Phong cách cầu nguyện (Chúa nhật XVII TN, năm C)

55

Phong cách cầu nguyện

(Chúa nhật XVII TN, năm C)

Cầu nguyện là hướng tâm hồn lên Chúa, tâm sự thân mật với Ngài về mọi sự, cả điều to lẫn điều nhỏ, cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Tuy nhiên, cần lưu ý “phong cách cầu nguyện”, điển hình là hai động thái của hai người cùng cầu nguyện tại Đền Thờ: Người Pharisêu và người thu thuế (x. Lc 18:9-14).

Cầu nguyện là thời gian tốt lành, thế nhưng đôi khi chúng ta có thể ích kỷ và bất nhân ngay trong lúc cầu nguyện. Thật vậy ư? Đúng vậy. Tại sao? Chúng ta ích kỷ vì chỉ cầu xin cho mình mà không cầu xin cho tha nhân, và chúng ta bất nhân vì kể với Chúa về tội người khác mà tìm cớ biện hộ cho mình. Lạy Chúa tôi!
Thánh Gioan Tông đồ cảnh báo: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính.Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1 Ga 1:8-10). Rõ ràng là “thái độ cầu nguyện” rất quan trọng. Hiệu quả hay không hoàn toàn tùy thuộc phong cách cầu nguyện của mỗi người. Khi thấy kẻ ác lộng hành, có người đã từng nói: “Sao Chúa không cho nó chết đi, phạt nhãn tiền cho cuộc sống bình yên”. Ý tốt đó có thực sự tốt chưa, hay chính là sự bất nhân? Thử hỏi: “Nếu Chúa áp dụng thẳng thắn nghiêm luật thì chúng ta còn sống tới hôm nay?”.
Quả thật, như Chúa Giêsu đã nói thẳng với người Pharisêu: “Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này:Ta muốn LÒNG NHÂN chứ đâu cần LỄ TẾ, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội” (Mt 12:8). Con người rất dễ ảo tưởng, vì thế có khi chính chúng ta đang là “Pharisêu chính hiệu” mà cứ tưởng mình đang hành động vì Chúa. Thật nguy hiểm!
Đức Chúa phán: “Tiếng kêu trách Xơđôm và Gômôra thật quá lớn! Tội lỗi của chúng quá nặng nề! Ta phải xuống xem thật sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta sẽ biết” (St 18: (St 18:20-21). Đó là phong cách công minh và chính trực của Thẩm-Phán-Thiên-Chúa. Người ta tâm phục và khẩu phục các xử án Bao Công, vì ông không thiên vị. Thiên Chúa còn vượt xa hơn!
Khi hai người kia bỏ nơi đó mà đi về phía Xơđôm, Đức Chúa còn đứng lại với ông Ápraham. Ông lại gần và “dài hơi” thưa: “Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt người lành một trật với kẻ dữ sao? Giả như trong thành có năm mươi người lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao? Ngài làm như vậy, chắc không được đâu! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ dữ, chắc không được đâu! Đấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh sao?” (St 18:23-25). Tổ phụ Ápraham cầu nguyện mà như “mặc cả” với Chúa, nhưng ông không mặc cả để tự biện hộ mà ông mặc cả vì công ích, vì lợi ích của người khác. Đó là sự mặc cả được Thiên Chúa cho phép. Và rồi Đức Chúa đáp: “Nếu Ta tìm được trong thành Xơđôm năm mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó” (St 18:26). Thiên Chúa quá đỗi nhân từ!
Nhưng chuyện không kết thúc ở mức đó. Ông Ápraham vẫn áy náy, ông lại nói: “Mặc dầu con chỉ là thân tro bụi, con cũng xin mạn phép thưa với Chúa: Giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất năm, vì năm người đó, Ngài sẽ phá huỷ cả thành sao?” (St 18:27-28a). Cái “giả định” của Tổ phụ nhà ta “độc đáo” lắm. Và Chúa lại thản nhiên đáp:“Không! Ta sẽ không phá huỷ, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người” (St 18:28b). Tuyệt vời quá! Nhưng ông vẫn chưa an tâm, ông lại gãi đầu thưa một lần nữa: “Giả như trong thành tìm được bốn mươi người thì sao?”. Chúa vẫn không nổi nóng, vẫn cười rất hiền và đáp: “Vì bốn mươi người đó, Ta sẽ không làm” (St 18:29). Chúa thật là hiền ơi là hiền!
Tổ phụ Ápraham thấy Chúa nhân từ quá nên ông bắt đầu ngại, ông khép nép thưa: “Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp: Giả như ở đó có ba mươi người thì sao?” (St 18:30a). Chúa vẫn bình tĩnh: “Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không làm” (St 18:30b). Ông vẫn cố mặc cả, ông giả định còn hai mươi người, rồi chỉ còn mười người, nhưng Chúa vẫn nói: “Vì mười người đó, Ta sẽ không phá huỷ Xơđôm” (St 18:32b). Ông Ápraham không dám mặc cả gì thêm. Thiên Chúa biến đi, còn ông trở về nhà.
