép lời này sao: “Ta đã phán: các ngươi là những bậc thần thánh”? Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ, thì tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian, làm sao các ông lại bảo tôi: “Ông nói phạm thượng! vì tôi đã nói: “Tôi là Con Thiên Chúa”? Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (Gioan 10: 31-38).

Trong khi nói chuyện với người phụ nữ Samaria bên giếng nước Giacóp, Chúa Giêsu khẳng định rất rõ:

Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do thái. Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” Người phụ nữ thưa: “Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Ngài đến, Ngài sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Chúa Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Gioan 4: 21-26).

Chính thánh Gioan tẩy Giả, trước đó, khi trả lời cho các môn đệ của mình, đã làm chứng rõ ràng về Chúa Giêsu là “Đấng từ trên cao mà đến”, “Đấng được Thiên Chúa sai đi”,“Chúa Cha yêu thương người Con”, “Thiên Chúa ban Thần Khí cho Ngài” :

Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người; Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật. Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Ngài vô ngần vô hạn. Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Gioan 3; 31-36).

Sự phục sinh của Chúa Giêsu là chứng cứ tốt nhất về thần tính của Ngài, nhưng ngược lại, Ngài không phủ nhận sự hiện hữu của một Đấng Tạo Hóa và Đấng ấy là Cha. Vì vậy, Chúa Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa và Ngài gửi đến cho các tông đồ một Đấng Bảo vệ (Paraclet), Thần Khí, Đấng ban cho họ những lời chân lý và sự sống, trong lòng và trên môi miệng của họ. Nhưng có một nguồn đức tin khác: đó là phụng vụ. Theo Thánh Mátthêu, phép rửa được ban “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.  (Mátthêu 28: 19). Chúng ta vẫn luôn bắt đầu lời cầu nguyện của mình bằng một dấu thánh giá được làm “nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”.

Phụng vụ Thánh Thể rất phong phú về phương diện này. Bản văn những lời cầu nguyện,vốn tạo nên phụng vụ, công bố một chuyển động nội tại nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa là ân ban, trong công trình Sáng Tạo, trong sự Nhập thể và là hành động vĩnh viễn và đổi mới của Thánh Thần. Ngài là tình yêu: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Gioan 4: 16), mà tình yêu thì sinh ra sự sống. Thiên Chúa Cha sinh ra Chúa Con, như Hội Thánh tuyên xưngtrong kinh tin kính: “Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Ðức Chúa Cha từ trước muôn đời, Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Ðức Chúa Cha. Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành”. Người Kitô hữu cũng tuyên xưng: “Tôi tin kính Ðức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Ðấng ban sự sống, Người bởi Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con mà ra”. (Kinh tin kính Nicea – Constantinopoli, dùng trong thánh lễ).

Người Kitô hữu không chỉ chiêm ngắm một Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, bởi vì mỗi Ngôi đều hướng ánh nhìn về một trong hai Ngôi kia. Sự chuyển động luôn mãi từ Ngôi này sang Ngôi kia trong Ba Ngôi Thiên Chúa cho thấy thần tính của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần, cũng như sự hiệp nhất của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần với Chúa Cha. Do vậy khi lãnh nhận Phép Thánh Tẩy,bằng ơn thánh hóa,người tín hữu được hòa nhập vào chuyển động của sự sống và của tình yêu của Thiên Chúa. [2]

Một mầu nhiệm vô cùng tận.

Thiên Chúa của đức tin Kitô giáo là Thiên Chúa vĩ đại, đẹp đẽ và trọn vẹn: chúng ta tôn kính Ngài, phụng thờ Ngài, vì Ngài là Tình yêu cháy bỏng, là Đấng tự hiến không ngừng từ bên trong “nội tại” của chính mình – một sự lưu chuyển tuần hoàn, như một vũ điệu tình yêu, là Ba Ngôi nóng sáng sục sôi, vĩnh cửu –từ đó phát xuất ra tất cả mọi thứ hiện hữu. Chính bụi cây bốc cháy – biểu lộ thần tính tự hữu của Thiên Chúa – trong sách Xuất Hành chương 3 đã làm Môsê say mê và thức tỉnh về mầu nhiệm vô cùng tận của Thiên Chúa, và sau đó về sứ mệnh Thiên Chúa trao cho ông:

Ông Môsê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. Ông tự bảo: “Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được : vì sao bụi cây lại không cháy rụi?” Đức Chúa thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông : “Môsê! Môsê!” Ông thưa: “Dạ, tôi đây !” Ngài phán: “Chớ lại gần ! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh.” Ngài lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp.” Ông Môsê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa. Đức Chúa phán: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Aicập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ scủa người Canaan, Khết, Emôri, Pơrítdi, Khivi và Giơvút. Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ítraen đã thấu tới Ta; Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Ai cập. Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pharaô để đưa dân Ta là con cái Ítraen ra khỏi Aicập.” Ông Môsê thưa với Thiên Chúa: “Con là ai mà dám đến với Pharaô và đưa con cái Ítraen ra khỏi Aicập?” Người phán: “Ta sẽ ở với ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi: khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này.” (Xuất hành 3: 2-12).

Nhưng thực ra, đôi lúc, con người được thúc đẩy ngắm nhìn Thiên Chúa  như người Cha nhiều hơn để biết rằng mọi sự bắt nguồn từ nơi Ngài, rằng Ngài là Nguồn cội và cũng là Đấng ban cho chúng ta người Con yêu dấu của Ngài, Ngôi Lời, Ngôi Con, Đấng đã trở thành phàm nhân hoàn toàn và gần gũi chúng ta trong con người Giêsu. Thật vậy, càng bước đi, con người càng cảm thấy rằng Chúa Cha thực sự là “Abba, Cha ơi!” (Rm 8,15), là cha, rất gần gũi, thân thuộc, là người mà họ có thể hoàn toàn tin tưởng, người gọi họ đứng dậy, đặt họ vào trong tình thân với Chúa Giêsu, và ban cho họ Thánh Thần tình yêu của Thiên Chúa.

Tình yêu tuyệt đối

Chúa Con cũngnhư Chúa Thánh Thần không phải là những ngôi vị trung gian giữa một Thiên Chúa cô độc với các thụ tạo của mình. Để chiêm ngắm sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa, cách dễ tiếp cận nhất là xem xét tình yêu dưới dạng tình yêu tuyệt đối mà chúng ta gọi là Agape – Đức Ái. Tình yêu không vụ lợi này hướng tới sự hiệp nhất như bất cứ tình yêu nào, nhưng vẫn giữ một khoảng cách tôn kính dành cho mỗi người, như văn hóa Á đông thường nói “tương kính như tân”. Khi tình yêu mang tính thần linh, và do đó có tính hoàn hảo, thì tình yêu đó tạo ra sự nghịch lý lạ thường này, đó là một sự đơn nhất ở số nhiều.

Để tiến đến nắm bắt được mầu nhiệm này, có hai con đường được mở ra cho chúng ta, một con đường, đơn giản và chắc chắn, làcon đường của phụng vụ, và một con đường khác,cần nhiều sức mạnh của ơn thánh và của ý chí để nỗ lực hơn, đó là con đường của tình yêu thương lẫn nhau.

Ba Ngôi Thiên Chúa chính là một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã đổ tràn vào trần gian, tràn ngập vũ trụ khi Thiên Chúa Cha dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài; là tình yêu cứu độ, thứ tha qua cái chết nhục nhằn của Chúa Con; là tình yêu thánh hóa, đổi mới trong Thánh Thần. Một tình yêu chan hòa, chia sẻ giữa Ba Ngôi: Cha trao cho Con tất cả, Con dâng tất cả cho Cha, tình yêu khắng khít giữa Cha-Con là Thánh Thần. Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao, không phải chỉ là trao quà tặng hay điều gì ngoài mình, nhưng là trao banchính mình: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một” (Gioan 3, 16).

Dù thế nào đi nữa, mỗi Ngôi đều là Thiên Chúa trọn vẹn trong mối quan hệ mật thiết luôn tuôn trào, nhưng khởi đi từ một trong ba khía cạnh của mối quan hệ này: là Nguồn cội nguyên khởi, hay là hình ảnh hoàn hảo của Nguồn cội hoặc là sự đáp trả như một hành vi tạ ơn, là lực đẩy củaTình Yêu thông ban và hiệp nhất của Ba Ngôi. [3]

Sống mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi .

Một độc giả viết: “Tôi khó mà hiểu được bất cứ lời giải thích nào so sánh mỗi Ngôi trong Thiên Chúa Ba Ngôi như một Phần của Thiên Chúa”.

Một người khác lại nhận xét: “Đối với tôi, Cha, Con và Thánh Linh hoàn toàn là Thiên Chúa, đó cũng là lý do tại sao rất thường xuyên mỗi khi tôi cố gắng cầu nguyện, tôi không tìm cách xem coi mình đang nói với ai, trừ khi tôi cầu xin điều gì đó thiết thực, cụ thể, đụng chạm đến giác quan của tôi, bởi vì khi đó tôi dành ưu tiên cho Chúa Giêsu vì Ngài là con người.”

Hiểu được Thiên Chúa Ba Ngôi rốt cuộc là ơn ban của Thiên Chúa dành cho mỗi người, tùy theo trí hiểu của người ấy. Chúng ta xin Chúa soi sáng để chúng ta có thể hiểu được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu. Nhưng điều quan trong mà mọi Kitô hữu cần phải thực hiện, bất kể trí thông minh của họnhư thế nào, là sống mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: nghĩa là Sống Yêu Thương như chính Thiên Chúa Ba Ngôi.

Hình ảnh diễn tả chính đáng về mầu nhiệm Ba Ngôi chính là gia đình: vợ chồng yêu thương nhau và con cái là kết tinh của tình yêu. Vì thương yêu nhau mà mọi thành viên trong gia đình hợp nhất nên một. Dù là hai ba bốn, hoặc nhiều hơn, thìcộng đoàn gia đình vẫn thực sự phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, nếu họ có một trái tim để yêu thương, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn,để cảm thông, nâng đỡ  nhau và khát vọng cùng nhaunên thánh.

Sống mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi trong sinh hoạt thường ngày.

Trong một xứ đạo miền quê xa xôi hẻo lánh, đa số dân chúng là người ít học và  nghèo khổ. Trong thánh lễ ngày Chúa Nhật, cha xứ giảng một bài giảng rất hùng hồn về Chúa Ba Ngôi. Trước khi kết thúc bài giảng, cha xứ hỏi:

– Ông bà anh chị em có hiểu được gì về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi không?

Cả nhà thờ im lặng, nhưng có một bà cụ đứng lên nói:

– Thưa cha, con không hiểu bài giảng nhiều lắm, nhưng con cũng xin nói lên những việc làm của con về việc tôn kính Chúa Ba Ngôi. Lúc nhỏ, con cũng được học giáo lý, được nghe các dì phước dạy về Chúa Ba Ngôi và con đã làm trong cuộc sống của con.

Mỗi ngày trước khi đi ngủ con dành ra ba phút, chỉ ba phút ngắn ngủi thôi vì suốt ngày con phải làm việc cực nhọc, tối về mệt nhọc, con không còn đọc kinh nhiều được nữa, vì thế con chỉ có ba phút thôi, rồi ngủ ngon lành.

Phút đầu tiên con nhìn lại những khuyết điểm: nào là con gây lộn với người hàng xóm, nào là con tức giận với chồng con trong gia đình …con nhìn lại những sự thiếu sót lỗi lầm đó và con dâng điều đó lên cho Chúa Cha.

Phút thứ hai con nhìn lại xem con có làm điều gì tốt trong ngày hôm đó không: cho người hàng xóm một cọng hành, cho một em bé một cái bánh, dỗ một đứa bé khóc vì nhớ mẹ đi làm ruộng chưa về … những việc tốt nhỏ bé đó con cũng xin dâng lên cho Chúa Giêsu và con nói với Chúa Giêsu rằng: Mặc dầu con có nhiều tật xấu, nhưng con cũng có những việc lành nho nhỏ, con xin góp những việc lành nho nhỏ đó để cộng tác vào việc cứu chuộc của Chúa, để đền bù tội lỗi của con,một chút.

Phút thứ ba con so sánh xem việc tốt, việc xấu con đã làm trong ngày, con lại thấy việc xấu nhiều hơn việc tốt, nhưng con cũng dâng hết lên cho Chúa và con nói: Lạy Chúa Thánh Thần, xin thánh hoá và biến đổi cuộc sống của con mỗi ngày một tốt hơn.

Con chỉ có làm bấy nhiêu đó thôi để sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.” [4]

Lạy Chúa Ba Ngôi con tôn thờ, xin giúp con quên mình đi để được ở trong Ngài, bình an và vô vi như đang ở trong thiên đàng. Xin đừng để điều gì làm náo động bình an của con, cũng đừng lôi con ra khỏi Ngài, nhưng cứ mỗi phút lại cho con tiến xa hơn trong mầu nhiệm của Ngài. Xin hãy làm cho tâm hồn con bình tĩnh, lặng yên, biến tâm hồn con thành bầu trời cao, thành dinh cơ và nơi Ngài nghỉ ngơi. Xin cho con đừng để Chúa phải cô đơn một mình ở đó, nhưng lúc nào con cũng có mặt ở đó, tỉnh táo trong đức tin, say sưa thờ lạy Ngài và để cho Ngài hoàn toàn sáng tạo.[5]

———————–

[1] nguoitinhuu.org

[2]croire.la-croix.com.

[3] Lm Guy Lepoutre, một tu sĩ Dòng Tên, một nhà giảng phòng. thành viên của ban tổ chức phong trào đặc sủng đại kết “Xin hãy đốt lên trong trái tim con”.

[4] tinmung.net

[5] Chân phúc Elisabeth de la Trinité, 1880-1906.

Về mục lục

DẤU THÁNH GIÁ VÀ SỰ NỐI KẾT

Giuse Hoàng Thanh Phong

Trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, tôi xin chia sẻ với anh chị em một đề tài rất đỗi quen thuộc, đó là ý nghĩa của dấu thánh giá trong cuộc sống đức tin của mỗi người chúng ta. Chắc chắn rằng ngay cả một em rất nhỏ cũng có thể đã biết làm dấu thánh giá là như thế nào: nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.

Có thể nói, làm dấu thánh giá là một trong những bài học giáo lý đầu đời mà cha mẹ đã dạy cho chúng ta, và thực sự đây là một bài học quá tuyệt vời. Chúng ta thử ngẫm xem hiện tại mình thường làm dấu thánh giá khi nào: có thể trước khi đi ngủ và sau khi thức dậy; có thể trước và sau mỗi bữa ăn; hay trước và sau mỗi lần cử hành phụng vụ…Chúng ta có còn bận tâm để ý đến việc dấu thánh giá nữa chăng! Trong bài viết này, tôi xin chia sẻ với anh chị em về ý nghĩa của dấu thánh giá như một sự nối kết….

Dấu Thánh Giá: con người mong nối kết với Thiên Chúa

Khi làm dấu thánh giá, mỗi người trong chúng ta thường hiểu ý nghĩa của cử chỉ này: đó là để phó thác nơi Thiên Chúa, để tạ ơn, để xin lỗi, hay để xin ơn trợ giúp từ Thiên Chúa. Những ý nghĩa này rất đúng đắn, nhưng tôi chỉ xin thêm vào một ý nghĩa của việc làm dấu thánh giá: đó là để diễn tả tâm tình của chúng ta và mong ước được nối kết với Ba Ngôi Thiên Chúa: “Lạy Chúa! Con đây!”

Trước hết, chúng ta làm dấu thánh giá như một cử chỉ tuyên xưng lòng tin của chúng ta nơi Thiên Chúa. Qua cử chỉ này, chúng ta cũng xin Thiên Chúa đến trong cuộc đời mình. Sự thực, khi chúng ta làm dấu thánh giá, chúng ta ghi lại những dấu thánh mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày được rửa tội: “Tôi rửa con nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.” Đây là dấu thánh đã ghi dấu vĩnh viễn trong tâm hồn – chúng ta là con cái Thiên Chúa. Dấu thánh giá thực sự nhắc nhớ chúng ta về căn tính Kitô hữu của mình – chúng ta thuộc về Cha trên trời. Như vậy, khi chúng ta làm dấu thánh giá, chúng ta mở rộng tâm hồn để Chúa đến trong cuộc đời mình trong một tương quan thân thiết.

Ngày nay, chúng ta không còn xa lạ với việc kết bạn và chia sẻ những hình ảnh hay suy nghĩ của mình cho bạn bè trên các trang mạng xã hội. Tương tự, khi chúng ta làm dấu thánh giá, chúng ta một cách nào đó chấp nhận lời ‘yêu cầu kết bạn’ của Thiên Chúa, để Ngài có thể trở nên như một người được nối kết với chúng ta. Như ‘một người bạn’, Thiên Chúa có thể ‘tham dự’ vào cuộc đời của chúng ta nhiều hơn – khi ta chia sẻ cho Ngài những ao ước của mình, rồi những kế hoạch, những khi thất bại, cùng như những niềm vui hạnh phúc trong cuộc đời.

Như vậy, chúng ta ý thức được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá. Khi chúng ta làm dấu thánh giá, chúng ta đặt bàn tay lên trán, lên ngực, và vai của mình. Tương tự, sau khi nghe công bố Tin Mừng, chúng ta ghi dấu thánh giá lên trán, lên môi miệng và lên ngực chúng ta. Qua những cử chỉ này, chúng ta muốn thưa lên Chúa rằng: tâm trí, con tim, lời nói và hành động của con đều thuộc về Chúa. Điều này có nghĩa chúng ta mong muốn toàn bộ cuộc sống của mình đều thuộc về Chúa – luôn muốn nói lời ‘xin vâng’ với Chúa. Khi hiểu về ý nghĩa của việc làm dấu thánh giá, chúng ta thấy rằng dấu thánh giá quả là một lời cầu nguyện sống động của con người dâng lên Thiên Chúa trong mối tương quan thân tình.

Dấu Thánh Giá: tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa dành cho con người

Làm dấu thánh là vừa là hành động tuyên xưng đức tin, vừa là lời mời của chúng ta để Thiên Chúa tham dự vào cuộc đời của chúng ta nhiều hơn. Tuy vậy, tôi nói với anh chị em một sự thật đó là, chính Thiên Chúa mới là Đấng đã liên hệ đến cuộc đời của chúng ta trước, khi Ngài ghi khắc dấu thánh trong tâm hồn ta lúc tạo dựng nên con người: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh của mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.” (St 1,27).

Cũng vậy, con người mang trong mình dấu ấn của Thiên Chúa ngay từ giây phút được phôi thai trong lòng mẹ. Khi đọc những câu chuyện trong Cựu Ước, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa với dân của Người qua biết bao thăng trầm của cuộc sống. Đặc biệt, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người cho dù con người có cứng đầu bất tuân đến đâu đi nữa. Thiên Chúa vẫn tiếp tục sai những ngôn sứ đến với dân và nói lời Thiên Chúa cho họ. Chúng ta có thể có cảm giác rằng Thiên Chúa dường như vẫn còn xa cách với con người, khi chỉ nói với họ qua trung gian các vị ngôn sứ. Thế thì chúng ta nghĩ thế nào khi Thiên Chúa sai chính Con của mình đến thế gian – trở nên một người như chúng ta, và ở với chúng ta? Như vậy, dấu thánh giá nhắc nhớ chúng ta về kế hoạch cứu độ con người của Ba Ngôi Thiên Chúa: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).

Lạ lùng thay, Thiên Chúa không chỉ đặt những dấu thánh nơi con người, nhưng chính Thiên Chúa đã để cho con người ghi dấu ấn của con người nơi Ngôi Hai Thiên Chúa qua hình ảnh của Hài Nhi Giêsu – nhỏ bé, cần sự chăm sóc dưỡng nuôi từ cha mẹ. Thiên Chúa không chỉ muốn ghé thăm con người trong một thời gian rồi thôi, nhưng Ngài đã muốn đến ở với con người mãi mãi. Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cứu độ không chỉ bằng việc sai Ngôi Lời đến ở với chúng ta, nhưng còn để cứu chúng ta mãi mãi qua cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài. Đức Giêsu Kitô đã mang lại cho chúng ta niềm hy vọng được kết hiệp nên một với Ba Ngôi Thiên Chúa trong nước trời.

Như vậy, không phải chúng ta, mà chính Ba Ngôi Thiên Chúa trước hết là Đấng đã mở lối cho chúng ta được liên kết và được ở với Ngài. Do vậy, mầu nhiệm cứu chuộc của Ba Ngôi Thiên Chúa mang lại ý nghĩa cho cuộc đời chúng ta. Chúng ta phải luôn ghi nhớ ơn huệ lớn lao này mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá. Điều này cũng nhắc nhớ chúng ta rằng cùng đích của chúng ta chẳng phải ở trên thế gian này, nhưng được ở với Ba Ngôi Thiên Chúa trong nước trời. Nếu chúng ta muốn biết Thiên Chúa ao ước muốn ‘kết nối’, muốn ‘ở với’ con người ra sao, chúng ta hãy nhìn lên thánh giá để có thể hiểu hơn về mong ước này.

Dấu thánh giá cho thấy được mối tương liên giữa Ba Ngôi Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa vì yêu thương đã quan tâm, đã liên đới đến con người và mong muốn chia sẻ tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa cho con người. Con người vì vậy cũng thể hiện lòng tin tưởng phó thác của mình nơi Ba Ngôi Thiên Chúa qua cử chỉ của làm dấu thánh giá. Vì vậy, làm dấu thánh giá sự thực là hành vi của đức tin, và là một lời cầu nguyện sống động của chúng ta dâng lên Thiên Chúa.

Thật tuyệt vời khi mỗi người trong chúng ta luôn ý thức được ân huệ cứu chuộc của Ba Ngôi Thiên Chúa mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá. Cũng thật tuyệt vời khi mỗi người trong chúng ta có thể diễn tả đức tin của mình nơi Ba Ngôi Thiên Chúa qua việc làm dấu thánh giá. Tuyệt vời hơn nữa, nếu chúng ta có thể ‘làm dấu thánh giá bằng chính cuộc đời của mình’ – để cho những dấu thánh tình yêu ấy được lan tỏa trong đời sống phục vụ của chúng ta, đặc biệt cho những anh chị em đang rất cần đến tình yêu và sự sẻ chia của chúng ta….

Sáng danh đức Chúa Cha và đức Chúa Con và đức Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng, và bây giờ và hằng có, và đời đời chẳng cùng. Amen!

Về mục lục

 

 

NHÂN DANH CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

Với người công giáo, còn gì gần gũi thân quen cho bằng làm dấu thánh giá trên mình cùng với lời đọc “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ấy thế mà mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi dường như lại thật xa lạ và trừu tượng. Có chăng những từ ngữ “ngôi vị” và “bản tính”, vốn rất cần thiết để minh định tín điều, lại là bước cản cho sự gặp gỡ Đấng Thiên Chúa sống động? Có chăng những suy tư thần học về Ba Ngôi thật phong phú về tư duy nhưng lại thiếu tiếp cận mục vụ và linh đạo? Từ góc độ thực hành của đời sống đức tin, xin gợi ý về lời đọc “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” như một cảm nghiệm gặp gỡ Đấng Thiên Chúa duy nhất và là Đấng ở trên, ở với và ở trong con người cũng như lịch sử.

Đấng Thiên Chúa ở trên, ở với và ở trong

Cảm nghiệm đầu tiên của con người về Thiên Chúa: Ngài là Đấng “ở trên”, “Ông Trời”, “Ông Thiên”. Thánh Phaolô tuyên xưng chỉ mình Thiên Chúa là “Đấng trường sinh bất tử, ngự trị trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy” (1Tim 6,16). Vì Thiên Chúa vượt lên trên vũ trụ và nhân loại nên “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi” (Mt 16,23). Nếu ai nói rằng mình hiểu được Thiên Chúa thì chắc chắn vị Thiên Chúa ấy không còn là Thiên Chúa đích thực nữa.

Những khám phá khoa học ngày nay không những không làm tiêu hao niềm tin vào Thiên Chúa mà trái lại, càng làm cho chúng ta cảm nhận rõ hơn tính bất khả đạt thấu của Thiên Chúa. Ngân hà mà trái đất chúng ta là một thành phần đã là vĩ đại rồi, nhưng nó chìm nghỉm trong hằng tỉ giải ngân hà của vũ trụ. Chính sự vĩ đại ấy của vũ trụ lại càng làm nổi bật tính vô biên và bất khả đạt thấu nơi Thiên Chúa: “Chúng ta không thể khám phá Thiên Chúa đang điều khiển thế giới cách ngây ngô như trước. Chúng ta không thể làm thế, không phải vì Thiên Chúa đã chết, nhưng vì Ngài là Đấng vĩ đại hơn nhiều, Đấng không thể gọi tên, Đấng bất khả đạt thấu, Đấng là nền tảng mọi sự” (Karl Rahner, Science as a Confession, 389).

Cảm thức về tính bất khả đạt thấu nơi Thiên Chúa giúp các Kitô hữu tránh được nguy cơ rơi vào tình trạng mà một nhà tư tưởng phê phán: “Không phải Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, nhưng chính con người đã làm nên Thiên Chúa theo hình ảnh của mình”. Một trong những điều răn đầu tiên Thiên Chúa ban bố là: “Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20,4). Dân Chúa trong thời Cựu Ước lại chẳng rơi vào tình trạng đó sao khi họ lấy vàng đúc thành con bê rồi sụp lạy tung hô: “Đây là vị thần đã đưa chúng ta ra khỏi đất Ai Cập” (Xh 32,7)? Và cơn cám dỗ ấy vẫn không ngừng tái diễn trong lịch sử dưới nhiều hình thức khác nhau.

Thiên Chúa là Đấng “ở trên” nhưng đồng thời lại là Đấng “ở với” loài người. Đây là mạc khải trung tâm và độc đáo của Kitô giáo. Kinh Thánh tràn ngập cụm từ “ở với”. Hầu như khi sai bất cứ ai đi thi hành sứ mạng, Thiên Chúa cũng chỉ hứa điều quan trọng nhất là: “Ta ở với ngươi”. Từ Môsê đến Đức Maria đều thế cả (Xh 3,12; Lc 1,28). Cho đến thời của Hội Thánh, lời hứa của Chúa Kitô Phục sinh dành cho các môn đệ vẫn là: “Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Danh thánh Thiên Chúa mạc khải cho Môsê (Xh 3,14) được dịch nhiều cách: “Ta là Đấng hằng hữu”, “Ta là Đấng hiện hữu”, “Ta là Đấng Ta là”. Nhưng cũng có một cách dịch khác mang tính hiện sinh hơn: “Ta là Đấng hằng ở với anh em” (trong mọi hoàn cảnh, mọi bước đường, mọi biến cố). Lời hứa “ở với” ấy đã vươn đến cao điểm trong Đức Giêsu Kitô, Đấng được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa-ở-với-chúng ta (Mt 1,23). Thiên Chúa ở với loài người không những bằng sự hiện diện mà còn chia sẻ phận người, kể cả những trạng huống bi thảm nhất, để trong mọi hoàn cảnh, kể cả sự chết, ta có thể cảm nhận được tiếng nói: Cha ở với con.

Ratzinger có trang sách đẹp về trải nghiệm sự chết khởi đi từ hình ảnh đứa bé bị lạc lối trong rừng sâu và màn đêm buông xuống. Cùng với bóng tối vây bủa chung quanh là nỗi hoang mang sợ hãi tràn ngập tâm hồn. Trong giây phút ấy, điều mà cậu bé mong chờ nhất không phải là bài học địa lý về cánh rừng hoặc bài hướng dẫn khoa học tìm tọa độ. Điều mong chờ nhất chỉ là có một bàn tay chạm lấy và tiếng nói bên tai: “Cha đây, nào chúng ta đi”. Không có giây phút nào con người cảm nhận nỗi cô đơn tột cùng cho bằng khi đối diện với sự chết. Kể cả những người thương yêu ta nhất cũng không thể đồng hành. Mọi lý thuyết về thế giới mai sau dường như vô nghĩa. Điều mong đợi duy nhất là sự hiện diện và đồng hành của một ai đó trên con đường tăm tối. Và Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng đã kinh qua sự chết và đã sống lại, chính là Đấng duy nhất đáp trả nỗi ước mong sâu thẳm về một bàn tay nắm lấy và tiếng nói bên tai “Ta đây, nào chúng ta cùng đi”. Thiên Chúa ở với.

Thiên Chúa không chỉ ở với con người mà còn ở trong họ. Theo quan điểm công giáo, lương tâm là “tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa, và tiếng nói của Ngài vang dội trong lòng họ” (Hiến chế Vui Mừng và Hi Vọng, số 16).

Tin Mừng Gioan, Tin Mừng của đời sống chiêm niệm, tràn ngập cụm từ “ở trong”: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình yêu của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình yêu của Ngài” (15,9-10); “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí Sự Thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Ngài. Còn anh em biết Ngài vì Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (14,16-17).

Có chuyện kể về một guru đánh mất chìa khóa vào nhà và quanh quẩn đi tìm chìa khóa ở bãi cỏ trước nhà. Đám học trò thấy thế bèn hỏi, “Thưa thầy, thầy tìm gì vậy?” “Thầy mất chìa khóa vào nhà rồi”. “Để chúng con tìm giúp”. Thế là ai nấy hăng hái bới từng gốc cây, lật từng ngọn cỏ để tìm. Tìm mãi không thấy, một học trò sốt ruột hỏi: “Thầy có nhớ loáng thoáng là đánh rơi ở đâu không?” “Có chứ, thầy nhớ rõ là mình để quên ở trong phòng rồi sập cửa lại”. Đám học trò la lên: “Trời ơi, sao bây giờ mới nói, mất chìa khóa trong nhà mà lại tìm ở ngoài này, làm sao thấy được!” Ông thầy có dịp cho học trò một bài học để đời: chúng ta đánh mất chìa khóa của ngôi nhà hạnh phúc. Chìa khóa ấy ở trong tâm hồn nhưng chúng ta lại mải tìm ở ngoài. Tìm đủ thứ, chiếm hữu đủ thứ, hưởng thụ đủ thứ… mà hạnh phúc vẫn biệt tăm. Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc, ở thâm sâu lòng người, nhưng chúng ta mải tìm ở thế giới bên ngoài.

Đúng là “Chúa ở trong con sâu hơn chính con” và “Con đi tìm Chúa bên ngoài mà quên mất rằng Chúa ở trong con”. Không chỉ là cảm nghiệm của các nhà thần bí mà còn là trải nghiệm của mỗi người nếu chân thành nhìn lại chính mình.

Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần

Hội Thánh có sứ vụ giới thiệu và loan báo cho con người Đấng Thiên Chúa ở trên, ở với và ở trong con người cũng như lịch sử. Nghĩa là phải loan báo Thiên Chúa trong tính toàn thể. Xem ra không dễ dàng giữ được sự quân bình và tính toàn thể ấy. Có khi người Kitô hữu nhấn mạnh đến Thiên Chúa ở trên (chiều kích siêu việt) và ở trong (chiều kích nội tại) mà không quan tâm đến Thiên Chúa ở với phận người, nên bị người ta chê trách là lãng quên những thực tại trần thế. Lại có khi nhấn mạnh đến Thiên Chúa ở với (chiều kích dấn thân xã hội) mà quên Thiên Chúa ở trên và ở trong, nên biến Hội Thánh thành cộng đoàn xã hội thuần túy với chân trời và đường lối hành động không khác gì những tập thể xã hội khác. Làm thế nào để giữ được sự quân bình và tính toàn thể của mầu nhiệm Thiên Chúa, để có thể “ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian” (Ga 17, 14-16), để là “muối cho đời và ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13-16). Sẽ mãi là một thách đố, nhưng ít ra ý thức được điều ấy cũng đã là lời nhắc nhở cần thiết cho sứ vụ, lời nhắc nhớ mỗi ngày khi làm dấu thánh giá trên mình và đọc “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

Về mục lục

.

NHÂN DANH CHA VÀ CON VÀ THÁNH THẦN-

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

“Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần – Amen” là nội dung lời kinh có tên là “Dấu Thánh giá”. Đây là bài học đầu tiên mà mỗi người trưởng thành phải học khi muốn gia nhập Giáo Hội. Đó là lời kinh đơn sơ mà những em bé trong gia đình công giáo bập bẹ đọc lên khi vừa biết nói. Lời kinh ngăn gọn mà sâu sắc, hàm chứa chân lý cao siêu của Đạo Kitô, là mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. “Dấu Thánh giá” đưa ta vào một thế giới huyền nhiệm là cung lòng Thiên Chúa. Nơi thế giới ấy, ý nghĩa và giá trị chữ số không giống như chúng ta: ba lại là một và một lại là ba. Chỉ có một Chúa, nhưng ba ngôi riêng biệt. Ba ngôi ấy khác biệt mà không bị phân chia, duy nhất mà lại không hoàn toàn hòa nhập. Lời kinh huyền nhiệm này cho ta được hòa mình trong tình yêu vĩnh cửu, hạnh phúc tuôn tràn.

Dấu Thánh giá: lời tuyên xưng đức tin

Khi làm dấu Thánh giá trên mình, tôi tuyên xưng đức tin vào Chúa quyền năng. Ngài là Cha, và Con và Thánh Thần. Với lời kinh đơn sơ ấy, tôi trở về với cội nguồn của truyền thống Kitô giáo ngay từ những thế kỷ đầu. Từ thời xa xưa ấy, cộng đoàn tín hữu Kitô như một nhành cây non vừa tách mình ra khỏi cây cổ thụ Do Thái giáo. Họ đã dựa vào nội dung Tin Mừng để tìm hiểu chính bản tính của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã mặc khải cho các môn đệ về Chúa Cha. Người cũng hứa sẽ gửi đến cho họ Chúa Thánh Thần là Đấng Phù trợ (x. Ga 16,26 tt). Cộng đoàn tiên khởi đã dần dần suy tư và tuyên xưng đức tin nơi một Thiên Chúa duy nhất Ba Ngôi. Ngay từ  kinh Tin kính thời các thánh tông đồ, đức tin vào Chúa Ba Ngôi đã được tuyên xưng cách rõ rệt: “Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng… tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô là Con một Đức Chúa Cha… Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần…”. Công đồng Rô-ma năm 382 đã viết: “Đây là ơn cứu rỗi của các Kitô hữu: tin vào Chúa Ba Ngôi, tức là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; được thanh tẩy trong Chúa Ba Ngôi, chúng ta phải tin vững vàng rằng Thiên Chúa Ba Ngôi là một Thiên Chúa duy nhất và quyền năng, vinh quang và hằng hữu”. Trải qua mọi thế hệ, đức tin Kitô giáo tiếp tục được suy tư và tái khẳng định: “Ba ngôi vị này chỉ là một Thiên Chúa duy nhất chứ không phải ba “thiên chúa”… do sự duy nhất này, Chúa Cha hoàn toàn ở trong Chúa Con, hoàn toàn ở trong Chúa Thánh Thần; Chúa Thánh Thần hoàn toàn ở trong Chúa Cha và hoàn toàn ở trong Chúa Con…” (Tông sắc Cantate Domini của Đức Giáo Hoàng Eugène IV, năm 1442). Khi làm dấu Thánh giá, tôi xác tín nơi Thiên Chúa, Đấng là lý tưởng và mẫu mực của tôi. Tôi chọn Ngài như đích điểm duy nhất của cuộc đời. Chúa Ba Ngôi là cội nguồn và đích điểm của đời người tín hữu. Tôi được sinh ra trong Chúa Ba Ngôi, cùng đích đời tôi đang nhắm tới cũng là Chúa Ba Ngôi. Nơi Ngài, tôi được ngụp lặn trong bể tình yêu lai láng vô bờ ấy. Trong hành trình trần thế, Chúa Ba Ngôi luôn phù trợ và nâng đỡ tôi: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy” (Ga 14 23). Tôi là một tác phẩm do Chúa Ba Ngôi thực hiện: Chúa Cha sáng tạo cho tôi hiện hữu; Chúa Con Thanh tẩy cho tôi nên sạch trong; Chúa Thánh Thần thêm sức cho tôi lớn mạnh. Ý thức được điều đó, lòng tôi hân hoan vui mừng, vì ngay ở đời này, tôi đã được nếm hưởng hạnh phúc Nước Trời. Chính nhờ thế mà tôi vững tin và can đảm vượt lên những chướng ngại của cuộc đời. Sức mạnh của đức tin thật kỳ diệu là thế.

Dấu Thánh giá: cội nguồn sức mạnh

Cùng với lời tuyên xưng Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần, tôi phác họa hình Thánh giá trên mình: từ trán, xuống ngực và hai vai. Bốn điểm nhấn trên cơ thể tôi làm thành hình Thánh giá. Lời tuyên xưng đức tin của tôi được nhấn mạnh ở một mầu nhiệm rất quan trọng của Kitô giáo, đó là mầu nhiệm cứu chuộc. Đã hơn hai ngàn năm qua, một con người bị treo trên cây gỗ đã trở thành nguồn sức mạnh cho biết bao thế hệ. Người ta đến với cây gỗ để ôn lại một biến cố đã xảy ra trong lịch sử: Con Thiên Chúa chịu đóng đinh trên thập giá. Vâng, Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, đã mang lấy trên thân thể mình tội lỗi của muôn dân. Người đã chết để cho con người được sống; Người đã đón nhận nhục hình để con người được vinh quang. Đứng trước Thánh giá, người gian ác được cải hoá để trở nên lương thiện; người thù hận được biến đổi để trở thành bao dung. Hai cây gỗ, một ngang một dọc, ẩn chứa bao sức mạnh thần kỳ. Khi làm dấu Thánh giá trên mình, tôi tuyên xưng Chúa đã dùng Thánh giá để chuộc tội cho tôi. Tôi cũng cầu xin Chúa ban sức mạnh để vác thánh giá cuộc đời. Quả thế, mỗi mảnh đời mang một cây thập giá; mỗi đôi vai mang một nỗi truân chuyên. Với tâm tình của Chúa Giêsu, thập giá trần gian sẽ trở nên nhẹ nhàng; với tình yêu rộng mở, gánh nặng cuộc đời sẽ bớt  thê lương “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30). Vâng, khi làm dấu Thánh giá trên mình, tôi muốn làm học trò của Thày Giêsu, để Người dạy tôi nên người trọn hảo. Dấu Thánh giá đem lại cho tôi sức mạng kỳ diệu là thế.

Dấu Thánh giá: sứ mạng của người Kitô hữu

Khi tôi được dìm mình trong dòng nước Thanh Tẩy, linh mục chủ sự tuyên đọc: “Ta rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Tôi được tẩy rửa không phải vì một mục đích trần thế, cũng không phải nhằm đến một lý tưởng nhân loại. Tôi được tẩy rửa nhân danh Thiên Chúa quyền năng. Nhờ lời tuyên đọc đi liền với nghi thức đổ nước trên đầu hoặc dìm mình trong dòng nước, tôi được tái sinh làm người mới, được trở nên đền thờ của Chúa Ba Ngôi. Và thế là, trong suốt cuộc đời tín hữu của tôi, dù thức hay ngủ, dù làm việc hay nghỉ ngơi, dù ở nhà hay nơi phố chợ, tôi đều nhân danh Chúa Ba Ngôi. “Dấu Thánh giá” giúp tôi nhận ra mình có một sứ mạng cao cả trong cõi nhân sinh bao la này. Thánh Phaolô đã viết: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” ( 1Cr 10,31); hoặc : “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3,17). Khi nhân danh Chúa Ba Ngôi, cuộc đời tôi mang một chiều kích mới. Những lời nói của tôi là lời nói thân thiện, những việc làm của tôi là việc làm hữu ích. Một khi đã nhân danh Chúa Ba Ngôi, tôi không còn nói lời hai ý, lời nói của tôi phải là “có” thì nói “có”, “không” thì nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5, 37). Nhân danh Chúa Ba Ngôi đối với tôi không chỉ là một vinh dự, mà còn là một sứ mạng, đó là làm cho vinh quang Chúa tỏ rạng trong mọi nơi mọi lúc của cuộc sống. Mỗi khi đi đến đâu, tôi làm cho hình ảnh Thiên Chúa rạng rỡ nơi gương mặt và cuộc đời của tôi. Lời nói của tôi là lời của Chúa; việc làm của tôi là việc làm của Chúa. Kitô hữu là người đem Chúa vào đời. Đó chính là ơn gọi chứng nhân mà Đức Kitô đang mời gọi chúng ta thực hiện. Vì  chưa thực sự nhân danh Chúa Ba Ngôi nên tôi còn là nguyên nhân của sự chia rẽ. Vì chỉ nhân danh mình nên tôi còn quá đề cao cá nhân ích kỷ. Nhân danh Chúa sẽ làm cho đời tôi rập khuôn cuộc đời Đấng Cứu thế. Cái tôi ích kỷ được xoá bỏ, đời tôi được tan biến trong biển tình yêu vô biên của Đấng đã tạo dựng nên tôi thành người.

“Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, Bạn và tôi, chúng ta hãy đọc lời kinh đơn sơ ấy với tâm tình yêu mến, phó thác và cậy trông, và như vậy, trọn cuộc đời chúng ta luôn là một phản ảnh trung thực của Chân Thiện Mỹ nơi chính cuộc đời này.

Về mục lục

.

MẦU NHIỆM TÌNH YÊU

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm tình yêu thương.

Từ đời đời, Chúa Cha yêu Chúa Con. Tình yêu ấy lớn lao đến nỗi Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con giống hệt như mình. Con là hình ảnh hoàn hảo, nguyên tuyền của Cha. Con là chính Cha, nên Đức Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9). Cha có gì thì ban tất cả cho Con. Nên sau này Đức Giêsu đã nói: “Tất cả những gì của Cha đều là của Con” (Ga 16,15). Tình Cha yêu Con thật lớn lao, kỳ diệu. Tình Con đáp lại tình Cha cũng nồng nàn tha thiết không kém. Những gì Con nhận được do tình yêu của Cha thì Con dâng lại cho Cha tất cả. Đức Giêsu vì yêu mến Chúa Cha, nên đã vui lòng xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Trọn cuộc đời, Người luôn tìm thánh ý Chúa Cha để thi hành. Người luôn tâm niệm: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy” (Ga 4,34). Người từ bỏ hết ý riêng mình để chỉ làm theo ý Chúa Cha. Người nên một với Đức Chúa Cha trong tâm tình, trong tư tưởng, trong hành động. “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 14,10). Trong giờ hấp hối, dù sợ hãi cái chết đến độ mồ hôi máu tuôn ra, nhưng Đức Giêsu vẫn luôn vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho Con khỏi uống chén này. Xin đừng theo ý Con, nhưng theo ý Cha mà thôi” (Mt 26,39). Thánh Phaolô đã tóm tắt về cuộc đời Người: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Phil 2,6-8). Tất cả thái độ vâng phục nói lên sự dâng hiến trọn vẹn cho Chúa Cha. Tình yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con là Chúa Thánh Thần.

Ba Ngôi là lò lửa tình yêu lúc nào cũng ngùn ngụt cháy. Ba Ngôi là nguồn mạch tình yêu không bao giờ vơi cạn. Cuộc trao đổi cho đi và nhận lãnh làm cho tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa ngày càng sung mãn dồi dào. Tất cả mọi tình yêu đều bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi. Tất cả mọi tình yêu muốn trung thực và bền vững đều phải học theo khuôn mẫu tình yêu Chúa Ba Ngôi. Hạnh phúc là ta được tham dự vào bầu khí yêu đương của Chúa Ba Ngôi. Hạnh phúc sẽ đến khi mọi người biết yêu thương nhau trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi.

Hôm nay, khi truyền cho ta đi rửa tội cho mọi người nhân danh Chúa Ba Ngôi, Đức Giêsu muốn ta đem tình yêu rửa sạch những oán ghét hận thù đang tàn phá thế giới. Người mong ta đem ngọn lửa tình yêu thắp sáng những gọc tối t8am chiến tranh, chia rẽ. Người mong ta đem mưa tình yêu tưới gội những vùng đất khô cằn vì thiếu vắng tình thương tha thứ. Người muốn cho tình yêu lên ngôi ngự trị trong hết mọi tâm hồn.

Phần ta, những môn đệ của Chúa, mỗi khi ta làm dấu Thánh giá nhân danh Chúa Ba Ngôi, ta hãy xin Ba Ngôi Thiên Chúa in tình yêu thánh thiện của Người vào tâm hồn ta. Xin cho ta được tham dự vào tình yêu vô cùng sung mãn của Người. Xin cho ta trở nên một đốm lửa trong lò lửa yêu thương của Người. Được cháy trong lò lửa tình yêu Chúa Ba Ngôi, ta sẽ trở nên giống như Người, luôn biết cho đi, luôn biết dâng hiến, luôn mưu tìm hạnh phúc cho tha nhân.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Khi cầu nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha. Bạn có cảm thấy Thiên Chúa là người Cha yêu thương và gần gũi không?

2- Bạn có mong muốn được tham dự vào luồng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không?

3- Thiên Chúa dựng nên bạn giống hình ảnh Người. Bạn đã thực sự là hình ảnh tình yêu thương của Chúa đối với những người chung quanh chưa?

4- Sau khi đã hiểu rõ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, bạn sẽ có thái độ nào đối với Chúa và đối với anh em?

Về mục lục

.

LÀM DẤU THÁNH GIÁ

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có bao giờ bạn nghì rằng : tại sao mình lại làm dấu? Làm dấu trước mọi công việc. Làm dấu trước và sau khi ăn. Làm dấu khi sợ hãi, khi gặp gian nan. Nghĩa là làm dấu không đơn thuần là biểu lộ niềm tin Công Giáo mà còn là xin thêm sức mạnh từ Thiên Chúa. Làm dấu còn biểu lộ niềm tín thác vào quyền năng của Thiên Chúa có thể che chở hồn xác chúng ta.

Đó là điều mà nhạc sĩ Lê Đức Hùng đã diễn tã qua lời bài hát “Làm Dấu” mà ca sĩ Phan Đình Tùng từng hát. 

 Bài hát được khởi đầu bằng lời xác quyết:  “Con đặt lên trán tôn vinh Chúa Cha toàn năng. Con đưa tay xuống ngực chúc tụng Chúa con từng yêu. Đưa tay sang trái- phải vinh danh Chúa Thánh Thần nguồn ơn Thánh thiêng hồng phúc đời con….

Và rồi bài hát mời gọi chúng ta hãy làm dấu để xin ơn Chúa. Vì phải có ơn Chúa chúng ta mới làm mọi việc êm trôi. “Giữa hiểm nguy khốn khó, con làm dấu xin ơn bình an. Trong an vui ngập tràn con làm dấu hân hoan tạ ơn. Khi cô đơn thất vọng, khi mệt mỏi chán chường. Chúa ơi ở bên con nhé!”

Như vậy làm dấu là để thêm ơn Chúa. Làm dấu để xin ơn trợ lực, giúp sức từ Thiên Chúa. Làm dấu như dây sạc nối đời ta với Thiên Chúa. Điện thoại ta dùng hằng ngày cần phải kết nối với nguồn điện để duy trì hoạt động. Cuộc đời con người cũng cần kết nối với nguồn năng lượng ân sủng của Chúa để được sống hạnh phúc và sung mãn hơn.

Chúa Giê-su khi chỉ thị cho các môn đệ ra đi làm phép rửa nhân danh Chúa thì Ngài cũng hứa sẽ ở cùng các ông để tăng thêm sức mạnh cho các ông. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần… Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:19-20)

Khi các môn đệ nhân danh Chúa Ba Ngôi thì các ông còn làm được những chuyện phi thường hơn nữa : “Nhân danh Thầy họ sẽ trừ được quỉ, nói được các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe”(Mc 16: 17-18).

Như vậy khi làm dấu thánh giá nhân danh Chúa Ba Ngôi thì con người nhận lãnh nguồn sung mãn của Người. Con người như được tiếp sức từ sức mạnh của Thiên Chúa để có thể làm được nhiều điều phi thường. Thực vậy, có những điều tưởng chừng như bế tắc cùng đường, nhưng khi làm dấu thánh giá kêu cầu Chúa Ba Ngôi thì bế tắc đó lại được khai thông. Có những khi tôi sợ hãi, tôi làm dấu và thưa với Chúa : Chúa ơi, con sợ qúa, xin giúp con. Và quả thực tôi lại tìm được bình an. Có những khi gặp khó khăn trong công việc, tôi làm dấu và thưa với Chúa : Chúa ơi, con bất lực, xin giúp con, và dường như mỗi lần như thế tôi lại tìm được sức mạnh của Chúa để vượt qua.

Cuộc sống luôn đong đầy những khó khăn của cơm áo gạo tiền, của tuổi già bệnh tật, của tai ương hoạn nạn bất ngờ đưa đến. Cuộc sống vốn dĩ đầy những nổi trôi như muốn dìm chúng ta trong bể khổ trần gian. Có đôi lúc chúng ta cảm thấy bất lực vì những gì đang diễn ra trong cuộc đời. Có đôi lúc chúng ta cảm thấy chán nản vì những chuyện ngoài ý muốn vẫn đến với chúng ta. Đó là lúc mà Chúa bảo với chúng ta hãy tin tưởng vào Chúa, vì « Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế »

Ước gì chúng ta có đủ niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa để có thể phó thác cho Chúa. Ước gì khi làm dấu nhân danh Chúa Ba Ngôi chúng ta cũng nhận lãnh được sức mạnh, ân sủng và tình thương của Chúa để vượt qua những khó nguy trong cuộc đời. Xin Chúa giúp chúng ta luôn nhớ đến Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc đời để tạ ơn và cầu xin sức mạnh của Chúa bảo vệ cuộc đời chúng ta. Amen

Về mục lục

 

TÔN VINH THIÊN CHÚA TÌNH YÊU

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 

Từ xưa đến nay, con người luôn khao khát tìm kiếm và khám phá về Thiên Chúa của mình. Người ta muốn biến Thiên Chúa thành một đối tượng khoa học để nghiên cứu hơn là bằng sự cảm nghiệm và đón nhận. Chúng ta có thể thấy khao khát này thể hiện qua câu chuyện ông Môsê khi được tiếp xúc với Thiên Chúa ở bụi gai cháy lửa. Ông hỏi Thiên Chúa : “Thưa Ngài, Ngài là ai ? Ngài tên là gì ?”. Chắc chắn với trí óc hạn hẹp, Môsê không thể hiểu hết được câu trả lời của Thiên Chúa : “Ta là Đấng Ta là”, nhưng ông đã tin, đã đón nhận Thiên Chúa như một Đấng siêu việt.
Thánh Augustinô, một lần đi dạo trên bãi biển suy gẫm về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, thấy một em bé đang chơi trên bờ biển, em bé lấy vỏ sò múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ. Thánh Augustinô tiến lại hỏi em : Cháu đang làm gì vậy ? Em bé trả lời : Cháu định múc hết nước biển để đổ vào cái lỗ này. Thánh nhân trả lời em bé : Sao cháu làm chuyện vô ích như vậy ? Làm sao có thể múc được hết nước biển để đổ vào cái lỗ được ? Em bé trả lời : Cháu đang làm một việc giống như bác thôi : Làm sao bác có thể dùng trí khôn của mình để chứa đựng hết mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được ?
 Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội tuyên xưng mầu nhiệm chính yếu của đức tin Kitô Giáo, đó là mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi tuy riêng biệt nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Chúng ta không thể dùng trí khôn hạn hẹp để khám phá hết mầu nhiệm Thiên Chúa, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là chúng ta không thể hiểu biết gì về Thiên Chúa. Để hiểu biết về Thiên Chúa, chúng ta không chỉ dùng trí khôn suy luận, nhưng điều quan trọng hơn là cần cảm nghiệm bằng trái tim và đón nhận bằng đức tin.
Bài đọc một hôm nay cho thấy Môsê đã cảm nhận được sự hiện diện quan phòng của Thiên Chúa, Đấng mà ông đã từng trò chuyện với Ngài nơi bụi gai, Đấng đã dùng cánh tay hùng mạnh để bênh vực Israel. Môsê đã nói lên niềm tin ấy. Ông còn nhắn nhủ dân Israel hãy nhìn vào kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện để thêm tin tưởng và tự hào mình là dân được Chúa tuyển chọn. Thiên Chúa Israel tôn thờ là Thiên Chúa vô hình, nhưng Ngài vẫn hiện diện bằng quyền năng và nhất là Israel có thể nghe được tiếng Thiên Chúa nói với họ. Ngài tuy ở xa nhưng lại rất gần. Ngài là Thiên Chúa thống trị cả vũ trụ mà lại chọn Israel làm dân riêng, để từ đó, Ngài trở nên liên lụy với con người và chăm sóc con người như người cha lo cho con cái.
Nhận ra Thiên Chúa là Đấng quyền năng, là Cha yêu thương, dân Israel phải một lòng một dạ tôn thờ Thiên Chúa. Ai một dạ trung thành với Thiên Chúa thì sẽ được hưởng hạnh phúc đời đời, còn ai thay lòng đổi dạ chạy theo thờ cúng các thần minh khác, thì sẽ bị loại trừ và sẽ phải chết đời đời. Vì chỉ có Thiên Chúa của Israel tôn thờ mới là Thiên Chúa duy nhất chân thật.
Niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất của dân Israel là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Khi Chúa Giêsu đến, qua lời giảng dạy và các giáo huấn, Ngài hướng mọi người về niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, là Thiên Chúa Ba Ngôi : Cha, Con và Thánh Thần. Qua lời giảng dạy và các phép lạ, nhất là qua cuộc tử nạn và phục sinh, Chúa Giêsu cho thấy Ngài chính là Ngôi Hai của Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, Đấng đến từ cung lòng Thiên Chúa Cha để nói cho chúng ta về Thiên Chúa là Cha và Chúa Giêsu chính là Chúa Con, là Đấng Cứu Thế.
Lời khẳng định của Chúa Giêsu không dễ dàng được chấp nhận, vì vậy, Ngài đã vấp phải sự phản đối kịch liệt từ những người Do Thái. Tuy nhiên vẫn có nhiều người đã tin theo Chúa Giêsu, đón nhận Ngài như một vị Thiên Chúa, mặc dù họ chưa thể hiểu hết về Ngài. Chỉ sau cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu, các môn đệ mới đi đến một niềm tin chắc chắn Thầy của các ông chính là Thiên Chúa. Các ông bái lạy Ngài như các ông vẫn bái lạy Thiên Chúa, Đấng mà dân Israel tôn thờ.
Không chỉ mạc khải về chính mình là Thiên Chúa, Chúa Giêsu còn nói đến Chúa Thánh Thần là Đấng từ nơi Thiên Chúa Cha sai đến để canh tân, biến đổi và thánh hóa những kẻ tin vào Chúa Giêsu. Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu trình bày dưới rất nhiều hình ảnh khác nhau. Khi nói chuyện với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu ví Chúa Thánh Thần như làn gió mát ; khi nói với các Tông đồ, Chúa Giêsu gọi Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ, Thần Chân Lý và là Thiên Chúa.
Việc dùng nhiều tên, nhiều hình ảnh để mạc khải về Chúa Thánh Thần cho thấy Chúa Thánh Thần là một vị Thiên Chúa “linh hoạt”, Ngài hoạt động trong hết mọi chương trình của Thiên Chúa, từ khi tạo dựng đến chương trình cứu độ. Kể từ sau khi Chúa Giêsu về trời, Chúa Thánh Thần lại càng hoạt động cách mạnh mẽ và cụ thể hơn nơi Giáo Hội và thế giới. Khởi đi từ ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã làm nên cuộc canh tân kỳ diệu nơi các Tông đồ và hoạt động mạnh mẽ trên Giáo hội sơ khai để quy tụ muôn dân muôn nước.
Thư Rôma còn cho thấy Chúa Thánh Thần không chỉ hoạt động cách chung chung trong Giáo Hội và thế giới mà Ngài vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong tâm hồn của từng tín hữu. Chính nhờ được thanh tẩy trong nước và Thánh Thần, mỗi người được trở nên tạo vật mới, được gọi Thiên Chúa là Cha, được nên anh em với nhau trong tình nghĩa tử với Chúa Giêsu. Chính Chúa Thánh Thần cho chúng ta sức mạnh và làm cho lòng tin của chúng ta thêm kiên vững để chúng ta có thể mạnh dạn gọi Thiên Chúa là Abba, nghĩa là Cha ơi, Bố ơi. Thánh Thần còn liên tục hoạt động trong tâm hồn mỗi người, giúp chúng ta sống cho xứng đáng với ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Suy niệm mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi không làm cho chúng ta rối trí, nhưng giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện cụ thể của Ba Ngôi Thiên Chúa trong thế giới và trong mỗi người. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là mầu nhiệm xa lạ, nhưng gần gũi với tất cả mỗi người. Nhờ chiêm ngắm các hoạt động của Thiên Chúa, chúng ta như có thể đụng chạm đến sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa  trong vũ trụ và nơi chúng ta.
Cử hành mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta khiêm tốn sấp mình thờ lạy Thiên Chúa, Đấng muôn trùng siêu việt, đồng thời tin tưởng và dám phó thác cuộc đời trong vòng tay Thiên Chúa. Chúng ta nhớ rằng, con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và được Thiên Chúa yêu thương. Vì thế, chúng ta có bổn phận sống đáp đền tình yêu của Thiên Chúa, gìn giữ và làm cho hình ảnh của Thiên Chúa ngày càng thêm rõ nét nơi gương mặt và cuộc sống chúng ta.
Thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần, linh hồn chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi, vì thế, chúng ta cần bảo vệ và gìn giữ sự thánh thiêng trong sạch của đền thờ Thiên Chúa nơi linh hồn và thân xác mình. Cần tẩy trừ khỏi đền thờ tâm hồn những gì là cũ kỹ, hôi hám của tội lỗi ; những màng nhện và bụi bặm bởi thói quen, tật xấu ; đồng thời, tô điểm cho đền thờ tâm hồn bằng những nhân đức và các việc hy sinh, bác ái, yêu thương. Các bạn trẻ đang sống trong một thế giới ô nhiễm bởi những phim ảnh, sách báo và lối sống đề cao tình dục, bạo lực. Chúng ta cần can đảm chiến đấu để chống lại những khuynh hướng và những lôi kéo xấu đó. “Lối sống đen” này đang len lỏi vào tâm hồn, bôi bẩn, làm ô uế thân xác và tâm hồn chúng ta. Cậy nhờ ơn Chúa qua Bí tích giải tội và Thánh Thể, xin Chúa giữ gìn linh hồn và thân xác mình trong sạch và cũng biết tôn trọng và bảo vệ sự trong sạch của người khác nữa.
Mỗi gia đình được dựng nên theo hình ảnh và khuôn mẫu của gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa. Vì thế, cha mẹ cần làm cho gia đình mình nên giống Gia đình Ba Ngôi bằng việc củng cố, xây dựng tình yêu thương, sự hiệp thông trong gia đình. Muốn được như vậy, hãy sống yêu thương quảng đại hơn nữa để làm cho gia đình mình ngập tràn niềm vui và tiếng cười, canh tân biến đổi đời sống bản thân để làm cho gia đình mỗi ngày nên thánh, nên giống gia đình Ba Ngôi hơn.
Xin cho chúng ta biết mạnh dạn tuyên xưng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá trên mình. Amen.

Về mục lục

 

HUYỀN NHIỆM TÌNH YÊU

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Một sinh viên vô thần nói với một vị linh mục: thưa cha, tôi thấy trong Kitô giáo có một chân lý khó tin, lạ lùng gọi là “mầu nhiệm Ba Ngôi”. Phải hiểu thế nào kiểu nói “Thiên Chúa có một bản tính nhưng ba ngôi vị”? Một mà ba, ba mà một! Thật khó hiểu, nếu không nói là phi lý!.

Vị linh mục hỏi: Anh còn trẻ, chắc đang sống kinh nghiệm tình yêu?

Ủa! Sao cha hỏi lại thế ? Đúng là tôi đang yêu thật!

Theo anh, tình yêu trước hết đòi hỏi phải có những gì? 

Đòi hỏi phải có từ hai người trở lên! Tự ái chỉ là ích kỷ, không thể gọi là tình yêu được!

Đúng lắm! Nhưng tình yêu hướng đến cái gì?

Hướng đến sự hiệp nhất! Tất cả phải nên một! Tình yêu nam nữ hướng đến hiệp nhất tâm hồn, thể xác và cuộc sống. Tình đồng chí, tình bằng hữu… hướng đến hiệp nhất cuộc sống và tâm hồn!

Nhưng theo anh, sự hiệp nhất này có bao giờ đạt được chăng?

Phải nói ngay đó chỉ là ước vọng. Ví dụ, những năm đầu cuộc sống hôn nhân thì “anh nói em nghe, em nói anh nghe”, nhưng năm sau thì “cả hai cùng nói, hàng xóm nghe!”. Trong một tập thể nhiều người, đồng tâm nhất trí lại càng khó thực hiện.

Cái chỉ là ước vọng nơi con người, thì đã thành hiện thực nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa của Kitô giáo là Thiên Chúa độc nhất, nhưng vì Ngài là Tình Yêu nên có Ba Ngôi. Ngài là Ba Ngôi, nhưng vì là Tình Yêu, nên đã hợp nhất thành một Thiên Chúa.

Cho tôi hỏi câu cuối cùng: Tại sao là ba mà không phải là hai, như trong tình yêu nam nữ?

Sau này có gia đình, anh và vợ chỉ yêu nhau mà không muốn có con, sợ thêm hy sinh, thêm trách nhiệm, tình yêu anh chị có chân thật và bền vững không?

Thưa không! Tình yêu chúng tôi phải chảy tràn qua và thể hiện thành một đứa con, ít nhất một đứa; nếu không thì chỉ là tình yêu mình trong người bạn đời của mình. Ngoài ra, tình yêu ấy còn phải trải rộng cho mọi người chung quanh nữa! 

Anh bạn thân mến, anh sắp hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi rồi. Nhưng đừng áp dụng quá sít sao đấy nhé!

Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau :

Đố ai biết lúa mấy cây,
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng.
Đố ai quét sạch lá rừng,
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.

Có lẽ trong tất cả mọi điều khó hiểu của cuộc sống con người thì tình yêu là khó hiểu nhất. Chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm.

Thế nhưng, mầu nhiệm tình yêu có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là cao cả nhất, khó hiểu nhất. Như sách giáo lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định : Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa “cho chúng ta”.

Trước mầu nhiệm Ba Ngôi, một mầu nhiệm cao sâu,trí khôn nhỏ bé của con người không thể hiểu nổi.Tại sao Một Chúa mà Ba Ngôi? 1 là 3 và 3 là 1 ?.

Vậy phải hiểu và đón nhận mầu nhiệm quá cao siêu này như thế nào?

Ba Ngôi là một mầu nhiệm thuộc đời sống nội tại của Thiên Chúa, vượt qúa mọi khả năng hiểu biết và suy luận của trí khôn hữu hạn con người. Qua bao thời đại, trí khôn con người dựa vào mạc khải để tìm hiểu huyền nhiệm sâu thẳm này.

Thánh kinh có bàn nhiều về mầu nhiệm Ba Ngôi.

– Mạc khải Cựu ước chủ yếu là mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất nhưng cũng có mầm móng về mầu nhiệm Ba Ngôi.Niềm tin độc thần là tín điều lớn nhất của Cựu ước (Đnl 6,4-5). Điều này cần thiết cho bối cảnh đa thần giáo ở Trung đông thời bấy giờ.

– Mạc khải Tân ước dạy rõ ràng hơn về Thiên Chúa Ba Ngôi. Sứ thần Gabriel đến báo tin cho Đức Maria: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ che chở bà, vì thế Hài Nhi bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Những lời đó cho biết: Đấng Tối Cao là Chúa Cha cùng với Chúa Thánh Thần sẽ lo cho Hài Nhi sắp sinh ra là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Hình ảnh đặc trưng nhất là khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, chim bồ câu ngự xuống đậu trên Ngài (Ga1,32-34); tiếng Chúa Cha tuyên phán : Con là con Ta yêu dấu (Mt 1,11).Tiếng nói, chim câu,Chúa Giêsu,ba hình ảnh này tạo nên chân dung sống động về Ba Ngôi. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bàu Chữa khác, đó là Thần Khí sự thật…”. Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban Đấng Bàu Chữa là Thần Khí sự thật, Ngài là Chúa Thánh Thần.

Trong Phúc âm Matthêu có câu nói nổi tiếng về Ba Ngôi “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”( Mt 28,19).Thánh Phaolô luôn cầu chúc: Ân sủng của Đức Kitô,tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.

Chỉ có một Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi và là Ba Ngôi : Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần. Mỗi ngôi vị đều là Thiên Chúa, dù vậy vẫn chỉ có một Thiên Chúa mà thôi. Mỗi ngôi vị đều bằng nhau về thần tính và ưu phẩm, nhưng không có ba Thiên Chúa ngang nhau mà chỉ có một Thiên Chúa. Mỗi ngôi vị đều có trọn vẹn sự sống thần linh trong mình dù chỉ có một sự sống thần linh duy nhất.Nói theo từ ngữ của Công đồng Vatican II : Sáng kiến cứu độ là của Chúa Cha. Chúa Cha chia sẻ và bàn bạc sáng kiến ấy với Chúa Con và Chúa Thánh Thần.Việc thực hiện sáng kiến ấy giống như một bản trường ca gồm hai phần chính.Đức Kitô thực hiện phần đầu; Ngài nhập thể, mạc khải về Chúa Cha dâng lên Cha hy lễ thập giá để cứu độ. Phần hai, dựa vào công trình ấy mà nâng con người lên, đưa con người về cùng Cha, đó là phần vụ của Chúa Thánh Thần. Thánh Ignatio Loyola trong một lần cầu nguyện, bỗng nhiên nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.

Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là cộng đồng Ba Ngôi thương yêu nhau hướng về nhau.Ba Ngôi là một gia đình.Giáo hội là một gia đình của Thiên Chúa.Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Trưởng Tử, mọi người là anh chị em của nhau.Đạo lý Đông phương vốn trọng chữ trung chữ hiếu và chữ nhân, rất gần gũi với tinh thần Kitô giáo.Trung với Chúa, hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ, nhân ái với mọi người.

Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất là một mầu nhiệm vĩ đại thâm sâu mà trí tuệ con người không thể nào hiểu hết, chỉ có thể đón nhận bằng đức tin.Thực tại Ba Ngôi không là một điều nghịch lý nhưng là nghịch thường và siêu lý.Mầu nhiệm Ba Ngôi là ánh sáng chói loà rực rỡ, ánh sáng ban sự sống cho những ai khiêm nhường đón nhận và sẽ là bóng tối dày đặc đầy mâu thuẫn đối với những kẻ kiêu căng muốn dùng lý trí làm thước đo siêu việt.

Nhìn lên cung thánh, ta thấy Thánh Giá, Nhà Tạm, Bàn Thờ. Đó là trung tâm niềm tin của người Kitô hữu.Trên Thánh Giá, Đức Kitô đã tự hiến làm hy lễ dâng lên Chúa Cha.Ngài tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trong tinh thần vâng phục và yêu mến đối với Cha, để thiết lập giao ước mới với Giáo hội trong máu của Ngài. Ngài đã phục sinh về với Cha nhưng vẫn luôn ở lại với Giáo hội qua Bí Tích Thánh Thể mà Nhà Tạm là nơi Ngài hiện diện thường trực. Bàn thờ tượng trưng cho Chúa Kitô, khi linh mục cử hành thánh lễ là tưởng niệm hy lễ thập giá và cử hành mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô.

Ba Ngôi sống bằng một lương thực thần linh, cùng một sự sống, đó là tình yêu thần linh.Chúng ta được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi khi đi vào cử hành mầu nhiệm vượt qua trong thánh lễ.Với chúng ta, sự sống ấy là sự sống của Đức Kitô, Mình và Máu Đức Kitô trao ban qua Thánh Thể “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6,34). Khi chia sẻ chén hiệp thông của Ba Ngôi,chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau để trở nên một như Ba Ngôi là một ( Ga 17,21).

Người tín hữu đến Nhà thờ để tìm Chúa và gặp Chúa. Đức Hồng y Henry de Lubac diễn tả: Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương.Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng.Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến.Nhưng Thiên Chúa vừa là bến bờ vừa là đại dương. Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa. Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa,tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa. Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu,không gặp mâu thuẫn và đau khổ.Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.

Qua phép rửa nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, chúng ta trở thành nghĩa tử của Chúa Cha (x.Rm 8,15), em của Chúa Con (x.Rm 8,29) và đền thờ của Thánh Thần (x.1Cr 6,19), hợp thành Giáo Hội là “dân thánh được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi” (Hiến chế GH 4). Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong gia đình, cha mẹ, con cái yêu thương nhau thì càng hiệp nhất nên một. Tình yêu là dây liên kết mọi người nên một gia đình hạnh phúc ấm êm. Gia đình là nơi sống và diễn tả huyền nhiệm Ba Ngôi rõ nét nhất.

Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẻ, là ở lại trong tình yêu. Mỗi ngày người tín hữu chúng ta làm dấu Thánh giá nhiều lần trên thân xác “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Ước gì mỗi người cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, hiệp thông chia sẻ trong cuộc sống hàng ngày của mình.

Về mục lục

 

TAM VỊ NHẤT THỂ

Trầm Thiên Thu

Tam Vị Nhất Thể là Một Chúa Ba Ngôi, là Thiên Chúa “ba trong một”. Trinity (Tam Vị Nhất Thể) có từ gốc Latin là “trinitas” – nghĩa là “ba” (triad), tiếng Hy Lạp tương đương là “triados”. Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của niềm tin Kitô giáo.

Tín điều Chúa Ba Ngôi được xác định trong hai giai đoạn: Tại Công đồng Nicê I (năm 325 sau công nguyên) và tại Công đồng Constantinope I (năm 381 sau công nguyên).

Từ khi sinh ra, trẻ em Công giáo được cha mẹ dạy bài học đầu tiên là làm Dấu Thánh Giá: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thn”. Chúng ta được đóng dấu ấn thánh này khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, và ấn tín này ghi đậm suốt cuộc đời chúng ta.

Hằng ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần: khi đi ngủ, khi thức dậy, khi tham dự Thánh lễ, khi cầu nguyện, khi ăn uống, khi ra đường,… Chúng ta dùng Dấu Thánh Giá để ca tụng và kêu xin Thiên Chúa mọi nơi và mọi lúc. Năm 211, trong cuốn The Chaplet (chuỗi hạt, tràng hạt), thần học gia Công giáo Tertullian nói về việc làm Dấu Thánh Giá như nhiệm vụ hằng ngày: “Trước khi di chuyn, đi xa hoc đi đâu đó, khi mc qun áo, khi tm, khi ngi vào bàn ăn, khi thp đèn, hoc khi làm bt k hành đng nào trong cuc sng đi thường, chúng ta vn v Du Thánh Giá trên trán.

Làm Dấu Thánh Giá không chỉ xin Ngài thánh hóa chúng ta và những gì chúng ta làm, mà đặc biệt là tôn vinh và tuyên xưng Một Chúa Ba Ngôi. Trong các giờ Phụng Vụ, chúng ta cũng nhiều lần xưng tụng Thiên Chúa Ba Ngôi: “Sáng danh Đc Chúa Cha và Đc Chúa Con và Đc Chúa Thánh Thn…”.

Chính Thiên Chúa đã xác định: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đng hin có, đã có và đang đến, là Đng Toàn Năng (Kh 1:8). Ngài là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 1:17; Kh 2:8; Kh 22:13). Ngài tuyên ngôn rạch ròi: “Ngươi KHÔNG ĐƯỢC có thn nào khác đi nghch vi Ta. Ngươi KHÔNG ĐƯỢC tc tượng, v hình bt c vt gì trên tri cao, cũng như dưới đt thp, hoc trong nước phía dưới mt đt, đ mà th. Ngươi KHÔNG ĐƯỢC ph phc trước nhng th đó mà phng th: vì Ta, Đc Chúa, Thiên Chúa ca ngươi, là mt v thn ghen tương. Đi vi nhng k ghét Ta, Ta pht con cháu đến ba bn đi vì ti li ca cha ông. Còn vi nhng ai yêu mến Ta và gi các mnh lnh ca Ta, thì Ta trn nim nhân nghĩa đến ngàn đi (Xh 20:3-6; x. Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 32:39; Is 43:10; Is 44:8; Is 45:6; Is 46:9; Hs 13:4). Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng Tam Vị Nhất Thể, là Thiên Chúa duy nhất.

Trên núi Khô-rếp, Thiên Chúa đã mặc khải qua Mô-sê: “Anh em c hi nhng thi xa xưa, thi có trước anh em, t ngày Thiên Chúa dng nên con người trên mt đt; c hi t chân tri này đến chân tri kia: có bao gi đã xy ra chuyn vĩ đi như thế, hay có ai đã nghe điu ging như vy chăng? Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên Chúa phán t trong đám la như anh em đã nghe, mà vn còn sng không? Hoc có thn nào đã ra công đi chn ly cho mình mt dân tc t gia mt dân tc khác, đã dùng bao th thách, du l, đim thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mnh m uy quyn, gây kinh hn táng đm, như Đc Chúa, Thiên Chúa ca anh em, đã làm cho anh em ti Ai-cp, trước mt anh em không?” (Ðnl 4:32-34).

Và rồi Mô-sê tiếp tục cho dân chúng biết quyết định của Thiên Chúa: “Anh em phi biết và đ tâm suy nim điu này: trên tri cao cũng như dưới đt thp, chính Đc Chúa là Thiên Chúa, ch không có thn nào khác na. Anh em phi gi các thánh ch và mnh lnh ca Người, mà hôm nay tôi truyn cho anh em; như vy anh em và con cháu anh em sau này s được hnh phúc, và anh em s được sng lâu trên đt mà Đc Chúa, Thiên Chúa ca anh em, vĩnh vin ban cho anh em (Ðnl 4:39-40).

Các mệnh lệnh rất rõ ràng, mãnh liệt, chắc chắn. Phàm điều gì đã là mệnh lệnh thì phải nghiêm túc thực hiện, không thể tùy ý, tùy hứng, dù biết rằng làm theo thì được thưởng. Thiên Chúa vui vẻ, thoải mái, nhưng nghiêm túc, dứt khoát, không nói đùa.

Tác giả Thánh Vịnh nhận xét: “Vì li Chúa phán qu là ngay thng, mi vic Chúa làm đu đáng cy tin. Chúa yêu thích điu công minh chính trc, tình thương Chúa chan hoà mt đt (Tv 33:4-5). Quả thật, Thiên Chúa là Đấng hằng hữu, hằng sinh và toàn năng, “một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33:6). Thật kỳ diệu, Thiên Chúa chỉ phán một lời là “muôn loài xuất hiện”, và Ngài ban lệnh truyền thì “tất cả được dựng nên” (Tv 33:9). Chắc chắn không có một chúa nào khác toàn năng như vậy, và cũng chẳng một thần linh nào có thể làm được như Thiên Chúa của chúng ta.

Thật hạnh phúc khi đức tin của chúng ta không lệch lạc, và chúng ta đang tôn thờ một Thiên Chúa vô song, độc nhất vô nhị. Đặc biệt là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Đấng giàu lòng thương xót: “Chúa đ mt trông nom người kính s Chúa, k trông cy vào lòng Chúa yêu thương, hu cu h khi tay thn chết và nuôi sng trong bui cơ hàn. Tâm hn chúng tôi đi trông Chúa, bi Người luôn che ch phù trì” (Tv 33:18-20). Tuy nhiên, vì tôn kính và yêu mến, chúng ta vẫn phải không ngừng cầu xin: “Xin đ tình thương xung chúng con, ly Chúa, như chúng con hng trông cy nơi Ngài (Tv 33:22). Càng trông cậy thì chúng ta càng được thương xót. Chúng ta chẳng mất gì mà lại được thêm nhiều, thế thì còn gì hơn nữa?

Chúng ta chỉ là tro bụi, là tội nhân, hoàn toàn bất xứng, nhưng chúng ta lại được gọi Thiên Chúa là Cha, nghĩa là chúng ta trở nên con cái Ngài. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Qu vy, phàm ai được Thn Khí Thiên Chúa hướng dn, đu là con cái Thiên Chúa (Rm 8:14). Chúng ta đã và đang có Chúa Thánh Thần trong chúng ta, nghĩa là chúng ta thực sự là con cái Thiên Chúa.

Thánh Phaolô cho biết thêm: “Phn anh em, anh em đã không lãnh nhn Thn Khí khiến anh em tr thành nô l và phi s st như xưa, nhưng là Thn Khí làm cho anh em nên nghĩa t, nh đó chúng ta được kêu lên: ‘Áp-ba! Cha ơi!. Chính Thn Khí chng thc cho thn trí chúng ta rng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vy đã là con thì cũng là tha kế, mà được Thiên Chúa cho tha kế, tc là đng tha kế vi Đc Kitô; vì mt khi cùng chu đau kh vi Người, chúng ta s cùng được hưởng vinh quang vi Người (Rm 8:15-17).

Cái gì cũng có hệ lụy riêng, dù chỉ là điều nhỏ, không quan trọng, huống chi là điều quan trọng. Cuộc sống luôn có những điều tất yếu, được cái này thì cũng có trách nhiệm kèm theo, đó là hệ lụy đương nhiên mà thôi. Thật vậy, có khổ luyện mới khả dĩ thành công, có hạnh phúc nào mà lại không có ít nhiều đau khổ?

Thánh sử Mát-thêu cho biết rằng mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Cuộc hẹn gặp này xảy ra sau khi Ngài phục sinh. Đến nơi, khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Quả thật, lòng tin của con người khó lay chuyển thật! Tuy nhiên, nói đi cũng cần nói lại, con người là phàm tục, chưa thấy ai chết đi mà sống lại bao giờ, thế nên cũng muốn “cân, đo, đong, đếm” xem sao thế thôi. Nếu là chúng ta, chắc gì chúng ta tin ngay, nghĩa là trong mỗi chúng ta vẫn luôn có “loại máu” như Tô-ma Tông Đồ.

Biết có những môn đệ vẫn bán tín bán nghi, nhưng chỉ là “chuyện nhỏ”, Ngài quan tâm vấn đề quan trọng hơn, vì giờ G đã điểm, Ngài biết sắp đến giờ Ngài phải về cùng Cha rồi. Thật vậy, khi đó Ngài đến gần họ và nói: “Thy đã được trao toàn quyn trên tri dưới đt. Vy anh em hãy đi và làm cho muôn dân tr thành môn đ, làm phép ra cho h nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thn, dy bo h tuân gi mi điu Thy đã truyn cho anh em. Và đây, Thy cùng anh em mi ngày cho đến tn thế (Mt 28:18-20).

Đó là trách nhiệm đầu tiên được trao cho các môn đệ, nhưng đồng thời cũng là trách nhiệm của bất kỳ ai mang danh là Kitô hữu: Loan báo Tin Mừng. Đặc biệt hơn, chúng ta đang sống trong chu kỳ năm Tân Phúc Âm Hóa (năm 2014: Phúc-Âm-hóa đời sống gia đình; năm 2015: Phúc-Âm-hóa đời sống giáo xứ và cộng đoàn; và năm 2016: Phúc-Âm-hóa đời sống xã hội).

Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, thiết nghĩ cũng có thể “mở ngoặc” một chút. Thời gian này là lúc chúng ta đang ở vào “cao điểm” của mùa hè, thời tiết khắc nghiệt, trời nắng gay gắt như đổ lửa. Chắc chúng ta còn nhớ người ta vẫn thường cao ngạo nói: “Vt đt ra nước, thay tri làm mưa. Vậy sao người ta không làm mưa cho cơn độ nóng giảm xuống? Chỉ là kiêu ngạo, là “chảnh”, là “nổ” – vì sinh ra trong chiến tranh, thường xuyên nghe tiếng đạn, bom, lại sống gần kho bom nên ảnh hưởng “tiếng nổ”. Với khoa học tiến bộ, người ta cũng đã từng làm được mưa nhân tạo, nhưng chỉ ở diện tích nhỏ, không thể làm nhiều. Và tất nhiên cũng chẳng thấm vào đâu. Nắng vẫn nắng, nóng vẫn nóng.

Thế mà thật lạ, chỉ nhờ một cơn mưa nhỏ ở nơi khác, dù nơi chúng ta ở không mưa, nhưng thời tiết vẫn dịu hẳn xuống, và chúng ta khả dĩ cảm thấy dễ chịu ngay lập tức. Đơn giản như gió. Gió trời khác hẳn gió quạt điện, khác một trời một vực. Gió trời làm chúng ta dễ chịu vì có hơi nước tự nhiên, gió quạt điện chỉ là khua “không khí nóng”, không thể làm chúng ta dễ chịu. Người ta còn có những cách “chữa lửa” bằng cách xịt hơi nước, nhưng cũng không thể làm giảm độ nóng, không thể làm chúng ta dễ chịu.

Vậy phải làm sao? Ai có thể làm được để chúng ta cầu cứu? Chắc chắn chỉ có Một Chúa Ba Ngôi làm được mọi thứ, ngay cả những điều mà con người đành thúc thủ, phải chịu “bó tay”. Thật vậy, có lần Chúa Giêsu đã từng nhìn thẳng vào các môn đệ và nói: “Đi vi loài người thì không th được, nhưng đi vi Thiên Chúa thì mi s đu có th được (Mt 19:26).

Mừng kính và tôn vinh Một Chúa Ba Ngôi cũng là dịp chúng ta nhớ tới mối liên kết trong cây nho – thân nho và cành nho phải nối liền với nhau (Ga 15:1-17), và cũng nhắc chúng ta nhớ tới sự hiệp thông trong Nhiệm Thể Đức Kitô: Mọi người phải Nên Một (Ga 17:1-26). Đó là điều Chúa Giêsu ước muốn, và đó là mối liên kết của mọi chi thể, cũng là sự đoàn kết của mọi thành phần.

Ly Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết tuyên xưng Mt Chúa Ba Ngôi trong mi hoàn cnh, dù vui hay bun, dù thành công hay tht bi, dù an bình hay đau kh,… Và xin giúp chúng con liên kết vi nhau trong mi tình thương xót ca Ngài. Chúng con cu xin nhân danh Chúa Ba Ngôi, Đng hng sinh và hng hu. Amen.

Về mục lục

 


NHÂN DANH CHÚA CHA,

CHÚA CON VÀ CHÚA THÁNH THẦN

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Câu 19 chương 28 trong Phúc Âm Mát-thêu là đoạn văn duy nhất trong toàn bộ sách Tin Mừng đặt ‘công thức’ Chúa Ba Ngôi vào môi miệng Đức Giê-su. Điều rủi ro trầm trọng nhất chính là ‘nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ này thường chỉ được hiểu như công thức trang trọng của các nghi lễ, để rồi cái ý nghĩa rất thâm sâu và nặng ký của nó nhiều khi biến mất, hoặc bị coi nhẹ tối độ nó mất hết tác động trên đời sống Ki-tô hữu, thậm chí cả đời sống Giáo Hội nữa. Thực tế thì Đức Giê-su muốn nói gì khi người yêu cầu “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”? Nói cách khác, trọng tâm của lệnh truyền Người ban nằm ở ‘làm phép rửa’ hay là ‘nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’? Do đó tôi cần tìm hiểu rõ hơn nội dung của thuật ngữ ‘nhân danh’ để nắm bắt được một trong những điều căn bản nhất nơi niềm tin Ki-tô hữu của tôi.

Trong Kinh Thánh, thuật ngữ ‘nhân danh’ như ‘nhân danh Đức Giê-su Ki-tô’ mang nhiều nội dung rất khác nhau: nó có thể là ‘thay mặt cho, dưới sự điều động của’ (xem 2 Tx 3:6), hoặc ‘vì ích lợi, nhằm phục vụ cho’ (xem Mc 9:18-20), hoặc ‘được chủ động bởi’ (xem Mt 18:20), hoặc ‘hướng tới, trong tinh thần vì’ (xem Cl 3:17), hoặc nội dung phổ thông hơn hết là ‘trong sức mạnh, trong quyền lực của’ (xem Cv 4:7-10). Ngay trong bài giảng đầu tiên Phê-rô đã kêu gọi dân chúng “Anh em hãy sám hối, mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội” (Cv 2:38) ‘nhân danh’ đây có thể mang ý nghĩa sau cùng này (‘In the name of’ = by the authority of, in the power of, on behalf of…); tương tự như trong Lu-ca chương 9 câu 49, khi Gio-an phát biểu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ quỉ”. Tôi thiết nghĩ hạn từ ‘nhân danh’ trong lệnh truyền “làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” không những chỉ có cùng một nội dung trên, nhưng còn hàm chứa một điều gì rất khác nữa?

Giai thoại Phê-rô tại nhà Cô-nê-li-ô, được sách Công Vụ Các Tông Đồ tường thuật, cho thấy; ‘lãnh nhận phép rửa’ không phải là điều quan trọng nhất, điều chính yếu hơn là ‘được đưa vào sức sống thần linh’ (Cv 10:44-48); trường hợp cụ thể ở đây là ‘Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa’. Phép rửa không chỉ được hiểu như xóa sạch tội lỗi do quyền năng của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng còn mạnh mẽ hơn nhiều… là được tham gia vào chính Bản Thể tình yêu vô biên. ‘Nhân danh’ ở đây mang một nội dung sống động và hiện sinh sâu sắc hơn rất nhiều. Nếu trong ngôn ngữ Do Thái – rất khác với ngôn ngữ phổ thông chúng ta ngày nay – ‘tên’ hay ‘danh’ nói lên chính bản chất của hữu thể (xem St 32:28 hay Ga 1:42), thì eis to onoma (= trong tên, in the name of) rất có thể không chỉ mang ý nghĩa ‘nhân danh’ bóng bảy, mà thực sự hàm ý một cuộc sinh lại (born again), hay thay đổi toàn bộ hữu thể (change of being), trở thành con người mới của tình yêu, trong hữu thể của Cha, Con và Thánh Thần. Phải chăng trong cuộc đàm thoại với Ni-cô-dê-mô đêm nào, Đức Giê-su đã từng đề cập tới sự sống mới, mạnh mẽ và phong phú này (xem Gio-an chương 3)? Và nếu Ba Ngôi Thiên Chúa được hiểu như một cơn lốc tình yêu vĩ đại, như một cuộc trao ban và tự hiến khôn lường giữa Cha, Con và Thánh Thần, thì phép rửa chính là cửa ngõ đưa ta đi vào vòng xoáy vĩ đại của tình ái thần linh. Hiểu như thế ta sẽ thấy được tất cả sức mạnh và nội dung sâu sắc nhất của ‘công thức’ ‘nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’, đồng thời cũng nắm bắt được phần nào: đời sống Ki-tô hữu không chỉ hệ tại ‘được thanh tẩy’, sống trong sạch chính trực, hay sống đạo đức thánh thiện…, cho dầu có nhờ sức mạnh hay trong quyền năng của Thiên Chúa đi nữa, mà còn phải là một cuộc sống mới, đậm chất thần linh chí ái.

Mọi Ki-tô hữu, kể cả linh mục hay tu sĩ chúng ta, nhờ phép rửa mà được tham gia vào Hữu Thể Tình Yêu Thần Linh này, cho nên chắc chắn sống lương thiện đạo đức theo nghĩa thông thường mà thôi là chưa đủ! Chúng ta nhất thiết còn phải biến đổi tận căn cuộc sống mình trong sức mạnh thần linh của Thiên Chúa, ‘nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, và điều này chúng ta thực hiện không ngừng mỗi khi chiêm ngắm và nhất là cử hành mầu nhiệm Thập Giá của Đức Ki-tô.

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin cho con thấu hiểu rằng, kể từ ngày ‘chịu phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’, con đã được trọn vẹn cuốn hút vào cơn lốc tình yêu vĩ đại. Ba Ngôi Thiên Chúa đối với con không thể chỉ là một thực tại thần linh cao siêu nhưng xa vời, mà chính là sức sống và sự phong phú khôn lường con đang được hưởng và được sống. Xin cho con, cùng với mọi tín hữu, biết không ngừng cảm tạ và ngợi khen Ba Ngôi cực thánh vì hồng ân cao cả này, một hồng ân trổi vượt trên mọi thứ tốt lành thánh thiện của trần gian. Amen.

Về mục lục

 

CHÚA NHẬT CHÚA BA NGÔI

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng kính lễ Chúa Ba Ngôi. Tuy Ba Ngôi nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm quan trọng và cao siêu trong Ki-tô giáo và cũng là nền tảng đức tin của chúng ta. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã, đang và sẽ tiếp tục mạc khải mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cho chúng ta, để chúng ta luôn sống trong tình yêu và được kết hợp mật thiết với Ngài đời này và đời sau.  

Kinh thánh Cựu ước mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ, vạn vật và con người. Vì yêu thương và muốn cứu thoát con người tội lỗi, Thiên Chúa đã hoạch định một chương trình cứu độ và sai Con Một của Ngài xuống trần gian. Tân ước, đặc biệt là các sách Tin mừng, cho chúng ta biết sứ vụ của Con Một Thiên Chúa, Chúa Giê-su, là mang tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa đến gian trần, và mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha. Sau khi hoàn thành và thiết lập Giáo hội để tiếp tục sứ vụ, Chúa Giê-su đã hứa ban Chúa Thánh Thần xuống để thánh hóa, hướng dẫn và dạy dỗ Giáo hội trong sự thật và trong ánh sáng Tin mừng. Chúa nói với các tông đồ “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần; giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.” Sách Tông đồng Công vụ còn cho chúng ta biết Chúa Thánh Thần đã đến và thêm sức cho các Tông đồ cũng như giúp Giáo hội lớn lên và lan rộng cho đến ngày nay. Qua sự mạc khải này và qua sự dạy dỗ của Chúa Thánh Thần, Giáo hội cho chúng ta biết về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: Ngôi Cha là Đấng tạo dựng; Ngôi Con là Đấng cứu chuộc; và Ngôi Ba, là Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa và là Đấng ban sự sống.

Ông bà anh chị em thân mến. Đến đây, tôi xin mời mọi người chú ý đến một khía cạnh quan trọng cho trái đất chúng ta đang hiện diện và cho sự sống là năng lượng như một thí dụ thực tế, để giúp chúng ta hiểu thêm về ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cho chúng ta. Chúng ta biết năng lượng rất cần thiết cho đời sống con người như cung cấp ánh sáng, tiện nghi, và sức khỏe. Chúng ta nhận thấy năng lượng phát xuất ra từ 3 nguồn chính sau đây. Nguồn thứ nhất là từ dầu hỏa. Nhưng nguồn dầu hỏa này thường đưa đến những tranh chấp và chiến tranh giữa những quốc gia trên thế giới, và hiện tại cũng là một nguyên nhân chính của vấn đề tranh chấp Biển Đông giữa Trung hoa và các quốc gia liên hệ, trong đó có quốc gia Việt Nam chúng ta. Nguồn năng lượng dầu hỏa này liên quan này cũng có những nguy cơ ô nhiễm môi sinh, làm hại sức khỏe con người, và hủy hoại sự sống của những sinh vật, và theo như một số các kỹ sư về dầu hỏa cho biết, nguồn năng lượng này đang dần dần cạn đi và sẽ hết. Nguồn năng lượng thứ hai là nguyên tử, nhưng cũng rất nguy hiểm cho vận mệnh con người nhân loại, nếu lọt vào tay những quân khủng bố hay những người lãnh đạo xấu như của I-ran và Bắc hàn hiện nay. Và nguồn thứ ba là từ mặt trời.   Một số các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới cho rằng đây là nguồn năng lượng miễn phí trường cửu và không nguy hiểm như dầu hỏa và nguyên tử, thường đem lại những tranh chấp, chiến tranh, cũng như không bị đe dọa bởi khủng bố và những nhà độc tài. Các nhà khoa học còn cho biết mặt trời đã và đang cung cấp 3 loại năng lượng thiết yếu cho trái đất. Loại năng lượng thứ nhất là ánh sáng, chiếu soi vào những nơi tối tăm và mang lại sự sống cho mọi sinh vật ở trái đất. Loại năng lượng thứ hai là sức nóng, cung cấp hơi ấm cho những nơi lạnh giá trên trái đất. Và loại năng lượng thứ ba là sức sống, giúp và tăng sức tăng trưởng cho mọi sinh vật trên trái đất kể cả con người. Có thể nói mặt trời là “người bạn có 3 bộ mặt tốt.” Mỗi bộ mặt ban cho chúng ta một ơn sủng đặt biệt. Từ một mặt trời, phát xuất ra 3 thứ năng lượng cần thiết khác nhau cho mọi sinh vật, kể cả con người, sống trên mặt trái đất này.

Ông bà anh chị em thân mến. Sự quan sát của các nhà khoa học về năng lượng mặt trời trên đây giúp chúng ta hiểu được một phần nào ý nghĩa của mầu nhiện Chúa Ba Ngôi cho chúng ta. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cho chúng ta biết chỉ có một Thiên Chúa nhưng có 3 ngôi riêng biệt Ngôi Cha, Ngôi Con, và Ngôi Ba, là Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi, không phải là 3 Thiên Chúa, nhưng chỉ là một Thiên Chúa. Đến đây chúng ta thấy sự quan sát về mặt trời của các nhà khoa học thật ích lợi cho chúng ta khi chúng ta nghĩ đến mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cho chúng ta. Chúng ta có thể liên tưởng Chúa Ba Ngôi cũng có 3 bộ mặt tốt như mặt trời. Bộ mặt tốt Ngôi Cha là Đấng tạo dựng nên vũ trụ và muôn loài, từ những ngôi sao chiếu sáng bầu trời tạo nên vẻ đẹp ban đêm, cho đến chim trời tạo ra những bản nhạc tuyệt vời ban ngày, đến những loài cá dưới biển trở thành nguồn thức ăn cho con người. Bộ mặt tốt Ngôi Con được sinh xuống trần ở giữa nhân loại, cho con người nhân loại biết tình yêu của Chúa Ba Ngôi, và chỉ dạy cho con người chúng ta thương yêu và sống như thế nào để được cứu rỗi và kết hợp với Chúa Ba Ngôi đời này và đời sau. Cuối cùng, bộ mặt tốt Ngôi Ba của Chúa Thánh Thần là sự sống thần linh, đến ngự trong tâm hồn mỗi người chúng ta, thánh hóa và liên kết chúng ta trở thành Thân Thể Chúa Ki-tô, và biến đổi chúng ta trở nên đền thờ của Ngài, như thánh Phao-lô nói với Ki-tô hữu ở Cô-rin-tô, “Anh em không biết thân xác anh em là chi thể của Chúa Kitô sao? Anh em không biết thân xác anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần, Ðấng ngự trong anh em mà anh em đã nhận lãnh nơi Thiên Chúa, vì anh em không còn thuộc về chính mình nữa sao?”

Ông bà anh chị em thân mến. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của yêu thương và hiệp nhất. Mầu nhiệm này phải là nền tảng đức tin và là mẫu mực cho đời sống Kitô hữu chúng ta, cho đời sống gia đình giữa vợ, chồng, con cái, hay cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ. Cuộc sống và tình liên hệ của mọi người Ki-tô hữu với nhau phải phản ảnh tình yêu và sự hiệp nhất của Chúa Ba Ngôi. Xin Chúa Thánh Thần luôn thánh hóa tâm hồn chúng ta trở nên đền thờ của Ngài. Và xin liên kết mọi người chúng ta trong Thân Thể Chúa Ki-tô, ban cho chúng ta sức sống để sống đức tin trung thành, có lòng hy sinh quảng đại xây dựng cộng đoàn giáo xứ, làm sáng danh Chúa nơi trần gian để cùng được hưởng hạnh phúc vinh quang trên Thiên Đàng cùng với Ba Ngôi Thiên Chúa.

Về mục lục

 

LỄ CHÚA BA NGÔI

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Chúa Nhật ngay sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Giáo Hội hoàn vũ mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Đức Giêsu là Đấng mặc khải Thiên Chúa và con người. Chính nhờ Đức Giêsu, mà con người biết Thiên Chúa Ba Ngôi Vị.

I. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Thiên Chúa Duy Nhất

Trong sách Đệ Nhị Luật, người Do Thái đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng duy nhất: “Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đấng duy nhất. Hãy yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực ngươi” (Dnl. 6, 4-5). Chính Thiên Chúa là Đấng đã dẫn dân Do Thái ra khỏi Aicập qua Môsê. Thiên Chúa đã đồng hành với dân Do Thái qua cột mây lửa trong sa mạc. Trên núi Sinai, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với dân và đã ban thập giới như điều kiện giao ước. Thiên Chúa tỏ lộ Ngài cao cả siêu việt và là Đấng yêu thương dân Do Thái vô cùng.

Trong Tân Ước, khi người ký lục hỏi Đức Giêsu về giới răn trọng nhất, Đức Giêsu đã trích dẫn Ngũ Kinh để trả lời cho ông và các bạn của ông ta. “Giới răn trọng nhất là: Hỡi Israel hãy nghe đây. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đấng duy nhất, hãy yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Giới răn thứ hai là: hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mc.12, 29-31). Đức Giêsu đã dạy cùng một điều mà người Do Thái đã được dạy dỗ và đã biết.

Thiên Chúa là Đấng duy nhất, Đấng trổi vượt trên tất cả. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên tất cả, là Cha của tất cả. Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi dân tộc, không gì có mà lại không do Thiên Chúa mà có. Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng, Ngài tạo dựng và làm cho tất cả tiếp tục tồn hữu. Thiên Chúa làm mưa xuống cho người công chính cũng như kẻ bất lương. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người.

II. Đức Giêsu Mạc Khải về Thiên Chúa

Khi hài nhi Giêsu được sinh ra tại Bêlem, không ai biết Ngài là Thiên Chúa, không ai biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Ngay khi Đức Giêsu đi rao giảng, cả các tông đồ là những môn đệ thân tín của Ngài, cũng chưa nhận biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Họ có cùng ý nghĩ với dân chúng, Đức Giêsu là một tiên tri, và một cách đặc biệt hơn, Ngài là Đấng Kitô (Mt.16, 16). Khi Đức Giêsu chết trần trụi ô nhục trên thập giá, các tông đồ chán nản sợ sệt, thậm chí có môn đồ đã bỏ về quê (hai môn đệ trên đường Emmau). Những người giết Đức Giêsu cũng không biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, vì nếu họ biết đâu họ có giết Ngài. Chính Đức Giêsu trên thập giá cũng nghĩ rằng người ta không biết về Ngài một cách thực sự nên đã xin với Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc.23, ). Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm quá cao vời mà lý trí con người không thể suy biết được trước khi Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.

Khi Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết, các tông đồ nhận ra Ngài là Đấng rất đặc biệt. Ngài đến từ Thiên Chúa, Ngài là Đấng Kitô, Đấng Thiên Sai, và có lẽ còn là Đấng có gì đặc biệt hơn nữa. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói, đã dạy dỗ khi còn ở với các ông trên trần thế, về quyền tha tội (Mc.2, 7), về trước khi có Abraham đã có Ngài (Ga.8, 58), về việc Ngài và Cha là một (Ga.10, 30), về việc Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc.14, 62). Các tông đồ nhận ra Đức Giêsu là người rất đặc biệt của Thiên Chúa, là Đấng thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa, đến độ có thể nói, Ngài là Đấng ngang hàng với Thiên Chúa.

Con người đứng trước mầu nhiệm Đức Giêsu, đã cố gắng tìm những từ ngữ để diễn tả thực tại này, chẳng hạn như nói: Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa. Công đồng chung Nicea (325) dạy: Đức Giêsu là Đấng “đồng bản tính” với Thiên Chúa. Nói bằng một ngôn từ khác, Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Những thánh công đồng chung tiếp theo sau đã tiếp tục dạy về thực tại Đức Giêsu. Đức Giêsu là Đấng đồng nhất với Thiên Chúa, là một với Thiên Chúa. Không phải Đức Giêsu là Thiên Chúa “khác” độc lập với Thiên Chúa, nhưng Ngài kết hiệp với Thiên Chúa đến độ chỉ là một Thiên Chúa. Từ ngữ ngôi vị (persona) của ngày hôm nay làm cho người ta tưởng rằng Đức Giêsu là một thực tại hiện hữu độc lập bên cạnh Thiên Chúa, như thể nhiều người khác biệt nhau nhưng đều có cùng bản tính người. Người ta không được hiểu như vậy về Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là một Thiên Chúa nhưng không là ba thực tại hiện hữu độc lập khác nhau. Khi nói Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là Ba Ngôi Vị Thiên Chúa, là chúng ta đang diễn tả nét khác nhau giữa Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu, giữa Thiên Chúa Cha và Thánh Thần, và giữa Đức Giêsu và Thánh Thần.

III. Thánh Thần là Thiên Chúa

Chỉ nhờ Đức Giêsu mà người ta nhận ra Thánh Thần là một ngôi vị Thiên Chúa. Đức Giêsu nói về Thánh Thần như một ngôi vị. Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Đấng Bầu Chữa, Đấng đến từ Thiên Chúa Cha, Đấng được Cha và chính Đức Giêsu sai gởi tới (Ga.14, 16.26; 15, 26; 16, 13-16).

Ngay khi còn tại thế, Đức Giêsu đã giảng dạy về Thánh Thần như vậy, nhưng các tông đồ chưa hiểu được, phải chờ đến khi Đức Giêsu phục sinh và với tác động của Thánh Thần, các tông đồ mới nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể; và một khi nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, các tông đồ mới nhận ra Thánh Thần là Ngôi Vị Thiên Chúa. Chính nhờ Đức Giêsu và nhờ Thánh Thần, mà con người mới hiểu biết hơn về Thiên Chúa, mới biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị.

Thiên Chúa sáng tạo mọi loài, tạo dựng mỗi người qua cha mẹ mỗi người. Thiên Chúa nhập thể làm người để mặc khải cho con người biết hơn về Thiên Chúa, để chỉ cho con người biết sống như thế nào để hạnh phúc thật, để trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa. Thánh Thần được sai đến để ở với con người, để thánh hóa con người, để làm con người thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa, Đức Giêsu và Thánh Thần là Ba Ngôi Vị khác biệt nhau, nhưng vẫn luôn là một Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng duy nhất trong ba ngôi vị.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Bạn có cảm thấy Thiên Chúa gần gũi với bạn không? Xin chia sẻ kinh nghiệm.
  2. Bạn có cảm nhận gì về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?
  3. Bạn thường cầu nguyện với ngôi vị nào hơn cả? Bạn có biết tại sao?

Về mục lục

.

NIỀM VUI CÓ CHÚA

 Lm. Jos. Dương Đức Hưng

Mẫu người : đơn giản, chân thành, ít phức tạp, thường dễ mến dễ gần, cũng vì thiếu lòng quảng đại mà người ta sợ bị làm phiền, rất muốn được 2 chữ “bình an”. Cha ông chúng ta cho thấy một thực tại qua câu ca dao : đố ai nằm võng không đưa, ru con không hát đò đưa không chèo ? Ai đã cho ta sự khôn lớn, bởi đâu mà ta được gọi là người trưởng thành ? Ai chỉ cho ta biết : ơn cha lành cao như núi thái, nghĩa mẹ hiền sâu tựa biển khơi; nếu không phải là từ suối nguồn tình yêu ?

Trong tương quan gia đình xã hội, niềm vui, hạnh phúc, tùy thuộc các thành viên gia đình khỏe mạnh, có việc làm ổn định, được ở bên nhau. Niềm vui nơi gia đình Kitô giáo là có Chúa hiện diện, mọi người phản ánh được tình yêu Chúa Ba Ngôi : hiệp thông chia sẻ, tin yêu phục vụ. Hôm nay, Chúa Phục Sinh mở ra cho các tông đồ, cho chúng ta niềm vui vì hoạt động của Ba Ngôi Thiên Chúa ở trong Giáo hội, vui bởi mỗi chúng ta được cộng tác vào việc loan báo Tin mừng cứu độ cho khắp mọi nơi.

Không phải các bậc cha mẹ, người đứng đầu các tổ chức xã hội, tôn giáo, họ cần sức khỏe, tài đức, mà tất cả mọi người đều thao thức được khôn ngoan, cần được sự hỗ trợ, và biết chung lòng chung sức xây dựng cuộc sống tốt đẹp. Chúng ta quen thuộc hình ảnh gia đình hạnh phúc là gia đình có cha, có mẹ, có con, có trên có dưới; và hôm nay, Chúa Phục Sinh cho biết gia đình hạnh phúc là gia đình có tình yêu Ba Ngôi hiện diện.

Niềm vui có Chúa, niềm vui ngập tràn yêu thương của Ba Ngôi đã giúp các tông đồ hiểu, mỗi người theo Chúa đều mang một phong cách riêng, tạo nên vẻ đẹp ngát hương cho cánh đồng truyền giáo. Chính trong tư cách là con, dù sống ơn gọi linh mục, tu sĩ, giáo dân, chúng ta đều được nghe, được mời gọi làm chứng nhân Tin mừng nơi cuộc sống này. Ơn gọi nào cũng được Chúa chúc phúc, tình yêu nào cũng cần có niềm vui, hiệp nhất trong tin yêu. Nếu đi vào chiều sâu của hạnh phúc, Chúa Kitô sẽ mạc khải cho chúng ta về hồng ân Ba Ngôi, dấu chứng của Thiên Chúa yêu thương, hiệp nhất; chỉ trong tư cách là con, ta mới được vinh dự vẽ lại nét cao đẹp “yêu như Thầy đã yêu” trong đời sống của mình.

Có Chúa trong tâm hồn, chúng ta sẽ hiểu tại sao người giầu cũng khóc, tại sao kẻ thật thà như đếm, chỉ đâu đánh đó, nhưng họ vẫn thành công, hạnh phúc ? Đơn giản thôi, vì tình yêu muốn tồn tại cần có sự đáp trả; thành công, niềm vui, tùy theo sự nỗ lực và lòng tín thác vào Chúa của mỗi người. Tình yêu chân chính mang sẵn trong tâm tư niềm vui chia sẻ, tình yêu Ba Ngôi đi bước trước mở lòng cho người đón nhận, thông chia hạnh phúc đời đời, vì mỗi chúng ta trở nên nghĩa tử là do công nghiệp của Chúa Phục Sinh.

Hôm nay, lệnh truyền cho các môn đệ lên đường, Đấng Phục Sinh một lần nữa công bố rõ ràng, công khai về mầu nhiệm Ba Ngôi : “các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Mệnh lệnh ấy, sứ điệp ấy nói lên niềm vui người có Chúa trong tâm hồn không dừng lại ở lý thuyết, nhưng luôn hành động như con cái sự sáng. Ý thức niềm vui có Chúa, chúng ta dù không no đủ về tiền tài vật chất, nhưng ta sẽ bình an vì có Chúa bênh vực, che chở chúng ta khỏi cảm giác cô đơn, thất vọng.

Chúa Phục Sinh không muốn các tông đồ miên man suy nghĩ vì sao các ông được chia sẻ, cộng tác với sứ mạng loan báo Tin mừng; nhưng các ông đã để cho tình yêu của Ba Ngôi hoạt động mãi trong tư cách là con, là người môn đệ theo Đức Kitô. Tin Chúa, hiểu biết Chúa là tình yêu, không ai phải ưu tư lo lắng vì bước đường của ta luôn có Chúa đồng hành như lời Ngài quả quyết : “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Mạc khải lớn nhất mà Đấng Phục Sinh ban cho các tông đồ, ban cho những ai theo Ngài, đó là Tình yêu Ba Ngôi hằng hiện hữu trong lời nói việc làm của những ai sống tín thác, cậy trông. Nếu con cái cứ thụ động theo kiểu thiên lôi chỉ đâu đánh đó, hành động yêu thương của các con sẽ nhạt nhẽo sách vở mà thôi. Nếu các bậc làm cha mẹ chỉ yêu con trên môi miệng, không bằng hành động, các con sẽ trở nên những người vô cảm vô tình mà thôi.

Trong đời sống gia đình, cha mẹ yêu thương cho con cái gương sáng, nghĩa là cho con có cá để chúng ăn, sẽ cho cả cần câu để chúng mưu sinh dài lâu; trang bị cho con đạo lý làm người, cần phải cho chúng cả đạo lý yêu thương nữa. Trong ơn gọi dự phần vào đại gia đình Hội Thánh, Chúa Giêsu mời gọi mỗi chúng ta tiếp tục tuyên xưng Thiên Chúa là Cha nhân hậu, Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, Chúa Con chính là tình yêu duy nhất và trọn vẹn của mầu nhiệm Ba Ngôi. Xin Chúa Giêsu mãi là niềm vui của Hội Thánh, và hiện diện với từng tâm hồn người tin tưởng cậy trông vào tinh yêu Chúa Ba Ngôi. Amen.

Về mục lục

.


YÊU THƯƠNG HIỆP NHẤT CHIA SẺ NHƯ CHÚA BA NGÔI

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Mt 28,16-20.

(16) Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. (18) Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (20) Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

 

  1. Ý CHÍNH:

Trong bài Tin mừng của thánh Mát-thêu hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh hẹn các Tông đồ đến một ngọn núi tại miền Ga-li-lê. Ở đó sau khi tuyên bố đã được Chúa Cha cho toàn quyền trên trời dưới đất, Người sai các ông đi khắp nơi thâu nạp môn đồ cho Người, làm phép rửa cho họ “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Người cũng hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.

 

  1. CHÚ THÍCH:

-C 16-17: + Mười một môn đệ: Đây là Nhóm Mười Hai, nhưng thiếu Giu-đa, kẻ phản bội, và Mát-thi-a chưa được bổ sung vào danh sách thế chỗ cho Giu-đa (x. Cv 1,15-26). Nhóm này là Tông Đồ Đoàn được trao quyền lãnh đạo Hội Thánh. Còn về Giu-đa Ít-ca-ri-ốt: khi thấy Thầy Giê-su sắp bị kết án tử hình, Giu-đa đã hối hận. Hắn liền đem ba mươi quan tiền trả lại cho các đầu mục Do thái nhưng đã bị từ chối. Giu-đa thất vọng đã ném tiền vào cung thánh Đền thờ rồi đi thắt cổ tự tử (x. Mt 27,3-5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Tức là đến miền đất dân ngoại theo chỉ thị của Chúa Phục Sinh qua bà Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Mt 28,10), và cũng để noi gương Đức Giê-su đã bắt đầu rao giảng Tin Mừng Nước Trời tại xứ Ga-li-lê (x. Mt 4,12-17), + Đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến: Ngày nay người ta không thể xác định đây là núi nào. Nhưng có lẽ Mát-thêu chỉ muốn nói đến quả núi với ý nghĩa tượng trưng: Núi là nơi Thiên Chúa gặp gỡ và mặc khải cho loài người. Chẳng hạn : Đức Chúa đã trao Thập Giới cho Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 24,13.15.18). Đức Giê-su cũng đã công bố Hiến Chương Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật trên núi, nên còn gọi là “Bài Giảng Trên Núi” (x. Mt 5,1-7,27). +Thấy Người, các ông bái lạy: Sau nhiều lần hiện ra để củng cố niềm tin cho môn đệ, trước khi về trời Chúa Phục Sinh đã hiện ra để trao sứ vụ loan Tin mừng phổ quát cho các ông. Cử chỉ bái lạy nói lên các ông đã tin Chúa Giê-su là “Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa”. + Nhưng có mấy ông lại hoài nghi: Câu này xem ra mâu thuẫn với thái độ bái lạy vừa nói. Thực ra, hoài nghi là thái độ phải xảy ra nơi các môn đệ trước khi các ông đạt tới đức tin hoàn hảo. Chắc là Mát-thêu muốn nói đến sự hoài nghi đã xảy ra trước đó mà ngài chưa lần nào đề cập đến. Như vậy đây chỉ là một sự trục trặc về lối hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng. Ngoài ra cũng có người cho rằng: Vì đây là cuộc hiện ra để “trao sứ vụ” cho Nhóm Mười Một đại diện Hội Thánh, nên sự hoài nghi ở đây chính là sự hòai nghi nói chung của Hội Thánh xưa nay: Mầu nhiệm Phục Sinh tuy là một sự thật hiển nhiên, nhưng vẫn luôn có những người hoài nghi.

-C 18-19: +Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Lúc khởi đầu sứ mạng, cũng trên núi cao, Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian do Xa-tan hứa ban (x. Mt 4,8-10). Nhưng giờ đây Người tuyên bố: Người đã được Thiên Chúa trao toàn quyền trên trời dưới đất, ứng nghiệm lời tuyên sấm của Ngôn sứ Đa-ni-en về sứ mạng của Con Người như sau: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; Muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; Vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong, khác hẳn với mọi vương quốc. Nó sẽ ăn hết toàn cõi đất, sẽ dẫm nát và nghiền tan” (Đn 7,14). + Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Hội Thánh phải dùng quyền Đức Giê-su ban để nhân danh Người mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người. Trước hết là dân Do Thái (x. Mt 10,5-6), rồi đến mọi dân nước trên thế giới (x. Mt 8,11). +Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần:  Để người ta trở nên môn đệ Đức Giê-su, các Tông đồ phải làm phép rửa tái sinh họ bằng nước và Thần Khí (x. Ga 3,3.5). Phép rửa được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. Mt 28,19).

-C 28,20: +Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em: Sứ vụ được trao các Tông đồ cũng gồm cả quyền dạy dỗ các tín hữu cho tới khi Hội Thánh đạt tới tình trạng viên mãn (x. Ep 1,23).+Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Phục Sinh hứa sẽ luôn ở trong Hội Thánh cho đến tận thế nhờ Thánh Thần và qua các mục tử, để giúp Hội Thánh chu toàn sứ vụ “được sai đi”. Như vậy Đức Giê-su chính là “Đấng Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23).

 

4.CÂU HỎI:

1)Tại sao chỉ có mười một Tông đồ hiện diện lúc Chúa lên trời?

2)Số phận của Giu-đa Ít-ca-ri-ốt thế nào sau khi phản nộp Thầy?

3)Tại sao Chúa Phục Sinh  truyền cho các Tông đồ trở về Ga-li-lê?

4)Ngọn núi Chúa truyền cho các Tông đồ đến là núi nào?

5)Mấy kẻ còn hoài nghi gồm những ai và hoài nghi về điều gì?

6) Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian, do Xa-tan hứa ban khi nào?

7) Đức Giê-su đã được ai trao toàn quyền trên trời dưới đất, hầu ứng nghiệm với sấm ngôn của vị Ngôn sứ nào? Lời tuyên sấm ấy nội dung ra sao?

8)Chúa truyền cho Hội Thánh phải làm cho những ai trở thành môn đệ của Người?

9)Sau khi thâu nạp môn đệ, Hội Thánh cần tiếp tục làm gì cho họ?

10)Câu nào trong đọan Tin mừng trên chứng minh Chúa Giê-su mặc khải mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA:

Chúa Giê-su đã cầu xin cho môn đệ hiệp nhất : “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta”… “Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một: Như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (Ga 17,11b.23).

 

  1. CÂU CHUYỆN:

1) BA NGÔI CÙNG MỘT BẢN TÍNH VÀ MỘT QUYỀN NĂNG:

Một cuộc thảo luận của nhóm thanh niên diễn ra rất sôi nổi về đề tài Chúa Ba Ngôi. Họ đã cùng thống nhất trong giáo lý căn bản như sau: Chỉ có Một Thiên Chúa duy nhất nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi vị là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vậy Ba Ngôi hành động thế nào ? Đây là một vấn đề mầu nhiệm khó hiểu nên cả nhóm đã xin cha linh hướng giúp đỡ:

          Cha linh hướng đã giải đáp bằng cách hỏi một anh bạn trong nhóm:

          – Này anh bạn, anh có biết chơi đàn vi-ô-lông không ?

          – Dạ, con chơi được. Anh ta trả lời.

          Và cha nói tiếp :

          – Cây đàn vi-ô-lông phát ra âm thanh ra sao? Sau khi người chơi đã cầm cây đàn đặt vào đúng vị trí, tâm trí của anh sẽ phải nghĩ về bản nhạc định chơi, và ra lệnh cho tay cầm cán dây kéo qua kéo lại vào các dây đàn thì âm thanh du dương mới có thể phát ra. Tâm trí của anh không làm ra tiếng đàn, bàn tay của anh cũng không tạo ra tiếng đàn, nhưng cả hai kết hiệp với dây đàn mới tạo ra tiếng đàn. Tuy cả ba công việc đều làm một lúc, nhưng chỉ sự cọ sát giữa các sợi dây mới làm cho cây đàn phát ra âm thanh du dương theo bản nhạc. Thiên Chúa Ba Ngôi cũng hành động phần nào giống như thế: Ngôi thứ nhất là Chúa Cha đã dùng sự khôn ngoan để sai Ngôi Lời là Chúa Con thực hiện công việc sáng tạo và cứu độ loài người với sự kết hiệp với Ngôi Ba là Chúa Thánh Thần.

          Nghe cha linh hướng giải thích nên mọi người trong nhóm đã hiểu hơn về mầu nhiêm Một Chúa Ba Ngôi.

                    (Theo sách Bài Giảng Tin Mừng Chúa Nhật năm A, tr 75 của Gm Arthur Tonne)

2) CHÀNG SINH VIÊN VÀ ÔNG GIÀ CÓ ĐỨC TIN.

Trên chuyến xe lửa từ LY-ÔNG đi PA-RI (Lyon-Paris), một thanh niên ăn mặc sang trọng, ngồi bên một ông già có dáng vẻ hơi nhà quê. Bấy giờ ông cụ tay cầm cỗ tràng hạt, mắt nhắm lại và miệng đang lẩm bẩm đọc kinh. Chờ cho ông cụ đọc kinh xong, chàng thanh niên liền gợi chuyện: “Cháu có thắc mắc là không biết tại sao đến giờ này mà ông vẫn còn tin vào những điều huyền hoặc của tôn giáo như thời Trung cổ? Chắc ông cũng tin mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ sinh con mà còn đồng trinh và những chuyện đại loại như thế mà mấy ông cha sở vẫn nhai đi nhai lại trong nhà thờ chứ gì?” Ông già trả lời: “Đúng vậy! Thế còn cậu thì sao?” Chàng trai liền cười rộ lên và nói: “Cháu mà lại tin vào những điều nhảm nhí đó sao? Cháu đã khám phá ra sự thật khi học đại học. Thiết tưởng ông cũng nên bắt đầu bỏ xâu chuỗi kia đi là vừa, để dành thời giờ đọc các sách báo khoa học tiến bộ!” Ông lão liền nói: “Tôi cũng muốn được như vậy, nhưng lại không biết tìm đâu ra các sách báo khoa học đó!” Chàng thanh niên đáp: “Được rồi, cháu sẽ gửi biếu ông một số sách báo khoa học. Thế ông có biết đọc không?”. Ông cụ trả lời: “Cám ơn cậu, tôi biết đọc”. Chàng thanh niên nói: “Thế thì tốt. Nhưng xin ông cho cháu biết địa chỉ để cháu sẽ gửi sách đến cho ông”. Bấy giờ ông già liền rút từ trong túi áo ra một tấm danh thiếp trao cho chàng thanh niên. Cậu ta ngạc nhiên trố mắt lên nhìn vào mấy hàng chữ trên tấm danh thiếp: “LU-Y PÁT-TƠ (Louis Pasteur) – Viện nghiên cứu khoa học PA-RI (Paris)”. Thì ra ông cụ mà chàng thanh niên kia đánh giá là lão già mê tín hủ lậu, không ai khác hơn, lại chính là nhà bác học lừng danh Lu-y Pát-tơ, người đã được cấp nhiều bằng sáng chế khoa học và đã viết nhiều sách nghiên cứu khoa học, mà lâu nay anh vẫn say mê đọc với lòng khâm phục!

Qua câu chuyện này, chúng ta thấy vấn đề mầu nhiệm đức tin trong tôn giáo không đối lập với khoa học tự nhiên như có một số người đã lầm tưởng.

 

  1. THẢO LUẬN:

1) Lời Chúa trong Thánh Kinh dạy gì về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi ?

2) Để noi gương yêu thương của Chúa Ba Ngôi, chúng ta cần thể hiện tình yêu là sự hiệp nhất và chia sẻ thế nào đối với người thân trong gia đình, bạn bè trong trường lớp, đoàn hội, cơ quan xí nghiệp, đặc biệt những người đang có ác cảm với chúng ta và những người đau khổ bất hạnh cần được trợ giúp?    

 

  1. SUY NIỆM:

1) “Thiên Chúa là Tình yêu”:

Nhờ Chúa Giê-su dạy được ghi lại trong Sách Thánh mà chúng ta mới biết “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,16). Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu qua từng Ngôi như sau:

 – Ngôi Cha đã dựng nên ta: Trước khi dựng nên loài người, Thiên Chúa như một người Cha yêu con cái (Ngôi I) đã dùng Lời quyền năng (Ngôi II) sáng tạo nên vũ trụ vạn vật (x. St 1,3), và tiếp tục quan phòng để các tạo vật ấy được tồn tại, phát triển và tiến hóa ngày một nên hòan thiện hơn. Khi nguyên tổ loài người phạm tội và bị phạt tội chết, Thiên Chúa không bỏ mặc nhưng đã hứa ban Đấng Thiên Sai (Ngôi II) sẽ đến cứu chuộc loài người qua lời phán với con rắn ma quỷ (x. St 3,15).

-Chúa Con đã cứu chuộc ta: Khi tới “Giờ” đã định, Chúa Cha (Ngôi I) đã sai Con Một là Chúa Con (Ngôi II) nhập thể trong lòng Đức Ma-ri-a là Đức Giê-su Ki-tô (x. Ga 3,16). Đức Giê-su đã sinh ra cách đây 2015 năm, năm 30 tuổi Người đã được tấn phong làm Đấng Thiên Sai (x. Mt 3,16-17), Người được Thần Khí hướng dẫn đi khắp nơi thi hành sứ vụ công bố Tin mừng Nước Trời, dạy dỗ con đường về trời, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế (x. Lc 4,17-19), sau cùng Người đã vâng theo ý Chúa Cha chịu chết trên thập giá đền tội thay cho loài người và sống lại để cứu sống loài người. Đức Giê-su là “Đấng Thiên Sai” và là “Con Thiên Chúa hằng sống” (x. Mt 16,16), là “Con rất yêu dấu luôn làm hài lòng Cha” (Mc 1,11). Người là phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa (x. Dt 1,3). Ai thấy Người là thấy Chúa Cha (x. Ga 14,9). Người luôn yêu thương kết hiệp với Chúa Cha (x. Ga 17,22). Người tuy là Con Thiên Chúa nhưng không đòi ngang hàng với Thiên Chúa, hạ mình trở nên người phàm, vâng lời chịu chết trên thập giá, ngày thứ ba sống lại và được siêu tôn làm “Chúa” muôn loài (x. Pl 2,8).

-Chúa Thánh Thần thánh hóa ta: Thánh Thần là Thần Chân Lý được Đức Giê-su hứa ban cho các Tông đồ để đưa họ vào trong sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,12-13). Vào ngày Phục Sinh, Chúa Giê-su đã  thổi hơi ban Thần Khí cho các Tông đồ (x. Ga 20,22) và sau khi lên trời Người đã đổ Thần Khí trên cộng đoàn Hội Thánh vào lễ Ngũ tuần (x. Cv 2,1-4), ban ơn soi sáng giúp lương dân có đức tin và gia nhập vào Nước Trời là Hội thánh (x. Cv 2,36-41). Từ đây, Thánh Thần trợ giúp Hội thánh chu toàn ba sứ vụ của Đức Giê-su trao ban: Một là làm ngôn sứ để rao giảng Tin mừng (x. Mt 28,19-20); Hai là làm tư tế để thánh hóa các tín hữu nhờ các phép bí tích do Chúa Giê-su thiết lập (x. Mt 26,26-28); Ba là làm vương đế để phục vụ đoàn chiên được Chúa Giê-su trao phó (x. Ga 13,12-15)…

 

2) Sống yêu thương noi gương Ba Ngôi Thiên Chúa:

Thánh Gio-an trong thư thứ nhất đã viết: “Thiên Chúa là Tình Yêu. Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16b). “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối: Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn chúng ta đã nhận được từ Người: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình”(1Ga 4,20-21). Trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta chọn “Gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa” làm mô hình lý tưởng để xây dựng gia đình chúng ta, xây dựng giáo xứ chúng ta thành một gia đình yêu thương và hiệp nhất vững bền như “Gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa”, như lời nhắn nhủ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: “Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa ba Ngôi Thiên Chúa” (thư mục vụ gửi CĐ dân Chúa năm 2002 số 6).

 

3) Phải yêu thương tha nhân như thế nào ? :

– Yêu người như yêu mình: Ai cũng ích kỷ coi mình làm trọng, nên thường lấy mình làm tiêu chuẩn để yêu thương tha nhân như Tô-bi-a cha đã khuyên Tô-bi-a con: “ Điều con không thích thì cũng đừng làm cho người khác” (Tb 4,15) và lời Chúa Giê-su: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thí chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12).

– Yêu người như Chúa yêu ta: Chúa Giê-su đã đến với mọi người, nhất là những kẻ bị người đời xa lánh ruồng bỏ như người phong cùi, người tội lỗi, người bệnh tật … và đã cho họ nên sạch, tha thứ tội lỗi, an ủi động viên và chia sẻ nỗi khốn cùng của họ, để cuối cùng ban ơn cứu độ cho họ. Chúa Giê-su cũng đòi môn đệ phải yeu thương cả những người không đáng yêu hoặc đang thù ghét bách hại mình. Có như vậy chúng ta mới nên con cái của Chúa Cha trên trời là Đấng hoàn thiện (x. Mt 5,43-48).

– Yêu mến cách thiết thực cụ thể: Chúa Giê-su không yêu bằng đầu môi chót lưỡi (1 Gio 3,16-18), nhưng đã yêu mến cách cụ thể thiết thực. Người ban ơn cho bất cứ ai đặt trọn niềm tin nơi Người: Kẻ mù được sáng mắt, kẻ què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được, bị quỷ ám được chữa lành, đám cưới nửa chừng thiếu rượu cũng được dư đầy rượu ngon. Tình yêu của Người thiết thực cụ thể như bà mẹ hiền chăm sóc đứa con thơ, và sau này khi đến ngày tận thế, Người sẽ đến xét xử người ta dựa vào tình yêu cụ thể đã làm đối với tha nhân như: Cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, kẻ rách rưới áo mặc, thăm viếng kẻ tù đày…

       – Yêu thương chia sẻ khiêm hạ chứ không kẻ cả ban phát: Đức bác ái Ki-tô giáo đòi phải được thực hiện trong sự khiêm hạ chứ không theo cách bọn Biệt Phái thường làm đã bị Chúa Giê-su quở trách (x. Mt 6,1-4). Chỉ có Thiên Chúa trên trời mới là nguồn mạch ban phát mọi ơn, còn chúng ta chỉ là loài thụ tạo. Mọi cái ta có đều do Chúa ban như lời thánh Phao-lô: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1 Cr 4,7). Sự chia sẻ bao hàm sự tôn trọng tha nhân và cần thực hiện với thái độ âm thầm vì tin rằng: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35)

– Cần tập luyện thành thói quen: Để có thể yêu đến nỗi sẵn sàng hiến mạng sống mình vì anh em, trước tiên chúng ta phải tập cho từ những điều nhỏ như: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Người ta chỉ có thể yêu thương tột cùng là hiến mạng sống mình vì tha nhân, khi đã tập thành thói quen yêu thương cho đi từng cái nhỏ bé như miếng cơm manh áo, cho lời sẻ chia an ủi… Cha Thánh Ma-xi-mi-lien Kol-be sở dĩ đã có thể tình nguyện chết thay cho bạn tù trong trại giam Đức Quốc Xã, là do ngài đã tập thành thói quen cảm thông với nỗi đau của tha nhân và sẵn sàng chia sẻ những điều nhỏ bé giữa đời thường.

 

  1. CẦU NGUYỆN:

LẠY CHÚA. Thánh Phao-lô dạy các tín hữu Cô-rinh-tô: “Tình yêu thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tuông, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Tình yêu tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,4-7).

Xin Chúa giúp chúng con năng đến thăm những người nghèo khổ bệnh tật… như Đức Ma-ri-a đã mang thai nhi Giê-su đến thăm gia đình Gia-ca-ri-a khi xưa. Xin cho chúng con biết vui vẻ mở lời chào hỏi người khác trước noi gương Đức Ma-ri-a đã chào bà Ê-li-sa-bét trước để chia sẻ miềm vui ơn cứu độ cho thai nhi Gio-an đang trong lòng mẹ. Trong những ngày này, xin Chúa giúp chúng con biết sống hiệp thông với mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi qua thái độ khiêm nhường phục vụ tha nhân noi gương Chúa Cha đã sai Con Một nhập thể làm người để ở cùng chúng con và nêu gương yêu thương phục vụ lòai người chúng con.

X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.