Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày – Tuần 23 Thường niên

81

SUY NIỆM TUẦN XXIII THƯỜNG NIÊN

Lm. Ngọc Dũng, SDB

THỨ HAI TUẦN XXIII THƯỜNG NIÊN

MỤC ĐÍCH CỦA LUẬT LÀ ĐƯA CHÚNG TA GẦN CHÚA VÀ GẦN NHAU

(1 Cr 5:1-8; Lc 6:6-11)

Trong bài đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô khuyến cáo tín hữu Côrintô về điều họ “vênh vang, kiêu ngạo.” Họ vênh vang về lối sống sống không đạo đức và những hành động “dâm ô” của mình. Đây có lẽ cũng là thái độ của nhiều người trong chúng ta khi chúng tự hào về lối sống ghen tỵ, so sánh, nói hành nói xấu người khác để cho mình tốt lành hơn họ. Chúng ta cần biết rằng: Trong cuộc sống, vênh vang kiêu ngạo về việc tốt mình làm đã là một điều không thể chấp nhận, huống chi là vênh vang kiêu ngạo về những điều không hay không tốt của mình. Chúng ta cần vun trồng nơi mình thái độ khiêm nhường vì chỉ có người khiêm nhường mới nhận ra và chấp nhận mình yếu đuối cần đến ơn Chúa và sự trợ giúp của anh chị em mình.

Bên cạnh đó, thánh Phaolô cũng chỉ ra thái độ cần thiết của người Kitô hữu trước những điều sai của anh chị em mình, đó là, không chỉ trích hoặc lên án, nhưng là “than khóc” (x. 1 Cr 5:2) cho những lỗi phạm của anh chị em mình. Không những thế, khi nhận ra mình sai lỗi, Thánh Phaolô mời gọi chúng ta loại bỏ nếp sống đó để biến đời sống trở nên hiến tế tinh tuyền dâng lên Thiên Chúa: “Chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5:8). Mỗi ngày chúng ta cần loại bỏ những gì không hay không tốt trong lời ăn tiếng nói, trong cử chỉ hành động của mình hầu hoàn toàn nói và hành động theo điều Chúa muốn chúng ta.

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho thấy một Đức Kitô thật hoàn hảo: Lời nói đi đôi với việc làm. Hay nói cách khác, lời nói [lời giảng dạy] được làm sáng tỏ qua hành động và hành động được hàm chứa trong lời nói. Thánh Luca mở đầu bằng việc Chúa Giêsu vào hội đường và giảng dạy trong một ngày sabát (Lc 6:6). Sau khi giảng dạy bằng “lời nói”, Chúa Giêsu hành động để làm sáng tỏ lời dạy của mình, là lời mang lại sự sống, qua việc chữa lành người bị khô bại tay phải. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về một đời sống “thống nhất” trong lời nói và việc làm. Những người có lời nói đi đôi với việc làm là những người được chúc phúc vì họ là những người “lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành.” Hãy sống một đời sống hiền hoà trong lời ăn tiếng nói, trong cử chỉ và hành động!

Nếu xem xét kỹ, chúng ta thấy có hai thái độ khác liên quan đến việc áp dụng luật được trình bày trong bài Tin Mừng: Chúa Giêsu và các kinh sư và những người Pharisêu. Đối với Chúa Giêsu, luật lệ là để giải thoát con người khỏi những rào cản không cho họ đến gần Chúa và đến gần người khác. Hay nói cách khác, mục đích của luật lệ là để cứu sống. Ngược lại, đối với các kinh sư và người Pharisêu, luật lệ là để “giăng bẫy” và “tìm cớ để tố cáo” (Lc 6:7), hay như lời của Chúa Giêsu là để “huỷ diệt.” (Lc 6:10). Khi Chúa Giêsu hỏi: “Tôi xin hỏi các ông: ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt?” (Lc 6:9), Ngài muốn khẳng định rằng: Ngài và các môn đệ không bị trói buộc bởi luật sabát khi liên quan đến làm việc tốt hay cứu sống người. Nói cách cụ thể hơn, luật ngày sabát “mất hiệu lực” khi “hoàn cảnh” đòi buộc chúng ta làm việc tốt và cứu người. Tóm lại, là “Con Người,” Chúa đề ra nguyên lý yêu thương. Đối với Ngài, nguyên lý này là nguyên lý cao nhất vượt trên mọi “luật lệ con người.”

Cuối cùng, chúng ta nhận ra chính mình trong phản ứng của các kinh sư và người Pharisêu trước việc chữa lành của Chúa Giêsu: “Họ thì giận điên lên, và bàn nhau xem có làm gì được Đức Giêsu không” (Lc 6:11). Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng “giận điên lên” vì người khác làm điều tốt hay thành công hơn mình. Chúng ta cũng tìm cách cắt nghĩa sai hành động tốt của người khác để hạ danh dự của họ. Đây là thái độ của những người: “Nếu tôi không ăn được thì tôi cũng đạp đổ để không ai có thể ăn.” Tuy nhiên, khi sống với thái độ này, chúng ta sẽ là người đau khổ nhất và không hạnh phúc nhất. Vì lúc nào chúng ta cũng “rình xem” những lỗi lầm của người khác. Chúng ta sẽ không có một giây phút để cảm nhận được sự bình an mà tình yêu và sự cảm thông mang lại.

*****************

THỨ BA TUẦN XXIII THƯỜNG NIÊN

MI ƠN GỌI LÀ HOA QUẢ CỦA LỜI CẦU NGUYỆN CỦA CHÚA GIÊSU

(1 Cr 6,1-11; Lc 6:12-19)

Thánh Phaolô trong bài đọc 1 khuyên nhủ tín hữu Côrintô về việc kiện cáo nhau. Theo thánh nhân, người Kitô hữu sẵn sàng chấp nhận những thiệt thòi chứ không hành xử theo cách của những người không phải dân thánh của Thiên Chúa. Khi một người Kitô hữu kiện cáo một người khác, thì ngay việc kiện cáo đã là một thất bại rồi: “Đằng này, anh em đã kiện cáo nhau thì chớ, lại còn đem nhau ra trước toà những người không có đức tin! Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh em rồi. Tại sao anh em chẳng thà chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi? Nhưng chính anh em lại ăn ở bất công và bóc lột, và đã đối xử như thế với anh em mình!” (1 Cr 6:6-8). Những lời này nhắc nhở người Kitô hữu phải sống khác với những anh chị em không tin vào Chúa Giêsu. Họ phải sống chính trực công minh vì họ chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp của riêng mình. Thật vậy, vì được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa, người Kitô hữu phải tránh lối sống của những “kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, truỵ lạc, kê gian, những kẻ trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới” (1 Cr 6:9-10). Họ phải sống như những người thuộc dân thánh của Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong bối cảnh Chúa Giêsu quy tụ dân Israel “được tái thiết” lại với nhau (x. Lc 6:12-49). Sau khi trình bày Chúa Giêsu gặp nhiều chống đối từ những người Pharisêu vì sứ vụ rao giảng Nước Thiên Chúa (x. Lc 5:17-6:11), Thánh Luca trình bày việc Chúa Giêsu chọn nhóm Mười Hai như là dân Israel được tái thiết. Hành động quy tụ này bắt đầu với việc cầu nguyện: “Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6:12). Trong những lời này, chúng ta cần lưu ý đến hình ảnh “núi.” Trong truyền thống Kinh Thánh, núi là nơi con người gặp gỡ và đối thoại với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đi ra núi cầu nguyện ám chỉ việc Ngài đi gặp gỡ Thiên Chúa và đối thoại với Thiên Chúa. Chi tiết này cho thấy việc chọn nhóm Mười Hai đến từ Thiên Chúa. Như vậy, cầu nguyện là yếu tố nền tảng nhất để nên “ý hợp tâm đầu với Thiên Chúa” [và với nhau nhất là trong đời sống cộng đoàn], để rồi những gì chúng ta làm “tuôn chảy” từ cầu nguyện,” từ Thiên Chúa.

Trong hai câu đầu (câu 11-12), Thánh Luca trình bày cho chúng ta ba hành động Chúa Giêsu làm trong việc “tái thiết lại” Israel. Ba hành động đó là: (1) Ngài đi ra núi cầu nguyện; (2) Ngài kêu gọi các môn đệ lại; (3) Ngài chọn mười hai ông và gọi là Tông Đồ. Ba yếu tố này cho thấy mầu nhiệm ơn gọi của mỗi người Kitô hữu [nhất là những người được thánh hiến]. Nói cách cụ thể hơn, mỗi ơn gọi Kitô hữu [thánh hiến] là hoa quả của việc cầu nguyện, của lời mời gọi và của sự chọn lựa của Chúa Giêsu. Người môn đệ chỉ làm một việc, đó là, đáp lại tiếng mời gọi này. Việc Chúa Giêsu chọn Mười Hai môn đệ và gọi là Tông Đồ ám chỉ việc “tái thiết lại” Israel. Nói cách khác, đối với Thánh Luca, nhóm Mười Hai là biểu tượng của việc tiếp tục với Israel. Tin Mừng Thánh Luca [và Công Vụ Các Tông Đồ], nhóm Mười Hai thường được gọi là Tông Đồ. Đây là thuật ngữ cho những người Kitô hữu truyền giáo được sai đi để rao giảng “sự kiện Đức Kitô,” hay theo ngôn từ của Thánh Luca, “lời Chúa.” Thuật ngữ này hiếm được sử dụng trong các Tin Mừng khác, nhưng nó được sử dụng 30 lần trong Tin Mừng Thánh Luca và Công Vụ Các Tông Đồ. Theo các học giả Kinh Thánh, khi liên kết nhóm Mười Hai với Tông Đồ, Thánh Luca làm cho Tin Mừng của mình khác biệt với những tác giả Tân Ước khác.

Một điểm khác chúng ta suy gẫm trong bài Tin Mừng hôm nay là danh sách của nhóm Mười Hai. Danh sách này chúng ta cũng tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Máccô (3:16-19), Mátthêu (10:2-4) và Công Vụ Các Tông Đồ (1:13). Trong danh sách này, chúng ta thấy những con người được chọn đến từ những bối cảnh gia đình, văn hoá và xã hội khác nhau: những người đánh cá, người thuộc nhóm nhiệt thành, người Galilê, người Giuđêa, người thu thuế, người có tên Hy Lạp. Danh sách này là biểu tượng của “sự hiệp nhất trong đa dạng.” Chi tiết này cho thấy, ai cũng được mời gọi để trở nên môn đệ và tông đồ của Chúa Giêsu dù họ có quá khứ như thế nào. Điều quan trọng là họ đáp lại tiếng mời gọi của Chúa Giêsu và đi theo Ngài. Nếu xem xét kỹ hơn danh sách này, chúng ta thấy những con người được gọi và chọn là những người sẽ bỏ Chúa Giêsu mà chạy, sẽ chối Ngài và sẽ trở thành kẻ phản bội. Nhưng những điều này không làm Chúa Giêsu ngừng gọi và chọn họ. Họ yếu đuối, nhưng Ngài đã cầu nguyện cho họ. Ơn gọi của họ không hệ tại công trạng của họ, nhưng hệ tại “lời cầu nguyện” của Chúa Giêsu. Chỉ những ai hiểu được điều này, mới có thể hiểu được mầu nhiệm ơn gọi của người Kitô hữu [của người được thánh hiến]. Mầu nhiệm đó là sự gặp gỡ đầy yêu thương giữa tình yêu vô hạn của Thiên Chúa và sự mỏng dòn yếu đuối của con người.

Sau khi cầu nguyện, gọi và chọn nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu bắt đầu dẫn các ông “đi xuống.” Đây là hình ảnh của việc trở về với thực tại, với công việc hằng ngày. Chúng ta thấy điều này qua việc Chúa Giêsu giảng dạy và chữa lành bệnh tật cũng như trừ các thần ô uế. Chính trong những việc này mà đám đông “đụng chạm” đến Ngài và cảm thấy “một năng lực” có sức chữa lành phát ra từ nơi Ngài (x. Lc 6:17-19). Chi tiết này mời gọi chúng ta nhìn lại ngày sống của mình. Qua những công việc hằng ngày, chúng ta đã đụng chạm đến Thiên Chúa [hay giúp người khác đụng chạm đến Thiên Chúa] chưa? Từ cuộc sống của mình, chúng ta đã chứng tỏ cho người khác thấy một năng lực có sức “chữa lành” những chia rẽ và tổn thương của Thiên Chúa đang hoạt động chưa? Nếu chưa, hãy bắt đầu ngay bây giờ, từ ngày hôm nay!

*****************

THỨ TƯ TUẦN XXIII THƯỜNG NIÊN

SỐNG TỐT THEO MỐI PHÚC TIN MỪNG

(1 Cr 7:25-31; Lc 6:20-26)

Trong bài đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu Côrintô sống xứng đáng với bậc sống của mình. Thánh nhân nói đến sự cao trọng của đời sống độc thân, nhưng ngài nói điều đó trong bối cảnh của Nước Trời đã đến gần. Trong lời nói của mình, dường như thánh nhân nói đến sự thống khổ của đời sống gia đình: “Bạn đã kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng tìm cách gỡ ra. Bạn chưa kết hôn với một người đàn bà ư? Đừng lo kiếm vợ. Nhưng nếu bạn cưới vợ, thì cũng chẳng có tội gì. Và nếu người con gái lấy chồng, thì cũng chẳng có tội gì. Tuy nhiên, những người ấy sẽ tự chuốc lấy những nỗi gian truân khốn khổ. Mà tôi, tôi muốn cho anh em thoát khỏi điều đó” (1 Cr 7:27-28). Điều này không có nghĩa là đời sống độc thân không có nỗi gian truân khốn khổ. Đời sống nào cũng có nỗi thống khổ riêng. Điều thánh nhân muốn nhấn mạnh đến là phải có tâm hồn hoàn toàn thanh thoát với những gì thuộc thế giới này để hướng lòng về nước trời vì mọi sự trên thế gian này chóng tàn, nay có mai đã mất đi: “Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (1 Cr 7:29-31). Mỗi người chúng ta đều biết rằng, mọi sự trên thế gian này đều không tồn tại vĩnh viễn, liệu chúng ta có can đảm từ bỏ để hoàn toàn hướng lòng về những gì là vĩnh cửu không?

Sau khi gọi và chọn các môn đệ [Tông Đồ], Chúa Giêsu trình bày cho họ những “lối sống” [hay thái độ sống] sẽ dẫn đến sự “chúc lành” và “chúc dữ.” Bài Tin Mừng hôm nay là trích đoạn trong bài giảng trên núi của Chúa Giêsu (x. Lc 6:17-49). Nó bao gồm bốn mối phúc và bốn mối hoạ. Khác với Tin Mừng Thánh Mátthêu có tám mối phúc, không có mối hoạ (x. Mt 5:3-12). Chi tiết đáng chú ý đầu tiên là “có đông đảo dân chúng tìm đến với Người. Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói” (Lc 6:20). Trong những lời này có một cái gì đó khác thường: “đông đảo dân chúng tìm đến với Chúa Giêsu,” nhưng Ngài lại “ngước mắt nhìn và nói với các môn đệ.” Chi tiết này ám chỉ đến việc những ai tìm đến với Chúa Giêsu với ý hướng đúng đắn sẽ trở nên môn đệ của Ngài. Đứng trước “đám đông” những người muốn làm môn đệ của Ngài, Chúa Giêsu trình bày cho họ những mối phúc và những mối hoạ mà người môn đệ phải sống hoặc phải tránh.

Trong bốn mối phúc, chúng ta thấy có ba mối phúc liên quan với nhau và liên quan đến người nghèo: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười” (Lc 6:20-21). Ba mối phúc này không phải công bố ba tầng lớp xã hội [nghèo, đói và khóc lóc] là có phúc. Điều kiện được chúc phúc không đến từ tầng lớp xã hội, nhưng đến và sẽ đến từ Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mang đến. Bên cạnh đó, như chúng ta đã trình bày ở trên (câu 20), điều kiện để trở nên thành viên của dân Israel được tái thiết lại bởi Chúa Giêsu. Điều kiện này lệ thuộc vào việc trở nên môn đệ của Ngài. Tuy nhiên, việc trở nên môn đệ của Ngài có thể phải đối diện với một vài hậu quả, đó là trở nên nghèo [khiên nhường hay hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa], đói khát [sự công chính] và khóc lóc [cho tội của mình và của người khác]. Những điều kiện này là bằng chứng chiều sâu của sự dấn thân trọn vẹn cho Chúa Giêsu và sứ điệp Nước Trời. Chiều sâu này được diễn tả cách cụ thể qua mối phúc thứ tư: “Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6:22-23). Mối phúc cuối cùng này chuẩn bị các môn đệ Chúa Giêsu sẵn sàng đón nhận lời dạy về việc yêu thương kẻ thù của mình trong phần kế tiếp của bài giảng trên núi.

Những lời “khốn” của Thánh Luca nhằm khuyến cáo lối hiểu biết nông cạn về việc ai là người hoặc thuộc về “người nghèo của Thiên Chúa,” là những người được chúc lành. Chính vì lý do này mà chúng ta thấy bốn lời “khốn” được viết theo lối đối nghịch với bốn lời chúc lành (x. Lc 6:24-26). Những lời “khốn” này nhằm mục đích kêu gọi sự thay đổi nơi mỗi người môn đệ Chúa Giêsu, chứ không nhằm mục đích tấn công bất kỳ tầng lớp xã hội nào. Cũng giống như bốn mối phúc, bốn mối hoạ cũng được nhắm đến những người sẽ trở thành môn đệ Chúa Giêsu (x. câu 20), là những người “có nhiều của cải.” Họ bị thách đố để từ bỏ những gì mình có hầu nhận ra rằng tiền tài, thức ăn ngon, thời gian vui chơi mang tính trần thế, và sự ca tụng của người đời không là gì so với niềm vui đi theo Chúa Giêsu và rao giảng sứ điệp Nước Thiên Chúa. Chi tiết này mời gọi chúng ta xét lại niềm vui theo Chúa của mình. Nhiều khi chúng ta quá chú trọng đến những điều chúng ta bỏ khi theo Chúa Giêsu, nên việc theo Chúa và làm chứng cho Ngài trở nên một gánh nặng. Hãy tập trung vào Chúa Giêsu và niềm vui được Ngài mời gọi làm môn đệ! Đừng để những điều không quan trọng trong cuộc sống cướp mất niềm vui có Chúa và niềm vui của Tin Mừng.

*****************

THỨ NĂM TUẦN XXIII THƯỜNG NIÊN

HÃY CÓ LÒNG NHÂN TỪ NHƯ CHÚA

(1 Cr 8:1-7.11-13; Lc 6:27-38)

Trong bài đọc 1 hôm nay, Thánh Phaolô chỉ cho thấy sự khác biệt giữa sự hiểu biết và lòng bác ái. Sự khác biệt này tạo ra hai loại người khác nhau: “Thưa anh em, sự hiểu biết sinh lòng kiêu ngạo, còn lòng bác ái thì xây dựng. Ai tưởng mình hiểu biết điều gì, thì chưa hẳn là đã hiểu biết như phải hiểu biết. Ai yêu mến Thiên Chúa, thì được Người biết đến” (1 Cr 1-3). Qua những lời này, Thánh Phaolô cho thấy con đường tuyệt hảo để biết Thiên Chúa không phải là qua sự hiểu biết của con người, nhưng là qua đời sống yêu mến. Ai trong chúng ta cũng đều biết rằng sự hiểu biết của mình có giới hạn. Chỉ có tình yêu mới làm cho chúng ta mở rộng lòng để đón nhận những gì chúng ta chưa hiểu biết. Bên cạnh đó, thánh Phaolô khuyến cáo các tín hữu Côrintô về sự hiểu biết nông cạn của họ về việc tôn thờ ngẫu tượng qua việc ăn đồ cúng. Thánh nhân nhắc nhở họ đừng nên cớ vấp phạm cho anh chị em mình: “Vì thế, nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã” (1 Cr 8:13). Sự hoàn hảo trong đời sống luân lý không chỉ hệ tại việc không phạm tội, nhưng còn không trở nên cớ vấp phạm cho anh chị em mình.

Trong bài Tin Mừng hôm qua, Chúa Giêsu nói về bốn mối phúc và bốn mối hoạ mà người môn đệ sẽ phải đối diện khi đi theo Ngài. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca “hiện tại hoá” những mối phúc và mối hoạ cho những thành viên của cộng đoàn mình. Điều này được diễn tả trong những lời sau: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây” (Lc 6:27). Điều này có nghĩa là những lời trong bài Tin Mừng này nhằm mục đích áp dụng bài giảng trên núi của Chúa Giêsu vào bối cảnh cộng đoàn của Thánh Luca, cho những người sẽ trở thành môn đệ Chúa Giêsu [qua lời rao giảng của các Tông Đồ].

Chúng ta có thể chia bài Tin Mừng hôm nay thành ba phần: Phần 1 (Lc 6:27b-29) nói về những thái độ cần có đối với kẻ thù; trong phần 2 (Lc 6:30-35) chúng ta tìm thấy những lời dạy về cách cư xử trong đời sống bác ái yêu thương; phần 3 (Lc 6:37-38) trình bày cho chúng ta làm thế nào để trở nên nhân từ như Thiên Chúa là Đấng nhân từ. Nói cách cụ thể hơn, bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta những điều kiện cụ thể để trở nên người môn đệ Chúa Giêsu.

Trong phần 1, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài phải sống lối sống khác với “bản tính tự nhiên của mình.” Ngài mời gọi họ không phản ứng theo kiểu “ông ăn chả, bà ăn nem.” Thật vậy, theo bản tính tự nhiên, không ai trong chúng ta yêu kẻ thù của mình. Nhưng khi trở thành môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta không sống theo bản tính đó. Theo các học giả Kinh Thánh, những lời trong phần này ám chỉ đến câu 22 [“Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa”] và trình bày cách cụ thể cách thức người môn đệ Chúa Giêsu đáp lại khi bị bắt bớ: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6:27b-29). Trong những lời này, Chúa Giêsu muốn người môn đệ dành tình yêu cho kẻ thù cách triệt để. Hình ảnh “vả má bên này, thì giơ cả má bên kia nữa” ám chỉ việc đi ngược với khuynh hướng tự bảo vệ mình. Mệnh lệnh này đề nghị một cách hành xử khác thay thế cho việc tự bảo vệ mình. Cách hành xử mới đó là hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, Đấng bảo vệ người môn đệ. Đề tài yêu thương kẻ thù được giới thiệu ở đây đạt đến đỉnh cao trong câu chuyện Người Samaria Nhân Hậu mà Thánh Luca sẽ trình thuật sau này (x. Lc 10:25-37).

Chi tiết đầu tiên chúng ta lưu ý trong phần 2 nói về đời sống bác ái là từ “mọi người.” Chi tiết này khác với Tin Mừng Thánh Mátthêu (5:42). Thánh Mátthêu giới hạn bác ái vào số “những ai xin anh em,” trong khi đó Thánh Luca mở rộng cho mọi người như điều kiện cần có của những người môn đệ Chúa Giêsu. Điều kiện này đạt đến đỉnh cao trong “Thước Vàng”: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6:31). Thước vàng này được giải thích trong những câu tiếp theo (Lc 6:32-35). Theo các học giả Kinh Thánh, phần này giải thích cách tích cực và cụ thể hơn mệnh lệnh yêu kẻ thù trong phần trước. Tình yêu của người môn đệ dành cho kẻ thù không chỉ dừng lại ở cấp độ lý thuyết, nhưng được diễn tả qua việc chia sẻ của cải mình có cho kẻ thù. Chi tiết đầu tiên này mời gọi chúng ta nhìn lại tình yêu chúng ta dành cho những người chúng ta “không thích.” Nhiều lần, chúng ta để cho vết thương ngăn cản chúng ta yêu thương họ cách triệt để. Chúng ta “nói” là đã tha thứ cho họ, nhưng trong lòng vẫn còn giữ một “tí ác cảm, một tí thành kiến” làm chúng ta khó chia sẻ với họ những gì chúng ta có và chúng ta là. Chúng ta, những người môn đệ Chúa Giêsu, phải vượt qua cái gọi là bản tính tự nhiên, phải sống khác với những người tội lỗi, tức là phải trở nên trọn lành và có lòng nhân từ như Cha ở trên trời.

Phần 3 trình bày cho chúng ta mục đích chính của người môn đệ Chúa Giêsu là “hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36). Lòng nhân từ này được diễn tả qua bốn việc chính sau [hai điều tiêu cực – đừng làm, và hai điều tích cực – làm]: (1) đừng xét đoán; (2) đừng lên án; (3) hãy tha thứ; và (4) hãy cho. Điều đáng lưu ý ở đây là khi chúng ta thực hiện những điều này, người thưởng công cho những hành động của chúng ta không phải là con người, nhưng là Thiên Chúa. Nói cách khác, Thánh Luca muốn nói rằng: người môn đệ Chúa Giêsu hành động không phải để tìm kiếm sự đáp trả của người đời, nhưng mong chờ được Thiên Chúa thưởng công. Điều này nhắc nhở chúng ta về việc tìm kiếm lợi danh của chính mình ngay trong những công việc phục vụ. Là môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta hãy mở rộng cõi lòng cho hết mọi người, ngay cả kẻ thù. Vấn đề không phải là họ có đáp lại hay không, nhưng hệ tại việc chúng ta yêu thương cách trọn vẹn và chỉ mong chờ ở Thiên Chúa mà thôi. Hãy tập trung vào Chúa hơn là tập trung vào con người trên con đường nên trọn lành!

THỨ SÁU TUẦN XXIII THƯỜNG NIÊN

SỬA MÌNH TRƯỚC KHI SỬA NGƯỜI KHÁC

(1 Cr 9:16-19.22b-27; Lc 6:39-42)

Mỗi người chúng ta được mời gọi rao giảng Tin Mừng trong đời sống thường ngày. Tuy nhiên, có nhiều người lại biến việc rao giảng Tin Mừng thành lý do để tự hào mình thánh thiện hoặc tốt lành hơn người khác để rồi chê trách họ. Thánh Phaolô trong bài đọc 1 chỉ rõ việc rao giảng Tin Mừng là một nhiệm vụ được Thiên Chúa giao phó, một nhiệm vụ phải hoàn thành mà không mong phần thưởng: “Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi” (1 Cr 9:18). Việc rao giảng Tin Mừng là một việc phải được thực hiện với sự tự do, nói cách khác, đó là sự chọn lựa của riêng mình. Vì vậy, người rao giảng Tin Mừng không mong được báo đáp mà chỉ nhằm mục đích “chinh phục thêm nhiều người” chia sẻ trong niềm vui vì được cứu độ: “Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22b-23). Liệu chúng ta có dám trở nên mọi sự cho hết mọi người như Thánh Phaolô không? Niềm vui có Chúa không giữ lại cho riêng mình, nhưng phải được chia sẻ cho hết mọi người để họ cũng được tận hưởng niềm vui bất tận đó.

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Nó nhằm mục đích củng cố lời dạy trong những phần trước (câu 20-38). Bài Tin Mừng bao gồm hai dụ ngôn: dụ ngôn về thầy-trò (câu 39-40) và dụ ngôn về sửa bảo huynh đệ (41-42). Tuy nhiên, theo các học giả Kinh Thánh, những dụ ngôn này không thể được giải thích như là những sứ điệp phổ quát cho các môn đệ Chúa Giêsu. Thánh Luca có những ý nghĩa cụ thể cho những dụ ngôn này trong bối cảnh ơn gọi của các môn đệ và những người sẽ là môn đệ, là những người sẽ gia nhập “những người nghèo” của Thiên Chúa qua việc chia sẻ của cải cho người khác, ngay cả kẻ thù của mình.

Trong dụ ngôn đầu tiên [“Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi], Chúa Giêsu không nhắm đến việc khiển trách những thầy dạy “đui mù” trong cộng đoàn Thánh Luca. Những lời này ám chỉ việc các môn đệ là những người đui mù cho đến khi Chúa Giêsu mở mắt cho họ thấy được những điều kiện để theo Ngài (x. Lc 6:20-38). Khi các môn đệ hoàn toàn được huấn luyện về việc chia sẻ của cải, thì họ sẽ có khả năng dạy dỗ người khác. Nói cách cụ thể hơn, người môn đệ Chúa Giêsu chỉ có thể trở nên người dẫn dắt người khác khi hoàn toàn để cho Chúa Giêsu hướng dẫn lời nói và hành động của mình. Chỉ khi chúng ta nên giống Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể đem họ đến với Ngài mà không sợ bị lạc đường. Hãy nên giống Chúa Giêsu trong mọi sự, từ lời ăn tiếng nói. Chỉ có như thế chúng ta mới có thể hấp dẫn người khác tin vào Chúa Giêsu.

Dụ ngôn thứ hai tiếp tục làm sáng tỏ điều được đề cập trong dụ ngôn thứ nhất, đó là việc phải chia sẻ của cải cho người khác. Hình ảnh “cái rác” và “cài xà” ám chỉ đến lời khiển trách dành cho những môn đệ thấy những sai sót của mình trong lãnh vực chia sẻ của cải như một cái gì đó vụn vặt so với những lỗi lầm lớn của người khác. Để sửa những “lỗi lầm lớn” của người khác, chúng ta phải có lòng nhân hậu như Cha trên trời, đó là phải lấy “cái xà” [những lỗi mình xem là nhỏ] trong mắt mình trước. Nói cách khác, hãy tu thân trước, sau đó mới có khả năng giúp người khác.

*****************

THỨ BẢY – Lễ kính Suy Tôn Thánh Giá

THÁNH GIÁ: ĐỈNH CAO CỦA TÌNH YÊU

(Ds 21:4b-9; Ga 3:13-17)

Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính Lễ Suy Tôn Thánh Giá. Lễ này được cử hành ở Rôma cuối thế kỷ thứ 7. Mục đích nguyên thuỷ của lễ này là để tưởng niệm việc chiếm lại Thánh Giá Chúa Giêsu được lưu giữ tại Giêrusalem mà đã rơi vào tay những người Persians. Hoàng đế Heraclius chiếm lại được di vật này và mang về lại Giêrusalem vào ngày mồng 3 tháng 5 năm 629. Khi nói đến thánh giá, ai trong chúng ta cũng có cảm giác sợ hãi. Chúng ta sợ vác thánh giá của chính mình và của người khác. Tuy nhiên, với Chúa Giêsu, thánh giá đã không còn là phương tiện để “giết chết” tử tù, mà là phương thế để “cứu sống” tội nhân. Thánh giá là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người; thánh giá cũng là đỉnh cao của tình yêu trung tín mà con người dành cho Thiên Chúa và anh chị em mình.

Y dược dùng hình ảnh con rắn treo lên để làm biểu tượng, để nói về ngành “cứu người và chữa người.” Chúng ta nhận ra hình ảnh này trong bài đọc 1. Sách Dân Số tường thuật cho chúng ta câu chuyện về dân Israel trong hành trình sa mạc. Hành trình mà trong đó họ cảm nhận được sự gần gũi của Thiên Chúa, nhưng cũng là hành trình mà trong đó họ đã “mất kiên nhẫn” với Thiên Chúa và Môsê nhiều lần. Bài đọc 1 trình bày một trong những lần họ mất kiên nhẫn và kêu trách Thiên Chúa và Môsê (x. Ds 21:5). Hậu quả của sự “vong ân” này là Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân (Ds 21:6). Chúng ta thấy trong đoạn trích của bài đọc 1 kiểu mẫu quen thuộc thường xuất hiện trong sách Thẩm Phán. Kiểu mẫu đó là: Dân chúng phạm tội [mất kiên nhẫn và kêu trách Thiên Chúa và Môsê]; Chúa phạt [rắn độc đến hại dân]; dân hối cải [chúng tôi đã phạm tội]; Chúa giải thoát [treo con rắn lên một cây cột]. Chi tiết đáng chúng ta quan tâm ở đây là Thiên Chúa luôn cung cấp cho dân Ngài phương tiện chữa lành mỗi khi họ bị đánh phạt. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người, dù con người biết bao nhiêu lần phản bội Ngài. Đây chính là ý nghĩa sâu xa mà chúng ta cử hành trong lễ kính ngày hôm nay: Thiên Chúa luôn trung thành với giao ước, với tình yêu của Ngài dành cho con người. Ý nghĩa này được Thánh Gioan trình bày cách rõ ràng trong bối cảnh nói về sự sống đời đời hay sự tái sinh trong Nước và Thánh Thần.

Hình ảnh con rắn được “treo lên một cây cột” được Chúa Giêsu dùng lại trong bài Tin Mừng hôm nay để ám chỉ đến cái chết của Ngài: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:14-15). Sự khác biệt ở đây là, những người “nhìn lên” con rắn trong sa mạc chỉ được chữa lành và được sống với sự sống tạm thời, vì họ sẽ phải chết. Nhưng những ai “tin vào Người” thì sẽ được sống muôn đời. Chủ đề chính ở đây là “tin.” Để có sự sống đời đời, nhìn lên Đấng được giương cao bằng con mắt thể lý thì chưa đủ, nhưng còn nhận ra Ngài là “Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13) với con mắt đức tin. Đây chính là điều Giáo Hội muốn chúng ta nhận ra khi cử hành Lễ Suy Tôn Thánh Giá. Mỗi khi nhìn lên Thánh Giá, chúng ta nhận ra Đấng bị treo trên đó là “Con Người,” Đấng đến mạc khải cho chúng ta những gì thuộc thượng giới và là Đấng mang lại cho chúng ta sự sống muôn đời.

Hơn nữa, nhìn lên Đấng bị treo trên thập giá, chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đã đạt đến đỉnh cao nhất: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15:13). Thật vậy, qua Đấng bị treo trên thập giá, chúng ta được mạc khải cho biết Thiên Chúa của mình là ai. Ngài là Đấng “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Như thế, Suy Tôn Thánh Giá không chỉ đơn giản suy tôn chính Chúa Giêsu, nhưng là suy tôn Thiên Chúa, Đấng “sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3:17). Thánh Giá [Đấng bị treo trên Thánh Giá] là đỉnh cao của mạc khải về Thiên Chúa. Nói cách khác, nếu muốn biết Thiên Chúa là ai, chúng ta phải nhìn lên Đấng bị treo trên thánh giá. Không có con đường nào khác ngoài con đường thập giá để biết Thiên Chúa là ai và cảm nghiệm tình yêu của Ngài.