Chẳng ai có thể nhân từ như Thiên Chúa, có tốt chăng thì cũng chỉ “quá tam ba bận”. Thiên Chúa là tình yêu nên Ngài yêu điên cuồng đến nỗi chết vì chính những người xúc phạm và giết chết Ngài, con người có tốt thì cũng chỉ dám chết cho người mình yêu mà thôi. Vì thế, chúng ta chỉ còn biết ngước nhìn Ngài, rồi dang tay lên và thân thưa: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự” (Tv 138:1-2). Lòng Chúa Thương Xót vượt lên khỏi trí tuệ của phàm nhân chúng ta, đúng như tác giả Thánh Vịnh đã cảm nghiệm: “Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn” (Tv 138:3).
Chúa cho phép chúng ta mặc cả vì tình yêu, vì sám hối, và dù “Chúa thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; còn ai ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết” (Tv 138:6). Đừng ảo tưởng mà đối nghịch với Ngài. Tác giả Thánh Vịnh đã bày tỏ thay chúng ta: “Cho dù con gặp bước ngặt nghèo, Chúa vẫn bảo toàn mạng sống con. Địch thù đang hằm hằm giận dữ, Ngài ra tay chận đứng, lấy tay uy quyền giải thoát con” (Tv 138:7). Do đó, chúng ta phải tự hứa với Ngài và xưng tụng: “Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang” (Tv 138:8).
Cuộc sống có hai cột mốc, như sợi dây có hai đầu: Bắt đầu và kết thúc, nghĩa là Sinh và Tử. Thiên Chúa là Nguồn Sống, là Alpha và Omêga, là Đầu và là Cuối (Kh 1:17). Thánh Phaolô giải thích: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. Trước kia, anh em là những kẻ chết vì anh em đã sa ngã, và vì thân xác anh em không được cắt bì, nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Kitô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta” (Cl 2:12-13).
Ai cũng sai lầm, ngay cả người tốt cũng sai lỗi mỗi ngày bảy lần. Nhưng Thiên Chúa vẫn đại lượng tha thứ, nếu chúng ta biết thật lòng sám hối. Điều rất quan trọng là đừng mất niềm tin vào Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, dù chúng ta có tội lỗi lút cổ ngập đầu: “Dù tội đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Chúng ta vẫn “mặc cả” với Chúa mỗi khi chúng ta sám hối, Chúa cho phép vì lợi ích của chúng ta. Quả thật, chúng ta không thể hiểu nổi! Thánh Phaolô nói thêm: “Người đã xoá sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã huỷ bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá” (Cl 2:14).
Cầu nguyện là điều quan trọng, nhưng phong cách cầu nguyện còn quan trọng hơn. Có một lần Đức Giêsu vừa cầu nguyện xong, có một người trong nhóm môn đệ nói với Người:“Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông” (Lc 11:1). Đây cũng là điều cần thiết mà chúng ta phải biết xin Chúa mỗi khi chúng ta cầu nguyện – dù chung hay riêng.
Chúa Giêsu bảo các ông: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11:2-4). Mỗi ngày chúng ta đọc Kinh Lạy Cha nhiều lần, nhưng có thể quen quá hóa thường, chỉ đọc như vẹt. Nếu xét sâu và sát theo lời kinh thì thấy mình còn thiếu sót nhiều lắm!
Rồi Người còn nói với các ông một chuyện rất đời thường: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: ‘Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’; mà người kia từ trong nhà lại đáp: ‘Xin anh đừng quấy rầy tôi, cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được?’. Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó” (Lc 11:5-8). Một ví dụ rất cụ thể, rạch ròi, không gì khó hiểu. Nhưng Ngài muốn dạy chúng ta phải biết kiên trì chứ đừng lải nhải (Mt 6:7). Chúa Giêsu rất trầm tính, không thích những người nói nhiều, lắm chuyện, lẻo mép!
Cầu nguyện không là trình bày cho xong lần, không là “ra lệnh” cho Chúa, mà phải cầu nguyện bằng cả niềm tin tưởng và phó thác. Ngài trọng chữ tín, không bao giờ sai lời hứa:“Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11:9-10). Xin chưa được, tìm chưa thấy, gõ chưa mở, đó là do lỗi của chúng ta, vì có thể lời cầu xin của chúng ta còn ích kỷ hoặc thực dụng.
Chúa Giêsu phân tích cụ thể rằng không cha mẹ nào lại lấy rắn cho con khi nó xin cá, hoặc lấy bò cạp cho con khi nó xin trứng. Rồi Ngài kết luận: “Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11:13). Một câu nghi vấn để nhấn mạnh điều xác định.
Vô tri bất mộ – không biết không yêu. Biết rõ mới yêu mến, yêu mến nên tin tưởng, tin tưởng nên cầu nguyện. Cầu nguyện thể hiện Đức Tin và Đức Mến. Hãy ghi nhớ lời Thánh Gioan Tông đồ: “Nếu ai nói “tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20).
Lạy Thiên Chúa, xin dạy chúng con biết cách cầu nguyện, và xin ban Thánh Linh đốt Lửa Mến trong mỗi chúng con để chúng con nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU