Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày Tuần 30 Thường Niên

184

Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày Tuần XXX Thường Niên

Lm Ngọc Dũng, SDB

THỨ HAI TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN

ĐỪNG TRÌ HOÃN LÀM VIỆC TỐT

(Rm 8:12-17; Lc 13:10-17)

Con người hôm nay thường đánh giá nhau dựa trên những giá trị vật chất. Những giá trị tinh thần trở thành những “ước muốn không muốn đạt đến của con người.” Bên cạnh đó, chúng ta cũng thường hành động theo bản tính tự nhiên, theo tính xác thịt của mình. Thánh Phaolô trong bài đọc 1 chỉ ra cho chúng ta biết rằng chúng ta không mang nợ tính xác thịt, vì vậy chúng ta không nên sống theo tính xác thịt [hành xử theo bản tính tự nhiên] (x. Rm 8:12). Chỉ khi sống nhờ Thần Khí, chúng ta mới có thể “diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8:13). Khi được Thần Khí hướng dẫn, chúng ta sẽ nhận ra nhân phẩm cao quý của mình, đó là được làm con Thiên Chúa. Chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8:15). Khi được làm con, chúng ta “cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8:17). Những lời này là những lời khích lệ cũng là thác đố cho mỗi người chúng ta. Khích lệ vì chúng ta được làm con Thiên Chúa và đồng thừa kế với Đức Kitô; thách đố vì chúng ta được mời gọi sống xứng đáng với danh hiệu chúng ta được lãnh nhận. Hãy sống trọn vẹn ơn gọi làm con Thiên Chúa của mình, đó là sẵn sàng chịu đau khổ với Đức Kitô hầu được chia sẻ vinh quang của Ngài.

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu chữa một người phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật. Đây là một trong những minh hoạ về bản chất của Nước Thiên Chúa. Chúng ta chỉ tìm thấy câu chuyện này trong Tin Mừng Thánh Luca. Qua câu chuyện này, Thánh Luca chỉ ra ý nghĩa của Nước Thiên Chúa được diễn tả qua hành động của Chúa Giêsu. Chúng ta có thể chia bài Tin Mừng ra làm hai phần: Phần 1 (Lc 13:10-13) thuật lại việc Chúa Giêsu chữa người phụ nữ và phần 2 (Lc 13:14-17) là cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với ông trưởng hội đường về việc Chúa Giêsu chữa bệnh vào ngày sabát.

Điểm đầu tiên làm chúng ta lưu ý là việc người phụ nữ xuất hiện trong hội đường khi Chúa Giêsu giảng dạy ở đó: “Khi ấy, Đức Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Ở đó, có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được” (Lc 13:10-11). Những lời này cho thấy bà đến đây để lắng nghe Chúa Giêsu và có thể với hy vọng là được Chúa Giêsu chữa lành. Tuy nhiên, việc Thánh Luca đặt bà hiện diện ở đây để nói lên rằng Nước Thiên Chúa không chỉ dành cho người nam. Những người “bé mọn” như bà là những người đã đáp lại quyền lực của Nước Thiên Chúa đang hoạt động trong bà qua việc tôn vinh Thiên Chúa sau khi được Chúa Giêsu chữa lành: “Trông thấy bà, Đức Giêsu gọi lại và bảo: ‘Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền!’ Rồi Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 13:12-13). Phản ứng của bà hoàn toàn trái ngược với phản ứng của những người lãnh đạo tôn giáo, là những người có thể trở nên mù loà trước sự hiện diện của Nước Thiên Chúa để rồi không sám hối để được cứu độ. Chúng ta thấy điều này trong phản ứng của ông trưởng hội đường. Đây cũng là phản ứng của nhiều người trong chúng ta khi thấy người khác được “may mắn” hơn mình. Phản ứng khó chịu và ghen ghét nhiều lần làm chúng ta bị mù trước sự hiện diện của Thiên Chúa đang ở bên và kêu mời chúng ta trở về với Ngài.

