Theo kinh tế học, thất nghiệp là tình trạng người ta muốn có việc làm mà không tìm được. Trong Hán-Việt, “thất” là mất mát, “nghiệp” là việc làm. Thất nghiệp là mất việc hoặc không có việc làm.
Trong lịch sử loài người, thất nghiệp chỉ xuất hiện ở xã hội tư bản. Trong xã hội cộng đồng nguyên thủy, việc làm duy trì trật tự và buộc mọi thành viên phải đóng góp sức lao động bằng cách có làm việc. Ngay cả trong xã hội nô lệ, chủ nhân không bao giờ để cho người nô lệ rảnh rỗi lâu.
Trong xã hội tư bản, giới chủ nhân chạy theo mục đích tối thượng là lợi nhuận, họ cũng không phải chịu trách nhiệm về việc sa thải người lao động, do đó họ vui lòng chấp nhận tình trạng thất nghiệp, thậm chí kiếm lợi từ tình trạng thất nghiệp. Người lao động không có các nguồn sản xuất để tự lao động nên đành phải chấp nhận đi làm thuê hoặc thất nghiệp.
Các thuyết về kinh tế học giải thích thất nghiệp theo các cách khác nhau. Kinh tế học Keynes nhấn mạnh: “Nhu cầu yếu sẽ dẫn đến cắt giảm sản xuất và sa thải công nhân” – tức là “thất nghiệp chu kỳ”. Một số kinh tế học khác lý luận: “Các vấn đề về cơ cấu ảnh hưởng thị trường lao động” – tức là “thất nghiệp cơ cấu”. Kinh tế học cổ điển và tân cổ điển có xu hướng lý giải áp lực thị trường đến từ ngoại tại – chẳng hạn: mức lương tối thiểu, thuế, quy định hạn chế thuê mướn người lao động, dạng “thất nghiệp thông thường”. Có ý kiến lại cho rằng “thất nghiệp chủ yếu là sự lựa chọn tự nguyện”. Các quan điểm khác nhau có thể đúng theo các cách khác nhau, góp phần đưa ra cái nhìn toàn diện về tình trạng thất nghiệp.
Việc áp dụng nguyên lý “cung và cầu” vào thị trường lao động giúp lý giải tỷ lệ thất nghiệp cũng như giá cả của lao động. Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (World Bank) ở Phi châu, Trung Đông và Mỹ châu Latin cho biết: “Tại các nước đang phát triển, tình trạng thất nghiệp cao trong phụ nữ và thanh niên còn là hậu quả của những quy định về trách nhiệm của chủ nhân”.
Nhàn cư vi bất thiện. Không có việc làm đồng nghĩa với việc hạn chế giao tiếp với những người lao động khác, tốn thời gian, không có khả năng chi trả, mua sắm vật dụng cần thiết hoặc các loại hàng hóa. Vấn đề trở nên trầm trọng cho người nuôi sống gia đình, có thể bị nợ nần, mất khả năng chi trả. Các nghiên cứu cụ thể chỉ racho thấy rằng tỷ lệ gia tăng thất nghiệp đi liền với tỷ lệ gia tăng tội phạm, tỷ lệ tự tử và suy giảm sức khỏe.
Một số quan điểm cho rằng người lao động nhiều khi phải chấp nhận công việc có thu nhập thấp trong khi chờ tìm được công việc phù hợp. Người sử dụng lao động thì lợi dụng tình trạng thất nghiệp để gây sức ép đối với những người làm công cho mình – chẳng hạn: không cải thiện môi trường làm việc, áp đặt năng suất cao, trả lương thấp, hạn chế cơ hội thăng tiến,…
Cái “giá” khác của thất nghiệp: Khi thiếu các nguồn tài chính và phúc lợi xã hội, cá nhân buộc phải làm những công việc không phù hợp với trình độ, năng lực,… Như vậy, thất nghiệp gây ra tình trạng làm việc dưới mức khả năng. Với ý nghĩa này, cần thiết có sự trợ cấp thất nghiệp.
Hệ lụy của sự thất nghiệp có thể dẫn đến chán nản, buồn bã, trầm cảm, ảnh hưởng bản thân và gia đình, chấp nhận thù lao thấp, và sau cùng là chịu thiếu sự bảo hộ lao động. Tình trạng này ngăn cản người muốn tham gia làm việc, hạn chế di dân và hạn chế cạnh tranh quốc tế. Cuối cùng, tình trạng thất nghiệp sẽ khiến cán cân đàm phán điều kiện lao động nghiêng về giới chủ nhân, tăng chi phí khi rời công việc và giảm cơ hội tìm việc làm phù hợp với thu nhập khá hơn.
Thất nghiệp tạo áp lực tâm lý cao. Người thất nghiệp dễ lâm vào tình trạng cảm thấy mình là người thừa, nhưng sự tác động này có mức ảnh hưởng khác nhau giữa hai phái: Ở nam giới “căng” hơn ở nữ giới. Với phụ nữ, nếu không có việc làm ngoài thì việc nội trợ và chăm sóc con cái vẫn có thể được chấp nhận; ngược lại, ở nam giới khó được chấp nhận vì “bị” coi là người “chống mũi chịu sáo”, là “gia trưởng”, là người lo cho gia đình,… Do đó, lòng tự trọng cũng không cho phép nam giới chấp nhận sự nhàn rỗi. Khi thất nghiệp, nam giới thường cảm thấy tự ti, mặc cảm, nhạy cảm và dễ nóng nảy, họ có thể tìm đến rượu, bia, thuốc lá để “giải sầu”, tình trạng này kéo dài sẽ gây nghiện, không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe bản thân mà còn có thể dẫn đến bạo hành gia đình. Họ cũng dễ bị rối loạn tâm lý như buồn phiền, mất ngủ, trầm cảm, và thậm chí là tự tử – nhất là khi họ không được người thân thông cảm.
Tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với Tổng Sản lượng Quốc gia (GDP) thấp – nguồn nhân lực không được sử dụng hợp lý, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm và dịch vụ. Thất nghiệp cũng có nghĩa là sản xuất ít hơn, làm giảm tính hiệu quả của sản xuất quy mô. Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm, hàng hóa và dịch vụ không có người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít, chất lượng sản phẩm và giá cả giảm sút. Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao dẫn đến nhu cầu tiêu dùng ít so với khi có nhiều việc làm, do đó mà cơ hội đầu tư cũng ít hơn.
Tình trạng thất nghiệp gia tăng tương quan với áp lực giảm lạm phát. Điều này được minh họa bằng đường cong Phillips theo kinh tế học. Tỷ lệ thất nghiệp vừa phải giúp cho cả người lao động và người sử dụng lao động. Người lao động có thể tìm các cơ hội làm việc khác phù hợp với khả năng và điều kiện cư trú. Còn người sử dụng lao động có thể tìm được người lao động phù hợp, tăng sự trung thành của người lao động.
Thất nghiệp là tình trạng buồn, tạo hệ lụy xấu, thế nên chúng ta thường gọi là “nạn thất nghiệp”. Thật vậy, thất nghiệp là một “tai nạn” cũng nguy hiểm không khác các tai nạn khác!
Giáo Hội là Hội Thánh của Chúa giữa trần gian, và cũng ảnh hưởng tiêu cực khi nạn thất nghiệp xảy ra. Giáo Hội mời gọi mọi người cầu nguyện cho những người thất nghiệp nhận được sự trợ giúp và tìm được công ăn việc làm để có thể sống xứng đáng với phẩm giá con người của mình, đồng thời cũng mời gọi mọi người cầu nguyện cho Âu châu tái khám phá ra căn nguyên Kitô giáo của mình qua chứng tá đức tin của các tín hữu.
Kinh Thánh không nói về nạn thất nghiệp, nhưng có nói những điều tương tự với từ ngữ khác và mang chiều kích tâm linh. Trình thuật Mt 20:1-17 nói về việc Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn “Thợ Làm Vườn Nho”.
Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng”. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”. Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!”. Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất”. Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”.
Kinh Thánh kết luận: “Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”.
Tất cả chúng ta đều là những “công nhân làm vườn nho”, mỗi người vào vườn nho ở mỗi thời điểm khác nhau và với mức độ làm việc khác nhau, nhưng ai cũng được trả công là “một quan tiền” vào cuối ngày – ngày Đức Giêsu Kitô tái lâm.
Ai cũng có việc làm, nghĩa là không thất nghiệp. Nhưng nếu chúng ta lười biếng là vì chúng ta muốn thất nghiệp!
Trong “vườn nho” của Chúa có nhiều việc làm, không lo thất nghiệp. Kẻ tỉa lá, người hái nho; kẻ vun đất; người tưới nước; kẻ ươm giống, người xới đất; mỗi người mỗi việc, mỗi người mỗi ơn gọi, nhưng tất cả chỉ là cùng chăm sóc Vườn Nho, cùng mở rộng Nước Trời, cùng làm sáng danh Chúa. Không ai có thể lười biếng hoặc làm gì khác theo ý riêng mình.
Chúa Giêsu vẫn không ngừng tiếp tục mời gọi chúng ta hàng ngày: “Hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả công hợp lẽ công bằng” (Mt 20:4). Vào đó, mỗi chúng ta đều có công việc phù hợp khả năng để làm. Chẳng hạn:
– Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo (Mc 16:15).
– Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Mt 28:19).
– Hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa (Lc 9:60).
Nói về việc làm trong vườn nho, chúng ta có thể nhớ tới dụ ngôn “Hai Người Con” (Mt 21:28-32). Người cha bảo hai cậu con trai đi làm vườn nho, người con thứ nhất bảo không đi nhưng rồi lại đi, còn người con thứ hai bảo đi nhưng rồi lại không đi. Chúng ta đã, đang và sẽ là người con nào?
Và hãy đừng quên lời nhắc nhở thẳng thắn của Chúa Giêsu: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước quý vị” (Mt 21:31). Nghe câu này “quen” nhưng có thấy “nhột” không? Vấn đề là ở chỗ đó!
Lạy Thiên Chúa hằng sinh, xin đánh thức chúng con, xin đừng để chúng con ngủ mê trong ảo tưởng. Xin cho mọi người có việc làm phù hợp khả năng để nuôi sống bản thân trên đường lữ hành trần gian này, nhờ đó có thể an tâm làm thợ vườn nho của Chúa, đồng thời biết tích lũy của cải không hề mối mọt. Xin cho mỗi chúng con đều là những thợ vườn nho chăm chỉ để xứng đáng lãnh nhận “một quan tiền vĩnh hằng”. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU