Thách đố của người tu sĩ trong thời đại mới

171

Bước vào ngàn năm thứ ba, nhìn tổng thể, xã hội loài người có nhiều thay đổi theo hướng tích cực trong hầu hết mọi lãnh vực. Trong bối cảnh xã hội phát triển, cuộc sống con người được mở ra với nhiều hy vọng, nhiều hứa hẹn, nhưng cũng nhiều thách đố và không ít rủi ro. Chính vì thế, con người dù dư thừa vật chất, nhưng vẫn cảm thấy buồn phiền, chán nản, lo âu, bất an… Có nhiều người rất thành công trong sự nghiệp, lắm bạc nhiều tiền, cũng như có được một gia đình yên ấm, nhưng lại cảm thấy trống vắng trong tâm hồn. Bên cạnh đó, cùng với phát triển kinh tế, cuộc sống sung túc hơn thì đồng thời, con người cũng chạy theo lối sống thực dụng, hưởng thụ và ích kỷ hơn.

Ra như mối tương quan tình thân dễ bị lãng quên hơn. Lại nữa, con người ngày nay cũng có nhiều thay đổi trong lối suy nghĩ, quan niệm sống và các giá trị tinh thần cũng đang được nhìn nhận lại một cách tự do hơn, thông thoáng hơn. Đặc biệt trong đời sống tâm linh, niềm tin vào các tôn giáo đang được con người đặt vấn đề. Họ nghi ngờ về một sức mạnh nào đó từ bên ngoài tác động vào đời sống của con người.

Đứng trước thực trạng của một xã hội mà con người muốn phủ nhận Thiên Chúa và chạy theo vật chất, giới trẻ Công giáo nói chung và các tu sĩ trẻ nói riêng sẽ gặp rất nhiều những thách đố trong đời sống. Với cái nhìn chủ quan, bài viết nêu lên những thách đố mà người tu sĩ sẽ phải đối diện khi sống giữa lòng xã hội hôm nay. Những gì trình bày ở đây ra như tiêu cực, nhưng hy vọng đó là số ít, còn thực tế thì phần nhiều là những gương sáng cho con người thời đại.

Thách đố khi hội nhập với xã hội

Ngày nay, người tu sĩ trẻ được mời gọi sống hội nhập để làm chứng cho niềm tin và những giá trị cao quý của Kitô giáo. Họ được kêu gọi hãy dám từ bỏ những giá trị vật chất, là những gì đáng được hưởng, để dấn thân cho một lý tưởng cao đẹp hơn. Nói thế không phải phủ nhận những giá trị vật chất đem lại cho đời tu. Thật thế, có rất nhiều phương tiện hữu ích trong xã hội hiện đại đang phục vụ cho sứ mạng của người tu sĩ. Vấn đề đặt ra là, người tu sĩ hội nhập với xã hội hay là bị hoà tan trong xã hội – một xã hội hưởng thụ và tục hoá?

Trong thực tế, có không ít người sống đời tu nhưng đã bị cuốn vào vòng xoay của lối sống thực dụng. Không ít người chọn đời tu để mong thoát ra khỏi những khó khăn về đời sống vật chất. Họ chọn nhà Dòng như là điểm dựa để tiến thân. Họ chạy theo thời đại với những toan tính thiên về vật chất. Họ cũng cố gắng tìm cho mình những gì người khác có. Về bằng cấp, họ cũng tìm kiếm như mọi người, nhưng không phải để phục vụ mà là để khoe mẽ, để tiến chức. Về vật chất, nhiều vật dụng không cần thiết hoặc chưa cần thiết cho cuộc sống thì họ cũng cố gắng phải có để bằng anh, bằng em. Khi bản thân hoặc gia đình họ không có điều kiện, họ cố gắng chạy chọt, xin xỏ để đạt được những gì mình muốn. Có nhiều người đưa ra những lý luận rất hay để biện minh cho những hành động chạy theo lối sống hưởng thụ của mình.

Thế còn những người mang nơi mình một lý tưởng cao đẹp trong đời sống dâng hiến thì sao? Họ phải sống thế nào trước một xã hội đề cao cái tôi cá nhân và sự hưởng thụ này? Có lẽ, người tu sĩ trẻ cần hội nhập để cùng đồng hành và chia sẻ với con người, giúp họ và giúp mình tìm được giá trị đích thực về đời sống con người. Người tu sĩ trẻ hội nhập để chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của kiếp người. Họ hoà đồng mà không bị hoà tan trong vũng bùn của cuộc đời nhiều tội lỗi. Người tu sĩ trẻ có thể đến với những bóng đêm của cuộc đời để kéo con người trong đó ra ánh sáng, nhưng họ không ở luôn trong bóng đêm ấy. Người tu sĩ trẻ có thể đến với những người yếu đuối để nâng họ đứng lên, chứ không bị những yếu đuối ấy nhận chìm…

Thiết nghĩ, người chọn đời tu vẫn đang sống trong xã hội này, không thể tách rời. Vì thế, họ cần tận dụng những thuận lợi mà xã hội đem lại để phục vụ cho sứ mạng của mình. Đồng thời, họ cần phát huy hơn nữa những giá trị tích cực mà cơ chế thị trường, xã hội thực dụng, công nghệ – khoa học đem lại để phần nào làm hạn chế những điều tiêu cực do chính cơ chế ấy gây ra. Hoà nhập được như thế thì thực trạng xã hội sẽ không còn là một thách đố với người tu sĩ trẻ nữa, mà trở thành một phương tiện hữu dụng để họ rao giảng sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa cho con người hôm nay.

Thách đố khi sống các nhân đức

Bên cạnh việc sống hội nhập với xã hội, người tu sĩ còn được mời gọi thể hiện đời sống chứng tá của mình bằng việc thực thi hoàn trọn các nhân đức, để làm gương sáng cho mọi người. Đây cũng là một thách đố lớn đối với người tu sĩ trong một xã hội đang có quá nhiều những cám dỗ bủa vây.

Các nhân đức hướng thần

Việt Nam là một đất nước đa tôn giáo, trong đó có những tôn giáo đã được lưu truyền từ rất lâu, chẳng hạn như Phật giáo và Nho giáo. Ảnh hưởng của những tôn giáo này rất lớn đối với người Việt Nam, và đã ăn sâu vào trong tâm thức của nhiều người. Tư tưởng của các tôn giáo đó thì bình dân, giản dị, dễ gần và phù hợp với người nông dân Việt Nam. Trong khi đó, Công giáo với những ý tưởng thần học quá trừu tượng, qúa cao siêu không đủ sức nuôi tâm hồn những người tín hữu nói chung và người tu sĩ nói riêng trong cuộc chiến đấu trước những thách đố, cám dỗ của đời thường. Từ đó, người tu sĩ có thái độ gồng lên để chu toàn nghĩa vụ đầy công đức thiêng liêng nhưng không cảm nhận được những nét đẹp cao quý khiến cho đời tu trở nên nặng nề, ì ạch và “khó thở”[1].

Bên cạnh đó, họ lại thấy các đấng xưa nay vốn là thần tượng của mình, lại có những hành xử quá ư là con người. Bề trên thì chuyên quyền, người dưới thì luồn cúi… Họ ra sức tìm kiếm mà chẳng thấy Chúa đâu. Họ kêu gào mãi mà Chúa vẫn lặng thinh. Thế là, Đức Tin chao đảo, họ nghi ngờ không biết Chúa có thật hay không. Trong khi đó, khoa học đang dần giải thích được hầu hết các hiện tượng mà xưa nay vẫn nghĩ là Chúa đã làm. Chính những chán nản, căng thẳng, khủng hoảng trong đời tu làm cho người tu sĩ trẻ trở nên tuyệt vọng không biết bám víu vào ai, dẫn đến những thách đố về đức cậy.

Trước một thế giới đầy biến động, sự hy vọng tan vỡ mỗi ngày. Người tu sĩ thay vì phải trở nên dấu chỉ và biểu hiện của niềm hy vọng cho người tín hữu, thì chính người tu sĩ lại đánh mất đi niềm hy vọng vào Đức Giê-su Ki-tô. Mỗi khi thất vọng, đau buồn, họ không còn tìm đến Chúa nữa. Bây giờ, họ xây đắp hy vọng của mình nơi những người có thể cho họ được an toàn trong đời tu. Họ hy vọng vào mối quan hệ thân thiết với các đấng trong Dòng, trong Giáo hội, để họ được ưu đãi, cất nhắc lên làm việc này, việc kia. Họ hướng hy vọng của mình vào nơi chính quyền, nhà nước cốt làm sao để đi tu dễ dàng, mau chóng được phong chức. Họ còn hy vọng vào những người bảo trợ (cha bố, sơ mẹ), là những người bảo đảm tài chính sẽ chu cấp cho họ được cuộc sống an nhàn, có phương tiện tối tân để làm việc.[2] Nhưng khi nói tới việc làm, thì sự dấn thân đã không còn gắn liền với người tu sĩ nữa. Ai cũng muốn an phận, dính vào thêm mệt ; bề trên giao việc thì từ chối, sợ không làm được. Hình ảnh người tu sĩ dấn thân giữa đời, là người của tình yêu giờ không còn nữa. Người tu sĩ được mời gọi trở nên giống Đức Kitô tình yêu, nhân từ, sức mạnh và sự hiểu biết giờ còn đâu? Và đây cũng chính là thách đố về đức mến.

Trong thực tế, nhiều người trẻ đi tu là để tìm kiếm một vị thế trong Dòng hoặc thể hiện mình trong các tổ chức của Giáo Hội. Đôi khi, ý tưởng khởi đầu đời tu là sự quý mến hay khâm phục một tu sĩ đạo đức thánh thiện nào đó. Thế nhưng, khi đã vào tu thì họ lại mong nhanh chóng được làm linh mục để hoạt động, để được nhiều người biết đến, để được mọi người đánh giá bằng khả năng tổ chức sinh hoạt bên ngoài, chứ không phải qua đời sống tâm linh thánh thiện. Họ thích xuất hiện trước cộng đồng hơn là đọc kinh cầu nguyện. Họ thích phục vụ ư? Tốt đấy, nhưng họ lại không phục vụ theo lòng mến giống như Chúa Kitô, mà chỉ vì mục đích vụ lợi, đạt được cái gì đó cho bản thân. Trong đời sống chung, người tu sĩ trẻ chỉ biết sống với tinh thần cạnh tranh thay vì giúp đỡ nhau ; thay vì sống tình huynh đệ cộng đoàn thì họ lại chỉ trích người này, tẩy chay người nọ. Họ thiếu lòng cảm thông và sự chia sẻ cùng anh chị em trong cộng đoàn. Lòng mến Chúa và yêu thương huynh đệ không còn nữa thì đời sống của người tu sĩ trở nên nặng nề và không còn ý nghĩa nữa.

Các nhân đức nhân bản

Hơn bao giờ hết, thế giới này là một thế giới “bầm dập” vì những chuyển biến, đang cần những chứng nhân thành tâm thiện chí sống động. Chính vì thế, hơn ai hết, người tu sĩ phải thể hiện sự trưởng thành trong đời sống nhân bản của chính mình. Họ cần phải có những động lực để thúc đẩy tham dự vào những bước tiến vĩ đại của nhân loại, bằng việc sống ơn gọi đích thực, bằng việc huấn luyện lương tâm, cảm thức về những giá trị đạo đức và tinh thần, nhất là làm chứng tá cho những giá trị luân lý.[3] Đứng trước thực trạng đó, người tu sĩ trẻ làm sao kiện toàn lý trí trong điều khiển các hành vi? Làm sao tập trung ý chí trong việc chu toàn nghĩa vụ đối với tha nhân? Vững vàng không tháo lui trước những gian nguy và kiểm soát được cảm xúc không chiều theo bản năng mù quáng? Đây chính là thách đố về luân lý cho người tu sĩ trẻ.

Trước tiên, họ cần sự khôn ngoan để đọc ra được các dấu chỉ của thời đại theo ý định Thiên Chúa như Phúc Âm đã từng nói đến “Khôn ngoan như con rắn, đơn sơ như bồ câu” (Mt 10,16). Đó là sự khôn ngoan trong tương quan với Thiên Chúa. Thế nhưng, người tu sĩ trẻ ngày nay dường như tìm kiếm một sự khôn ngoan mà nói như thánh Phaolô là sự khôn ngoan của thế gian, là khôn ngoan danh vọng và chức quyền. Sự khôn ngoan đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của người tu sĩ. Họ dùng để phân biệt điều tốt và điều xấu, nhưng hiện nay sự phân biệt đó xem ra rất chủ quan. Họ còn dùng sự khôn ngoan nhằm nắm bắt cơ hội cho bản thân mà không màng đến quyền lợi của người khác, gây nên những bất công trong đời sống cộng đoàn.

Kế đến, sự công bằng cũng là thách đố cho người tu sĩ khi mà cá nhân chủ nghĩa được đề cao. Mối tương quan giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đoàn cũng đòi hỏi sự công bằng, nhưng là đòi hỏi theo cách cá lớn ép cá bé, hay bề trên cho anh xe gắn máy thì phải cho tôi vi tính hoặc cái gì đó tương đương.

Thêm nữa, bước vào đời tu, người trẻ phải lì, phải liều để dấn thân. Thiên Chúa không để ai bị thiệt hay chịu đựng quá sức mình: “Ơn Thầy đủ cho con vì sức mạnh Thầy biểu lộ trong sự yếu đuối” (2Cr 12,9). Đó là lòng can đảm và sức mạnh Chúa ban để chúng ta vượt qua chông gai thử thách. Tuy nhiên sự can đảm không chỉ có thế, mà đôi khi phải chịu đựng gian khổ nữa. Thử hỏi bây giờ có mấy người dám dấn thân vào những nơi cực khổ? Ngay trong cộng đoàn, họ dùng sự can đảm để từ chối, để rút lui trước những khó khăn, dùng sức mạnh để đối đầu anh em mình.

Cuối cùng, dù sống giữa đời thường hay trong đời sống tu trì, thì việc giữ chừng mực trong hết mọi hành động vẫn là điều quan trọng. Hơn nữa, là người tu sĩ thì chúng ta phải làm gương, nếu không chúng ta sẽ giảng dạy như thế nào khi mà cuộc sống chúng ta chẳng ra làm sao. Người tu sĩ cần phải kìm hãm những nhu cầu tự nhiên trong khuôn khổ chừng mực.

Thách đố khi sống ba lời khuyên Tin mừng

Trong một xã hội, đang khi con người đề cao tiền bạc, vật chất, thì đời sống tu trì lại mời gọi người tu sĩ sống lời khấn khó nghèo triệt để ; đang khi con người sống hưởng thụ, thì người tu sĩ lại được mời gọi sống khiết tịnh vì Nước Trời ; đang khi con người đề cao cái tôi cá nhân, thì người tu sĩ lại được mời gọi sống vâng phục tuyệt đối theo gương Đức Ki-tô, “Đấng đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Pl 2,8). Đó chính là thách đố khi người tu sĩ giữ ba lời khuyên Tin mừng.

Khó nghèo

Không ai trong chúng ta muốn sống nghèo, nhất là trong xã hội mà người ta đang đề cao tiền bạc, hưởng thụ và cái nghèo bị coi là điều bất hạnh. Người tu sĩ trẻ cũng đang bị cuốn vào vòng xoáy đó và đây là một thách đố. Thực tế, nếu người tu sĩ trẻ tự nguyện sống nghèo, sống giản dị thì cũng rất khó, bởi những tác động của nội cảnh và ngoại cảnh. Nhìn ra xã hội, chúng ta thấy đủ loại hình thức quảng cáo, tiếp thị khuyến khích người trẻ hưởng thụ những tiện nghi vật chất, nhưng lại hạ thấp và quên đi những giá trị tinh thần cao đẹp của con người. Nhìn vào bạn bè cùng lứa tuổi thì họ đã có sự nghiệp, gia đình ổn định, còn mình thì chẳng có gì cả. Từ những so sánh tính toán đó, người tu sĩ trẻ dễ rơi vào những cám dỗ về phương tiện vật chất. Họ nghĩ muốn học hành, phục vụ cần phải có vi tính xách tay, xe gắn máy thật “xịn”để dễ dàng di chuyển chỗ này chỗ kia, làm cho được việc. Ban đầu, ý tưởng có đủ điều kiện vật chất để thi hành công việc là một điều tốt. Thế nhưng sau đó, ý hướng này đã bị lạm dụng bởi những nhu cầu không chính đáng. Những tài sản có được do khéo xin xỏ thì ai cũng bo bo giữ cho riêng mình, không dám chia sẻ cùng anh chị em trong cộng đoàn. Cứ thế, người tu sĩ bị bao phủ bởi những vật chất có được, khó lòng từ bỏ. Lời khấn khó nghèo trở nên nặng nề hoặc có thể bị xuyên tạc để trở nên dễ dàng hơn.

Vâng phục

Thế hệ trẻ ngày nay tỏ ra đầy tính cách duy lý, họ tìm cho mình một lập trường và có thể tự cho rằng đã đủ để mạnh dạn phê bình người khác. Nhiều tu sĩ trẻ dựa theo lập trường, theo kiến thức, sự hiểu biết của mình mà không chịu nhận mình sai sót. Có nhiều người còn lợi dụng tinh thần tự do dân chủ để phản đối lại những quyết định của bề trên. Họ lẩm bẩm kêu ca khi bị truyền phải vâng phục, “bằng mặt mà không bằng lòng”. Họ quên rằng, lời khấn vâng phục mà họ đã tuyên khấn là vâng phục Thiên Chúa, và bề trên chỉ là người thay mặt. Một cách nào đó, mọi người, đặc biệt các vị bề trên cũng đã có cái nhìn cởi mở hơn trong khi thực hiện quyền bính trên các người trẻ. Họ tôn trọng những giá trị riêng biệt của từng cá nhân. Họ lắng nghe người trẻ một cách tích cực và cảm thông hơn. Thế nhưng, không vì thế mà các tu sĩ trẻ quá coi thường, thiếu sự tôn trọng.

Khiết tịnh

Khi cuộc sống tu trì gặp khủng hoảng, căng thẳng, không còn niềm vui, mà cộng đoàn không thể chia sẻ thì người tu sĩ trẻ dễ đi tìm sự khoả lấp từ bên ngoài. Khi tâm hồn trống vắng, họ sẽ tìm đến với những niềm vui mà chính họ cũng không nghĩ là sẽ gặp trong cuộc đời. Bên cạnh đó, các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình, Internet… truyền tải những hình ảnh độc hại, nội dung đồi truỵ dễ lôi kéo người tu sĩ trẻ vào việc thoả mãn những nhu cầu tâm sinh lý khi đang khủng hoảng. Họ không còn cảm nhận được niềm vui khi phục vụ người khác, đặc biệt những người bất hạnh. Họ không thấy được hạnh phúc khi đến với tha nhân, khi sống cùng cộng đoàn. Họ coi cộng đoàn là địa ngục, tha nhân là gánh nặng. Họ vùng vẫy trong đam mê, trong yếu đuối của xác thịt. Lời khấn khiết tịnh đã trở nên gánh nặng, đè bẹp cuộc đời đáng ra rất hạnh phúc của họ.

Tạm Kết

Cuộc sống chúng ta luôn có những thách đố và khủng hoảng. Hành trình làm con Chúa cũng tồn tại nhiều nghi ngờ và e ngại. Dấn thân theo Đức Kitô, để trở thành người môn đệ đích thực của Người cũng thật chông gai và nhiều cam go. Chúng ta luôn mong tìm được một hướng đi nào đó thích hợp, bớt được những khó khăn thì mãn nguyện và hạnh phúc. Thế nhưng, điều này còn nhiều bước cản, vì con người thì giới hạn mà khát vọng lại vô cùng.

Vì thế, người tu sĩ trẻ ngày nay cần phải đọc ra được những dấu chỉ của thời đại. Họ cần đọc được ý Chúa muốn nói với mình điều gì qua những biến cố, những sự kiện của bản thân, của những người xung quanh, cũng như những sự kiện của xã hội. Nếu con người không thể sống thiếu cơm bánh, thì có thể nói người tu sĩ trẻ cũng không thể sống thiếu Lời Chúa: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4,4). Nhờ Lời Chúa, người tu sĩ sẽ biết được sự yếu đuối của bản thân, để biết cậy dựa, tin tưởng vào một mình Chúa mà thôi.

Cuối cùng, người tu sĩ trẻ cần thực hiện ba điểm chính yếu của đời tu, đó là: tìm kiếm Thiên Chúa, sống tinh thần hiệp thông huynh đệ và phục vụ người khác. Những người sống trong ơn gọi tu trì hãy cố gắng làm chứng cho mọi người thấy rằng, ai cũng được mời gọi nên thánh. Đồng thời, họ phải là gương sáng cho người Kitô hữu lẫn người ngoài Kitô giáo về lòng yêu thương tha nhân, nhất là những anh chị em gặp nhiều đau khổ trong xã hội. Trong một thế giới không còn ý thức mạnh mẽ về sự hiện diện của Thiên Chúa nữa, thì người tu sĩ phải trở thành chứng nhân đầy sức thuyết phục về một Thiên Chúa Tình Yêu và về đời sống vĩnh cửu mai sau.

Trong đời sống cộng đoàn, người tu sĩ phải làm chứng về các giá trị của tình huynh đệ và sức biến đổi của Tin Mừng. Tất cả những ai bước vào đời tu đều được mời gọi trở thành người đi đầu trong việc tìm kiếm Chúa, một sự tìm kiếm luôn làm dao động lòng người và được bày tỏ hết sức rõ ràng bằng nhiều hình thức tu đức và đời sống tâm linh. Sống cộng đoàn, làm chứng trong thinh lặng và bình an là hình thức thôi thúc mọi người xây dựng một sự hòa hợp lớn hơn trong xã hội. Sống nghèo khó và từ bỏ trong thinh lặng, sống thanh khiết và chân thành, sống quên mình trong tuân phục, tất cả những điều ấy trở nên lời chứng hùng hồn cho bối cảnh ngày nay.[4]

(trích Nội San Chia sẻ số 62)

Văn Hoàng, OP