Phần 2 trình bày cho chúng ta cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với ông trưởng hội đường về việc chữa lành trong ngày sabát. Như chúng ta đã nói ở trên, khi thấy Chúa Giêsu chữa lành người phụ nữ, “ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giêsu đã chữa bệnh vào ngày sabát” (Lc 13:14). Dù tức tối với Chúa Giêsu, nhưng ông trưởng hội đường không dám nói trực tiếp với Chúa Giêsu mà nói với đám đông: “Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày sabát!” Thay vì đám đông trả lời thì Chúa Giêsu lên tiếng chỉ trích không chỉ ông trưởng hội đường mà cả những người theo ông [và cả chúng ta, những người có thái đội tức tối hoặc ghen tức khi thấy người khác nhận được điều tốt lành]: “Những kẻ đạo đức giả kia! Thế ngày sabát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước? Còn bà này là con cháu ông Ápraham, bà ấy bị Xatan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sabát sao?” (Lc 13:15-16). Trong những lời này, ngoài việc chỉ trích những người đạo đức giả, Chúa Giêsu còn khẳng định rằng những người nữ cũng là con cháu Ápraham, cũng được hưởng những gì đã hứa cho con cháu ông chứ không chỉ những người nam mới được hưởng lời hứa đó. Bên cạnh đó, Chúa Giêsu còn khẳng định ý nghĩa của ngày sabát là để làm điều thiện, làm điều tốt cho người khác. Nói cách khác, điều Chúa Giêsu làm trong ngày sabát thật sự mang một ý nghĩa thần học sâu xa, đó là giải phóng con người khỏi xiềng xích của Xatan. Mục đích của ngày sabát được hoàn thành không phải bởi việc cấm không cho làm những việc tốt, mà là khuyến khích làm việc tốt cho anh chị em mình. Sự chân thật trong lời nói và hành động của Chúa Giêsu đã làm cho “tất cả những kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì vui mừng vì mọi việc hiển hách Người đã thực hiện” (Lc 13:17). Chi tiết này khuyến cáo chúng ta về việc chúng ta xem ngày sabát (Chúa Nhật) có ý nghĩa gì đối với mình. Nhiều người trong chúng ta chủ yếu đến tham dự thánh lễ trong ngày Chúa Nhật để tránh phạm tội “không đi lễ ngày Chúa Nhật,” nhưng trong lòng lại chứa đựng những hờn ghen, những ý tưởng không hay không tốt về anh chị em mình. Tệ hơn là nhiều khi chúng ta sử dụng ngày Chúa Nhật để gặp gỡ nhau hầu nói xấu người này người nọ trong cộng đoàn. Ngày Chúa Nhật [mỗi ngày vì thời gian thuộc về Thiên Chúa] là ngày để nghĩ tốt, nói tốt và làm tốt cho anh chị em mình.

 

THỨ BA TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN

ĐỪNG TRÌ HOÃN LÀM VIỆC TỐT

(Rm 8:12-17; Lc 13:10-17)

Con người hôm nay thường đánh giá nhau dựa trên những giá trị vật chất. Những giá trị tinh thần trở thành những “ước muốn không muốn đạt đến của con người.” Bên cạnh đó, chúng ta cũng thường hành động theo bản tính tự nhiên, theo tính xác thịt của mình. Thánh Phaolô trong bài đọc 1 chỉ ra cho chúng ta biết rằng chúng ta không mang nợ tính xác thịt, vì vậy chúng ta không nên sống theo tính xác thịt [hành xử theo bản tính tự nhiên] (x. Rm 8:12). Chỉ khi sống nhờ Thần Khí, chúng ta mới có thể “diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống” (Rm 8:13). Khi được Thần Khí hướng dẫn, chúng ta sẽ nhận ra nhân phẩm cao quý của mình, đó là được làm con Thiên Chúa. Chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8:15). Khi được làm con, chúng ta “cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8:17). Những lời này là những lời khích lệ cũng là thác đố cho mỗi người chúng ta. Khích lệ vì chúng ta được làm con Thiên Chúa và đồng thừa kế với Đức Kitô; thách đố vì chúng ta được mời gọi sống xứng đáng với danh hiệu chúng ta được lãnh nhận. Hãy sống trọn vẹn ơn gọi làm con Thiên Chúa của mình, đó là sẵn sàng chịu đau khổ với Đức Kitô hầu được chia sẻ vinh quang của Ngài.

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu chữa một người phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật. Đây là một trong những minh hoạ về bản chất của Nước Thiên Chúa. Chúng ta chỉ tìm thấy câu chuyện này trong Tin Mừng Thánh Luca. Qua câu chuyện này, Thánh Luca chỉ ra ý nghĩa của Nước Thiên Chúa được diễn tả qua hành động của Chúa Giêsu. Chúng ta có thể chia bài Tin Mừng ra làm hai phần: Phần 1 (Lc 13:10-13) thuật lại việc Chúa Giêsu chữa người phụ nữ và phần 2 (Lc 13:14-17) là cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với ông trưởng hội đường về việc Chúa Giêsu chữa bệnh vào ngày sabát.

Điểm đầu tiên làm chúng ta lưu ý là việc người phụ nữ xuất hiện trong hội đường khi Chúa Giêsu giảng dạy ở đó: “Khi ấy, Đức Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Ở đó, có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được” (Lc 13:10-11). Những lời này cho thấy bà đến đây để lắng nghe Chúa Giêsu và có thể với hy vọng là được Chúa Giêsu chữa lành. Tuy nhiên, việc Thánh Luca đặt bà hiện diện ở đây để nói lên rằng Nước Thiên Chúa không chỉ dành cho người nam. Những người “bé mọn” như bà là những người đã đáp lại quyền lực của Nước Thiên Chúa đang hoạt động trong bà qua việc tôn vinh Thiên Chúa sau khi được Chúa Giêsu chữa lành: “Trông thấy bà, Đức Giêsu gọi lại và bảo: ‘Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền!’ Rồi Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 13:12-13). Phản ứng của bà hoàn toàn trái ngược với phản ứng của những người lãnh đạo tôn giáo, là những người có thể trở nên mù loà trước sự hiện diện của Nước Thiên Chúa để rồi không sám hối để được cứu độ. Chúng ta thấy điều này trong phản ứng của ông trưởng hội đường. Đây cũng là phản ứng của nhiều người trong chúng ta khi thấy người khác được “may mắn” hơn mình. Phản ứng khó chịu và ghen ghét nhiều lần làm chúng ta bị mù trước sự hiện diện của Thiên Chúa đang ở bên và kêu mời chúng ta trở về với Ngài.

Phần 2 trình bày cho chúng ta cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với ông trưởng hội đường về việc chữa lành trong ngày sabát. Như chúng ta đã nói ở trên, khi thấy Chúa Giêsu chữa lành người phụ nữ, “ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giêsu đã chữa bệnh vào ngày sabát” (Lc 13:14). Dù tức tối với Chúa Giêsu, nhưng ông trưởng hội đường không dám nói trực tiếp với Chúa Giêsu mà nói với đám đông: “Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày sabát!” Thay vì đám đông trả lời thì Chúa Giêsu lên tiếng chỉ trích không chỉ ông trưởng hội đường mà cả những người theo ông [và cả chúng ta, những người có thái đội tức tối hoặc ghen tức khi thấy người khác nhận được điều tốt lành]: “Những kẻ đạo đức giả kia! Thế ngày sabát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước? Còn bà này là con cháu ông Ápraham, bà ấy bị Xatan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sabát sao?” (Lc 13:15-16). Trong những lời này, ngoài việc chỉ trích những người đạo đức giả, Chúa Giêsu còn khẳng định rằng những người nữ cũng là con cháu Ápraham, cũng được hưởng những gì đã hứa cho con cháu ông chứ không chỉ những người nam mới được hưởng lời hứa đó. Bên cạnh đó, Chúa Giêsu còn khẳng định ý nghĩa của ngày sabát là để làm điều thiện, làm điều tốt cho người khác. Nói cách khác, điều Chúa Giêsu làm trong ngày sabát thật sự mang một ý nghĩa thần học sâu xa, đó là giải phóng con người khỏi xiềng xích của Xatan. Mục đích của ngày sabát được hoàn thành không phải bởi việc cấm không cho làm những việc tốt, mà là khuyến khích làm việc tốt cho anh chị em mình. Sự chân thật trong lời nói và hành động của Chúa Giêsu đã làm cho “tất cả những kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì vui mừng vì mọi việc hiển hách Người đã thực hiện” (Lc 13:17). Chi tiết này khuyến cáo chúng ta về việc chúng ta xem ngày sabát (Chúa Nhật) có ý nghĩa gì đối với mình. Nhiều người trong chúng ta chủ yếu đến tham dự thánh lễ trong ngày Chúa Nhật để tránh phạm tội “không đi lễ ngày Chúa Nhật,” nhưng trong lòng lại chứa đựng những hờn ghen, những ý tưởng không hay không tốt về anh chị em mình. Tệ hơn là nhiều khi chúng ta sử dụng ngày Chúa Nhật để gặp gỡ nhau hầu nói xấu người này người nọ trong cộng đoàn. Ngày Chúa Nhật [mỗi ngày vì thời gian thuộc về Thiên Chúa] là ngày để nghĩ tốt, nói tốt và làm tốt cho anh chị em mình.

 

THỨ TƯ TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN

Lễ Các Thánh Nam Nữ

NỖ LỰC SỐNG THÁNH THIỆN

(Kh 7:2-4.9-14; 1 Ga 3:1-3; Mt 5:1-12a)

Ai trong chúng ta cũng được mời gọi nên thánh. Chúng ta thường nhìn các vị thánh như những người “ngoại thường.” Tuy nhiên, chúng ta biết rằng họ cũng là những con người bình thường như chúng ta. Chúng ta đã có lần nghe nói: Vị thánh nào cũng có một quá khứ [tội lỗi], và tội nhân nào cũng có một tương lai [để thay đổi và nên thánh]. Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính trọng thể các thánh Nam Nữ. Làm thế nào mà họ nên thánh? Chúng ta hãy để lời Chúa cho chúng ta những chỉ dẫn cần thiết để nên thánh.

Trong bài đọc 1, Thánh Gioan trình bày cho chúng ta viễn cảnh trên trời và những người được cứu độ, hay đúng hơn là những người được nên thánh. Con số là “một trăm bốn mươi bốn ngàn người thuộc mọi chi tộc con cái Israel” (Kh 7:4). Con số này ám chỉ đến 12 chi tộc Israel cũ và 12 chi tộc Israel mới [đây là kết quả của 12×12]. Như vậy, ai trong chúng ta cũng được mời gọi nên thánh. Nói cách khác, Công Đồng Vaticanô II cho biết nên thánh là ơn gọi phổ quát của hết mọi người tín hữu. Điều này được làm sáng tỏ trong những lời sau của Thánh Gioan: họ đến từ “mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh 7:9-10). Tác giả sách Khải Huyền định nghĩa những vị thánh là “những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7:14). Những lời này cho thấy, để nên thánh, chúng ta phải trải qua cơn thử thách lớn lao, đó là những khó khăn của ngày sống, và thanh luyện chính mình trong hy tế thập giá của Chúa Giêsu. Nói cách cụ thể hơn, những khó khăn thử thách trong đời sống hằng ngày là phương tiện qua đó chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu trong đau khổ của Ngài hầu thanh luyện chính mình khỏi những vết nhơ tý ố, để trở nên xứng đáng cho Thiên Chúa.

Về phần mình, Thánh Gioan, trong bài đọc 2, cho biết những người được nên thánh là những người nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương. Họ là những người con Thiên Chúa: “Anh em thân mến, anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1 Ga 3:1). Bên cạnh đó, họ là những người không thuộc về thế gian: “Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người.” Cuối cùng, họ là những người giống với Chúa Giêsu: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy. Phàm ai đặt hy vọng như thế vào Đức Kitô thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng thanh sạch” (1Ga 3:2-3). Chúng ta đã trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu như thế nào?

Thánh Mátthêu trình bày trong bài Tin Mừng hôm nay những người được xem là thánh. Họ là những người được chúc phúc. Họ là ai? Thứ nhất, họ là những người có tâm hồn nghèo khó: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:3). Cái nghèo khó ở đây không chỉ mang tính cách vật chất. Điều Thánh Mátthêu muốn nói ở đây là “tâm hồn” hay “tinh thần nghèo khó.” Điều này cho thấy những người giàu cũng có tình thần nghèo khó và những người nghèo chưa chắc đã có tâm hồn nghèo khó. Một người có tâm hồn nghèo khó là người xem Chúa là gia nghiệp duy nhất của mình, là người hoàn toàn để cho mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, là người xem mọi sự mình có đến từ Thiên Chúa. Vì vậy, những người này luôn sống trong tâm tình tạ ơn và tôn vinh vì những kỳ công Chúa thực hiện trên cuộc đời họ.

Thứ hai, họ là những con người hiền lành: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp” (Mt 5:4). Đây là những người sống theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, đó là trở nên như Ngài trong sự hiền lành và khiêm nhường (x. Mt 11:29). Sự hiền lành của họ không mang tính nhu nhược, tức là du di cho những sai phạm [đến Chúa và anh chị em]. Sự hiền lành của họ là hoa trái của một con tim kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa để rồi kín múc nơi Ngài sự cảm thông và tha thứ.

Thứ ba, họ là những người sầu khổ và than khóc: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5). Sầu khổ và than khóc ở đây không chỉ vì những chuyện buồn trong cuộc sống của mình. Trên hết, sự sầu khổ và than khóc ở đây là dấu hiệu của sự sám hối: sầu khổ và than khóc cho tội của mình và cho người khác, than khóc cho những bất công đang xảy ra trong xã hội, than khóc cho những xúc phạm mà con người ngày hôm nay phạm đến Chúa.

Thứ tư, họ là những người khao khát sự công chính: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng” (Mt 5:6). Trong bối cảnh của Tin Mừng Thánh Mátthêu, người công chính là người luôn tìm kiếm và thi hành thánh ý Thiên Chúa. Nói cách khác, họ là những người lắng nghe và đem lời Chúa ra thực hành. Đây là những người chỉ có một mối bận tâm, đó là khao khát thi hành thánh ý Thiên Chúa.

Thứ năm, họ là những người tỏ lòng thương xót người khác: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7). Sự thương xót ở đây không mang tính cảm xúc. Nó gồm hai yếu tố: (1) cảm được nỗi đau của anh chị em mình [đau cùng nỗi đau của anh chị em mình], và (2) làm một cái gì đó để làm giảm đi nỗi đau hoặc làm tan biến nỗi đau của anh chị em mình. Đây là một sự thương xót mang tính hành động.

Thứ sáu, họ là những người có tâm hồn trong sạch: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5:8). Những người này là người có tâm hồn đơn sơ, không chạy theo những đam mê của dục vọng. Họ yêu Chúa với một con tim không phân chia. Để rồi kín múc từ tình yêu Thiên Chúa, họ yêu anh chị em của mình với một tình yêu trung thành và quảng đại.

Thứ bảy, họ là những người xây dựng hoà bình: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9). Những người này khác với những người “gìn giữ” hoà bình. Họ là những người “mang lại” hoà bình ở những nơi có chiến tranh và xung đột. Nơi đâu có sự hiện diện của họ, ở đó có sự bình an và hoà thuận. Đây chính là món quà phục sinh mà Chúa Giêsu ban cho các môn đệ của Ngài. Như vậy, những người này là những người mang nơi mình sứ điệp của đời sống mới, sứ điệp của sự phục sinh.

Thứ tám, họ là những người bị bách hại: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:10). Chúng ta cần lưu ý rằng nguyên nhân họ bị bách hại không gì khác ngoài việc sống một đời sống công chính, đó là luôn làm theo thánh ý Thiên Chúa. Những ai làm theo ý mình mà bị bách hại thì không thuộc vào nhóm này. Những vị thánh là những người luôn tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và đem ra thực hành, đồng thời sẵn sàng chịu mọi sự đau khổ và chống đối xảy ra trong quá trình thi hành thánh ý Chúa.

Thứ chín, họ là những người sẵn sàng chịu mọi sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5:11-12a). Sống cho Chúa Giêsu và làm chứng cho Ngài luôn gặp phải rất nhiều chống đối, nhất là trong một thế giới tục hoá như ngày hôm nay. Tuy nhiên, những ai luôn chiêm ngắm Chúa Giêsu và xem những điều mình chịu như một chia sẻ trong những đau khổ của Chúa Giêsu, thì người đó sẽ được vinh hiển với Ngài.

Chúng ta thuộc nhóm nào trong những nhóm người sống thánh mà Thánh Mátthêu đã đưa ra? Nếu chúng ta chưa thuộc nhóm nào, hãy bắt đầu từ hôm nay! Đứng chờ đến lúc quá muộn.

THỨ NĂM TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN

Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời

THÁNH Ý THIÊN CHÚA LÀ CHÚNG TA ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI

(G 19:1.23-27a; Rm 5:5-11; Ga 6:37-40)

Trong những ngày này, chúng ta sống mầu nhiệm Hội Thánh thông công. Ngày hôm qua, chúng ta mừng kính trọng thể các thánh nam nữ. Các ngài là những thành viên của Hội Thánh khải hoàn. Hôm nay, chúng ta kính nhớ đến các tín hữu đã qua đời, là những người đang chờ đợi được hưởng nhan thánh Chúa. Họ là những thành viện của Hội Thánh đau khổ. Còn chúng ta, những người đang sống là thành viên của Hội Thánh lữ hành. Có thể nói, chúng ta là chiếc cầu nối. Khi cử hành mầu nhiệm Hội Thánh thông công, chúng ta được mời gọi để sống một đời sống thánh thiện, để khi chết một mặt chúng ta được gia nhập cùng các thánh trên thiên đàng và mặt khác không phải chịu thanh luyện cách đau đớn trong lửa luyện ngục. Lời Chúa ngày hôm nay mời gọi chúng ta đặt tin tưởng vào Chúa, Đấng đã chiến thắng sự chết.

Trong bài đọc 1, Gióp tâm tình rằng: “Ôi, những lời tôi nói đây, phải chi có người chép lại, phải chi có người ghi vào sách, có người đục bằng sắt, trám bằng chì, tạc vào đá cho đến muôn đời! Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ” (G 19:23-27a). Gióp cho thấy, cái chết chính là cánh cửa mở ra để chúng ta được ngắm nhìn Thiên Chúa. Một điều đáng làm chúng ta suy gẫm là việc Gióp khẳng định, đó là Thiên Chúa mà ông được ngắm nhìn sau khi chết không phải là người xa lạ. Điều này ám chỉ là ông đã rất quên thuộc với Thiên Chúa khi đang sống. Chúng ta thế nào? Chúng ta có quen thuộc với Thiên Chúa trong từng ngày sống của chúng ta không? Hãy “làm quen với Chúa và đường lối của Ngài” khi còn sống trên dương thế này, để khi chết, chúng ta không còn xa lạ với Ngài.

Thánh Phaolô dùng cái chết của Chúa Giêsu để an ủi các tín hữu Rôma. Họ là những người của cậy trông “vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5:5). Hơn nữa, niềm cậy trông này được đặt trên sự kiện là Chúa Giêsu đã chết cho họ ngay khi họ còn là tội nhân (x. Rm 5:6). Nếu Chúa Giêsu chết cho chúng ta khi chúng là tội nhân, huống chi bây giờ chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, những người được làm cho trở thành công chính bởi cái chết của Chúa Giêsu. Những lời này mang lại cho chúng ta niềm an ủi khi tưởng nhớ đến những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã chết để cứu chúng ta khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa (x. Rm 5:9). Vì vậy, chúng ta đã được hoà giải với Thiên Chúa nên chúng ta cũng được cứu nhờ sự sống của Chúa Giêsu (x. Rm 5:10). Đây là niềm tự hào của chúng ta: Chúng ta tự hào rằng chúng ta có một Thiên Chúa yêu thương vô điều kiện. Ngài yêu chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Điều này mời gọi chúng ta đặt tin tưởng vào Ngài, đồng thời học ở Ngài để yêu thương những người mà chúng ta xem là tội nhân đối với chúng ta.

Thánh Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta lý do Chúa Giêsu được sai xuống thế gian. Bài Tin Mừng này được đặt trong bối cảnh lời giảng của Chúa Giêsu về Bánh Hằng Sống. Thánh Gioan cho thấy rõ Chúa Giêsu được sai đến để thi hành thánh ý Chúa Cha: “Khi ấy, Đức Giêsu nói với dân chúng rằng: ‘Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi’ (Ga 6:37-38). Những lời này cho thấy chỉ những ai được Chúa Cha ban mới đến với Chúa Giêsu. Và những ai đã đến với Chúa Giêsu thì sẽ không hư mất. Vì vậy, những môn đệ nào cảm thấy bị xúc phạn và rời bỏ Chúa Giêsu về lời dạy của Ngài về sự sống vĩnh cửu thì không thuộc về những người được Chúa Cha ban. Chúa Giêsu sẽ không đuổi bất kỳ ai đến với Ngài. Không phải như những người lãnh đạo Do Thái, là những người đã xua đuổi những người tin vào Chúa Giêsu ra khỏi hội đường (x. Ga 9:34-35). Tin tưởng vào những lời này, chúng ta an tâm rằng những anh chị em của chúng ta đã qua đời sẽ không bị xua đuổi, nhưng được đón tiếp vào trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Và chúng ta cũng được mời gọi sống hoà đồng và yêu thương, để không xua đuổi bất kỳ ai ra khỏi con tim và cuộc sống của mình.

Ý của Chúa Cha gồm hai điều: (1) Chúa Giêsu không để mất những người Chúa Cha ban cho Ngài bằng cách cho họ sống lại trong ngày sau hết: “Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6:39); (2) Sự sống muôn đời được ban cho những ai nhìn thấy và tin vào Chúa Giêsu: “Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6:40). Ở đây, Chúa Giêsu được trình bày như là nguồn của sự sống. Ngài không chỉ ban cho chúng ta sự sống trên dương thế này, nhưng còn cả sự sống của đời sau. Như vậy, để sống một đời sống sung mãn, chúng ta không thể tìm ở đâu khác ngoài Chúa Giêsu. Hãy để Chúa Giêsu là suối nguồn của sự sống chúng ta!

 

THỨ SÁU TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN

LÀM VIỆC TỐT MỌI NƠI MỌI LÚC

(Rm 9:1-5; Lc 14:1-6)

Trong bài đọc 1, Thánh Phaolô trình bày cho chúng ta nghe nguyên nhân “nỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi” (Rm 9:2) của Ngài. Ngài ưu phiền và đau khổ vì nhìn thấy anh chị em đồng bào của Ngài không tin nhận Chúa Giêsu. Ngài sẵn sàng cam lòng bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô miễn sao các anh chị em của ngài là những người “đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; họ là con cháu các tổ phụ; và sau hết, chính Đức Kitô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ” (Rm 9:4-5). Những lời này giúp chúng ta nhận ra tâm tình của Thánh Phaolô là mong ước người DoThái nhận ra rằng họ được đặc ân lớn lao, đó là Đức Kitô cũng cùng nòi giống với họ. Họ phải hãnh diện vì được cùng chia sẻ cùng huyết thống với Ngài. Điều này cũng nhắc nhở chúng ta về đặc ân lớn lao đã nhận được, đó là chúng ta cũng cùng huyết thống với Đức Kitô vì mỗi khi chúng ta rước Ngài trong bí tích Thánh Thể, chúng ta trở nên một với Ngài. Chúng ta không hãnh diện được trở nên một với Chúa Giêsu sao? Nếu hãnh diện, sao chúng ta không sống một cuộc sống mới trong Ngài.

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta một sự kiện khác về việc Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày sabát. Câu chuyện này rất đặc trưng của Thánh Luca. Lần này việc chữa lành xảy ra trong nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu: “Một ngày sabát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người” (Lc 14:1). Trong những lời này chúng ta thấy mục đích mời Chúa Giêsu đến dùng bữa là để dò xét người. Thái độ dò xét này cũng là thái độ chúng ta thường có với anh chị em mình. Nhiều khi chúng ta dò xét bắt lỗi từng lời nói, từng cử chỉ, từng hành động của anh chị em mình để lên án. Cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn khi chúng ta tìm niềm vui nơi sự hiện diện của anh chị em mình hơn là để ý dò xét và bắt lỗi người khác. Một bữa ăn ngon là bữa ăn với con tim rộng mở và tiếng cười chân thật chứ không phải với ánh mắt dò xét và thái độ lên án.

Chi tiết đáng để chúng ta lưu ý là sự hiện diện của người phù thũng trong bữa cơm: “Và kìa trước mặt Đức Giêsu, có một người mắc bệnh phù thũng” (Lc 14:2). Sự hiện diện của người phù thũng trong bữa tiệc là câu trả lời cho những vấn đề đang xảy ra trong cộng đoàn Thánh Luca đang phải đối diện với những người Pharisêu, đó là họ có nên ngồi đồng bàn với những người ô uế hay không (x. Lc 7:36-50); điều gì làm một người thanh sạch (x. 11:37-54); ai được mời đến ngồi chung bàn với người Kitô hữu (x. Lc 14:1-24). Một cách cụ thể, sự hiện diện của nguời mắc bệnh phù thũng ám chỉ việc mở rộng vòng tay đón nhận tất cả mọi người vào trong bàn tiệc của người Kitô hữu. Điều làm chúng ta được thanh sạch hay tôn vinh không phải là mình ngồi bàn với ai, nhưng là sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bàn tiệc. Chính Chúa Giêsu là Đấng làm cho chúng ta thanh sạch và liên kết chúng ta lại trong tình yêu. Liệu chúng ta có để cho Chúa Giêsu ngồi bàn khi chúng ta mời anh chị em mình đến dùng bữa với chúng ta không?

Trong bữa tiệc này không chỉ có người mắc bệnh phù thũng mà còn cả những nhà thông luật và những người Pharisêu. Chúa Giêsu hỏi họ: “Có được phép chữa bệnh ngày sabát hay không?” (Lc 14:3). Là những người biết luật rất rõ, nhưng trước câu hỏi của Chúa Giêsu, “họ làm thinh.” Chúng ta biết chắc là các nhà thông luật biết luật rất chắc, nhưng họ làm thinh có thể vì họ chưa đọc thấy điều này trong sách luật vì họ chỉ lưu tâm đến những việc không được phép làm trong ngày sabát mà không hiểu ý nghĩa nằm sau những điều cấm này. Việc thinh lặng của họ chỉ cho thấy chỉ mình Chúa Giêsu mới biết được ý nghĩa đích thực của ngày sabát, ý nghĩa đích thực nằm sau những điều cấm không được thực hiện, đó là để chúng ta có được tâm tình tạ ơn về những ơn lành chúng ta đã nhận được [trong tuần] và chia sẻ những ơn lành đó cho anh chị em mình. Nói cách khác, ngày sabát là để làm điều thiện, để giải phóng khỏi nô lệ Xatan: “Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về.”  Chúa Giêsu khẳng định điều này trong câu hỏi: “Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sabát?” (Lc 14:5). Chi tiết này ám chỉ đến việc Chúa Giêsu là Chúa của ngày sabát. Và một lần nữa họ lặng thinh vì “không thể đáp lại những lời đó” (Lc 14:6). Đến đây, họ lặng thinh có thể bây giờ họ mới hiểu được ý nghĩa đích thật của ngày sabát. Chúng ta thế nào? Chúng ta sử dụng ngày sabát (Chúa Nhật) để làm việc tốt, để nghĩ tốt, nói tốt cho anh chị em mình hay chúng ta sử dụng những giờ rảnh (vì kiêng việc xác!) để nghĩ xấu, nói xấu và làm những điều tổn thương anh chị em mình?

THỨ BẢY TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN

SỐNG ÂM THẦM KHIÊM NHƯỜNG

(Rm 11:1-2a.11-12.25-29; Lc 14:1.7-11)

Thánh Phaolô trong bài đọc 1 chỉ ra cho chúng ta mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa trong việc cứu độ dân Israel và dân ngoại. Theo thánh nhân, Thiên Chúa không ruồng bỏ dân riêng của Ngài (x. Rm 11:1-2b). Ngài luôn trung thành với lời hứa của Ngài. Dẫu cho dân Israel không trung thành và sa ngã, nhưng trong kế hoạch của Thiên Chúa “vì họ sa ngã mà Thiên Chúa cho các dân ngoại hưởng ơn cứu độ, khiến họ phải ganh tị. Nếu vì người Do Thái sa ngã mà thế giới được ơn phúc dồi dào, nếu vì họ suy vi mà các dân ngoại được ơn phúc dồi dào, thì khi họ trở về đông đủ, tình trạng còn tốt đẹp hơn biết mấy!” (Rm 11:11-12). Những lời này cho thấy “không gì là không thể với Thiên Chúa.” Thật vậy, trong mầu nhiệm của Thiên Chúa, không gì xảy ra trong lịch sử nhân loại cách tình cờ. Mọi sự đều có nguyên do và Thiên Chúa luôn có thể sửa lại “những đường cong” mà con người đã vẽ lên. Ngài luôn trung thành với lời hứa của Ngài dù con người có trung thành với giao ước đã ký kết với Ngài hay không: “Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý” (Rm 11:29). Thiên Chúa đã ban cho ơn và kêu gọi mỗi người chúng ta trở nên con cái của Ngài và Ngài không hề đổi ý. Còn chúng ta có đổi ý không?

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục thuật lại cho chúng ta nghe câu chuyện Chúa Giêsu đến dùng bữa ở nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu trong một ngày sabát. Hôm qua chúng ta đã nghe về việc Chúa Giêsu chữa lành một người mắc bệnh phù thũng. Hôm nay thánh sử trình bày cho chúng ta việc Chúa Giêsu dạy các thực khách phải làm gì khi được mời dự tiệc. Một chi tiết quan trọng trong trình thuật hôm nay mà chúng ta cần lưu ý là việc nhóm Pharisêu “cố dò xét Người.” Nhưng thay vì “dò xét” Chúa Giêsu, thì họ bị Chúa Giêsu “dò xét”: “Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi” (Lc 14:7). Đây chính là bối cảnh của dụ ngôn [hay lời dạy của Chúa Giêsu cho các thực khách]. Trong Tin Mừng Thánh Luca, dụ ngôn này cũng là phần đầu của những lời dạy đầy khôn ngoan của Chúa Giêsu về những ứng xử thường ngày. Thuật ngữ chúng ta cần lưu ý trong những lời trên là “khách dự tiệc” (đúng hơn là “khách được mời” – Gk. keklemenoi). Thuật ngữ này trong Tin Mừng Thánh Luca có nghĩa là “những người được chọn” hoặc “những người tự xem mình được chọn.” Chúng ta thuộc loại người nào: cảm nghiệm được niềm vui được chọn hay tự hào cho mình là xứng đáng để được chọn?

Trong bối cảnh Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có cả hai loại người này phản chiếu trong dụ ngôn [lời dạy] Chúa Giêsu kể cho các thực khách: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này.’ Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’ Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn” (Lc 14:8-10). Những lời này chỉ cho thấy những người tự cho mình được tuyển chọn thường tìm chỗ nhất để ngồi khi được mời dự tiệc, còn những người được chọn thì ngược lại, họ biết mình chỉ là những người không xứng đáng nhưng được chọn, nên thường tìm chỗ rốt hết để ngồi. Chi tiết này nhắc chúng ta rằng trong bàn tiệc Nước Thiên Chúa, chỗ ngồi không quan trọng cho bằng thái độ khiêm nhường khi đến tham dự tiệc. Chính thái độ khiêm nhường làm thay đổi điểm kết của câu chuyện khi Chúa Giêsu cho biết kết quả cuối cùng của hai loại khách mời sẽ như sau: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14:11). Những lời này nhắc nhở chúng ta về thái độ “tự cho mình là công chính” đến nỗi chê những người khác không được thánh thiện công chính như mình. Hãy sống khiêm nhường và có lòng tạ ơn trong mọi sự vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương và chọn để phục vụ Tin Mừng.