Lời Chúa Năm B Các bài suy niệm Chúa Nhật 25 Thường niên Năm B

Các bài suy niệm Chúa Nhật 25 Thường niên Năm B

Lời Chúa: Kn 2,12.17-20; Gc 3,16-4,3; Mc 9,30-37

——-

Mục lục

1. Ghen tương đố kỵ  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Người môn đệ mẫu  (Jorathe Nắng Tím)

3. Làm người phục vụ  (Lm. Thái Nguyên)

4. Ở đâu có ghen tỵ, ở đó có tệ đoan  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

5. Chúa bên con  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

6. Nên nhỏ bé  (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

7. Làm lớn để phục vụ (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

8. Hai cách đánh giá con người  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

9. Lãnh đạo phục vụ  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

10. So đo  (Trầm Thiên Thu)

11. Nên một tình yêu  (Lm. Jos DĐH.)

12. Thiên vị  (Lm. Trần Việt Hùng)

 

Năm 2018

Mục lục

1. Sự ghen tương  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Cùng một chữ ganh  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Con người chịu nhiều đau khổ  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

4. Người lớn nhất  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

5. Danh vọng  (Lm. Trần Việt Hùng)

6. Bước theo Chúa trong khiêm hạ  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

7. Đức Giêsu, mẫu gương phục vụ  (Lm. Đinh Lập Liễm)

8. Người con thứ  (Lm. Nguyễn Thái)

9. Suy niệm Chúa Nhật 25 Thường niên_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

10. Suy niệm Chúa Nhật 25 Thường niên_B.  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

11. Phục vụ là vĩ đại (Lm. Hữu Độ, CRM)

12. Ai muốn làm người đứng đầu (Fx. Đỗ Công Minh)

13. Vòng xoay  (Trầm Thiên Thu)

14. Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật 25 Thường niên_B  (Jorathe Nắng Tím)

15. Muốn làm đầu thì phải phục vụ trong khiêm hạ  (Lm. Trần Bình Trọng)

16. Nên thánh trong phục vụ  (Lm. Vũ Xuân Hạnh)

17. Chúng ta tin vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

18. Làm người phục vụ  (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

19. Trở nên người cao quí  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

20. Đấng Ki-tô, người công chính của Thiên Chúa  (Lm. Đa-minh Trần Đình Nhi)

21. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 25 TN_B  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

22. Con đường Giêsu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

23. Xin Cha tha cho họ vì họ lầm (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

24. Ghen tuông – Tranh chấp  (JM. Lam Thy, ĐVD)

25. Sự ham muốn khôn ngoan  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

26. Thân phận của Thiên Chúa làm người  (Nguyễn Văn Nội)

27. Chúa Nhật 25 Thường niên_B.  (Lm. Antôn)

 

Năm 2015

Mục lục

1.  Khiêm nhường và phục vụ (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2.  Đầy tớ của mọi người  (Gm. Arthur Tonne)

3.  Nền văn minh mới  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

4.  Máu làm quan  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5.  Bài học và gương phục vụ  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

6.  Người lớn hơn cả là ai?  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

7.  Đời tôi tiến bước như một con lừa  (Văn Hào, SDB)

8.  Người lãnh đạo  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

9.  Nhân danh  (Trầm Thiên Thu)

10.  Chúa Nhật 25 Thường Niên_B  (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)

11.  Bài học về quyền bính (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

12.  Phục vụ trong tinh thần khiêm tốn noi gương Đức Giêsu (Lm. Đan Vinh)

13.  Ghen tỵ (Huệ Minh)

14.  Phục vụ mọi người (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

 

GHEN TƯƠNG ĐỐ KỴ

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Những ai đọc tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa đều biết đến nhân vật Chu Du. Ông là một vị tướng giỏi, túc trí đa mưu, nhưng lại có tính ghen tương đố kỵ. Đối thủ của Chu Du là Gia Cát Lượng. Khi bị thua trận cách bẽ bàng, trước khi hộc máu miệng và chết, Chu Du đã thốt lên câu cảm thán và câu này đã trở thành kinh điển: “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng!”. Thật thê thảm thân phận một con người nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, ngó đâu cũng thấy tai hoạ! Hậu thế không khỏi xót xa cho một nhân tài mà không thắng nổi tính ghen tương của chính mình.

Ghen tương là sợ người khác hơn mình. Ghen tương có từ khi con người hiện hữu trên trái đất. Quả vậy, Cain ghen với Aben là em ruột, nên đã xuống tay đoạt mạng người em cùng huyết nhục. Tính ghen tương cũng hiện hữu nơi mỗi con người ở mọi thời đại, và đó là nguyên nhân gây nên biết bao đổ vỡ, thậm chí án mạng. Tác giả sách Khôn ngoan ghi lại những lời hằn học đố kỵ của những người mà ông gọi là “phường vô đạo” (Bài đọc I). Họ ghen tức với những người sống ngay chính, và những người không a dua theo thói sống mưu mô của họ. Họ bàn mưu tính kế để kết án và giết chết người công chính. Các nhà chú giải Kinh Thánh, dưới nhãn quan Kitô giáo, đã nhận ra đây là hình ảnh của Đức Kitô khổ nạn. Người đã cam lòng chịu chết cách bất công, để nêu gương bài học khiêm nhường, kiên nhẫn và phó thác nơi Thiên Chúa, như chúng ta sẽ thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.

Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay là lời loan báo cuộc khổ nạn lần thứ hai của Chúa Giêsu. Cũng như các ngôn sứ và những người công chính thời Cựu ước, Chúa sẽ bị nộp vào tay người đời, sẽ bị giết chết, nhưng Người sẽ sống lại. Lời loan báo này xem ra không gây chút ấn tượng nào nơi các môn đệ. Thánh Mác-cô đã làm độc giả ngạc nhiên khi ghi lại cuộc tranh cãi của các môn đệ xoay quanh đề tài “ai sẽ là người lớn nhất” vào lúc Chúa Giêsu tiên báo cuộc khổ nạn thập giá. Người ta đặt câu hỏi: làm sao các môn đệ lại vô tâm trước những điều Đức Giêsu vừa nói? Thì ra, kể cả lúc Chúa tiên báo cuộc khổ hình đau thương mà Người sắp trải qua, các ông vẫn còn mơ về thời thiên sai theo nhãn giới phàm tục. Vì vậy, nghe Chúa nói về việc Người sẽ bị bắt bớ và bị giết, các ông “không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người”. Trong tâm trí các ông lúc đó, việc bình bầu ai là người lớn nhất còn đáng quan tâm hơn cả những gì Thày mình vừa nói về cuộc đau khổ và về thập giá.

 “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Đó là lời khẳng định của Chúa, cũng là bài học Chúa muốn dạy cho các môn đệ. Chính Chúa đã thực hiện nơi bản thân Người bài học này. Là Thiên Chúa uy quyền cao sang, Chúa Giêsu đã hạ mình mặc lấy thân phận con người để sống cùng và sống cho con người, nhằm mưu cầu hạnh phúc của họ. Qua hình ảnh một em bé, Chúa muốn khẳng định, những ai muốn theo Người cần phải sống đơn sơ, phó thác để có thể trở nên môn đệ đích thực của Người. Lý tưởng của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với lối suy nghĩ thông thường của con người. Ở đời, ai cũng muốn nổi hơn người khác về mọi phương diện. Nếu thấy người bên cạnh hơn mình thì họ ghen tương, thậm chí tìm cách gài bẫy để loại trừ. Chúa Giêsu cũng đã là nạn nhân của sự ghen tương của con người, và Người đã phải chết trên thập giá.

Thánh Giacôbê hôm nay nói đến sự ghen tương giữa các thành viên trong cộng đoàn tín hữu (Bài đọc II). Theo tác giả, ghen tương và tà ý là nguyên nhân gây nên mọi điều xấu xa. Điều tác giả đề cập, vẫn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, kể cả trong những cộng đoàn đức tin. Ghen tương đến từ việc người ta không bằng lòng với khả năng và vị trí của mình. Cũng có khi vì thấy người khác thành công, nên muốn “dìm hàng” phê phán và hạ bệ người khác. “Người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình” – lời khẳng định của Thánh Giacôbê cho thấy, những gì chúng ta làm với thiện ý và với trái tim chân thành, sẽ đóng góp xây dựng hòa bình nơi trần thế, đồng thời làm cho Vương quốc vĩnh cửu được hình thành ngay trong cuộc sống chúng ta.

“Ai tiếp đón một em nhỏ như em này, vì danh Thày, là đón tiếp chính Thày; và ai tiếp đón Thày, thì không phải là tiếp đón Thày, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thày”. Thật không ngờ, những việc nhỏ mọn lại có ý nghĩa cao cả đến thế. Nhờ những nghĩa cử bác ái đơn sơ, mà chúng ta được gặp Đấng cao cả, là Thiên Chúa và là Cha của chúng ta.

Về mục lục

NGƯỜI MÔN ĐỆ MẪU

Jorathe Nắng Tím

Người môn đệ của Đức Giêsu cần có niềm xác tín nền tảng: “Ở đâu có  yêu thương, ở đó có Thiên Chúa”. Và với người môn đệ thì chỉ một mình Đức Giêsu là Đấng họ đi tìm, và “vinh quang của Đức Giêsu” là vinh quang duy nhất suốt đời.

Trên đường đi theo Đức Giêsu, rất nhiều lần chúng ta đã trao đổi, bàn bạc với nhau về hình ảnh của người môn đệ lý tưởng và nhiều hình mẫu lý tưởng đã được vẽ lên.

Việc làm này  nhóm môn đệ của Đức Giêsu ngày xưa đã làm, và Tin Mùng Máccô hôm nay tiết lộ cho chúng ta: các ông đã nói với nhau những gì ?

Các ông đã không chỉ nói với nhau,  hay bàn bạc với nhau, nhưng còn to tiếng, sừng cồ “ cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả ” (Mc 9,34), điều mà người ở ngoài Nhóm không thể  ngờ và không thể hiểu nổi.

Người không thuộc về nhóm môn đệ Đức Giêsu không thể ngờ, vì họ thấy Đức Giêsu nhân hậu, chỉ rao giảng giới luật Tình Yêu, dạy dỗ mọi người sống nghèo khó, hiền lành, trong sạch, yêu chuộng hoà bình,  khiêm  hạ, nhịn nhục và có lòng xót thương (x. Mt 5,2-12), nhưng sao các môn đệ của Ngài lại ham hố vinh quang, tranh chấp chức quyền, địa vị và bất hoà, hiềm khích vì những hư danh. Người không thuộc hàng ngũ những người đi theo Đức Giêsu cũng không thể hiểu, khi thấy nhiều môn đệ của Ngài không khá hơn ho, có khi còn tệ hơn nhiều người trong số họ, vì ganh ghét, tham vọng, ích kỷ, mưu mô thủ đọan.

Thực vậy, câu chuyện tình nguyện đầu quân đi theo Đức Giêsu để đuợc làm lớn, để đươc thiên hạ kính nể, trọng vọng, kể cả để vinh thân phì gia không chỉ là  chuyện cũ của các môn đệ Đức Giêsu, nhưng mãi  là câu chuyện thời sự đang xẩy ra “ở đây và lúc này”. Đó là câu chuyện được lặp đi lặp lại, mà người môn đệ chân chính  không ngừng phải chiến đấu với chính mình để không liều mình lầm đường lạc lối, không uổng phí một đời tận hiến, không phải sống một đời môn đệ gượng gạo, giả hình:

Để không lầm đường lạc lối khi đi tìm những điều thế gian say mê đua nhau đi tìm, vì con đường Đức Giêsu muốn người môn đệ phải đi, chính là con đường Ngài đã đi: đường lên Giêrusalem, ở đó, “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9, 31). Đây là con đường “qua thập giá đến vinh quang”, con đường Thánh Giá đau thương, chết chóc để có buổi sáng phục sinh khải hoàn, bởi “nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu qúy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12, 24-25).

Để không uổng phí đời tận hiến, khi chân thì đi theo Đức Giêsu, tay thì phục vụ Hội Thánh, nhưng cái đầu thì chỉ mong tìm cho mình một vị thế, xây dựng riêng cho mình pháo đài quyền lực, ngai toà thống trị, vì kim chỉ nam của đời môn đệ là khiêm tốn phục vụ, như Đức Giêsu đã đến để phục vụ, bởi “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” (Mc 9, 35).

Để không phải sống một đời môn đệ gương gạo, giả hình, khi sống ngược Hiến Chương Nước Trời mà mình được mời gọi (x. Mt 5,1-12), sống trái lời hứa ban đầu khi chọn đi theo Đức Giêsu (x. Lc 9,23), vì tâm tình và thái độ của người môn đệ phải là tâm tình và thái độ Vâng Phục và Tín Thác của trẻ thơ đối với cha mình, như Đức Giêsu với Chúa Cha.

Thánh Giacôbê đã lý giải nguyên nhân gây ra nếp sống, và những thái độ cư xử không phù hợp ở người môn đệ khi viết : “Thật vậy, ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa” (Gc 3,16). Thánh Tông Đồ còn quảng diễn: “Quả thế, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng đuợc gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau” (Gc 4,3).

Xin Chúa ban cho chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu niềm xác tín nền tảng, đó là: “Ở đâu có  yêu thương, ở đó có Thiên Chúa”, và quyết tâm ở lại trong Đức Giêsu,  với Đức Giêsu mọi nơi mọi lúc, mà không tìm kiếm xa gần những gì không thuộc về Đức Giêsu, như lời Ngài cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con trước khi thế gian được tạo tành” (Ga 17, 24).

Vâng, với người môn đệ, thì chỉ một mình Đức Giêsu là Đấng họ đi tìm, và “vinh quang của Đức Giêsu” là vinh quang duy nhất suốt đời họ chiêm ngưỡng, mà không bao giờ là “cái tôi” danh lợi thú, “cái mình” kiêu căng, quyền lực.

Về mục lục

LÀM NGƯỜI PHỤC VỤ

Lm. Thái Nguyên

 Suy niệm

Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn của Ngài, để khi sự việc xảy ra thì họ sẽ không quá ngỡ ngàng và hoang mang, nhưng họ vẫn không hiểu, hoặc không muốn hiểu. Nói rằng các ông sợ không dám hỏi lại, nhưng đúng hơn, các ông muốn tránh né vấn đề. W. Barclay đã bình phẩm thái độ này như sau: Tâm trí con người vốn có năng khiếu lạ lùng để loại bỏ điều họ không muốn thấy. Chúng ta có khác gì họ đâu? Cũng vậy thôi, chỉ tiếp nhận phần nào mình thích và phù hợp với mình, và từ chối không chịu hiểu phần còn lại.

Có lẽ các môn đệ cũng đoán được Đức Giêsu sắp kết thúc hoạt động rao giảng, nhưng kết thúc một cách huy hoàng bằng cuộc cách mạng tái lập lại Israel. Thế nên giữa các ông bắt đầu có một cuộc tranh chấp về địa vị trong vương quốc mới của Thầy mình. Các ông tranh cãi nhau ngay trong lúc đi đường xem ai là người lớn nhất trong nhóm. Điều đó cho thấy các ông không hiểu gì về sứ mạng của Thầy mình, nên nằm trong tình cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược.

Khi về đến nhà, Chúa Giêsu bảo các môn đệ ngồi lại, vờ hỏi xem đã bàn chuyện gì khi đi đường. Họ làm thinh không trả lời. Trong bầu khí trầm lắng, Ngài nhẹ nhàng đưa ra cho họ một cách thế để trở nên những con người lớn lao thực sự:“Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Lời này có lẽ làm cho các đồ đệ vừa sượng sùng trước cái ham muốn quyền thế, vừa rơi xuống chiếc mặt nạ ảo tưởng về chính mình. Bởi vì người đứng đầu mà phải sống như người đứng cuối, thì có ai muốn đứng đầu nữa không?

Chúa Giêsu còn minh họa bằng một hình ảnh sống động khi đặt đứa bé vào giữa họ rồi ôm lấy nó, và tuyên bố: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy”. Khi nói và làm như thế, Chúa Giêsu đã thực hiện một hành động phục hồi mang hai chiều kích: con người và tôn giáo; vừa nhận mình là tôi tớ của mọi người, vừa mở rộng vòng đai khép kín của Giáo hội đến tận những người hèn mọn nhất. Đó chính là sứ vụ của Chúa Giêsu ủy thác cho các môn đệ. Để nhấn mạnh thêm bài học quan trọng này, Ngài đã kết luận:“Ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Như vậy, ai đón nhận Ngài trong bản thân những kẻ bé nhỏ là đón nhận chính Thiên Chúa. Lạ thay! Thiên Chúa mang khuôn mặt một con trẻ. Đó là sứ điệp rất mới và rất lạ của đoạn Tin Mừng này.

Quả thật, trước giáo huấn của Chúa Giêsu, việc đua đòi danh vọng trở nên cái gì hàm hồ đối với những ai bước theo Ngài. Nhưng dường như ai cũng háo hức về chức tước, địa vị, quyền thế, vì nó không chỉ thỏa mãn được nhu cầu thể hiện bản thân, mà còn vì được công thành danh toại:“Đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”, hoặc “Không công danh thà nát với cỏ cây”.

Chức vụ, địa vị, là điều phải có trong mọi tổ chức xã hội cũng như Giáo hội. Nó xấu là vì người ta quy về mình, lo chiếm hữu cho mình. Nhưng nó lại rất tốt khi người ta coi đó như một phương tiện phục vụ để đem lại bình an và hạnh phúc cho tha nhân. Tuy nhiên, kẻ ham mê quyền cao chức trọng thì không thể nói tốt được. Thực tế, việc ham muốn đứng đầu vẫn là một cám dỗ không ngừng đối với cả đạo đời. Rất ít người mong đứng đầu để phục vụ, mà để hưởng thụ và sống trên người khác. Dù có phục vụ đi nữa thì cũng phục vụ như kẻ có quyền hành. Không mấy ai có được tính cách phục vụ như Chúa Giêsu.

Nếu phải coi ai là “Người lớn nhất”, thì chắc phải là người phục vụ nhiều nhất, với lòng khiêm nhường và tình yêu vô vị lợi. “Người lớn nhất” không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng con tim để yêu thương; không đứng trên cao để điều khiển, nhưng xuống dưới thấp  để hầu hạ. Không phải chỉ Giáo hội, mà bất cứ một tập thể nào cũng rất cần những người đứng đầu theo kiểu mẫu của Đức Giêsu. Nhà truyền giáo Albert Schweitzer nói: “Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ”.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Ngài là Con Thiên Chúa toàn năng,
nhưng không đến trần gian làm bá chủ,
mà chỉ đến để hiến thân phục vụ,
để đem lại hòa bình cho thế giới,
và trở thành giá cứu chuộc cho đời. 

Ai cũng muốn mình nên cao trọng,
nên chạy theo danh vọng quyền hành,
dùng mọi phương kế để đua tranh,
đưa đến bao nhiêu chuyện chẳng lành.

Chúa dạy con muốn nên người lớn nhất,
phải làm người nhỏ nhất giữa anh em,
làm cao phải biết cúi mình phục vụ,
làm lớn phải hành động thật khiêm nhu.

Nhìn ngắm tượng ảnh Chúa Giê-su,
con thấy tay Ngài không chỉ lên đầu
mà chỉ vào trái tim bị đâm thâu,
một trái tim bốc lửa vì yêu dấu.

Điều đó đã làm cho con hiểu:
đứng đầu phải sống như người hầu,
vui lòng đón nhận những thương đau,
như chính Chúa đã nên gương mẫu.

Sự phục vụ nào cũng đòi con xả kỷ,
không tìm mình và cũng chẳng mong chi,
chỉ mong sao ý Chúa được thực thi,
và ai cũng thấy mình được yêu quý.

Xin cho con đừng toan tính điều gì,
chỉ biết chân thành và phục vụ cho đi,
đặt mình làm tôi tớ của mọi người,
nhận ra vị trí của mình là ở dưới,
để góp phần cho cuộc sống đẹp tươi. Amen.

Về mục lục

Ở ĐÂU CÓ GHEN TỴ, Ở ĐÓ CÓ TỆ ĐOAN

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Lời Chúa hôm nay nói nhiều về tính ghen tương hay là ghen tỵ nhau. Ghen tương là một trong bảy mối tội đầu, nghĩa là tật xấu này sinh ra nhiều nhiều tội khác. Tính ghen tương có thể xuất hiện ở bất người nào và bất cứ hoàn cảnh nào.

Bài đọc I từ sách Khôn Ngoan đề cập đến việc người xấu ghen tỵ với người tốt, phường vô đạo ghen tỵ với người công chính, họ tìm cách gài bẫy và làm hại người công chính. Bởi vì sự hiện diện của người công chính làm cho họ cảm thấy chướng tai gai mắt và chống lại những việc làm xấu xa họ làm. Dưới ánh sáng Tân Ước, những điều này được ứng nghiệm trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Như một người công chính, Người lên án thái độ giả hình và tham vọng của các Biệt Phái và Luật Sĩ, nên họ đã chống lại Người, bách hại và đóng đinh Người trên thập giá vì sự ghen ty và thù ghét Người.

Bài đọc này cũng được ứng nghiệm trong đời sống của tất cả những ai phải chịu đau khổ bởi sự bách hại bất công vì đã sống công chính và ngay thẳng. Giống như Đức Kitô, nhiều lúc, chúng ta bị bách hại bởi những kẻ thù bên ngoài và nhiều lúc bởi chính cả bạn bè, người thân nữa vì chúng ta làm điều gì đó tốt đẹp. Họ có thái độ thù địch và ghen ghét chúng ta. Nhưng chúng ta phải can đảm và bền lòng, vì Thiên Chúa chắc chắn sẽ minh oan cho chúng ta như Người đã làm cho Đức Kitô.

Bài đọc II nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc tập trung sống những điều tốt lành vốn chúng mang lại sự hiệp nhất với nhau hơn là chạy theo những điều làm chia rẽ chúng ta. Đó là anh em hãy “trở nên thanh khiết, hiếu hòa, bao dung, mềm dẻo, đầy lòng từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình” (Gc 3,17).
Tất cả chúng ta đều ước ao một cuộc sống hòa hợp, bởi vì nhiều cộng đoàn Kitô hữu, nhiều gia đình thường xuyên sống trong cảnh chiến tranh, xung đột và xáo trộn.

Những tranh chấp như thế nhiều lúc không thể tránh khỏi trong đời sống, nhưng chúng ta không được phép để cho chúng chia rẽ chúng ta. Thật đáng buồn, gốc rễ của hầu hết các cuộc tranh chấp như thế là do tham vọng ích kỷ. Vì thế, thánh Giacôbê nhắc nhở chúng ta đừng để cho những tham vọng ích kỷ phá hủy những tương quan, gia đình và cộng đoàn chúng ta. Thánh nhân quả quyết:

“Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa… Anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau” (Gc 3,16.4,2).”

Dĩ nhiên, nhiều gia đình, nhiều vợ chồng, nhiều cộng đoàn và nhiều quốc gia đã bị phá hủy vì những tham vọng và ước muốn ích kỷ.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu loan báo về việc Người sẽ bị bắt, bị giết chết và ngày thứ ba, Người sẽ sống lại, thì các môn đệ chỉ có nghĩ đến quyền lợi, địa vị và tranh dành nhau ai lớn hơn ai trong Nước Chúa. Rõ ràng các môn đệ theo Chúa nhưng vẫn còn mang trong mình những “giấc mơ trái mùa” mà họ nghĩ rằng Chúa đến để thiết lập, họ sẽ được thăng quan tiến chức theo kiểu thế gian hơn là đi theo Chúa để phục vụ tha nhân. Như thế, giống như cộng đoàn mà thánh Giacôbê viết thư khuyên bảo, các môn đệ của Chúa Giêsu cũng đã kinh nghiệm về sự tranh dành quyền lực và ganh tỵ nhau.

Đây cũng là điều mà chúng ta thường thấy trong xã hội, Giáo Hội, gia đình và bất cứ nơi đâu mà sự tham vọng cá nhân được xem là quan trọng hơn bất cứ điều gì. Khi đó, chúng ta thấy xuất hiện chiến tranh, ngồi lê đôi mách, dửng dưng, gây hấn, đe dọa mạng sống và tài sản, hiềm thù, và mọi tật xấu tệ đoan. Tất cả những điều này phá hủy hết mọi thiện ích chung và sự sống chung hòa bình.

Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta một con đường để vượt thắng sự ghen tỵ. Đó là không nhìn người khác như là đối thủ phải loại trừ trong cuộc cạnh tranh. Tha nhân là đối tượng để chúng ta thăng tiến và phục vụ.

Vì thế, khi Chúa Giêsu bồng một em bé lên như là một mẫu gương cho chúng ta hôm nay, Người đơn giản muốn dạy chúng ta rằng chúng ta phải trở nên giống như trẻ thơ để trở nên người lớn nhất. Dĩ nhiên, đây không có nghĩa là trở nên “ấu trĩ.” Đúng hơn, nó có nghĩa là trở nên giống tinh thần trẻ thơ. Nghĩa là sống cách đơn giản, trong sáng, với tinh thần khiêm tốn, phục vụ Chúa và tha nhân.

Cuối cùng, để trở nên người lớn nhất có nghĩa là người biết tập trung vào người khác chứ không phải tập trung vào chính mình, người biết dùng khả năng mình để phục vụ, đón tiếp, và cộng tác với người khác như các trẻ thơ thường làm. Nó cũng có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận sự thật, tôn trọng sự khác biệt của người khác và hợp tác với nhau một cách tích cực.
Để kết thúc, chúng ta nghe lại câu chuyện dân gian Việt Nam về sự nguy hại của sự ghen tỵ, câu chuyện Thiếu Phụ Nam Xương.

Cô là một người phụ nữ có tên là Nguyễn Thị Thiết, lấy chồng họ Chương, sống ở tỉnh Hà Nam. Hai vợ chồng đang yêu thương và chung thủy với nhau, nhưng vì nước, chàng phải đi lính theo lời hiệu triệu của nhà vua. Trước khi ra trận, hai người có con mà không biết. Khi sinh con, mỗi buổi tối, người mẹ ru con ngủ, đứa con trai hỏi mẹ: “Bố con ở đâu?” Người mẹ chỉ vào cái bóng mình in trên vách nhà và nói: “Bố con đó.” Sau ba năm anh trở về, hai mẹ con đi ra đón chồng. Khi anh tới ôm đứa bé, nó liền bảo: “Ông không phải là bố tôi, bố tôi tối mới về kìa.” Nghe vậy chàng Chương bừng bừng nổi giận máu ghen với vợ mình. Đau lòng quá và không thể làm cách gì để giải thích cho chồng hiểu, nàng đành ra sông tự tử. Sau đó, cứ mỗi tối thấy bóng người trên vách nhà, đứa con lại kêu lên: “Bố con đã về kìa!” Hiểu ra vấn đề, chàng Chương ân hận, thương tiếc vợ mình, nhưng mọi sự đã quá muộn. Anh và đứa con liền ra sông lập miếu để thờ nàng.

Câu chuyện trên minh chứng lời này: có yêu thì mới ghen, nhưng quá ghen thì giết chết tình yêu!
Xin Chúa giúp chúng ta biết giệt trừ tính ghen tỵ trong lòng chúng ta. Amen!

Về mục lục

CHÚA BÊN CON

Bông hồng nhỏ

Sau khi chữa một người bị quỷ ám mắc bệnh động kinh, Thầy Giêsu cùng các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê. Thầy trò âm thầm tiến bước, không có đám đông vây quanh, chỉ có Thầy và trò sát cánh bên nhau, vì Chúa Giêsu không muốn cho ai biết về cuộc hành trình này. Lần này, Thầy Giêsu một lần nữa nhắc lại lời loan báo về cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Các môn đệ không hiểu và cũng vì sợ nên chẳng ai dám hỏi lại Người. Một sự thinh lặng đến nghẹt thở. Nhưng trong chính tâm hồn mỗi môn đệ đều đang có một cuộc chiến dữ dội. Cuộc chiến đấu nội tâm ấy là gì thì chỉ mình Chúa và mỗi người biết. Có lẽ, nỗi băn khoăn mà các ông đều cưu mang trong lòng đó là: Ai trong các ông là người lớn nhất?

Hơn ai hết, Thầy Giêsu hiểu rõ con đường mà Người đang dẫn các môn đệ bước đi. Càng ngày, cuộc hành trình càng đến gần thập giá. Đồi Canvê một chiều loang máu như ẩn hiện trong tâm trí Thầy. Những cực hình và cả cái chết treo trên thập giá đang chờ đợi phía trước, nhưng tất cả không ngăn được bước chân của Thầy. Thầy nhận thấy nỗi lo lắng và sợ hãi hiện trên khuôn mặt từng môn đệ, Người cũng hiểu rõ cả những nỗi ưu tư và bao toan tính đang giằng xé tâm hồn họ. Những con người ấy đã chia sẻ với Thầy bao hân hoan và vui mừng, chia sẻ cả những thiếu thốn trên hành trình rao giảng Tin Mừng. Liệu họ có trung thành theo Thầy đến đỉnh đồi Canvê? Thầy Giêsu thấu biết từng người trong các ông, và nhất là Người dành cho các ông một tình yêu trước sau như một, một tình yêu tròn đầy.

Khi cùng Thầy đến thành Caphácnaum, các môn đệ đã cãi nhau. Về đến nhà, Thầy mới hỏi: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?”( Mc 9, 33). Câu hỏi của Thầy khiến các ông lặng thinh. Có lẽ, các ông đã cãi nhau kịch liệt nhưng Thầy lại chỉ gọi đó là một cuộc “bàn tán”. Các ông cúi mặt khi bắt gặp ánh mắt trìu mến của Thầy. Dọc đường, có Thầy cùng đi nhưng các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Khi đụng đến quyền lợi, danh vọng, tất cả các ông đều bộc lộ con người mình. Thầy ngồi xuống, gọi các ông lại và nhẹ nhàng dạy bảo: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9, 35). Đó là giáo lý của Thầy Giêsu, một giáo lý hoàn toàn trái ngược với những gì mà con người vẫn suy tính và mong đợi. Lời Thầy dạy bảo như mũi tên đâm trúng tim đen của từng người và làm lộ ra những tham vọng đã chất đầy trong họ. Thầy biết rõ ước muốn của họ. Thầy dạy họ hãy làm mọi việc bằng tình yêu và nhân danh Thầy.

Còn ta, mỗi ngày qua đi, có biết bao điều đã xảy đến với ta. Kìa, Thầy Giêsu cũng đã ngồi xuống, Người đưa mắt mời gọi ta. Ta có mau mắn đến ngồi xuống bên Thầy như các môn đệ lúc này đây? Ta có sẵn sàng để Thầy chạm đến nơi sâu thẳm của tâm hồn mình không? Hãy để Lời Người thức tỉnh ta, đánh một tiếng động lớn trong lòng ta. Chắc chắn, ánh sáng tình yêu của Người sẽ làm lộ ra những gì ẩn khuất nơi tâm hồn ta: đó là những ước muốn bất chính, những đam mê, những ham muốn quyền lực, danh vọng hay cả những ước muốn yêu và được yêu. Người sẽ hướng dẫn ta quay trở về, nối lại những tương quan đã đổ vỡ vì hiểu lầm, xích mích; làm mới lại tình yêu với Chúa trong ta. Hãy nhớ rằng, những nẻo đường ta đang bước đi đều có Thầy hiện diện. Dù Người lên tiếng hay chỉ âm thầm đi bên cạnh, Người vẫn hướng toàn bộ cái nhìn và sự quan tâm dành riêng cho ta.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã luôn bước đi bên con. Dù có lúc con không để ý đến sự hiện diện của Chúa, dù lắm lúc con đã quên mất rằng Người vẫn có đó, hay vì con không thể nhận ra rằng Chúa thật sự đang ở bên con, thì trong ánh mắt của Chúa, trong tâm trí và trái tim của Chúa vẫn luôn ghi khắc hình ảnh của đứa con bé nhỏ và tội lỗi này: “Vì mỗi lần nhắc đến con; Ta lại thấy nhớ thương; Nên lòng Ta bồi hồi thổn thức; Ta thương con, thương con thật nhiều” (x.Gr 31, 20). Amen.

Về mục lục

NÊN NHỎ BÉ

Thiên San

“Xin cho con nhỏ bé trước mặt Chúa, đơn sơ, hiền hòa như suối mát. Xin cho con nhỏ bé trước anh em…” Đó là những ca từ rất giản dị, mộc mạc, đơn sơ của  một vị linh mục, như muốn gói gọn tâm tình của người môn đệ Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay cũng dạy cho chúng ta bài học về sự nhỏ bé ấy. Đức Giêsu vẫn kiên nhẫn trong việc hướng dẫn các môn đệ của mình.

Dân gian có câu: “Có chuyện gì thì đóng cửa bảo nhau”. Quả thực, đó là sự tế nhị, khôn khéo, bác ái để chúng ta giúp nhau xây dựng hòa khí trong gia đình, nhóm bạn. Sau khi nghe Thầy Giêsu loan báo lần thứ hai về Cuộc Thương Khó của Người, các môn đệ vẫn chưa hiểu và vì sợ nên không dám hỏi lại. Dường như các môn đệ không hiểu điều Thầy đang muốn mạc khải. Đang khi Thầy của mình còn phải đối diện với những khó khăn, với Cuộc Khổ Nạn sắp tới, thì các ông vẫn còn bận tâm đến chuyện ai lớn hơn ai. Nỗi bận tâm đó khiến các ông cãi nhau dọc đường. Biết vậy, về tới nhà, Đức Giêsu mới bắt đầu hỏi các môn đệ của mình: “Dọc đường, anh em bàn tán với nhau chuyện gì vậy? (Mc 9, 33). Các ông làm thinh (Mc 9,34).

Dường như nét mặt của các môn đệ đã nói lên tất cả. Các ông hãy còn đang hằn học với nhau, khuôn mặt vắng bóng nét vui tươi, bình an. Không hẳn vì các ông lo nghĩ đến những điều Thầy loan báo, nhưng có thể vì lòng các ông còn bận tâm đến “cái ghế” – chỗ đứng của mình. Tâm trạng của Thầy Giêsu như thế nào? Chắc hẳn Ngài phiền lòng lắm. Đức Giêsu hành xử thật tế nhị, dễ thương, nhân từ và vô cùng kiên nhẫn. Người ngồi xuống, gọi các môn đệ lại và ôn tồn dạy bảo: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9, 35). Người cũng đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, ôm nó vào lòng. Đoạn Người dạy rằng: “Ai đón tiếp một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là đón tiếp Thầy; và ai đón tiếp Thầy thì không phải là đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mc 9, 37).

 Với những ai chấp nhận trở nên bé nhỏ, khiêm tốn trước nhan Chúa, trước anh chị em mình, họ sẽ được Thiên Chúa yêu thương. Người ấy sẽ được ở trong vòng tay của Thầy Giêsu. Theo giáo huấn của Thầy Giêsu, những ai muốn làm lớn hơn cả phải chấp nhận làm người rốt hết, làm người phục vụ mọi người. Lời dạy bảo của Thầy Giêsu hôm nào cũng dành cho cả chúng ta. Thiết nghĩ, thường chúng ta thích làm lớn nhưng lại không thích phải phục vụ kẻ khác, không muốn trở nên người rốt hết. Nhưng lời Chúa dạy luôn là chân lý. Những ai muốn trở thành môn đệ đích thực của Thầy Giêsu thì phải chấp nhận đi theo giáo huấn của Người. Bởi chính Người cũng đã trở nên nhỏ bé, khiêm hạ, trở nên người phục vụ mọi người. Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và làm giá chuộc muôn người (x. Mt 20,28).

Là một Kitô hữu, khi đảm trách một công việc hay chức vụ gì, chúng ta được mời gọi sống khiêm tốn, trở nên nhỏ bé, rốt hết và phục vụ mọi người. Khi ý thức sống theo gương của Thầy chí thánh, chúng ta sẽ biết cách hành xử bác ái với nhau, biết cùng nhau xây dựng hòa bình, yêu thương. Nhất là, chúng ta sẽ trở nên nhỏ bé trước cái nhìn yêu thương của Chúa, được Chúa ôm vào lòng. Khi ý thức sự nhỏ nhỏ bé của mình, chúng ta cũng học biết được thế nào là sống tâm tình phó thác vào Chúa, tôn trọng những người ta đang phục vụ, biết dùng tình thương mà đối xử với nhau. Khi chúng ta đón tiếp những con người bé nhỏ như vậy là chúng ta đang đón tiếp chính Thiên Chúa.

Về mục lục

LÀM LỚN ĐỂ PHỤC VỤ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Quyền lực là gì? Quyền lực là khả năng của cá nhân hay tổ chức có thể buộc các cá nhân hay tổ chức khác phải phục tùng ý chí của mình. Tâm lý con người nói chung ai chẳng thích quyền lực, không có gì hấp dẫn, cám dỗ con người bằng quyền lực. Thích làm lớn, hay thích quyền lực là thứ “gây nghiện” bằng tất cả những thứ “gây nghiện” khác cộng lại. Bởi quyền lực làm cho người chưa có khao khát có nó, có chút quyền lực rồi lại muốn quyền lực lớn hơn. Thích quyền, có thể biến người ta thành kẻ tán tận lương tâm, chia rẽ và giết chết nhau. Các môn đệ Chúa Giêsu cũng không nằm ngoài qui luật thông thường ấy. Các ông có tranh giành nhau cũng là chuyện bình thường. Quyền lực khiến cho hai anh em Gioan và Giacôbê xin được ngồi bên hữu và bên tả Chúa Giêsu (x.Mc 10 37) và làm cho “Mười môn đệ kia đâm ra tức tối” (Mc 10, 41) sinh ra chia rẽ, bất hòa.

Tranh giành quyền lực

Chuyện xảy ra vào chính lúc Chúa Giêsu loan báo cho các ông về cuộc khổ nạn và cái chết của Người. Thay vì dừng lại và chia sẻ với Thầy, hoặc nếu chưa hiểu thì trao đổi với Thầy để am tường hơn, đàng này các ông lại ích kỷ, vụ lợi; tưởng thời lập quốc của Ðấng Mêsia sắp đến và ngày tể tướng triều chính phải được cắt đặt đã tới, thế là các ông bắt đầu tranh cãi về địa vị với nhau. Hiểu rõ nhân tình thế sự nơi người môn đệ, Chúa Giêsu nói với họ: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi mọi người” (Mc 9, 35). Đã ba lần Chúa Giêsu báo trước cuộc khổ nạn của Người cho các môn đệ, nhưng họ đâu có muốn Chúa nói với họ về khổ đau và thập giá. Họ càng không muốn biết về những thử thách và lo âu. Vì thế, họ tranh luận với nhau xem ai hơn ai, ai là người xuất sắc nhất, thanh sạch nhất, người có quyền được hưởng đặc ân nhiều hơn so với người khác. Thái độ tranh biện về quyền lực và danh vọng là thái độ vô ích, khiến người ta từ tránh khó, ngại khổ, không dấn thân vào việc chung vì ích chung.

Chúa Giêsu đặt em bé ở giữa

Chúa Giêsu biết rõ tư tưởng của các môn đệ, nên Người đề nghị một thuốc giải cho cuộc tranh giành quyền lực và sự từ khước hy sinh của họ; để mang lại tính chất long trọng cho điều Người sắp nói, Chúa “đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mc 9, 37). Bài học khiêm nhường như đứa trẻ nhỏ họ vẫn chưa thuộc.

Trước cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu dạy họ một bài học mà họ sẽ không bao giờ quên được. Chúa đã làm gì?

Trong lúc mọi người đang dùng bữa chung, Chúa Giêsu đứng dậy khỏi bàn, cởi áo ngoài ra, lấy một chiếc khăn và quấn ngang thắt lưng rồi đổ nước vào chậu. Các môn đệ lúc ấy ngỡ ngàng sửng sốt lắm, Thầy sắp làm gì đây. Trong khi họ quan sát thì Chúa Giêsu đi đến từng người trong trong các ông, cúi xuống rửa chân cho họ. Người dùng khăn lau khô chân họ. Họ cảm thấy bối rối, còn Phêrô thì không muốn để Thày làm công việc phục vụ thấp kém này cho mình (x. Ga 13,1-15).

Ngày nay chúng ta thường không rửa chân cho nhau. Chúa Giêsu đã làm như vậy. Khi làm điều này, Chúa Giêsu dạy các môn đồ một bài học quan trọng là phục vụ lẫn nhau. Người không muốn họ chỉ nghĩ đến mình, cho mình là quan trọng đến độ luôn phải được người khác phục vụ. Người muốn họ sẵn sàng phục vụ người khác.

Phục vụ người khác không khó đâu. Vậy chúng ta đừng bao giờ do dự phục vụ người khác.

Giáo Hội được Chúa Giêsu thiếp lập để phục vụ

Bao lâu xã hội loài người còn, thì bấy lâu bài học Chúa dạy hôm nay vẫn còn giá trị, bởi vì cám dỗ về quyền lực và lạm quyền đã ăn sâu trong mỗi người và trong mọi cơ chế xã hội. Giáo hội cũng không được miễn nhiễm khỏi căn bệnh tìm kiếm chức quyền danh vọng. Não trạng thế gian thì tìm kiếm danh vọng chức quyền, còn tư tưởng của Thiên Chúa là phục vụ và trao ban sự sống.

Những người làm lớn trên thế gian xây dựng những ngai vàng cho quyền bính của họ, Thiên Chúa lại chọn một ngai không tiện nghi, là Thánh Giá, từ ngai đó Người cai trị khi ban tặng sự sống của Người: Chúa Giêsu nói: “Con Người đến không phải để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống cho nhiều người” (Mc 10, 45).

Phục vụ là thuốc giải độc hiệu quả chống lại căn bệnh tìm kiếm địa vị chức quyền. Giáo Hội phải cúi xuống mà rửa những bàn chân của những người rốt hết, để phục vụ họ bằng tình yêu, đơn giản và chân thành.

Chúng ta hãy khẩn cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, Người Nữ khiêm nhường luôn gắn bó với thánh ý  Chúa, giúp chúng ta vui vẻ bước theo Chúa Giêsu trên con đường phục vụ, con đường chính dẫn đến Thiên Đàng.

Về mục lục

HAI CÁCH ĐÁNH GIÁ CON NGƯỜI

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Có hai vợ chồng cùng đi mua bàn ghế để trang bị nội thất cho ngôi nhà mới xây. Người vợ thì thích sắm những đồ mộc thuộc nhóm gỗ kém, nhưng có phủ lớp sơn láng bóng, đẹp mắt; còn người chồng thì muốn chọn loại bàn ghế đóng bằng gỗ quý, chẳng sơn phết gì vì cho rằng “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.” Việc mua sắm bất thành vì mỗi người có một thị hiếu khác nhau, một cách đánh giá khác nhau.

Khi nhận định về giá trị con người cũng vậy, người ta cũng có những cách đánh giá khác nhau, dựa vào những tiêu chí khác nhau.

Cách đánh giá của người đời

Người đời đánh giá con người chiếu theo lớp sơn hào nhoáng bên ngoài.

Lớp sơn thứ nhất là sắc đẹp.

Một số người đánh giá con người tùy theo sắc đẹp ngoại hình. Thần tượng của họ là những ngôi sao điện ảnh, là hoa hậu, là những ca sĩ ăn mặc lố lăng hoặc người mẫu đang ăn khách… Điều nầy khiến khá đông bạn trẻ xem nhẹ việc trau dồi nhân cách, không màng phát huy đạo đức, không lo trau dồi kiến thức hay học tập mà chỉ tìm cách chưng diện, đua đòi y phục hợp thời trang…

Lớp sơn thứ hai là sang trọng, giàu có.

Lắm người đánh giá con người tùy theo tiền bạc, tài sản. Thần tượng của họ là những đại gia nghìn tỷ. Điều nầy thúc đẩy người ta đua tranh làm giàu bất chính, cố tậu cho mình những siêu xe sang trọng, xây cho mình những biệt thự xa hoa hoặc sở hữu những ngôi nhà hoành tráng, những đồ trang sức xa xỉ mắc tiền…

Lớp sơn thứ ba là địa vị xã hội.

Nhiều người cho rằng giá trị con người nằm ở địa vị cao, nên cần phải phấn đấu để đạt được ghế cao trong xã hội.

Ngay cả các môn đệ Chúa Giê-su cũng mang não trạng nầy.

Tin mừng hôm nay cho biết, hôm ấy, các môn đệ vừa đi đường vừa tranh luận với nhau xem giữa các ông, ai là người lớn nhất (Mc 9, 34).

Ngay cả khi các tông đồ cùng Chúa Giê-su ăn tiệc Vượt qua trước khi Ngài nộp mình chịu chết, các vị “cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất” (Lc 22,24)

Và cũng có lần hai môn đệ Gioan và Gia-cô-bê cùng với mẹ mình đến xin Chúa Giê-su cho ngồi bên tả bên hữu Chúa khi đến thời Ngài được hiển vinh (Mt 20, 20-24; Mc 10, 35-37).

Cách đánh giá của Thiên Chúa

Chúa Giê-su đánh giá tùy vào tinh thần hy sinh phục vụ. 

Chúa Giê-su phản đối não trạng đánh giá con người dựa vào lớp sơn hào nhoáng bên ngoài. Ngài đánh giá con người không tùy thuộc vào vẻ đẹp ngoại hình, vào tiền tài của cải, vào ghế thấp ghế cao trong xã hội… nhưng đánh giá con người tùy theo tinh thần hy sinh, phục vụ của mỗi người.

Hôm ấy, sau khi Chúa Giê-su nghe các môn đệ vừa đi đường vừa tranh cãi với nhau xem giữa các ông, ai là người lớn nhất, thì về đến nhà, Ngài gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người (Mc 9,35).

Và trong Tin mừng Lu-ca, sau khi nghe các môn đệ tranh cãi với nhau về điều nầy, Chúa Giê-su bảo các ông: “Vua các dân thì dùng uy quyền mà thống trị dân… nhưng anh em thì không phải như thế; trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ nhất và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22, 25).

Qua những lời nầy, Chúa Giê-su tỏ cho thấy giá trị con người được nâng cao khi người ta biết hạ mình phục vụ mọi người.

Nên theo cách đánh giá của ai? 

Lối đánh giá con người dựa vào những lớp sơn hào nhoáng bên ngoài gây ra hậu quả tai hại là khuyến khích nhiều người tìm cách đánh bóng mình bằng những lớp sơn phù phiếm, tạo ra những con người thiếu phẩm chất cao đẹp, nghèo đạo đức…

Còn cách đánh giá dựa vào tinh thần phục vụ của Chúa Giê-su sẽ khích lệ con người sống khiêm tốn, biết hy sinh quên mình để giúp ích cho tha nhân.

Lạy Chúa Giê-su,

Từ bỏ cách đánh giá dựa theo lớp sơn bên ngoài để biết đánh giá con người theo tinh thần hạ mình phục vụ là điều rất khó.

Xin Chúa ban thêm khôn ngoan và soi tâm mở trí, để chúng con biết nhận ra giá trị con người không tùy thuộc vào lớp vỏ bên ngoài nhưng tùy vào lối sống hy sinh, phục vụ và biết thể hiện nếp sống nầy trong cuộc đời chúng con. Amen.

Về mục lục

LÃNH ĐẠO PHỤC VỤ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Tin Mừng tuần trước, các tông đồ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Chúa đã tỏ cho các ông biết, Ngài là Đấng Cứu Thế khiêm hạ như lời tiên tri Isaia mô tả.

Tin Mừng tuần này, Chúa nói rõ hơn về cách thức cứu thế của Ngài: Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Ngài, và ba ngày sau khi bị giết, Người sẽ sống lại.

Tuy nhiên, các tông đồ dường như im lặng suy nghĩ về những điều Thầy nói mà họ không hiểu! Khi bị Thầy hỏi:“Dọc đường anh em đã bàn tán chuyện gì vậy?”. “Các ông làm thinh”. Bởi vì “khi đi dọc đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”.

Chân thì đi đàng sau Thầy, nhưng lòng thì đi ngược chiều với Thầy. Điều đáng hỏi Thầy để hiểu thì không hỏi, lại quay ra cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Các ông vẫn nuôi hy vọng về chức tước, địa vị mà các ông nghĩ mình sẽ được nên đã ngấm ngầm bàn cãi với nhau để phân chia chỗ ngồi thấp cao.

Mọi chuyện khác thì Người vừa đi vừa dạy, cả đến chuyện Người sẽ bị nộp, bị giết chết thì Người cũng vừa đi vừa nói. Nhưng chuyện này thì Người long trọng dạy các ông: “Rồi Đức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói…”. Người ngồi xuống trong tư thế thầy dạy và gọi các ông lại trong tư thế môn đệ. Người trả lời thẳng đề tài mà các ông đã cãi nhau dọc đường: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Lời dạy thật rõ ràng, thiết thực, không văn hoa bỏng bảy. Rồi Người minh hoạ bằng hình ảnh một trẻ nhỏ. Trẻ nhỏ thường gợi chúng ta nghĩ tới sự đơn sơ, trong sáng, nhưng trong Kinh Thánh thì “trẻ nhỏ không kể”, là số không. Người đưa ra một định luật ngược đời: muốn làm người lớn hơn cả thì phải trở thành số không! Chính Người tự đồng hoá với trẻ nhỏ: “Ai tiếp đón một trẻ nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.(x. tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô. Lm Giuse Nguyễn Công Đoan).

Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ con đường trở nên lớn lao thật sự. Đó là con đường phục vụ. Con đường phục vụ thay thế cho tham vọng thống trị. Giúp đỡ tha nhân thay cho tham vọng bắt người khác phục vụ chính mình. Chức quyền là để phục vụ lợi ích của mọi người. Địa vị chỉ là sự phân công hợp lý. Mỗi người một việc vì lợi ích của tập thể. Người lớn nhất, người đứng đầu là người phục vụ hết mình. Chức tước, chức vụ, chức vị, chức quyền chỉ là phương tiện để phục vụ. Ai sống tinh thần phục vụ đó là người lớn nhất. Ai không biết phục vụ thì là người nhỏ nhất. Giá trị của một con người không do địa vị chức tước mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó. Chúa Giêsu mở ra một nền văn minh mới. Người lớn nhất không dùng quyền để lãnh đạo, nhưng dùng khả năng để phục vụ. Người lớn nhất không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng trái tim để yêu thương.

Để làm gương cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã tự hạ mình: “không phải để được phục vụ mà đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc nhiều người” (Mt 20,25-28). Là Thầy nhưng Người đã tự nguyện phục vụ môn đệ. Là lãnh đạo nhưng Người sẵn sàng hiến mạng sống “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Tinh thần phục vụ của Chúa Giêsu được thể hiện rõ nét nhất trong cử chỉ rửa chân “Nếu Thầy là Chúa mà còn rửa chân cho anh em thì anh em phải rửa chân cho nhau”. (Ga 13,14-15). “Ta ở giữa các con như một người phục vụ” (Lc 22,27). Phục vụ lên đến tuyệt đỉnh trong hành vi tự hiến “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).

Quyền bính và phục vụ gắn liền với nhau làm nên bản chất người môn đệ Chúa Giêsu. Người lãnh đạo theo gương Chúa Giêsu là người có tâm, có tầm, có đức và có tài để phục vụ tha nhân theo tinh thần đức ái mục tử. Mục tử rao giảng chân lý và dám sống chân lý ấy cho dù phải hy sinh tính mạng.

Thánh Phêrô đã thấm nhuần lời dạy của Thầy Chí Thánh nên sau này ngài viết những lời tâm huyết cho các mục tử:“Cùng các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Kitô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai. Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi ích thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt tình tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1Pr 5,1-4). Thánh Phêrô cũng khuyên các tín hữu: “Ơn riêng của Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban.” (1Pr 4, 8-11).

Quyền bính đòi chiếm hữu và kiểm soát. Nhưng trong Giáo hội, quyền bính được xây trên nền tảng tình yêu Chúa. Chính vì thế, Chúa Giêsu mới cần Phêrô xác quyết tới ba lần : “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15-17). Quyền bính được xây dựng trên tình yêu nên người mục tử luôn khiêm tốn phục vụ tha nhân. Dân Chúa mong muốn trước tiên các linh mục của họ phải là các nhà lãnh đạo tinh thần: “Giáo dân mong muốn linh mục của họ là các người lãnh đạo tinh thần, luôn dễ gần, có tình yêu của Đức Kitô và chăm lo cho tất cả mọi người. Giáo dân mong muốn các linh mục dễ thương và ân cần tiếp đón. Giáo dân mong ước các linh mục yêu mến các công việc của các ngài, thi hành sứ vụ được xây dựng trên sự cầu nguyện, ban phát các bài giảng hay, quan tâm đến sự đào tạo tôn giáo cho trẻ em và người lớn, giảng dạy niềm tin Công giáo, là thành viên của giáo xứ nơi các ngài phục vụ hiểu biết và có tài lãnh đạo và các kỹ năng giao tiếp tốt”. (The Repord, 6-6-2006). Lãnh đạo tinh thần cơ bản là “gây ảnh hưởng”, là khả năng một người ảnh hưởng lên người khác qua sự mời gọi, thuyết phục và gương sáng để đưa người khác từ nơi họ đang ở đến nơi mà Chúa muốn họ đến. Linh mục là người giảng Lời Chúa, thi hành các Bí Tích và lãnh đạo cộng đoàn tín hữu. Các ngài là nhà lãnh đạo tinh thần hiệu quả khi trui rèn ba kỹ năng ấy. Mẹ Thánh Têrêxa đã diễn tả các đòi hỏi của thuật lãnh đạo tinh thần một cách hết sức đơn giản qua câu nói: “để giữ cho đèn cháy sáng, bạn phải luôn châm dầu cho nó”.

Lời dạy của Chúa Giêsu đưa nhân loại đi vào nền văn minh của tình thương. Và kể từ đó, hàng triệu vị Thánh được tôn vinh như là những chứng từ sống động cho hình ảnh “Người lớn nhất” trong nền văn minh mới của Tin Mừng. Mẹ Têrêxa Calcutta trở thành vĩ nhân của thời đại bằng con đường yêu thương và phục vụ người nghèo. Phục vụ luôn gắn liền với yêu thương. Đức Cha Gioan Casaigne, sau 15 năm trong cương vị chủ chăn tại Sài Gòn, ngài đã tình nguyện về sống và phục vụ những bệnh nhân phong cùi ở Di Linh trong một ngôi nhà gỗ nhỏ hẹp. Ngài đã dành trọn trái tim và cả cuộc đời phục vụ những phận đời khốn khổ.Thánh Augustinô nhận định: Trong đời sống người kitô hữu, có một cuộc chiến đấu giữa hai thứ tình yêu: yêu Thiên Chúa cho đến từ bỏ bản thân mình và yêu bản thân cho đến nỗi chối bỏ Thiên Chúa.

Người thành công nhất là người phục vụ cho đồng loại nhiều nhất. Một vĩ nhân không hệ tại ở địa vị xã hội của người ấy mà là sự cống hiến cuộc đời cho sự phát triển của nhân loại. Giáo hội tuyên phong một người lên bậc hiển thánh chung quy cũng là tuyên dương tinh thần phục vụ của người ấy vì Nước Chúa. Phục vụ để trở nên phong phú, có giá trị, nên hoàn thiện và trở nên gần Chúa Giêsu hơn.

“Nghệ thuật làm lớn” của Chúa Giêsu chính là khiêm tốn phục vụ. Người thật sự cao cả là người dâng đời mình cho lợi ích của cộng đoàn. Thiên Chúa đã tự liên đới với người nhỏ bé, nghèo hèn, không đáng kể nhất. Phục vụ một người không đáng kể nhất cũng là phục vụ chính Thiên Chúa. Con đường tự hạ, làm người bé nhỏ và phục vụ anh em là con đường để trở nên vĩ đại, trở nên người lớn nhất trước mặt Chúa.

Muốn trở thành người phục vụ đích thực, thánh Giacôbê trong bài đọc 2 khuyên hãy sống: “thanh khiết, hiếu hòa, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa trái, không thiên vị, cũng đừng giả hình. Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, đó là người công chính”. Nơi nào có phục vụ, có chăm sóc, có chia sẻ không tính toán, nơi đó người ta sẽ thấy được sự chân thực của tình yêu.

Lạy Chúa, xin cho con biết : Phục vụ là hy sinh, phục vụ là quên mình. Phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ ơn nghĩa không màng. Phục vụ là hy sinh, phục vụ vì Chúa Kitô. (Bài ca phục vụ).

Về mục lục

SO ĐO

Trầm Thiên Thu

Con gà tức nhau vì tiếng gáy. Còn con người “gáy” nhau nhiều thứ lắm: giàu có, nhà to, xe đời mới, quần áo hàng hiệu, ngoại hình đẹp, bằng cấp cao,… Bất cứ cái gì có vẻ hơn người khác một chút thì người ta đều ra vẻ vênh váo, ngông nghênh, nói năng trịch thượng, hách dịch.

Văn hào William Shakespeare nhận xét chí lý: “Thằng ngốc tự cho mình là thông minh, còn người thông minh biết mình là thằng ngốc.” Bác học Albert Einstein nói: “Cái tôi và sự hiểu biết tỷ lệ nghịch với nhau. Hiểu biết càng nhiều, cái tôi càng bé. Hiểu biết càng ít, cái tôi càng to.” Và ông khuyên: “Ðừng nên cố trở thành một người thành công mà hãy gắng trở thành một người có giá trị.” Cứ là chính mình, không cần tranh giành gì với ai.

Kinh Thánh nói: “Người khôn khéo chẳng khoe điều mình biết, kẻ dại khờ để lộ chuyện ngu si.” (Cn 12:23) Người khôn ngoan là người sống khiêm nhu, người lương thiện là người sẵn sàng thứ tha. Chỉ có kẻ ngu si mới ép người quá đáng, chỉ có kẻ bất lương mới tính toán so đo.

Thuở xưa, vì thấy mình kém cỏi mà ác nhân ghen tức và tạo phe kết đảng với nhau: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo.” (Kn 2:12) Họ hèn nhát vì mù quáng nên dễ mắc chứng ảo tưởng và suy nghĩ lệch lạc. Họ rất ranh mãnh, chúng ta phải thực sự cảnh giác kẻo “sập bẫy” mưu ma chước quỷ. Ngày nay mức nguy hiểm hơn nhiều!

Có đầy mới tràn. Tư tưởng xấu sinh ra ước muốn xấu, dẫn tới hành động xấu. Kẻ xấu cứ tưởng người khác cũng xấu như mình nên họ nghi ngờ người khác, và họ biện luận: “Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào. Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù. Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó, để biết nó hiền hòa làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào. Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm.” (Kn 2:17-20) Chúa Giêsu đã bị những kẻ xấu ghét cay ghét đắng dù họ biết Ngài công minh chính trực.

Người công chính luôn sống ngay nói thẳng, và thường bị kẻ xấu không ưa. Không phải Thiên Chúa không biết hoặc làm ngơ, nhưng Ngài tôn trọng luật tự nhiên, Ngài chỉ ra tay khi thực sự cần thiết. Những người tín thác vào Thiên Chúa luôn tín nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin dùng uy danh mà cứu độ, lấy quyền năng Ngài mà xử cho con. Lạy Thiên Chúa, xin nghe con nguyện cầu, lắng tai nghe lời con thưa gửi. Phường kiêu ngạo nổi lên chống đối, bọn hung tàn tìm hại mạng sống con, chúng không kể gì đến Thiên Chúa. Nhưng này có Thiên Chúa phù trì, thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ.” (Tv 54:3-6)

Thiên Chúa biết rõ người nào mạnh, người nào yếu, nên Ngài không bắt ai chịu đựng quá sức. Vấn đề quan trọng là người đó nhận biết ơn độ trì của Ngài, như Thánh Vịnh gia thề hứa: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo!” (Tv 54:8) Bất cứ ai tin tưởng và hành động nhân danh Thiên Chúa thì chắc chắn sẽ không lầm đường lạc lối, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8:12)

Vấn đề lương tâm vô cùng quan trọng đối với con người. Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa. Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình. Người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình, là cuộc đời công chính.” (Gc 3:16-18) Lương tâm không ngay thẳng sẽ sinh ra nhiều rắc rối, thậm chí còn ảnh hưởng sức khỏe thể lý.

Đúng là “lỗi tại tôi mọi đàng” chứ chẳng lỗi tại ai. Thánh Giacôbê phân tích: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau. Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc.” (Gc 4:1-3) Hệ lụy rạch ròi, tất yếu, hiển nhiên!

Cuộc sống không chỉ là bể khổ mà còn phức tạp. Thiện tâm rất quan trọng, ngược lại thì rất nguy hiểm vì là dã tâm: “Lương ngôn nhất cú tam đông noãn, Ác ngữ thương nhân lục nguyệt hàn.” (Thiện tâm một tiếng ấm ba đông, Lời độc lạnh người sáu tháng ròng.) Trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh, đạo binh chư thần đã đồng ca: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm.” (Lc 1:14) Điều đó cho thấy sự thiện tâm là điều kiện cần thiết để được Thiên Chúa yêu thương.

Cuộc sống có nhiều thứ trái ngược: xuôi – ngược, phải – trái, hiền – dữ, to – nhỏ, thuận – nghịch, cao – thấp, dài – ngắn,… Trình thuật Mc 9:30-36 cho biết vấn đề so đo và cách Chúa Giêsu giáo huấn để chúng ta nên người.

Ngày hôm đó, Chúa Giêsu và các môn đệ băng qua miền Galilê. Ngài không muốn cho ai biết, nhưng Ngài “bật mí” cho họ biết chuyện rất quan trọng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại.” Nhưng họ không hiểu gì hết. Có lẽ họ vừa sợ vừa ngại nên không dám xin Thầy cho biết rõ ràng chi tiết hơn.

Rồi Thầy trò cùng đến Caphácnaum. Khi về nhà, Ngài hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” Ôi, chỉ rỉ tai nhau thế mà Thầy cũng cũng biết sao? Các ông nhìn nhau mà không dám nói gì, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Thánh sử Máccô cho biết rõ là các môn đệ “cãi nhau” – chứng tỏ vấn đề nghiêm trọng chứ không đơn giản. Họ tranh giành nhau mức “cao – thấp” về chức quyền. Ngày nay vấn đề này có lẽ còn “dữ dội” hơn nhiều, nhất là trong một xã hội coi trọng hình thức và vật chất như Việt Nam.

Lúc đó có lẽ Chúa Giêsu rất buồn khi thấy các đệ tử vẫn vướng vòng tục lụy, vẫn nặng danh lợi như vậy. Ngài ngồi xuống rồi gọi các môn đệ lại và nói: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” Ngài đề cao đức khiêm nhường. Ý tưởng của Ngài hoàn toàn trái ngược với chúng ta. Sau đó, Ngài đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.” Một chuỗi hệ lụy thật lạ lùng biết bao!

Khi đó ông Gioan nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” Nhưng Ngài nói ngay: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”

Có hai vấn đề. Thứ nhất là lớn – nhỏ, hoặc cao – thấp: Muốn làm đầu thì phải hạ mình thành rốt hết. Thứ hai là thuận – nghịch: Không chống lại là ủng hộ. Động thái của chàng trai trẻ Gioan nhắc nhở chúng ta chớ ảo tưởng: Đừng nghĩ hơn người khác về bất cứ lĩnh vực nào. Vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Tự đề cao mình là coi thường người khác. Đó là mạo nhận, là kiêu ngạo! Tương tự, “khoảng cách” giữa TIN và TƯỞNG rất mong manh: TIN mình được Chúa yêu thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG mình được Chúa yêu thì lại là kiêu ngạo. Đó là đối lập với Đức Kitô, Đấng hiền hậu và khiêm nhường. (Mt 11:29) Thiên Chúa luôn hạ bệ những kẻ tự cao và nâng cao mọi kẻ khiêm hạ. (Lc 1:52; Hc 10:14; 1 Sm 2:7; Tv 147:6; Is 2:12, 17; Is 13:11; Ed 17:24; Ed 21:34)

Khiêm nhường thuộc về Thiên Chúa, kiêu ngạo thuộc về Satan. Thánh Philip Neri nói: “Đức khiêm nhường là người bảo vệ đức thanh sạch. Trong vấn đề thanh sạch, không có nguy hiểm nào tai hại hơn là thái độ không sợ nguy hiểm. Khi một người tự đặt mình vào dịp tội và tuyên bố mình không sa ngã, đó là dấu hiệu gần như xác thực rằng kẻ ấy sẽ sa ngã, với một thương tích trầm trọng cho linh hồn.” Và Thánh Piô Năm Dấu cho biết: “Khiêm nhường, khiêm nhường, và luôn luôn khiêm nhường. Satan sợ hãi và run rẩy trước những linh hồn khiêm nhường. Chúa sẵn lòng thực hiện những việc lớn lao, nhưng với điều kiện là chúng ta phải thực sự khiêm nhường.”

Cái bẫy của ma quỷ rất tinh vi. Thánh Augustinô nói: “Ma quỷ thường dùng hai cách lừa dối: Khi người ta chưa phạm tội, nó dụ dỗ người ta cậy vào lòng thương xót của Chúa mà phạm tội; khi người ta đã phạm tội, nó xúi giục người ta sợ hãi phép công thẳng của Chúa mà ngã lòng trông cậy.” Còn Thánh Catherine Bologna phân tích: “Đôi khi ma quỷ xúi giục các linh hồn ham hố một nhân đức hoặc một việc đạo đức nào đó đến lạ kỳ, để họ thực hiện việc ấy cách cuồng nhiệt, rồi nó làm họ đâm ra chán nản đến độ chểnh mảng với mọi sự vì mỏi mệt và ngao ngán. Chúng ta cần phải thắng vượt cả chiếc bẫy này lẫn chiếc bẫy kia.”

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con luôn làm theo Thánh Ý Ngài bằng mọi giá, không thỏa hiệp với ma quỷ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

NÊN MỘT TÌNH YÊU

Lm. Jos DĐH.

Ăn ngon mặc đẹp, né tránh được khổ đau, sống vui sống khoẻ, có ai cấm chúng ta mơ ước như thế không ? Bậc hiền tài biết ý thức: văn ôn võ luyện, đấng bậc sinh thành sống tốt, sống gương sáng cho con cháu, những học sinh chăm ngoan, trau dồi kiến thức, hẳn đó phải là khao khát chính đáng. Cho dù con người giới hạn đủ điều, nhưng ai cũng có cơ hội để vươn lên, hãy nghe để hiểu, hãy biết mình được yêu thương, để sống tốt, sống đúng, sống đẹp. Người ta không gieo trồng tri thức khi còn trẻ, làm sao có bóng râm lúc về già ! Con đường đến thành công, không thể có bước chân kẻ lười biếng. Sợ già, sợ xấu, sợ ốm đau bệnh tật, sợ chết, đó không phải là tội, chúng ta sẽ bị quở trách, khi sống vô kỷ luật, chưa có ý sẽ làm điều lành xa điều xấu.

Người xưa cho rằng: cha mẹ giầu thì con có, cha mẹ khó thì con không, thực tế thì gia đình, xã hội, đang huấn luyện nên những con người có tâm có tầm, hầu xây dựng đất nước quê hương phồn thịnh. Thầy tài giỏi đức độ, trò sẽ tiếp thu được những lời hay ý đẹp, nhân loại mới hy vọng nhìn thấy một tương lai: người người, nhà nhà, hạnh phúc. Hành trình Thầy trò Đức Giêsu đi Giêrusalem, để lại cho chúng ta nhiều nghịch lý: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Lẽ nào Đức Giêsu quyền năng, lại sẵn lòng để người ta bắt trói, tại sao Đấng đã từng làm nhiều phép lạ, chữa trị đủ thứ bệnh cho muôn dân, rồi sẽ chấp nhận để người ta giết chết ? Vâng, Đức Giêsu là hiện thân lòng thương xót, là tình yêu cứu độ, ta luôn có tự do, có sứ mạng riêng, hãy bày tỏ niềm tin của mình.

Thánh sử Marcô cho rằng, các môn đệ hôm đó vì không hiểu, vì sợ, mà không ai dám hỏi, hoặc thắc mắc về điều Thầy vừa truyền dạy. Nếu hiểu các môn đệ theo nghĩa tiêu cực: chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, chưa thấy chết chưa sợ. Nếu hiểu theo cách tích cực: các ông rất khôn ngoan, biết đánh lừa cảm giác, nói chuyện thực tế về quyền bính, về chức vụ lớn nhỏ, làm vơi đi nỗi sợ hãi trước sứ mạng theo Thầy. Đồng ý rằng, con người có sinh, ắt có tử, đó là quy luật; kẻ ngu dốt, phải nhận lấy khổ đau, sự chết, là do bê trễ, thiếu cố gắng, là không tin vào lòng tốt của cha mẹ và người thân. Đau khổ thập giá là điều kiện trở nên môn đệ Đức Kitô, khiêm tốn phục vụ minh chứng ta là học trò Đức Kitô, tất cả đều tuỳ thuộc vào tình yêu ta lãnh nhận và chia sẻ.

Nên một tình yêu, là sức mạnh của liên đới hiệp thông, là “kháng thể” giúp ta thắng vượt thứ viêm nhiễm kiêu căng, biết xả thân phục vụ theo ơn gọi đặc biệt của mình. Ở trong Đức Kitô, người môn đệ sẽ hiểu: con đường tới vinh quang, phải trải qua thập giá, tình yêu chân chính không thể bị bào mòn bởi thời gian, cũng không bị lung lay bởi hoàn cảnh. Nên một tình yêu, nên một trong Đức Kitô, không phải là tìm cách né tránh khổ đau, sự chết, cũng không phải cậy dựa vào sự thông thái của mình để tìm đến vinh quang, đúng hơn, hãy khiêm tốn đặt trọn niềm tin nơi Thầy Giêsu. Tất cả mọi người muốn đến với nhau, đều phải bước đi trên đôi chân của mình, không thể nhờ ai bước thay ta, tất cả muốn trở nên môn đệ Đức Kitô, phải tự bỏ mình, sống tín thác vào tình yêu Giêsu.

Nên một tình yêu, nên một với khổ đau thập giá Đức Kitô, không phải là lời mời gọi nên một trên lý thuyết môi miệng, đúng sai, chức quyền hay dân đen, tất cả đều có chung sứ mạng sống vâng phục thánh ý Chúa Cha. “Ai muốn làm lớn, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Làm lớn, làm người đứng đầu, đâu phải là ăn trên ngồi chốc, nhưng phải là người hầu hạ, phục vụ, hết mình vì tình yêu, chỉ khi có tình hiệp thông với Đức Kitô, ta mới thực sự là môn đệ của Thiên Chúa yêu thương. Ngày hôm nay, Đức Giêsu sẽ không chỉ đưa ra hình ảnh em bé mà nhắc nhớ ta đón nhận chúng, Ngài sẽ còn lưu ý ta về người già neo đơn, về hoàn cảnh túng nghèo đang sống sát gần chúng ta.

Nên một tình yêu, còn gọi là nên một gia đình nhân loại trong yêu thương, muốn trở nên môn đệ Đức Kitô, không phải chỉ lưu ý tập luyện, được người ta gọi là linh mục tu sĩ là đủ. Người học trò Đức Giêsu, phải thực hành đức ái kitô, phải khao khát nên giống Thầy Giêsu trong tinh thần khiêm tốn phục vụ. Tình yêu thương là chìa khoá mà Đức Giêsu hoá giải khổ đau thập giá, sự chết, hoàn thành sứ mạng cứu độ nhân loại, hiệp thông liên đới niềm vui nên một trong tình yêu Ba Ngôi. Nên một tình yêu, là trở nên môn đệ, trở nên cộng tác viên thực sự cho việc gieo trồng niềm tin, xây dựng nền móng vững chắc của vương quốc yêu thương hiện tại và tương lai. Muốn được trở thành môn đệ Đức Kitô, người ta không thể ngồi một chỗ đời chờ cơ hội, dù tiền nhân có nói: thời thế tạo anh hùng. Giầu sang nghèo hèn, khổ đau thập giá, không phải đó là lỗi tội, đôi khi vì hoàn cảnh, có thể cản trở người anh chị em mình không thể phát huy được tinh thần nên một trong tình yêu Giêsu. Xin tình yêu Chúa, giúp mỗi người luôn biết sống tín thác với Đấng là Thầy là Chúa, sống nhạy cảm hơn với ơn ban mà mình đang có. Amen.

Về mục lục

THIÊN VỊ

Lm. Trần Việt Hùng.

Sống chung trong một xã hội, con người không tránh khỏi những va chạm, ganh tị và cãi vã. Con người mang tính ích kỷ trong mình và luôn mong muốn được hơn người khác. Người ta bon chen đua đòi hơn thua về mọi khía cạnh cuộc sống cả về tinh thần lẫn thể xác. Tranh dành về quyền thế, địa vị, danh vọng, tiền bạc và về thành qủa công ăn việc làm. Điều gì tốt đẹp và có lợi ích cũng có kẻ ham muốn chiếm đoạt. Kẻ sống trong lầm lạc, tự do và bất công thì thù ghét những người công chính và ngay thẳng. Họ ghen tị người khác chỉ vì họ yêu thích lối sống tầm thường theo bản năng.

Nhiều người chạy theo những đòi hỏi tạm thời mau qua chóng hết để thỏa mãn cuộc sống. Họ sống buông thả đi ngược lại với luân thường đạo lý. Họ ghét bỏ những người dám lên tiếng trách cứ hành động sai trái và lầm lạc của họ. Những người sống vô kỷ luật thì không muốn nhắc đến luật lệ vì lương tâm của họ có thể sẽ bị cắn rứt nhức nhối. Họ cũng không muốn ai nhắc bảo điều hơn lẽ thiệt vì có thể sẽ mất đi những hương vị ngọt ngào và dễ dãi của kiểu sống hưởng thụ. Tâm hồn của những kẻ gian ác chứa đầy những mầm mống của thù hận, ghen ghét và hủy hoại. Nếu không biết thức tỉnh, những sự thôi thúc nội tâm của bản năng thú tính sẽ đưa đẩy và kéo lôi con người vào sự dữ. Chúng ta không thể tưởng tuợng sự hung dữ cực kỳ của con người có máu lạnh.

Theo lời dạy của thánh Giacôbê tông đồ: Thật vậy, ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa (Gc 3, 16). Khi cái ác chiếm ngự tâm hồn thì con người giống như những con quái vật. Họ mất đi tính người mà hành động theo thú tính, thực tình mà nói dữ hơn thú dữ. Chúng ta không thể hiểu điều gì đã thôi thúc cháy lửa trong lòng để họ phải hành động dã man như thế. Người ta gọi họ là những người say máu hay khát máu. Khi lương tâm một người bị cuồng say và sa đọa, người đó có thể làm bất cứ điều gì. Sự thiện và sự ác, tình yêu cũng như hận thù, nếu không được khơi dậy, dưỡng nuôi và chăm tưới, nó sẽ lụi tàn. Càng gây hận thù thì lửa hờn ghen báo thù càng mạnh. Chúng ta đừng thêm dầu vào lửa.

Chúa Giêsu dám đối diện với sự thật vì chỉ có sự thật mới có thể giải thoát. Chúa đã từ từ mạc khải cho các môn đệ về đường đi lối bước của Chúa. Chúa chọn con đường khởi từ thấp đi lên và con đường chông gai khổ đau để đạt tới vinh quang. Đối diện cái chết, thường thì ai cũng tránh né và sợ hãi. Mấy ai dám nói đến sự chết của riêng mình. Vua chúa trần gian tìm mọi cách để bảo vệ sự sống và vương quốc của riêng mình. Họ lo xây dựng và tìm đạt vinh quang qua sự hy sinh của thuộc hạ và toàn dân. Trong khi Chúa Giêsu chọn một con đường khác biệt, con đường thánh giá. Không mấy ai muốn hiến thân đi vào con đường này.

Chúa lại chọn con đường khiêm hạ và đau khổ thập giá để đến với nhân loại. Chúa đi con đường khổ hẹp cốt để thuyết phục nhân tâm. Chúa đã hạ mình xuống tận đáy vực thẳm để cảm thông những cùng cực của kiếp người. Chúa dẫn dắt con người vào chính lộ của niềm vui phục vụ và bác ái. Niềm vui tự tại trong tâm hồn. Muốn theo Chúa, chúng ta phải vác thánh giá hằng ngày mà theo. Thánh giá chính là những sự vui buồn và sướng khổ của cuộc sống. Chúng ta vui nhận cuộc sống vô thường này với tất cả ý thức và sự trân qúi. Không có điều gì tốt lành mà chúng ta đã thực hiện mà không sinh ích. Việc tốt sẽ sinh trái tốt. Chấp nhận mọi sự cố xảy đến trong đời với sự bình tâm và thanh thản. Chọn lựa thái độ sống là của chúng ta và không có sự gì có thể làm khó chúng ta.

Hoa trái của sự khôn ngoan là sự hài hòa, tha thứ, bao dung và hợp nhất. Người ta thường nói: Người đầu bạc thì khôn ngoan. Muốn nên hoàn thiện, chúng ta phải kinh qua thử thách như lửa thử vàng, gian nan thử đức. Càng trải nghiệm qua nhiều đau khổ, chúng ta càng có nhiều kinh nghiệm sống và khôn ngoan đối xử. Gian khổ là nấc thang giúp chúng ta bước lên, tiến tới, gạn bỏ đi những lầm lỗi và nết hư tật xấu. Bất cứ nhân đức nào cũng cần phải tu luyện, tập tành và bồi dưỡng hằng ngày.

Chúa Giêsu đã loan báo sự đau khổ, sự chết và sống lại. Chúa đã từng trải tất cả những biến cố đau thương và chết cách nhục nhã trên thánh giá. Từ trên thánh giá nguồn ơn phúc đổ tràn. Chúa tha tội cho mọi người xúc phạm đến Chúa. Chúa mở cửa thiên đàng đón nhận kẻ biết ăn năn hối cải. Chúa giao hòa giữa Thiên Chúa Cha và loài người cùng ban ơn cúu độ cho nhiều người. Thánh giá đã trổ hoa.

Lạy Chúa, Chúa đã đi qua tất cả các chặng đường khổ đau qua sự chết tới sự sống lại. Xin cho chúng con biết kết hợp những sầu khổ vào thánh giá của Chúa, để những khổ đau biến thành những hoa trái của niềm hoan lạc và hạnh phúc muôn đời.

Về mục lục

 

SỰ GHEN TƯƠNG

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến xung đột trong cuộc sống, đó là sự ghen tương. Ghen tương cũng giống như một thứ nghiện. Những người ghen sau cơn giận đều biết mình sai trái, đều xấu hổ với hình ảnh xấu xí của mình, đều ân hận vì đã làm tổn thương những người xung quanh, thế nhưng khi “cơn nghiện” đến họ lại không làm chủ được bản thân. Ghen tương làm cho con người mù quáng, mất hết minh mẫn, và bỗng chốc trở thành tội phạm, gây tổn hại nghiêm trọng đến sinh mạng và tài sản của người khác, đến khi tỉnh ngộ thì đã quá muộn.

Thánh Giacôbê hôm nay nói đến sự ghen tương giữa các thành viên trong cộng đoàn tín hữu (Bài đọc II). Theo tác giả, ghen tương và tà ý là nguyên nhân gây nên mọi điều xấu xa. Điều tác giả đề cập, vẫn tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, kể cả trong những cộng đoàn đức tin. Ghen tương đến từ việc người ta không bằng lòng với khả năng và vị trí của mình. Cũng có khi vì thấy người khác thành công, nền muốn “dìm hàng” phê phán và hạ bệ người khác.

Tác giả sách Khôn ngoan ghi lại những lời hằn học ghen tương của những người mà ông gọi là “phường vô đạo” (Bài đọc I). Họ ghen tức với những người sống ngay chính, và những người không a dua theo thói sống mưu mô của họ. Họ bàn mưu tính kế để kết án và giết chết người công chính. Các nhà chú giải Kinh Thánh, dưới nhãn quan Kitô giáo, đã nhận ra đây là hình ảnh của Đức Kitô khổ nạn. Người đã cam lòng chịu chết cách bất công, để nêu gương bài học khiêm nhường, kiên nhẫn và phó thác nơi Thiên Chúa, như chúng ta sẽ thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.

Các môn đệ là những người đã theo Chúa ba năm, mà vẫn không tránh khỏi thái độ chèn ép ghen tỵ. Thánh Mác-cô đã làm độc giả ngạc nhiên khi ghi lại cuộc tranh cãi của các môn đệ xoay quanh đề tài “ai sẽ là người lớn nhất” ngay sau khi Chúa Giêsu tiên báo cuộc khổ nạn thập giá. Người ta đặt câu hỏi: làm sao các môn đệ lại vô tâm trước những điều Đức Giêsu vừa nói? Thì ra, kể cả lúc Chúa tiên báo cuộc khổ hình đau thương mà Người sắp trải qua, các ông vẫn còn mơ về thời thiên sai theo nhãn giới phàm tục. Vì vậy, nghe Chúa nói về việc Người sẽ bị bắt bớ và bị giết, các ông “không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người”. Dường như trong đầu các ông, băn khoăn xem ai là người lớn nhất còn đáng quan tâm hơn cả những gì Thày mình vừa nói về cuộc đau khổ và về thập giá.

“Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Đó là lời khẳng định của Chúa, cũng là bài học Chúa muốn dạy cho các môn đệ. Chính Chúa đã thực hiện nơi bản thân Người bài học này. Là Thiên Chúa uy quyền cao sang, Chúa Giêsu đã hạ mình mặc lấy thân phận con người để sống cùng và sống cho con người, nhằm mưu cầu hạnh phúc của họ. Qua hình ảnh một em bé, Chúa muốn khẳng định, những ai muốn theo Người cần phải sống đơn sơ, phó thác để có thể trở nên môn đệ đích thực của Người. Lý tưởng của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với lối suy nghĩ thông thường của con người. Ở đời, ai cũng muốn nổi hơn người khác về mọi phương diện. Nếu thấy người bên cạnh hơn mình thì họ ghen tương, thậm chí tìm cách gài bẫy để loại trừ. Chúa Giêsu cũng đã là nạn nhân của sự ghen tương của con người, và Người đã phải chết trên thập giá.

“Người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình” – lời khẳng định của Thánh Giacôbê cho thấy, những gì chúng ta làm với thiện ý và với trái tim chân thành, sẽ đóng góp xây dựng hòa bình nơi trần thế, đồng thời làm cho Vương quốc vĩnh cửu được hình thành ngay trong hiện tại. Giữa cơn bão hưởng thụ của cuộc sống hôm nay, người ta ngại dấn thân, chỉ biết sống cho mình. Những khái niệm “phục vụ” được quảng diễn khắp nơi, nhưng đó là thứ phục vụ nhằm tới lợi nhuận. Phục vụ theo tinh thần của Chúa Giêsu, đó là đón nhận thập giá trong đời sống, và vác đỡ thập giá cho anh chị em mình. Tuy vậy, thập giá không phải chặng đường cuối cùng của Chúa Giêsu, trong sứ mạng cứu độ trần gian. Chính Người đã loan báo sự kiện phục sinh, sau khi chịu khổ nạn. Những đau khổ của chúng ta có thể được biến thành ân phúc, nếu chúng ta đón nhận với tinh thần hy sinh mến Chúa yêu người. Nếu chúng ta biết san sẻ cho nhau gánh nặng cuộc đời, sức nặng của thập giá sẽ bớt đi, đau thương sẽ biến thành niềm vui, thập giá sẽ nở hoa, niềm vui phục sinh sẽ rạng rỡ nơi cuộc đời.

“Lòng ghen tuông giống như muối trong thức ăn: một chút có thể tăng thêm vị, nhưng nhiều quá có thể làm mất ngon, và, trong một số trường hợp nào đó, có thể nguy hiểm đến tính mạng” (Sưu tầm).

Về mục lục

.

CÙNG MỘT CHỮ GANH

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Ở đời tiến hay lùi cũng bởi một chữ “ganh”. Ganh đua sẽ giúp ta thăng tiến nhưng ganh tị sẽ hủy hoại danh dự của ta. Ganh đua là cạnh tranh để giành lấy phần thắng, phần hơn một cách lành mạnh và chính đáng. Ganh tị là cảm giác tức tối với người khác vì những gì họ có như tài sản, sự thịnh vượng, lợi thế v.v. nhưng không dừng lại ở cảm giác muốn được bằng người khác mà còn muốn đạp đổ của họ.

Xem ra ở đời người ta ganh tị với nhau nhiều hơn. Vì ganh tị mà người ta có thể làm hại lẫn nhau gây nên những bể dâu sóng gió cho cuộc đời. Ngay cả vườn địa đàng năm xưa đã không còn bình an khi lòng ganh tị xâm chiếm ông bà nguyên tổ. Họ không chỉ muốn bằng Thiên Chúa mà còn đòi loại trừ Thiên Chúa. Hậu quả là con người phải đau khổ và cái chết đã đến với kiếp người chúng ta. Sự ganh tị của ông bà đã để lại cho con cháu những bài học quý giá nhưng rồi dường như chẳng ai muốn học cả. Đơn giản bởi lẽ con người vẫn mãi mãi ganh tị lẫn nhau.

Điều đáng buồn là sự ganh tị lại xuất hiện ngay trong hàng ngũ những môn đệ của Chúa Giêsu. Trên đường đi loan báo Tin Mừng nhưng rồi các ông đã sống sai Tin Mừng và xa rời Tin Mừng yêu thương mà Thầy Giêsu đang muốn gửi đến cho nhân loại, và qua các ông để đến với muôn dân.

Theo lẽ thường, khi các môn đệ đã nhắm đến chỗ cao, chỗ hơn thì chính trong nội bộ đã gây chia rẽ với nhau rồi. Và khi nội bộ của những người loan báo Tin Mừng gây chia rẽ thì tiếng nói của Lời Chúa, những lời rao giảng về Chúa sẽ chẳng hoán cải được ai.

Có thể nói sự ganh đua và ganh tị vẫn song hành với nhau, và đôi khi hòa lẫn với nhau. Điều đó đã làm cho con người dễ nổi nóng với nhau hơn. Vì tham quyền cố vị mà ta biến đoàn hội, biến giáo xứ thành chiến trường tranh dành quyền lực và đồng tiền. Chính vì sự ganh tị mà người ta hành xử với nhau có khi không còn là tình người, là tính người mà chỉ còn sự loại trừ lẫn nhau.

 Nhìn vào những gì đang diễn ra nơi cộng đoàn và giáo xứ chúng ta thấy có quá nhiều người tham quyền cố vị. Họ cần địa vị, cần có chức, có quyền để “ăn trên ngồi trốc” thiên hạ. Họ đua nhau leo lên đài cao danh vọng để hưởng những đặc quyền, đặc lợi mà chức tước sẽ mang lại cho họ. Vì quyền, vì lợi mà biết bao người đã chẳng ngại lừa thầy, phản bạn, sống vô ơn, phản phúc. Vì bổng lộc mà biết bao người đã chẳng sợ đánh mất nhân phẩm của mình để chà đạp người dưới và luồn cúi cấp trên. Có mấy ai sống vị tha, sống quên mình vì lợi ích đồng loại?

Năm xưa, Chúa Giêsu đã rất đau buồn khi nghe các môn đệ thân tín của mình kèn cựa nhau chỗ thấp chỗ cao. Nỗi lòng của Thầy, các môn sinh đâu muốn chia sẻ. Thầy quên mình vì lợi ích nhân sinh. Trò lại lo vinh thân phì gia. Thầy đang đi dần đến đỉnh cao của hiến tế để cứu độ nhân loại, các môn sinh lại tìm kiếm vinh hoa phú qúy trần gian.

Chúa Giêsu đã không ngần ngại đặt thẳng vấn đề với các môn sinh: “Dọc đường anh em bàn tán điều gì vậy?”. Các ông im lặng làm thinh. Im lặng vì có mấy ai trong lòng không chứa đầy những toan tính vụ lợi! Có mấy ai thanh sạch lòng ngay trước danh vọng mà các ông tưởng chừng như sắp đến tay mình? Im lặng để lắng nghe. Lắng nghe lòng mình để thấy rằng tính tham sân si vẫn còn đó sau bao ngày tháng theo Thầy tầm đạo. Lắng nghe lời Thầy giáo huấn để sửa đổi và bước đi theo gương Thầy chí thánh đã đi.

Chúa buồn nhưng không trách mắng. Chúa mời gọi các ông: “ai làm lớn hãy hết mình phục vụ”. Phục vụ với thái độ như một người đầy tớ. Phục vụ không phân biệt sang hèn. Đỉnh cao của phục vụ là không toan tính theo kiểu “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Chúa Giêsu dùng hình ảnh trẻ nhỏ để tượng trưng cho những con người tay trắng, yếu đuối và chắc chắn không có gì để đền ơn đáp nghĩa. Họ mới cần chúng ta giúp đỡ. Họ mới thực sự có nhu cầu để van xin lòng tốt của chúng ta. Chúa còn đồng hoá họ đến nỗi ai tiếp đón họ là tiếp đón chính Chúa. Và ngược lại, ai từ chối họ là từ chối chính Chúa.

Có lẽ cuộc đời sẽ hạnh phúc hơn khi mỗi người biết từ bỏ tham sân si, để sống bác ái vị tha. Cuộc đời sẽ hết khổ đau bởi ganh ghét, tị hiềm và nhân loại sẽ cùng đan tay nhau xây dựng một thế giới đầy yêu thương. Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết dùng khả năng, địa vị Chúa ban để phục vụ lẫn nhau trong yêu thương chân thành.

Nguyện xin Chúa là Đường dẫn dắt chúng ta bước đi trên con người mà Chúa đã đi để mỗi ngày chúng ta được trở nên giống Chúa hơn. Amen

Về mục lục

.

CON NGƯỜI CHỊU NHIỀU ĐAU KHỔ

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Đang khi con người đi tìm giải thoát khỏi đau khổ ở cuộc đời này, Chúa Giêsu lại loan báo Con Người sẽ chịu nhiều đau khổ, bị bắt, chịu sỉ nhục, chịu chết sau cùng sẽ sống lại. Chẳng thể hiểu và chấp nhận được, Phêrô đã thưa với Chúa: “Làm sao có chuyện ấy được?” Câu trả lời của Chúa vẫn là một cương quyết: “Vác thập giá mình mà theo Chúa!”.

Thập giá, đau khổ.

Chẳng ai muốn đau khổ và thập giá. Đó là điều bình thường, vì sống trong trần thế này đâu phải là để đau khổ mà là hạnh phúc, sung sướng. Con người đi tìm cho mình hạnh phúc, sung sướng ở đời này, nên con người cố gắng tranh thủ thời gian sống để có được nhiều điều kiện nhất để sống sung sướng.

Thông thường những hưởng thụ, hưởng lạc của người này là dựa trên những đau khổ của người khác, như trong lời bài hát: “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ về phần ai” (một đời người, một rừng cây, Trần Long Ẩn”. Chẳng ra khỏi những đau khổ nhưng có thể dừa những đau khổ cho kẻ thấp bé, nghèo hèn.

Đau khổ là một phần lớn trong cuộc sống. Sống bi quan, chỉ nhìn vào những đau khổ, con người sẽ sống yếm thế, cố tìm đường trốn thoát nó bằng nhiều con đường đào thoát. Bằng những con đường khổ chế để diệt thân, diệt dục, bằng những con đường hưởng thụ, khoái lạc, chìm đắm trong ma túy, thuốc an thần… Ra khỏi cũng lại phải trở về để đối diện với đau khổ và càng cảm thấy khổ đau hơn, không giải quyết gì được.

Đi tìm một cứu chúa như lòng mình mong ước, một cứu chúa sẽ giải thoát cho khỏi những tai ương, hoạn nạn, áp bức, bóc lột. Một cứu chúa mang lại an bình toàn phần để mọi người được sống yên vui, nhàn hạ, không nhọc nhằn. Ngay Phêrô và các môn đệ cung mong một đấng cứu thế như vậy. Chẳng có vị chúa nào được thế cả. Chúa Giêsu là một con người giữa trần gian, một Thiên Chúa đã làm người, sống như con người, cũng chịu nhiều đau khổ, bị ghen ghét, tẩy trừ và bị giết chết. Chỉ có một điều Chúa Giêsu là Đấng không có tội như con người.

Con đường giải thoát của Chúa.

Đó là con đường vác thập giá mình mà theo Chúa. Không thể trốn tránh, con người cần có một nghị lực can đảm, một sức mạnh trưởng thành, một ý chí lành mạnh để đương đầu với khó khăn, đau thương trở ngại,. Khi dám đương đầu, con người mang theo những suy nghĩ tích cực. Xa điều gian dối, ru ngủ, sống vững mạnh qua đau khổ.

Con đường giải thoát là con đường chiêm niệm và hành động. Chiêm niệm trong những giờ thinh lặng để kín múc nguồn sức mạnh siêu nhiên, đổ rỗng để được đong đầy chính Chúa. Thinh lặng chiêm niệm cũng là phương thuốc tiêu diệt những toan tính và dự tính riêng thuộc con người, để  Ý muốn của Thiên Chúa được thể hiện.

Giải thoát cũng chính là đồng hảnh. Con người không bao giờ cô độc nếu đã kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa. Chúa đã làm người, trong mọi nỗi khốn khổ, gian truân, những khinh miệt hoặc những lúc tưởng chừng bị bỏ rơi. Luôn có Chúa là Đấng âm thầm theo từng bước chân con người đi trên mọi nẻo đường, miễn là người lữ hành có lòng yêu mến Chúa. Còn nhớ câu hỏi sau khi Chúa sống lại, hiện ra và hỏi Phêrô: “Anh có mến Thấy không” (Ga 21, 17). Dù tình yêu ấy nhỏ bé nhưng cũng đủ để cho Chúa luôn hiện diện ở bên.

Con người đến để phục vụ.

Khi lòng mến Chúa được thấm nhuần, người môn đệ mới thấy những sự thúc giục từ bên trong tâm hồn làm nên những hành động, khiệm nhường và phục vu vô vị lợi. Một trái tim biết yêu thương như Chúa đã yêu thương: bênh vực kẻ nghèo hèn, quảng đại với anh chị em, giảm áp lực nhiều mặt cho người khác. Tạo nên những thước đo giá trị, công bằng, bác ái, yêu thương.

Con người có thể chịu nhiều đau khổ nếu như biết rằng “Ơn Ta đủ cho ngươi” (2 Cor 12, 9) và gánh nặng đau thương đó không chỉ là riêng mình mà còn là của anh chị em, những con người đang đau khổ, nghèo khó bên cạnh cuộc sống của ta.

Giải thoát thực sự chỉ có ý nghĩa khi chính mình trở nên con người hiền hậu, khiêm nhường, sống và mang bình an cho người khác. Chia sẻ trong một niềm vui là chính Chúa cho mọi người, an bình và hạnh phúc đích thật chỉ có thể đến từ Chúa.

Về mục lục

.

NGƯỜI LỚN NHẤT

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Chúa Giêsu nói :” Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người “. Chúa quan niệm làm lớn làm bé trong Vương Quốc của Ngài hoàn toàn khác với cách phân chia quyền bính của con người. Ngài giải thích tiếp:” Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy là đón tiếp chính mình Thầy “ ( Mc 9, 37 ).

Tinh thần mà Chúa Giêsu dạy các môn đệ và mọi người chúng ta là “ Ai muốn làm lớn nhất hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người “ ( Mc 9, 35 ). Thật vậy, cái cám dỗ lớn nhất của con người là muốn thống trị, muốn lãnh đạo đạo người khác. Người ta hơn nhau tiếng nói, hơn nhau địa vị, danh tiếng vv…Chúa Giêsu có quan niệm khác hẳn với cách suy nghĩ của con người. Cám dỗ về quyền bính và làm lớn cũng đã xẩy ra ngay từ thời các tông đồ, giữa các môn đệ. Bởi vì, vào chính lúc Thầy Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài thay vì tìm hiểu để chia sẻ với ưu tư, với suy nghĩ của Thầy, các môn đệ đã có thái độ ích kỷ, vụ lợi, tranh dành quyền hành với nhau, các ngài tưởng thời lập quốc của Thầy đã tới và vinh quang của các ngài đã ló rạng, sáng ngời.Do đó, các ngài tranh luận xem ai sẽ làm chức này, chức nọ trong Vương Quốc của Chúa Giêsu. Các môn đệ cũng tự cảm thấy ngượng vì tranh cãi nhau như thế bởi khi Cúa Giêsu hỏi dọc đường các con tranh luận với nhau về việc gì, các ngài đã im lặng. Đối với Chúa Giêsu  trong Nước Trời cũng có tôn ti trật tự nhưng là một tôn ti trật tự lạ lùng : Người làm lớn là người hầu hạ kẻ khác, người nhỏ nhất phải là đối tượng để được hầu hạ, phục vụ. Chính Chúa Giêsu tuy là Chúa, là Thầy mà đã làm gương quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Đây quả thực là một cuộc cách mạng lớn về quan điểm của Chúa Giêsu : Người làm lớn phải là người phục vụ, người đi trước và về sau như các Đức Giáo Hoàng thường ký trong các văn bản của các ngài :” Tôi tớ của các tôi tớ “. Người lớn nhất theo Chúa Giêsu là người không dùng quyền hành, địa vị để cai trị, thống lãnh người khác mà dùng đôi tay để phục vụ, để hầu hạ. Người lớn nhất không dùng quyền lực để cai trị nhưng dùng con tim để yêu thương.  Đối với Chúa :” Quyền bính là để phục vụ”.Tự bản chất “ quyền bính’ tự nó là tốt, là cần thiết cho sự an sinh xã hội. Điều quan trọng là biết dùng nó để quyền bính trở nên hữu ích cho con người, cho người khác. Tin mừng của Chúa Giêsu hôm nay vẫn là bài học muôn thuở cho trần gian, cho con người, cho loài người. Quyền bính cần thiết cho sự an bình và trật tự của mọi cơ cấu xã hội và ngay cả Giáo Hội, nhưng bài học đó sẽ hữu ích, và vô cùng cần thiết nếu con người luôn biết noi gương bắt chước Thầy Chí Thánh Giêsu :” Đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ “ “ Ai muốn làm lớn, làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người hầu hạ, phục vụ mọi người “.

Thế giới muôn thời vẫn luôn cần có những người lãnh đạo hiền lành, khiêm tốn, yêu thương và phục vụ. Thiếu những đức tính ấy người lãnh đạo, người đứng đầu sẽ không còn là người lãnh đạo theo gương Chúa Giêsu mà trở thành người lạm dụng quyền bính, tự kiêu và sống giống như người Biệt phái,Pharisêu vv…Bước theo Chúa là noi gương Chúa cúi xuống rửa chân cho các môn đệ và yêu thương các ngài tới cùng, yêu thương nhân loại bằng việc đổ máu trên Thập Giá…

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con biết sống hiền lành, khiêm tốn, yêu thương và phục vụ như Chúa.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Quyền bính theo quan niệm của con người ?

2.Quyền bính có cần không ? Theo Chúa Giêsu :” Quyền bính và người lãnh đạo phải làm sao ?”.

3.Chúa Giêsu đã làm gương nào cho các môn đệ về việc lãnh đạo?

4.Trẻ nhỏ theo quan niệm của Chúa Giêsu ?

Về mục lục

.

DANH VỌNG

Lm. Trần Việt Hùng 

Đi ngang qua xứ Ga-li,

Âm thầm nhắn nhủ, lối đi đường về.

Con Người phải gánh nặng nề,

Vai mang thánh giá, tư bề bủa vây.

Người ta bắt nộp cả Thầy,

Đánh đòn phỉ báng, treo thây chết trần.

Ba ngày sống lại hóa thân,

Vinh quang sự sống, tinh vân rạng ngời.

Môn đồ không dám hỏi Người,

Khổ đau tiên báo, gọi mời dấn thân.

Tông đồ tranh luận công thần,

Ai ngồi chỗ trước, chia phần quản cai.

Chúa thương dậy dỗ sớm mai,

Nêu gương phục vụ, tương lai đích cùng.

Không màng danh vọng uy hùng,

Theo Thầy kiên vững, thiên cung phúc lành. 

Ở đâu có cãi vã và ganh tị, ở đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoan. Khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó thì các môn đệ không hiểu chi hết. Các ông không thể tưởng tượng rằng Chúa Giêsu, thầy của mình sẽ phải chịu mọi sự khốn khổ và phải bị giết.

Các môn đệ còn đang tranh luận xem ai là người lớn nhất trong nhóm. Các tông đồ muốn tránh không bàn luận về sự xui xẻo và chết chóc. Các ông cũng mang tất cả những yếu đuối như chúng ta. Các ông cũng mong có chỗ đứng trong xã hội, cũng mong được có chức, có quyền. Các ông không hiểu đường lối của Chúa.

Chúa Giêsu giải thích về sứ vụ tông đồ: Ai muốn làm lớn nhất thì hãy tự làm rốt hết và làm đầy tớ mọi người. Làm tông đồ của Chúa là để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Các tông đồ ngây thơ không muốn thập giá nhưng muốn được vinh quang. Chúa Giêsu lợi dụng cơ hội này giúp các ông hiểu con đường Chúa chọn khác với con đường hư danh của thế gian.

Tin Chúa là chấp lối Chúa đi. Dám làm nhân chứng cho Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Truyện kể ở Nam Mỹ giữa ranh giới Venezuela và Columbia, tại một ngôi nhà thờ nhỏ vào một sáng Chúa Nhật, khi thánh lễ bắt đầu, một nhóm du kích từ trong rừng đi ra với súng ống kè bên bước vào nhà thờ. Cha chủ tế và mọi người sợ hãi tái mặt. Họ bắt vị linh mục ra khỏi nhà thờ và hành quyết. Trưởng du kích trở lại nhà thờ nói: Ai tin vào Chúa bước ra. Mọi người sợ hãi im lặng.

Hồi lâu, một người đàn ông bước ra và nói: Tôi yêu Chúa Kitô. Ông bị đẩy tới cho nhóm du kích và đem ra ngoài xử bắn. Sau đó mấy người tín đồ khác tiếp tục bước ra và tuyên xưng đức tin. Mọi người đều nghe một loạt súng máy. Khi không còn ai giơ tay nhận mình là người Kitô hữu. Trưởng du kích bước vào và hô: Mọi người bước ra khỏi nhà thờ. Ông nói: Các ông các bà không có quyền ở trong nhà thờ. Rồi họ đuổi mọi người ra khỏi. Họ hết sức ngạc nhiên khi thấy cha xứ và những người khác còn đừng đó. Linh mục và nhóm này được lệnh vào nhà thờ tiếp tục dâng lễ. Còn những người kia nhút nhát sợ hãi không dám tuyên xưng đức tin thì ở ngoài. Thật là ngại ngùng!

Chúng ta theo đạo. Chúng ta tin Chúa. Chúng ta muốn được hưởng vinh quang. Chúng ta có dám làm chứng cho Chúa không ? Chúa phán: Có Thầy đây! Các con đừng sợ.

Về mục lục

.

BƯỚC THEO CHÚA TRONG KHIÊM HẠ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Sau khi biến hình, Chúa Giêsu cùng với các môn đệ từ trên núi xuống tiến về Giêrusalem để sống Lễ Vượt Qua cái chết và sự phục sinh của Người. Trước thảm kịch đau thương đang chờ đợi và iết trước cái chết ở Giêrusalem, đối với các môn đệ, niềm tin cần phải được Chúa củng cổ, Người loan báo cuộc thương khó lần thứ hai cho các ông, nhưng Người nhấn mạnh hơn đến sự đánh bại thần chết vào sống lại vinh quang.

Nhưng các môn đệ nào đâu có hiều, dọc đường tới ở Capharnaum họ vẫn tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất. Câu trả lời của Đấng Cứu Thế từ đó đến nay vẫn làm chúng ta ngạc nhiên : “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mc 9,37). Như thế kẻ lớn nhất sẽ là người phục vụ mọi người và Nước Thiên Chúa dành cho những ai đón nhận các trẻ nhỏ. 

Đoạn Tin Mừng này không phải hai phần khác biệt : phần thứ nhất Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn, phần thứ hai Chúa giáo huấn các môn đệ. Đây chỉ là một diễn từ chúng ta có thể gọi là : “Thập giá của Chúa Giêsu và hậu quả của các môn đệ”. Trở thành đầy tớ, đón tiếp trẻ nhỏ nhân danh Chúa Giêsu là hai hành động mà Chúa Giêsu, nhẹ nhàng nhưng cương quyết dạy các môn đệ phải “thi hành” cùng lúc. Thi hành để bắt chước Chúa Kitô, theo Chúa đến chân Thập giá, và như Chúa, trở nên tôi tớ phục vụ mọi người, “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người “(Mc 9, 35).

Từ ngày Con Thiên Chúa nhập thể bước vào lịch sử loài người sau một chặng đường dài, từ cái nôi Belem để “cái nôi” trên đồi Calvariô ở Giêrusalem, đỉnh cao là (cây Thập giá). Những tiêu chí để đánh giá giá trị và nhân phẩm của con người hoàn toàn đảo lộn : phẩm giá của một người không tùy thuộc vào vị trí người ấy đang có, hay chức vụ người ấy thi hành… Sự vĩ đại của con người không lệ thuộc vào cái làm cho người ta quan trọng, nhưng dựa trên sự phục vụ người ấy làm đối với Thiên Chúa và tha nhân để tỏ bày vinh quang, sự tốt lành và tình yêu của Chúa.

Đón nhận là một phương tiện làm thi hành việc phục vụ này. Thánh sử Marcô dùng động từ ” đón nhận ” vào những dịp khác nhau với cách thức khác nhau, nhưng tất cả đều qui về một mối. Thánh sử nói với chúng ta về thái độ đón nhận Lời Chúa (x. Mc 4,20), đón nhậ Nước Thiên Chúa (x. Mc 10,15). Đón nhận có nghĩa là lắng nghe, sẵn sàng, đón nhận Đấng Vô Cùng trở thành Hài Nhi, đón nhận các trẻ nhỏ còn trong nôi, phản ánh của trời cao.

Đem một em bé đặt giữa các môn đệ, ôm nó, Chúa Giêsu dạy các ông một bài học. Đứa trẻ Chúa ôm lấy là chính Người, vì Người là dấu chỉ Chúa Cha sai đến. Trẻ em là dấu chỉ lòng trắc ẩn của Thiên Chúa và sự vâng phục đầy tình con thảo đối với Con Một Chúa đã trở nên bé nhỏ vì yêu thương và chịu đóng đinh trong sự vâng phục giữa những kẻ gian ác. Hài Nhi ấy đến từ Thiên Chúa ; những lời sau đây của Chúa Giêsu : ( “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy  “Mc 9,37) thật rõ ràng : đứa trẻ đặt giữa các ông là hình ảnh của Chúa Kitô, đồng thời cũng là hình ảnh của người kitô hữu, hơn nữa là hình ảnh của chính Thiên Chúa. Đón nhận trẻ nhỏ nhân danh Chúa Kitô là đón nhận mầu nhiệm của Thiên Chúa.

Tin Mừng hôm nay là một bài giáo lý nhấn mạnh đến nhân tính của Con Thiên Chúa: Chúa Giêsu là Con của loài người. Đó là lý do tại sao cái chết và sự phục sinh của Chúa là những điều cụ thể, có thật. Chúa không trách các môn đệ nhưng giải thích cho các ông về cách thức của người đứng đầu: đón nhận trẻ nhỏ là đón nhận chính Chúa và Chúa Cha (x. Mc 9,37).

Các môn đệ phải khó khăn lắm mới hiểu rằng bước theo Chúa Giêsu đồng nghĩa với việc từ bỏ mình vác thập giá mình mà bước, nên họ sợ. Chúng ta cũng thế, chúng ta sợ hiểu, không phải chúng ta không hiểu, nhưng vì chúng ta không muốn hiểu. Em bé được đặt giữa các môn đệ là dấu chỉ nhiệm mầu tự hủy của một vì Thiên Chúa nộp mình cho con người. Nghĩa cử đón nhận “trẻ nhỏ” chứng thực lòng mộ mến Đấng Vô Cùng đã trở nên Hài Nhi bé nhỏ cho chúng ta và vì chúng ta.

Trong cuộc Thương Khó chúng ta thấy có lòng thương xót. Không có tình yêu nào cao cả và lớn lao hơn là trở nên nhỏ bé và trao dâng chính mình vì bạn hữu, bước lên thập giá và tự hào, như thánh Tông Đồ Phaolô khao khát : “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta “(Gal 6,14). Nhưng khi nói đến thập giá, nó không chỉ là hai miếng gỗ, nhưng là toàn thể loài người. Chúng ta là thập giá của Chúa Giêsu, vì khi dang tay ra, con người được coi như là hình hài của cây thập. Trong thực tế, đó là tất cả tình yêu mà Chúa Giêsu đã chấp nhận khi đến với chúng ta, mang vào thân cho đủ mức để sinh ơn cứu độ đời đời cho chúng ta.

Vì thế, việc theo Chúa luôn đòi con người phải có sự hoán cải sâu xa, thay đổi lối sống và suy nghĩ, mở rộng con tim để lắng nghe và biến đổi nội tâm. Nơi Thiên Chúa không có sự kiêu ngạo, chỉ có yêu thương và ban sự sống. Con người tuy bé nhỏ, nhưng lại khao khát được coi là cao cả, được chiếm chỗ nhất, trong khi Thiên Chúa không do dự hạ mình xuống, trở nên người rốt cùng.

Lạy Mẹ Maria, chúng con tín thác khẩn cầu Mẹ là Ðấng hoàn toàn sống hợp với Thiên Chúa, xin dạy chúng con trung thành theo Chúa Giêsu trên con đường yêu thương và khiêm hạ.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU, GƯƠNG MẪU PHỤC VỤ

Lm. Đinh Lập Liễm

Khi Đức Giêsu loan báo lần nhất cuộc Thương khó và Phục sinh: ”Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại” (Mc 8,31), Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người đến nỗi Đức Giêsu nặng lời quở trách ông: ”Satan, lui lại đàng sau Thầy! vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33). Khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, tư tưởng của Phêrô và của Nhóm Mười Hai hướng tới một nhân vật nổi nang nào đó trong xã hội. Chẳng hạn một chính trị gia có khả năng giải phóng dân tộc khỏi bị lệ thuộc vào đế quốc Rôma.

Đức Giêsu loan báo lần thứ hai về cuộc thương khó và phục sinh: ”Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại” (Mc 9,31). Nhưng các ông không hiểu lời đó và còn sợ không dám hỏi Người. Tại sao lời loan báo không lọt vào tai môn đệ? Điều xẩy ra liền sau đó giúp cắt nghĩa sự kiện. Marcô cho ta thấy các môn đệ bận tâm về điều ngược hẳn lại với cuộc Thương khó của Thầy các ông. Vì thế, trên đường đi Capharnaum, các ông đã tranh cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả trong Nước mà Đức Giêsu sắp thành lập (Mk 89:34).

Marcô kể tiếp: ”Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: ”Dọc đường, anh em đã tranh luận với nhau về chuyện gì vậy? Các ông làm thinh vì khi đi dọc đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả” (Mc 9,33-34).

Các ông chưa học được những bài học của Thầy. Chúa thì nghĩ đến cái chết của mình, còn các ông thì chỉ nghĩ đến “địa vị cao.” Các ông vẫn một mực bám vào quan niệm sai lầm về Đấng Messia. Các ông vẫn tiếp tục mong chờ một “biến cố vẻ vang”, chứng tỏ quyền năng của Đấng Messia, một vương quốc trần gian mà các ông đã tranh luận xem ai là người đứng đầu khi Chúa và các ông thắng thế.

Bị Chúa hỏi bất ngờ, các ông hổ thẹn không dám nói sự thật, các ông ngậm miệng làm thinh. Sau đó Người ngồi xuống với tư cách là một vị tôn sư, Người ôn tồn dạy bảo: ”Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người” (Mc 9,35).

Trong xã hội và tập thể con người, người ta thường tìm kiếm sức mạnh, sự kính nể, uy tín, danh dự và quyền lợi. Đức Giêsu lật đổ nhào tận gốc rễ thứ tự này: người “thứ nhất” trở thành “người sau rốt”, “ông chủ” trở nên “đầy tớ.” Chắc chắn Đức Giêsu đã nói một cách có vẻ khiêu khích và cách mạng.

Nhưng một lần nữa, đó không phải là làm một cuộc “cách mạng” nghĩa là thay đổi “chủ” mà thôi! Ở đây, nhằm đưa ra giải pháp thực sự cho nội tâm con người.

Hervieux giải thích thêm: ”Chúa lấy người rốt hết để đối chọi với người đứng đầu, lấy người đầy tớ mọi người đối chọi với người cai quản. Điều nghịch lý này tất nhiên có nghĩa rõ rệt nhất khi nhìn cuộc đời Đức Giêsu, Đấng đã thực hiện trong bản thân và trong sứ mạng của Người. Người là Đấng cao cả hơn hết đã tự đặt mình vào chỗ rốt hết để phục vụ mọi người (Lc 22:27).

Trong xã hội ai cũng muốn cho thân mình được đề cao, được khen ngợi, được kính trọng. Ai lại không muốn ăn trên ngồi trước, không muốn cai trị người khác, không muốn được người ta hầu hạ? Nói chung, ai cũng muốn tranh dành quyền bính trong tay để bắt mọi người phục vụ mình.

Các màn kịch tranh giành quyền bính đã diễn ra từ xưa. Lúc mới dựng nên loài thiên thần, Luxiphe đã tranh ngôi bá chủ với Thiên Chúa. Thiên Chúa buộc lòng phải tống cổ hắn xuống làm bá chủ hoả ngục. Adong Evà cũng đòi đồng hàng với Thiên Chúa và cũng bị tống cổ ra khỏi vườn địa đàng, đến làm vua trái đất khô cằn và chết chóc.

Đến đây chúng ta phải giải đáp một thắc mắc: Người ta có được phép có CAO VỌNG không? Thực ra cao vọng không là gì sai trái cả. Người Anh có một câu tục ngữ: ”My place is at the top”: chỗ của tôi phải ở trên cao. Đấy là câu tâm niệm giúp kích thích mọi người phải biết sống vươn lên, không được sống tà tà trên ngọn cỏ. Thực vậy, sống là phải biết đặt mục tiêu cho đời mình, làm việc thì phải muốn thành công. Tuy nhiên, cao vọng có thể vượt qua tầm kiểm soát của mình, khiến mình quên hết tất cả mọi sự khác để chỉ còn biết đeo đuổi điều mình mong ước. Bởi đó, chúng ta phải cẩn thận để ý xem những gì mình hy sinh khi theo đuổi cao vọng. Chúng ta có thể hy sinh đời sống gia đình, sự công bình, sự khả ái và thậm chỉ cả cuộc sống của mình nữa. Cao vọng có thể khiến người ta đối xử với người khác một cách bất công và tàn nhẫn. Thế nhưng, dù được lời lãi cả thế gian mà phải đánh mất chính mình thì nào có ích gì? (Lc 9:25).

Các môn đệ tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Các ông chưa học được bao nhiêu từ những giáo huấn của Đức Giêsu. Bởi đó, Đức Giêsu gọi các ông lại và dạy cho họ biết ý nghĩa của việc làm lớn. Đức Giêsu không huỷ bỏ cao vọng, nhưng Ngài định nghĩa nó lại cho đúng. Thay vị cao vọng thống trị người khác, Ngài dạy họ phục vụ người khác. Thay vì cao vọng muốn người khác hầu hạ mình, Ngài dạy họ biết hầu hạ người khác. Như thế điều Ngài lên án không phải là cao vọng mà là cao vọng sai.

Những con người danh tiếng được gọi là vĩ nhân đều có một lý tưởng là phục vụ xã hội. Những nhân vật thực sự vĩ đại, những con người luôn luôn được người đời nhớ ơn vì đã thực sự đóng góp cho đời, là những người đã tự hỏi “Ta phải dùng tài năng mình để phục vụ quốc gia dân tộc mình như thế nào?” Sự vĩ đại của một người không phải là việc người ấy leo được đến tột đỉnh các nấc thang của quốc gia, xã hội, nhưng ở trong sự kiện người ấy sẵn sàng phục vụ quốc gia dân tộc, xã hội, đồng bào mình bất cứ lúc nào và ở đâu. Nhà văn hào R. Tagore cũng có một lý tưởng cao đẹp như thế khi ông nói: ”Khi tôi ngủ, tôi mơ rằng cuộc đời là niềm vui. Lúc thức dậy, tôi thấy rằng cuộc đời là phục vụ. Khi phục vụ, tôi thấy rằng phục vụ là niềm vui.”

Trong thư gửi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô đã làm một bài thánh ca để ca tụng tinh thần phục của Đức Giêsu: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).

Đức Giêsu đã có một tinh thần khác hẳn với tinh thần bình thường của loài người. Bởi vì con người tự nhiên thích ngồi chỗ cao, thích được khen ngợi, thích làm lớn và ưa địa vị quan trọng. Đó là cái tật cố hữu của loài người từ ngày tạo thiên lập địa, chứ không phải chỉ là tật xấu của các môn đệ Đức Giêsu. Tật xấu này trái ngược với tinh thần Tin Mừng. Tin Mừng chủ trương sống khiêm nhường, quên mình, quảng đại, coi mình không là gì hết, bởi vì hễ ai trở nên bé nhỏ trước mặt loài người, kẻ ấy sẽ được đề cao trước Thiên Chúa (Mt 18:4). Lòng khiêm nhượng ở đời này là điều kiện và là mức đo sự cao trọng trong Nước Trời.

Cha Charles de Foucauld, biệt danh là người hùng sa mạc Sahara, trước đây là một viên thượng tá trong quân đội Pháp. Đã từng chỉ huy các đoàn kỵ binh anh dũng rong ruổi ngược xuôi trên lưng ngựa để phục vụ hoàng triều nước Pháp. Foucauld tưởng như vậy là thành công và oai hùng. Nhưng nắm trong tay những tấm huy chương chói lọi, và tai nghe tiếng vó ngựa vang trời, Foucauld vẫn cảm thấy sự trống vắng, vô nghĩa của cuộc đời! Để cho đời mình có ý nghĩa tròn đầy, ông rời quân ngũ, xin vào phục vụ trong một tu viện ở làng Nazareth. Tại đây, Foucauld gánh nước cho từng nhà, nhất là những người già yếu bệnh tật. Rồi Chúa lại dẫn lối cho Foucauld đi tĩnh huấn trong sa mạc để đem Tin Mừng cho người Phi châu. Trong đời quân ngũ, Foucauld không chinh phục được ai, nhưng trong đời tu sĩ, ông đã đem nhiều linh hồn về với Chúa.

Chúng ta sống sau những biến cố đau thương của Đức Giêsu, chúng ta suy niệm, học hỏi những biến cố đó. Thế nhưng sau đó chúng ta vẫn còn tranh giành địa vị lớn nhỏ; tranh giành ngôi thứ trong các giáo xứ còn phản ảnh nơi chúng ta cái tâm trạng của các môn đệ xưa kia. Chung qui cũng tại bản năng muốn ăn trên ngồi trước, muốn thống trị người khác mà thời đại nào cũng thế.

Đức Giêsu đã dạy chúng ta: ”Hãy làm tôi tớ cho mọi người” (Mc 9,35). Đã là tôi tớ thì phải hầu hạ, phục vụ, giúp đỡ. Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ chính mình. Đó cũng là khuôn vàng thước ngọc của Đức Giêsu: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh” (Cv 20,35). Bởi vì, cho tức là trao tặng cho chính mình.

Người Anh có một câu ngạn ngữ tương tự: “Điều tôi tiêu đi thì tôi có. Điều tôi giữ lại thì tôi mất. Điều tôi cho đi thì tôi được.” Tình yêu lớn lên theo mức độ của sự trao ban. Có biết yêu thương con người mới thực sự triển nở và gặp lại chính mình. Có biết yêu thương thì con người mới tìm được hạnh phúc đích thật và một sự bình an trong cuộc sống: “Thành quả của sự thinh lặng là cầu nguyện. Thành quả của sự cầu nguyện là yêu thương. Thành quả của yêu thương là phục vụ. Thành quả của phục vụ là bình an (Mẹ Têrêsa Calcutta).

Bác sĩ Miki trong phim “Vận mệnh” thấy đời mình thất bại nhiều, chồng chết, muốn tự tử. Tình cờ đỡ đẻ cứu sống được cả mẹ con, lúc ấy Miki bừng tỉnh và thấy đời mình còn có ích cho người khác. Miki quyết định đến một hòn đảo xa phục vụ đồng bào với số ngày còn lại. Và Miki đã thực sự thấy mình được hạnh phúc trong phục vụ.

Để kết thúc, chúng ta hãy lắng nghe trong tinh thần cầu nguyện những lời của bác sĩ Albert Schweitzer, một Kitô hữu vĩ đại thời nay, người đã từ giã những phòng hoà nhạc Âu Châu để trở thành một bác sĩ thừa sai phục vụ cho người nghèo khổ ở Phi Châu: “Tôi không biết số phận bạn ra sao, chỉ biết một điều duy nhất là: Trong các bạn, chỉ những ai biết tìm và tìm thấy cách thức phục vụ tha nhân thì mới thực sự được hạnh phúc.”

Về mục lục

.

NGƯỜI CON THỨ

Lm. Nguyễn Thái

Trong giới sưu tầm tranh ảnh nghệ thuật có một câu chuyện được lưu truyền lại như sau: Có hai cha con nhà giầu kia say mê sưu tầm tranh ảnh nghệ thuật quý giá, từ tranh của Picasso tới tranh của Raphael. Trong cuộc chiến tranh, người con đi động viên, và tử trận đang khi anh tiếp cứu một người lính bạn của mình. Người cha rất đau buồn về cái chết của người con yêu quý duy nhất của ông.

Chừng một tháng sau cái chết của con, trước Lễ Giáng Sinh, có một thanh niên trẻ đến gõ cửa nhà ông. Anh ta nói: “Thưa ông, con chính là người lính mà con ông đã hy sinh để cứu mạng sống. Hôm ấy anh đã cứu được rất nhiều người bạn đồng đội. Đang khi anh cõng con trên lưng về nơi an toàn, thì anh bị tử thương. Khi còn sống, anh thường kể cho con nghe về ông. Hôm nay con mang đến cho ông một bức tranh con đã vẽ. Con biết nó không được đẹp lắm, nhưng con tin chắc là con ông rất muốn ông có bức tranh này.”

Người cha mở bức chân dung người con của ông. Ông nhìn chăm chú vào bức tranh. Tất cả cá tính của con ông đã được diễn tả hết nơi đó. Nhạt nhoà nước mắt, ông cám ơn chàng thanh niên và muốn trả tiền cho bức tranh quý này nhưng anh không nhận, vì bức tranh là món quà cho ơn cứu mạng.

Người cha đã treo bức tranh ngay giữa ngôi biệt thự. Tất cả mọi người khách đến thăm ông, việc trước tiên là ông dẫn họ tới chiêm ngắm bức chân dung này, sau đó mới tới những bức vẽ khác. Sau đó, một cuộc bán đấu giá tất cả những bức tranh sưu tầm của ông được tổ chức long trọng. Quan khách giàu sang từ khắp các nơi tụ về với hy vọng mua được một bức nào đó trong bộ tranh sưu tầm quý giá của ông.

Bức tranh người con yêu quý của ông được treo ngay giữa hội trường đấu giá. Ban tổ chức gõ búa tuyên bố: “Trước hết, chúng tôi sẽ bắt đầu cuộc đấu giá hôm nay bằng bức tranh người con của chủ nhân. Ai sẽ trả bức tranh này 200 đô?” Tất cả im lặng! Một giọng nói từ phía sau la to: “Bỏ qua bức này đi! Chúng tôi đến đây vì những bức nổi tiếng!” Người khác thêm vào: “Chúng tôi đã không đến vì bức này. Chúng tôi muốn những bức tranh của Rembrandts và Van Goghs!” Ban tổ chức lại la to: “Người con! Người con! Ai sẽ trả giá người con?” Đám đông la ó, phản đối ồn ào.

Sau cùng một giọng nói từ phía cuối phòng vang lên: “Tôi trả 10 đô cho bức tranh đó!” Đó là ông già làm vườn của hai cha con. Ông rất nghèo, nhưng đó là tất cả số tiền ông có. Ban tổ chức lên tiếng: “Đã có người trả 10 đô! Ai muốn trả 20 đô?” Đám đông lại la ó giận dữ: “Cho hắn bức đó 10 đô đi! Chúng tôi chờ đợi những tác phẩm nghệ thuật thực sự!” Ban tổ chức lại gõ búa tuyên bố: “Một, hai, bán với giá 10 đô!” Một người ngồi ở hàng ghế đầu tiên la lớn: “Bỏ qua đi! Tới phiên bộ sưu tầm!”

Ban tổ chức hạ búa xuống tuyên bố: “Chúng tôi rất tiếc, buổi đấu giá đã kết thúc. Khi chúng tôi được mời đến tổ chức buổi đấu giá này, chúng tôi được cho biết một bí mật  phải giữ kín đến giờ phút này: “Bức tranh người con được đấu giá và ai mua bức tranh này sẽ được thừa kế toàn bộ tài sản gồm tất cả những bức tranh sưu tầm của chủ nhân. Ông già làm vườn mua bức tranh vẽ người con, sẽ được tất cả.”

Câu chuyện trên là dụ ngôn thời nay cắt nghĩa đoạn Phúc Âm, Mc 9: 30-37, của Chúa Nhật 25 Thường Niên. Ai chọn Chúa Con sẽ được thừa kế tất cả. Khi Chúa Giêsu tiên báo về việc Con Người sẽ chịu đau khổ và hy sinh mạng sống vì sự cứu rỗi của nhân loại, thì các môn đệ lại đang tranh luận với nhau xem ai trong số họ sẽ là người cao trọng nhất trong Vương Quốc mà Ngài sẽ thiết lập. Chúa Giêsu dạy cho họ thấy con đường dẫn tới sự cao trọng là con đường từ bỏ mình, khiêm tốn, và phục vụ người khác. Không có con đường nào khác cho bất ai muốn theo Ngài.

Các học giả đã nhận xét thấy rằng trong những câu chuyện của Thánh Kinh đã có một loại kiểu mẫu được ưa thích mà người ta gọi là “khuôn mẫu bé nhỏ hơn” – “the younger child motif”. Họ thấy rằng trong những câu chuyện phải giải quyết giữa hai anh em hay hai chị em, thì hầu như người em nhỏ hơn bao giờ cũng trổi vượt lên như một người anh hùng, một người tốt và được chúc phúc. Chẳng hạn khởi đầu Thánh Kinh với câu chuyện của Ca-in và A-ben, Ít-ma-ên và I-xa-ác, Ê-xau và Gia-cóp, Giu-se và các anh, Đa-vít và các anh, A-đô-ni-gia và Sa-lô-môn, người con hoang đàng và người con trưởng, câu chuyện của Mác-ta và Maria. Thật khó cắt nghĩa tại sao khuôn mẫu Thánh Kinh “bé nhỏ hơn” này lại trở nên có ý nghĩa.

Theo Carl Jung, nhân cách của con người được thành hình bởi hai nguồn năng lực mà ông gọi bằng tiếng Latinh là “senex” và “puer eternis”. “Senex” có nghĩa là người lớn, con cả, anh hai. “Puer eternis” có nghĩa là con bé nhỏ, con trẻ, con út. Xin tạm dịch là năng lực con cả và năng lực con trẻ. Nguồn năng lực con cả, anh hai, thì khôn ngoan, thận trọng và tính toán hơn. Vì có khuynh hướng nhìn xa, thấy trước, nên anh hai thường thận trọng và kỹ lưỡng, nhưng sau cùng chẳng dám hành động gì. Trái lại, người con trẻ, hay con út lại thích mạo hiểm và liều lĩnh hơn. Vì có khuynh hướng thích hoạt động, nên dễ phạm lỗi lầm, nhưng lại có nhiều cơ hội. Người con lớn hay bảo thủ và ý thức về sự an toàn hơn. Người con trẻ lại dễ dãi, dễ sống và sẵn sàng thích nghi với mọi hoàn cảnh. Người con cả có khuynh hướng tranh giành quyền lực và sự thành công hơn. Còn người con trẻ lại có khuynh hướng cộng tác, cởi mở, thích bầu bạn hơn. Người con cả sớm trưởng thành và chịu trách nhiệm hơn, trong khi người con trẻ vẫn vô tư. Trong những đại gia đình, cha mẹ thường di truyền những sinh lực con cả cho người con đầu lòng của họ, và những người con kế sẽ kết thúc bằng việc duy trì thêm những năng lực của người con trẻ.

Từ lý thuyết này Carl Jung tiếp tục suy diễn ra rằng khi một trong hai nguồn năng lực này bá chủ hoàn toàn nhân cách của một con người, sẽ gây hậu quả là nhân cách đó dễ bị chết. Để trở thành một con người là con người thực sự, đầy sinh động, cả hai nguồn sinh lực này phải được cân bằng và hài hòa trong một nhân cách.

Nhìn vào hành động của các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy rằng hành động của họ quá nghiêng về nguồn năng lực của con cả. Đây là lần thứ hai, Chúa Giêsu cố gắng nói rõ cho họ biết về sự đau khổ, sự chết và sống lại đang chờ đợi Ngài ở Giê-ru-sa-lem. Họ không hiểu, mà cũng chẳng chịu hỏi lại: “Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người” (Mc 9:32). Đây chính là đặc tính của con cả. Người con cả luôn tỏ ra tự tin nơi chính mình, không muốn bàn hỏi với ai!

Một yếu tố rõ ràng khác của năng lực con cả nơi họ là: “dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất” (Mc 9:34). Điều này chứng tỏ rằng họ liên hệ và làm việc với nhau dựa trên sự cạnh tranh quyền hành hơn là sự cộng tác. Do đó, chúng ta mới hiểu được rằng tại sao Chúa Giêsu đem một em bé đặt giữa các ông, ôm lấy em và nói rằng: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mc 9:37).

Lời tuyên bố có tính cách quyết định nầy quan trọng ở chỗ: để đón tiếp trẻ thơ phải chấp nhận một cái gì khác hơn là sự đơn thuần của một trẻ thơ. Đó là, theo như sự phân tích của Carl Jung, đón tiếp phần năng lực của con trẻ, cái nhân cách của trẻ thơ. Với năng lực con trẻ, chúng ta trở nên ít tính toán, ít quan tâm tới sự tủi nhục hay phẩm giá cá nhân của mình, ít sợ thất bại, đau khổ và sự chết. Và nhất là ít bám víu lấy quyền hành và sự thành công xét dưới con mắt của người đời. Với năng lực của con trẻ, chúng ta dám từ bỏ, ra đi, không bám víu, dám mạo hiểm, chấp nhận bấp bênh và thử thách. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể phó thác, tin tưởng và bước theo Chúa Giêsu được.

Văn hóa ngày nay làm cho chúng ta quá nghiêng về năng lực của người anh cả. Chúng ta giống như các môn đệ chỉ muốn thành công, quyền hành, vinh quang, chiến thắng, và những cảm giác an toàn bảo đảm cho cuộc sống trần gian. Ai muốn mang lấy những năng lực của con trẻ như sự vô tư, tin tưởng, cộng tác, và vui tươi? Ai muốn mạo hiểm ôm lấy những thử thách, đau khổ và khó khăn trong đời mình? Ai muốn đi tìm con đường khiêm tốn và phục vụ người bị lãng quên? Ai muốn đi với những người bé nhỏ, kẻ nghèo hèn, người bệnh tật?

Các tông đồ ở thời điểm này trong cuộc đời của họ, giống như những người đến dự cuộc đấu giá tranh trong câu chuyện ở trên. Họ chú ý đến quyền lực, địa vị, và danh vọng. Họ đã thất bại, vì không hiểu được cái nghịch lý của con đường Chúa Giêsu đi. Con đường khiêm tốn, phục vụ, và từ bỏ bản thân là con đường dẫn đến sự cao trọng.

Thông điệp của câu chuyện đấu giá tranh và câu chuyện của Phúc Âm hôm nay rất giống nhau: Thiên Chúa cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài. Người Con ấy đã hy sinh mạng sống mình để cứu vớt nhân loại. Và ai chọn Người Con, bước theo tinh thần và năng lực của Người Con, cùng con đường phục vụ khiêm tốn của Ngài, sẽ hưởng di chúc của Chúa Cha, thừa kế tất cả mọi sự. “Người Con! Người Con!” Ai bước theo Người Con sẽ thừa kế mọi sự!

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Tin mừng Chúa nhật XXV Quanh năm trình bày một nội dung thật ấn tượng đó là phục vụ trong khiêm hạ và phục vụ vô vị lợi. Càng làm lớn, địa vị cao thì phải là người tôi tớ phục vụ mọi người.

    Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống băng qua Galilê đến miền Capharnaum. Ngài đã dạy các môn đệ và loan báo lần thứ hai về cuộc thương khó và sự phục sinh của Ngài: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”.

    Đa số dân Do Thái cũng như các môn đệ không hiểu về vấn đề Messia đau khổ, Người tôi tớ của Thiên Chúa phải chết thay cho muôn người. Các ông chỉ nghĩ đến một Đấng Messia uy quyền và vinh quang, một nước trần gian vật chất, danh vọng, uy quyền, giàu sang… Vì thế ngay sau khi nghe Chúa nói về cuộc thương khó, thì các ông bàn luận, tranh cãi với nhau về ngôi vị, cấp bậc trong nước mà Chúa sẽ thiết lập: ai sẽ là thủ thướng, là bộ trưởng, là chủ tịch… Nhân dịp này, Chúa Giêsu đã dạy các ông một bài học: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.

Các quan chức trong một nước, trong xã hội, người đứng đầu lãnh đạo, chỉ huy, cai trị dân và bắt dân phục vụ mình, tùng phục mình. Càng làm lớn, càng giàu sang, danh vọng, uy quyền và được mọi người hầu hạ, đi đâu cũng có kẻ đưa người đón. Trái lại, trong nước Thiên Chúa, người công dân Nước Trời càng làm lớn thì phải là tôi tớ phục vụ mọi người. Quyền bính, chức vụ trong Giáo hội là phục vụ trong khiêm hạ và vô vị lợi. Đức Giêsu đã làm gương về vấn đề này trong bữa tiệc ly: Ngài đã rửa chân cho các môn đệ, làm công việc của người đầy tớ: “Thầy đã rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau”. Lần khác, Chúa Giêsu cũng dạy các tông đồ: “Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc cho muôn người”.

    Hạnh phúc là phục vụ. Phục vụ là đem lại an vui hạnh phúc cho anh em. Nếu các quan chức mà thực hành bài học phục vụ trong khiêm hạ và vô vị lợi đối với nhân dân thì chắc chắn hòa bình, an vui, hạnh phúc sẽ đến với mọi người, mọi nhà, và không còn chiến tranh khủng bố, bất công trong xã hội.

    Một hôm Hồ Khưu Trượng hỏi Tôn Thúc Ngao:

    – Có ba điều chuốc oán, ông biết chưa?

    – Tôi chưa được biết, họ Tôn trả lời.

    Trương Nhân nói: Tước vị cao, người ta ganh. Quyền thế lớn, người ta ghét. Lợi lộc nhiều, người ta oán”.

    Tôn Thúc Ngao lắc đầu nói: “Không phải luôn luôn như thế, tước vị tôi càng cao, tôi càng xử nhún nhường; quyền thế tôi càng lớn, tôi càng khiêm cung; lợi lộc tôi càng nhiều, tôi càng chia bớt cho người xung quanh. Như thế thì làm gì bị oán thù của thiên hạ”. Câu trả lời thật chí lý và phù hợp với giáo lý của Chúa Giêsu. Đối với Chúa, người chỉ huy, lãnh đạo, người đứng đầu là người phục vụ tha nhân trong khiêm hạ, hy sinh và hoàn toàn vô vị lợi.

 Chúa Giêsu còn dạy các môn đệ bài học nhớ đời: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Mc 9, 37). Đứa nhỏ, trẻ con là mẫu gương của sự khiêm nhường, đơn sơ, tín thác mà các môn đệ và mọi người được mời gọi để thực hành điều đó.

Các trẻ nhỏ là hình ảnh tượng trưng cho những người tầm thường, nghèo hèn, thấp cổ bé họng không đáng kêt trong xã hội. Tiếp nhận và phục vụ các em nhỏ, những người bần cùng trong xã hội không mong họ phục vụ lại, mà phục vụ vô vị lợi. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã đồng hóa Ngài với những người bé nhỏ, nghèo hèn. Phục vụ họ là phục vụ chính Chúa. Giúp đỡ và yêu thương họ là giúp đỡ và yêu mến chính Ngài: “Ta đói, các ngươi đã cho ăn”.

Tóm lại, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy sống khiêm nhường và sẵn sàng phục vụ lẫn nhau, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh, những người hèn kém trong xã hội. Cuộc sống chỉ có ý nghĩa và đáng sống khi con người biết nhiệt tình phục vụ anh em một cách vô vị lợi noi gương Đức Giêsu. Chính khi yêu thương và phục vụ tha nhân là chúng ta đang phục vụ Thiên Chúa.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN_B.

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần tương đối rõ rệt.

Phần thứ nhất Chúa báo trước về cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa

Phần thứ hai Chúa đề nghị một lối sống mới cho tất cả những ai muốn theo Ngài.

I. Hôm ấy Chúa Giêsu đang đi với các môn đệ. Ngài tránhkhông muốn cho ai biết Ngài. Ngài sợngười ta nô nức đi theo Ngài như chạy theo một “Người lớn”. Và chính trong bối cảnh này Ngài loan báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn Ngài sắp phải chịu. Đây là lần thứ hai Ngài làm như thế.

Ngài sử dụng lại các từ ngữ hầu như y hệt lần trước (8,31) “Con Người” sẽ bị “nộp” vào tay người ta.

Và cũng như lần trước lời hứa Phục sinh được thêm vào ngay sau đó, thế nhưng lời hứa này xem ra chẳng an ủi được các môn đệ trước viễn ảnh đớn đau của cái chết. Tệ hơn nữa các ông ấy còn tỏ ra hầu như chẳng hiểu gì về những lời giáo huấn của Thầy mình. Lần trước thì Phêrô đã biểu lộ sự phản kháng. Còn lần này tuy không nói ra nhưng thái độ “khép lòng” của họ được ghi nhận qua nỗi sợ hãi không dám “hỏi Ngài” chứng tỏ họ cố tránh né những khó khăn và thử thách đang chờ đợi Chúa.

Đứng trước hoàn cảnh như thế Chúa phản ứng lại như thế nào?

Một lần nữa Marco cho chúng ta thấy Chúa lại kiên trì và nhẫn nại giáo dục dạy dỗ họ.

Ngài khởi đầu công việc dạy dỗ bằng cách kéo các môn đệ về với những gì mới xẩy ra. Ngài hỏi họ về nội dung cuộc tranh luận giữa họ với nhau ở dọc đường. Nghe lời Chúa Giêsu hỏi, họ không trả lời. Thực ra họ đã tranh luận với nhau xem ai là người “lớn” nhất.

Chúa Giêsu cảm thấy có bổn phận phải can thiệp để làm cho các môn đệ mình thoát khỏi cái khuynh hướng đua đòi, chạy theo quyền lực và Ngài cho họ một bài học sống động (9,35).

Marco diễn tả Chúa ngồi xuống để biểu lộ cung cách của một vị sư phụ mà các đệ tử phải chú tâm lắng nghe. Đây là tư thế của một người giảng dạy đầy uy quyền.

Chúa Giêsu nói với họ một cách thật rõ ràng. Trong lời ngỏ với những vị lãnh đạo tương lai của dân Chúa, Chúa Giêsu đã đảo ngược cái phẩm trật thông thường của nhân loại. “Muốn làm đầu thì phải làm cuối, muốn chỉ huy thì phải làm ‘đầy tớ tất cả”.

II. Nhưng thử hỏi sứ điệp của Chúa có được đón nhận hay không?Ngài tin là có. Và để cho lời của Ngài được cụ thể hóa Ngài đặt một em bé giữa các ông, ôm nó vào lòng. Cử chỉ này tạo nên một ảnh hưởng bất ngờ. Dắt một em bé vào giữa họ rồi ôm hôn nó: Đây là một việc làm hoàn toàn trái với tập tục đương thời. Xã hội lúc đó không hề quan tâm đến trẻ em. Người ta coi rẻ trẻ em như một sinh vật vô nghĩa, thậm chí họ còn xua đuổi khai trừ chúng ra khỏi cộng đoàn vì cho rằng chúng ngu dốt không biết gì về lề luật.

Vậy khi đón nhận một em bé như thế Chúa Giêsu đã làm một công việc hết sức quan trọng. Đó là Ngài trả lại giá trị cho những con người bị loại trừ và Chúa còn nhấn mạnh thêm là việc đón tiếp những con người bị khai trừ như thế cũng chính là đón tiếp Ngài. Đây quả thật là một sứ điệp bất ngờ và cũng rất là mới mẻ của những trang Tin Mừng khả ái này.

Kính thưa anh chị em

Tới đây thì ý nghĩa của Bài Tin Mừng đã khá rõ. Điều Chúa Giêsu muốn ở nơi các môn đệ của Ngài ngày xưa cũng là điều mà Chúa muốn đối với chúng ta hôm hay. Vấn đề đặt ra là khi theo Chúa, sống cuộc đời tự hạ phục vụ như thế, Chúa sẽ dẫn chúng ta đi đến đâu. Câu trả lời tương đối cũng dễ: Đến vinh quang. Đối với Chúa thì vinh quang đã rõ. Đó là sự phục sinh của Ngài. Còn đối với chúng ta thì xem ra vinh quang còn bị che phủ chưa ló dạng. Nhưng chúng ta có cơ sở để tin rằng vinh quang đó sẽ tới.

Xin chứng minh bằng một thí dụ.

Anh chị em biết Mẹ Têrêsa, một con người sống rất gần gũi với chúng ta trong thời gian. Giáo Hội đã phong thánh cho Mẹ. Tại sao thế? Tại vì mẹ xứng đáng được tôn vinh như thế. Một con người khi còn sống chỉ biết phục vụ những người nghèo khó, bệnh tật, bị bỏ rơi….Vậy mà khi qua đời, không biết bao nhiêu danh hiệu cao quí người ta đã đặt ra để ca tụng mẹ.

Ngay khi vừa được tin Mẹ qua đời các báo đã đưa ngay lên trang nhất những bản tin với những những hàng tít thật lớn: “Mẹ của những người nghèo đói đã ra đi” – “Vị nữ thánh của những người cùng khổ không còn nữa” – “Vị nữ thánh giữa đời thường đã vĩnh viễn ra đi”

Bên cạnh những lời ca tụng của báo chí, nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới cũng bày tỏ lòng thương tiếc sâu sắc. Tổng thống Pháp Jacques Chirac đã gửi đến Calcutta bức điện chia buồn như sau: “Buổi tối hôm nay đã có ít tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn hơn và cũng ít ánh sáng hơn trên thế giới”

Tại Mỹ tổng thống Bill Clinton đã nói: “Mẹ là người luôn gây ngạc nhiên, một trong những vĩ nhân của thời đại này”

Nữ hoàng Elizabeth II nước Anh gửi một bức thư chia buồn với dòng Nữ Tu thừa Sai Bác Ái đã viết: “Mẹ Têrêxa và công Chúa Diana mỗi người một cách đã nói lên tấm gương: Là con người hãy biết đối xử với nhau bằng lòng nhân ái” – Còn thủ tướng Tony Blair đã gửi đến Calcutta lời thương tiếc: “Trong một tuần đầy bi kịch, thế giới lại càng buồn hơn vì một trong những người phục vụ nhiều lòng trắc ẩn đã ra đi”

Tại Albani quê hương thứ nhất của mẹ, thủ tướng Fatos Nano đã nói: “Đất nước Albani quê hương thương tiếc mẹ vô vàn và muốn đưa thi hài của mẹ về an táng tại quê hương, nhưng ý nguyện này không thành tựu được. Albani sẽ để tang Mẹ trong ba ngày”

Còn tại Châu Á, chính phủ Indonesia bày tỏ lòng thương tiếc và kính phục. Chính phủ Philippin tổ chức lễ tang Mẹ trọng thể tại một trong những quận nghèo nhất ở thủ đô Manila. Tại Singapore thủ tướng Goh Chok Tony đã nói: “Mẹ Têrêxa là một trong những phụ nữ nổi bật nhất của thế kỷ 20” Tại Hàn quốc tổng thống Kim Yong Sam nói: “Nhân loại sẽ mãi mãi ghi nhớ sự hy sinh cả cuộc đời của Mẹ Têrêxa cho những người bần cùng trên thế giới”

Đó không phải là vinh quang sao kính thưa anh chị em? Là vinh quang chứ! Có rất nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới này thèm được cái vinh quang đó nhưng nào có ai cho! Có nhiều người giầu có muốn được một chút vinh quang như thế nhưng làm sao mà có được.

Để kết thúc bài suy niệm hôm nay, tôi xin được mượn lời của tờ Báo Lao động để nói lên tâm tư của tôi: “Trong cuộc đời bình thường của mình, Mẹ Têrêsa chỉ sống bên cạnh nhưng người bần hàn cơ cực, sắp chết, lở lói, đói ăn, không nhà, không thân nhân, nhưng ngày thứ bảy vừa qua có đến hai nữ hoàng, bốn vị tổng thống đương nhiệm, ba đệ nhất phu nhân, hai thủ tướng và rất nhiều người cao sang quyền quí đã đến dưới chân bà nghiêng mình tiễn biệt. Kể từ ngày cố thủ tướng Javahartal Nerhu qua đời dến nay, chưa bao giờ người dân Ấn độ chứng kiến được một đám tang vĩ đại như vậy.”

Và lời của Chúa Giêsu: “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ.”+” Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.”(Ga 12,26).

Về mục lục

.

PHỤC VỤ LÀ VĨ ĐẠI

Lm. Hữu Độ

Hằng năm giải thưởng Nobel được trao tặng cho những nhân vật nào đã đóng góp một cách trổi vượt trong lãnh vực: Hoà bình, Văn chương, Kinh tế, Vật lý, Hoá học và Y khoa. Ai nhận lãnh giải thưởng Nobel sẽ được người ta kính nể và khen ngợi là nhân vật vĩ đại.

Phúc Âm hôm nay thuật lại các Tông đồ tranh luận với nhau xem ai là người vĩ đại, tức là người lớn nhất. Nhưng vĩ đại theo cái nhìn của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác, ngược với cái nhìn của con người. Theo Thiên Chúa thì vĩ đại hay có vị thế lớn trong Nước Trời là người biết phục vụ, “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải là ngưòi rốt hết và phục vụ mọi người” (Mc. 9:35).

Phục vụ  tức là chấp nhận thiệt thòi và hy sinh để đem ích lợi cho người khác. Hy sinh tiện nghi, sở thích, sự nhàn nhã, ngay cả tiền bạc và thời giờ để cho người khác được hài lòng và hạnh phúc. Người khác có thể là con em chúng ta ở trong gia đình, cũng có thể là giáo dân trong giáo xứ, cũng có thể là đồng sự tại công sở, hay bạn bè tại trường học. Người khác có thể là đồng hương Việt Nam hay bất cứ người ngoại quốc nào. Nói chung là những người cần tới sự giúp đỡ như: già yếu, bệnh tật, trẻ em và những người nghèo khó… Phục vụ luôn có trong tầm tay, trong khu vực chúng ta sống. Đừng mơ tưởng xa xôi hay ước vọng đi truyền giáo ở Phi Châu, Nam Mỹ. Chung quanh chúng ta luôn có những thành phần cần đến sự giúp đỡ.  Thời đại chúng ta đã có gương sống động của Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta.

Một bác sĩ giải phẫu hôm đó nhằm ngày nghỉ về miền quê đi dạo. Ông khát nước nên đến gõ cửa một căn nhà xin nước uống. Cô bé trong nhà vui vẻ vắt một ly nước chanh cho ông uống. Uống xong, ông đưa tấm danh thiếp ra trao vào tay cô bé và dặn khi nào có người nhà muốn chữa bệnh thì cầm tấm danh thiếp này đến với ông. Bốn năm sau mẹ cô bé bị bệnh cần được giải phẫu. Họ đưa bà tới nhà thương kèm theo tấm danh thiếp đó. Bà được chữa khỏi bệnh. Lúc trở về, ông bác sĩ giải phẫu trao cho bà một hoá đơn tính tiền rất tốn kém, nhưng bên dưới ông viết chữ: “Đã trả xong bằng một ly nước chanh của con bà.”

Thiên Chúa muốn chúng ta phục vụ tha nhân không mong mỏi được trả ơn ở đời này. Nhưng chắc chắn Thiên chúa đã ghi nhận đầy đủ và ban thưởng cho chúng ta ở đời sau hơn lòng chúng ta ước mơ tới. Vì đó là cách Thiên Chúa đã hứa và thi hành.

Về mục lục

.

AI MUỐN LÀM NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU

Fx Đỗ Công Minh

Bài Tin mừng hôm nay Thánh Maccô tường thuật chuyện Chúa mạc khải cho các môn đệ về con đường khổ giá Người phải trải qua trước khi bước vào vinh quang phục sinh: ” Con người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết Người sẽ sống lại “, nhưng các ông không hiểu lời đó và các ông sợ không dám hỏi lại Người. Các ông lúc ấy chỉ chăm chăm vào vị trí của từng người trong cộng đòan. Thánh Maccô mô tả “ khi đi đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”.

Chúa Giêsu đã biết rõ lòng các ông. Chúa thấu hiểu tâm lý con người trần gian là ai cũng muốn có vị trí cao hơn người trong một tập thể, trong xã hội lòai người. Ý tưởng muốn “ làm lớn “ cũng là tâm trạng bình thường trong xã hội có tổ chức, có sự phân công. Nhưng quan niệm làm lớn để làm gì thì lại không đơn giản. Người mong được làm lớn để thể hiện quyền lực với người khác, với bề dưới. Cũng có người có thiện ý là mong có vị trí cao để phát huy năng lực của mình, thể hiện tài năng của mình trong môi trường được giao. Nhưng đa phần thì mong có quyền cao chức trọng là để thỏa mãn cái tôi, để được thụ hưởng quyền lợi lớn lao về tiền tài, nhà cửa, phương tiện do chức vụ, vị trí đem lại. Có người mong có danh vị theo suy nghĩ ”một người làm quan cả họ được nhờ”, thích đi đến đâu cũng được người khác chào đón tung hô, tùng phục, kiêng nể, kính sợ.

Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay có cái nhìn khác, Người là Thầy dạy của các môn đệ lúc đó đã ngồi xuống, gọi nhóm Mười Hai lại mà nói :”Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người “, và chính Người đã làm như vậy với các ông . Một quan niệm xem ra trái ngược với suy nghĩ của con người mọi thời mọi lúc. Làm việc, học hỏi, nghiên cứu . . . tốn không biết bao nhiêu công sức, thời gian, tiền bạc bỏ ra để mong có ngày được cất nhắc lên vị trí cao hơn như tổ trưởng, trưởng khoa, trưởng phòng, quản đốc rồi lên phó giám đốc, giám đốc  . . . của một đơn vị, một công ty, một cơ quan, một ngành, sở mà Chúa lại dạy  phải sống như người rốt hết, phải phục vụ mọi người thì dại gì mà phấn đấu, dại gì mà hăng say. Làm sao lại phải khép mình sống nghịch lại lẽ thường như vậy ? Thế mà Đức Kitô lại dạy như thế ai nghe cho lọt. Và để minh họa rõ thêm, Người đã dùng một em nhỏ đặt giữa các ông, ôm lấy em và nói : “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy “ .

Sống trong xã hội hay trong Giáo hội vẫn có sự sắp xếp, phân công. Cần những người có khả năng, đáp ứng một số điều kiện sẽ được điều động cất nhắc, không vì lợi ích của bản thân họ, nhưng vì lợi ích của cộng đồng, mưu ích cho nhiều người. Người được cất nhắc tất nhiên có quyền lợi chính đáng nhưng đồng thời có trách nhiệm lớn lao đối với công việc đảm nhận. Có quyền hạn để thực thi chức trách của mình. Nhưng quan trọng hơn cả là thái độ và tinh thần phục vụ, phải tận tụy, hy sinh cho tập thể, cho lợi ích chung chứ không theo quyền lợi cá nhân, riêng tư theo kiểu lợi ích nhóm. Thực hiện chức trách theo đúng bổn phận, quyền hạn như đón tiếp một trẻ thơ, không đòi hỏi nơi các em sự hầu hạ mà sẵn sàng hạ mình đáp ứng nhu cầu của em bé ngây thơ, trong trắng. Phục vụ  trong Giáo hội cũng như vậy.

Lạy Chúa,

Xin cho con biết nhìn lại mình với vai trò người cha, người mẹ trong gia đình; người anh, người chị; người đội trưởng, đòan trưởng các đòan thể trong giáo xứ. Người trưởng khu giáo, hay trong Hội đồng mục vụ giáo xứ. . .Là người có địa vị nào đó trong xã hội, con đã thể hiện vai trò đó ra sao? Có trở nên người phục vụ mọi người, hay đòi hỏi người khác phải qui phục, phải phục vụ con?

Xin cho con biết :” Phục vụ là hy sinh, phục vụ là quên mình. Phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ ơn nghĩa không màng. Phục vụ là hy sinh, phục vụ vì Chúa Kytô “( Bài ca phục vụ ).

Về mục lục

.

VÒNG XOAY

Trầm Thiên Thu

Có nhiều loại vòng – cả tốt và xấu, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cái vòng thì hình tròn, tròn thì cứ lòng vòng, và người ta gọi là “vòng xoay”, nó cũng chính là cái vòng luẩn quẩn của cuộc đời liên quan chữ Danh. Vòng xoay có khi hóa thành vòng xoáy. Loại “vòng đời” rất đáng sợ, nó được tiền nhân mô tả thế này: “Cái vòng danh lợi cong cong – kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào”. Cứ thế, và cứ thế. Mệt thật! Và từ đó có thể xảy ra chiến tranh – cả lạnh và nóng.

Cuộc đời phàm nhân thật là phức tạp, thế nhưng chắc chắn rằng “cái vòng luẩn quẩn” đó không tại Thiên Chúa, mà tại chính chúng ta. Ngày xưa, trường hợp tháp Babel là đại họa đối với con người, nhưng đó không phải là thiên tai mà là nhân tai, là tội kiêu ngạo và ích kỷ của con người. Ngày nay cũng như vậy, tự con người tạo ra các tai họa, tự tạo ra ngày tận thế – chứ không phải do Thiên Chúa, mà lại cứ đổ lỗi cho Ông Trời và nói là “thiên tai”. Thánh Lm Arnold Janssen (1837-1909, sáng lập Dòng Ngôi Lời – SVD, Societas Verbi Divini) xác định: “Mặc dù ý Chúa KHÔNG PHÙ HỢP với bạn thì vẫn LUÔN ÍCH LỢI cho bạn”.

Với bản chất con người, ai cũng “máu” lắm (nhiều loại máu), thả ra cũng chẳng ai vừa: “Kẻ tám lạng, người nửa cân”. Cứ theo lẽ thường thì chẳng ai hơn/kém ai. Ai cũng thích được khen chứ chẳng ai thích bị chê. Nghĩa là con người rất thích có DANH, gọi là “háo danh”, như chí sĩ Nguyễn Công Trứ (1778–1858, tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, là nhà quân sự, nhà kinh tế và nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại) đã xác định: “Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông”. Chữ DANH đối với nam giới càng “to lớn” hơn!

Kể cũng lạ (mà cũng chẳng lạ), bởi vì có mối liên quan “thân thiết” giữa DANH và LỢI – gọi là Danh Lợi. Chưa có cái “danh” thì tìm cách có, có “danh” rồi thì tìm cái “lợi”. Có những người mê “danh” đến nỗi sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn để “chạy” bằng cấp, chức tước, địa vị,… Thậm chí có người còn dám bán rẻ lương tâm để mua lấy cái “danh”, ngay cả tình nghĩa trong các mối quan hệ cũng chỉ là “chuyện nhỏ”, như người ta “đùa mà thật” thế này: “Tình cảm là chín (chính), tiền bạc là mười”. Điều tất yếu ư? Có thể. Bởi vì “con gà còn tức nhau tiếng gáy” kia mà! Có lẽ dày dạn kinh nghiệm nên cụ Nguyễn Công Trứ mới chua chát nhận định: “Thế thái nhân tình gớm chết thay, Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy”, hoặc: “Tiền tài hai chữ son khuyên ngược, Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi”. Chua chát lắm!

Thẳng thắn mà nói thì tiền chẳng là gì, chỉ là những tờ giấy có cấp độ giá trị khác nhau theo những con số mà con người quy ước với nhau, chứ tự nó không có giá trị. Thế nhưng người ta coi “tiền là tiên, là Phật, là sức bật của con người, là nụ cười của tuổi trẻ, là sức khỏe của người già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý”, do đó mà nó có thể “thay trắng, đổi đen” mọi thứ. Xã hội ngày nay rất rõ nét, đặc biệt là ở Việt Nam. Thật là kinh khủng! Chiến tranh tàn khốc xảy ra cũng chỉ vì danh lợi. Cái lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo, thế nên: Thật thà bị ghét bỏ, nghèo khó bị miệt khinh, thông minh bị trù dập – nhưng gian ác được yêu thương, giàu sang được đề bạt, khoác lác được đề cao. Đời là thế! Than ôi, thế thái nhân tình Cười ra nước mắt nên mình thương ta!

Mọi thời và mọi nơi đều có người lành, kẻ dữ. Thời Cựu Ước, những người dã tâm đã hùa nhau: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo” (Kn 2:12). Họ còn ranh mãnh và mỉa mai: “Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào” (Kn 2:17). Người chính trực luôn bị ghét, người theo Chúa cũng bị “dè chừng”, thậm chí còn bị sát hại. Và rồi kẻ xấu toan tính: “Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù. Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó, để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào” (Kn 2:18-19). Cuối cùng, họ quyết định: “Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm” (Kn 2:20a). Nhưng đó chỉ là “sai lầm của phường vô đạo” (Kn 2:20b).

Tuy nhiên, người công minh chính trực vẫn chẳng sợ gì. Cây ngay không sợ chết đứng như Từ Hải, vì họ luôn vững tin vào Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin dùng uy danh mà cứu độ, lấy quyền năng Ngài mà xử cho con. Lạy Thiên Chúa, xin nghe con nguyện cầu, lắng tai nghe lời con thưa gửi” (Tv 54:3-4). Phường kiêu ngạo có nổi lên chống đối, hay bọn hung tàn tìm hại mạng sống người công chính, dù chúng không kể gì đến Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn độ trì và nâng đỡ những tôi trung và hiền tử của Ngài, vì Ngài là Đấng đời đời thành tín.

Mặc dù vui – buồn, sướng – khổ, hạnh phúc hay bất hạnh, người thật lòng theo Chúa vẫn một lòng một dạ chân thành thân thưa: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo” (Tv 54:8). Đó là cách sống của những người thực sự TRƯỞNG THÀNH TÂM LINH. Ước gì mọi người đều biết sống như vậy!

Thật thú vị với cách phân tích của Thánh Giacôbê: “Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa” (Gc 3:6). Một cách suy luận lô-gích và minh nhiên. Và ngài kết luận: “Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là THANH KHIẾT, sau là HIẾU HOÀ, KHOAN DUNG, MỀM DẺO, đầy TỪ BI và SINH NHIỀU hoa thơm trái tốt, KHÔNG thiên vị, cũng CHẲNG giả hình. Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính” (Gc 3:17-18). Phàm nhân chúng ta gọi đó là “luật nhân quả”, gieo gì gặt nấy: Tư tưởng ➡ ước muốn ➡ hành động ➡ thói quen ➡ tính cách ➡ số phận. Từ ngàn xưa, Kinh Thánh đã xác định: “Gieo gió thì phải gặt bão” (Hs 8:9). Thánh Phaolô nói: “Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời” (Gl 6:8).

Đúng là “XẤU hay làm TỐT, DỐT hay nói CHỮ”. Thế mới rắc rối, thế mới gây xung đột. Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những KHOÁI LẠC của anh em đang GÂY CHIẾN trong con người anh em đó sao?” (Gc 4:1). Và rồi thánh nhân đúc kết một cách vô cùng thẳng thắn: “Anh em HAM MUỐN mà không có, nên anh em CHÉM GIẾT; anh em GANH GHÉT cũng chẳng được gì, nên anh em XUNG ĐỘT với nhau, GÂY CHIẾN với nhau. Anh em không có, là vì anh em KHÔNG XIN; anh em XIN MÀ KHÔNG ĐƯỢC, là vì anh em xin với TÀ Ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4:2-3).

Công bình mà nói thì nhận xét của Thánh Giacôbê “chạm” đến bất kỳ ai, đến bất kỳ cương vị nào, đến tận mọi ngõ ngách sâu thẳm nhất của lòng dạ và tư tưởng con người. Thật vậy, đôi khi chúng ta ÍCH KỶ NGAY TRONG LỜI CẦU NGUYỆN của mình (như dụ ngôn hai người cùng cầu nguyện trong Đền Thờ – Lc 18:9-14), thậm chí còn dám “ngã giá” và “ra điều kiện” với chính Thiên Chúa mà cứ tưởng là mình… đạo đức và thánh thiện lắm. Ôi, nguy hiểm quá chừng!

Thánh Máccô cho biết một lần nọ, Đức Giêsu và các môn đệ đi băng qua miền Galilê, nhưng Ngài không muốn cho ai biết, vì Ngài đang dạy các môn đệ rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Ngài, và ba ngày sau khi bị giết chết, Ngài sẽ sống lại” (Mc 9:31). Nhưng các ông không hiểu lời đó, vả lại các ông LO SỢ nên KHÔNG DÁM hỏi lại Ngài. Bao tháng ngày theo Thầy đi khắp mọi nơi, tới từng hang cùng ngõ hẻm, ăn dầm nằm dề với Thầy, thế mà các môn đệ vẫn “như người trên cung trăng”, lơ ngơ mà chẳng hiểu Sư Phụ có ý nói gì. Đã không hiểu mà lại không dám hỏi. Lạ thật! Nhưng phàm phu tục tử là thế, chúng ta cũng vậy, chẳng hơn gì đâu! Chúa biết thừa, nhưng Ngài vẫn thông cảm và lại càng thương các “ngu đệ” hơn. Tội lắm, thương lắm, thương tới cùng luôn (Ga 13:1).

Sau đó, Thầy trò cùng đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Sư Phụ Giêsu hỏi các đệ tử: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” (Mc 9:33). Hỏi để mà hỏi, hỏi cho có chuyện, hỏi để họ bớt… run, chứ Ngài biết tỏng, biết rõ mười mươi như “đi guốc trong bụng” từng người! Nhưng các ông nín thinh như ngậm tăm, vì Thầy nói trúng phoóc tim đen rồi. Rõ ràng khi đi đường, các ông đã CÃI NHAU xem ai là người LỚN HƠN. Tranh giành địa vị, tranh chấp ngôi thứ, tranh nhau cái DANH cốt để mong có cái LỢI. Không thể nào biện hộ, dù chỉ nửa lời. Cái “vòng kim cô” Tham-Sân-Si khó gỡ ghê!

Thầy Giêsu biết các môn đệ chưa thể “thoát tục”, Ngài ngồi xuống và gọi họ lại mà nói: “Ai muốn làm người ĐỨNG ĐẦU thì phải làm người RỐT HẾT, và làm người PHỤC VỤ MỌI NGƯỜI” (Mc 9:35). Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Mc 9:37).

Một cách so sánh đầy triết lý và thần học, với chuỗi lô-gích: TIẾP NHẬN trẻ nhỏ ➡ TIẾP NHẬN Chúa Giêsu ➡ TIẾP NHẬN Chúa Cha. Hay quá! Nhưng có lẽ chúng ta chưa thể hiểu đúng, hoặc không dám hiểu, thậm chí có thể là không muốn hiểu. Nhưng đừng quên điều này: Chúa Giêsu luôn thực tế, mạch lạc, rất hiếm khi bóng gió xa xôi (khi dùng dụ ngôn). Thế nhưng với “đầu óc bã đậu”, chúng ta cảm thấy khó lĩnh hội thấu đáo để có thể thực hành những bài học “đơn giản” của Ngài là SỐNG YÊU THƯƠNG và PHỤC VỤ: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Chính Ngài đã LÀM rồi mới NÓI.

Chẳng dễ gì thoát khỏi vòng danh lợi và vòng kiềm tỏa của nó, nhưng không thoát thì không xong. Làm sao đây? Chỉ có cách làm theo “mẹo” của Chúa Giêsu: “Nếu anh em không TRỞ LẠI mà NÊN NHƯ TRẺ NHỎ thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18:3). Danh lợi chỉ là thứ tạm bợ, chóng qua, thế mà người ta vẫn tìm mọi thủ đoạn để giành giật bằng mọi giá. Đó là loại “giàu” khiến người ta khó vào Nước Trời nhất. Cụ Nguyễn Công Trứ nhận định: “Ra trường danh lợi vinh liền nhục, Vào cuộc trần ai khóc trước cười”. Chí lý thay, độc đáo quá, tuyệt vời lắm!

Có mối liên quan kỳ lạ: “Không có TÌNH YÊU và HÀNH ĐỘNG thì người thông thái nhất cũng chẳng là gì” (Thánh Teresa Hài Đồng Giêsu). Thánh Juliana Norwich phân tích: “Chân lý ngắm nhìn Thiên Chúa, sự khôn ngoan chiêm ngưỡng Thiên Chúa, từ hai thứ đó phát sinh cái thứ ba là niềm vui thánh thiện tuyệt vời nơi Thiên Chúa, Đấng là tình yêu”. Thật chí lý khi Kinh Thánh nhắc nhở: “Làm xong một việc thì tốt hơn mới bắt đầu, nhẫn nại thì tốt hơn huênh hoang tự đắc. Chớ vội để cho lòng mình nổi giận, vì chỉ người ngu mới nuôi giận trong lòng” (Gv 7:8-9).

Lạy Thiên Chúa, xin biến đổi tâm hồn chúng con từng giây phút, để chúng con đừng giành nhau những thứ không phù hợp với Tin Mừng của Ngài, trái ngược với Nước Trời. Xin thúc đẩy chúng con không ngừng biết YÊU THƯƠNG và PHỤC VỤ đúng Tôn Ý Ngài. Trong khi phục vụ, đôi khi công việc có thể khiến chúng con cảm thấy cô đơn và nhàm chán, thậm chí còn bị hiểu lầm, xin giúp chúng con kiên tâm và tín thác vào Ngài, xin cho tâm hồn chúng con luôn bình an trong Ngài để ý Ngài nên trọn, tất cả xin vì Ngài mà thôi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN_B

Jorathe Nắng Tím

Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần rõ rệt:

1. Phần đầu, Đức Giêsu dậy các môn đệ của Ngài một lần nữa: Ngài sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại.

Cũng như trong Tin Mừng chúa nhật tuần 24, Đức Giêsu đã công khai dậy : “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị loại bỏ, bị giết chết và ba ngày sau sống lại” (Mc 8,31), nhưng cũng như lần này, các môn đệ “đã không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người” (Mc 9,32).

Trước viễn cảnh thê lương của đau khổ và chết chóc đang rình rập Đức Giêsu, các môn đệ rất hoang mang, sợ hãi. Các ông không chỉ sợ cho Thầy, mà còn sợ cho an toàn tính mạng và tương lai đen tối của chính các ông. Và một lần nữa các môn đệ của Đức Giêsu cho chúng ta thấy các vị đã không hiểu hoặc đã hiểu rất nông cạn sứ vụ và đường lối cứu thế của Đức Giêsu. Chính vì thế, khi được dậy về cuộc tử nạn sắp tới của Thầy, các ông hoặc đã hoang mang vì sợ, hoặc đã tỉnh bơ vì không tin.

2. Thái độ không quan tâm, không màng tới lời loan báo cuộc tử nạn sắp tới nơi đa số các môn đệ được khẳng định qua cuộc đụng chạm, cãi nhau giữa các ông “xem ai là người lớn hơn cả” (Mc 9,34).

Vì không quan tâm đến chuyện Thầy mình sắp bị giết chết “bởi các kỳ mục, thượng tế, cùng kinh sư” (Mc 8,31), nên các môn đệ mới hăng say đấu đá về chuyện thứ bậc, trên dưới, cao thấp, to nhỏ. Thế mới biết, đã là con người thì dù ở ngay bên Chúa, là tông đồ cùng sống cùng chết với Chúa, chỉ làm những công việc đạo đức, thánh thiện thuộc về Chúa cũng vẫn bị cám dỗ “vinh thân phì gia”, tìm kiếm vinh danh chính mình, và ganh ghét, kiêu căng không muốn phụ thuộc, dưới quyền ai.

Nhưng tại sao chúng ta tìm kiếm chỗ đứng chỗ ngồi quan trọng, tranh giành thứ bậc, đấu đá tưng bừng để nắm giữ quyền hành trọng yếu? Thưa vì chúng ta muốn được người khác phục vụ và không muốn phục vụ người khác. Vì muốn được phục vụ, nên phải tìm kiếm quyền hành ; vì không muốn phục vụ ai, nên phải tìm cách đứng đầu mọi người, để ai cũng phải tuân lệnh và hầu hạ, phục dịch mình.

Chính vì thế, khi gọi Nhóm Mười Hai lại, Đức Giêsu đã nghiêm nghị nói : “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35). Khi nhấn mạnh hai chữ Phục Vụ, Đức Giêsu đã đi thẳng vào tim đen của các ông, vì qủa thực, người ta tìm kiếm, tranh giành ngôi thứ, quyền lực chỉ vì ích kỷ, muốn được mọi người nể sợ, hầu hạ, phục vụ nhu cầu và những đòi hỏi hưởng thụ cá nhân. Cám dỗ và nguy cơ không phục vụ, mà chỉ muốn được phục vụ là nguyên nhân của mọi chia rẽ, tỵ hiềm, đấu đá, phủ nhận, loại trừ nhau trong các cộng đoàn, bằng chứng là ngay cả cộng đoàn Nhóm Mười Hai của Đức Giêsu cũng không mấy ngày là không sôi sục, nóng bỏng chuyện “ai là người lớn nhất”, quan trọng nhất, có quyền nhất.
Và để các ông hiểu thấu đáo điều Ngài dậy, Đức Giêsu “đã đặt vào giữa” các ông một em nhỏ, rồi “ôm lấy nó” và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Mc 9,36 – 37).

Hình ảnh em bé là hình ảnh không chỉ khiêm tốn, đơn sơ, trung thực, trong sạch, mà còn là hình ảnh của bé nhỏ, yếu đuối, thiếu thốn, luôn cần được giúp đỡ. Đức Giêsu đặt em bé giữa Nhóm Mười Hai, như đặt các tông đồ ở giữa những người thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu tình thương, thiếu hy vọng, thiếu tương lai, thiếu tất cả. Ngài ôm hôn em bé, như nhắn nhủ các tông đồ phải biết yêu thương, và chạnh lòng trước những người đau khổ, bất hạnh. Và sau cùng Ngài bảo các ông hãy đón tiếp em bé này như đón tiếp chính Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã cho các tông đồ một bài học về phục vụ. Theo Ngài, phục vụ trước hết và trên hết là đón tiếp : đón tiếp với thái độ thân thiện, kính trọng, cởi mở ; đón tiếp với tình yêu thương chân thành ; đón tiếp với tinh thần phục vụ, hy sinh. Người phục vụ không nghĩ cho mình, nghĩ về mình, nhưng nghĩ đến người khác, và để dễ nghĩ đến người khác, dễ làm vì người khác, chúng ta rất cần khiêm tốn để dám chọn chỗ rốt hết, chỗ thấp nhất để phục vụ hữu hiệu. Chẳng thế mà Đức Giêsu đã không làm gương rửa chân mình, nhưng dậy các tông đồ rửa chân cho nhau, tức khiêm tốn cúi mình xuống phục vụ nhau, bởi trong phục vụ, khiêm tốn luôn giữ vai trò quyết định.

Tin Mừng hôm nay cũng làm chúng ta liên tưởng đến đọan Tin Mừng Mátthêu (25,31- 46) mô tả ngày phán xét chung , ở đó, mỗi người đều được Thiên Chúa hỏi về tinh thần và thái độ yêu thương, phuc vụ anh em đồng loại, mà đối tượng được ưu tiên số một phải là “những người bé nhỏ nhất trong anh em”, bởi “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Và ngược lại : “mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,45). “Làm như thế”, nghiã là : “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến hỏi han” (Mt 25, 35-36).

Lậy Chúa Giêsu, Chúa biết chúng con sợ thử thách, đau khổ, và không thích dưới quyền ai, cũng không muốn phục vụ ai, nhưng muốn nắm đầu, nắm cổ mọi người và được mọi người phục vụ. Như đã dậy Nhóm Mười Hai ngày xưa, xin Chúa dậy chúng con mỗi ngày và giúp chúng con trở nên người rốt hết, bé như em nhỏ, nhỏ như em bé và làm người phục vụ mọi người.

Chương trình học khiêm tốn và phục vụ với Chúa tuy qúa khó, nhưng vì Chúa đã chọn con đường quên mình để yêu thương, hiến mình để phục vụ, mất mình vì hạnh phúc của mọi người, nên chúng con không thể đi theo Chúa trên những con đường khác. Vì tin yêu, chúng con liều lĩnh lên đường với ơn phù trợ của Chúa. Xin thương xót và đồng hành với chúng con trên đường theo Chúa, phục vụ mọi người.

Về mục lục

.

MUỐN LÀM ĐẦU THÌ PHẢI PHỤC VỤ TRONG KHIÊM HẠ

Lm Trần bình Trọng

Trong Thánh kinh Cựu ước, nhiều lời tiên tri về Ðấng cứu thế đề cập đến một vương quốc phổ quát có tính cách hoàn cầu. Theo lời các ngôn sứ, thì đến một thời gian nào đó, tất cả các dân tộc đều qui phục dòng dõi Ðavít, và các chư dân sẽ hướng về Giêrusalem. Tuy nhiên các ngôn sứ nói về một vương quốc thiêng liêng mà Ðấng cứu thế sẽ thiết lập.

Mặc dù một lần nữa trong Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu báo trước việc Người sẽ phải chịu khổ nạn và tử hình, rồi được phục sinh, các tông đồ vẫn không nhận thức được ý nghĩa của lời Người giảng dạy. Họ vẫn còn nuôi hi vọng Thầy mình sẽ thiết lập một vương quốc trần gian. Vì thế dọc đường, họ tranh luận với nhau xem ai sẽ là người quan trọng nhất trong vương quốc của Chúa.

Ðể loại trừ quan niệm sai lầm về Ðấng cứu thế, Chúa Giêsu lập tức triệt hạ tính tự kiêu tự đại của họ, bằng cách dạy họ về đức khiêm tốn: Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người (Mc 9:35). Theo lời Chúa dạy thì tính tự kiêu, tự đại là một nết xấu mà người môn đệ Chúa phải xa tránh và loại trừ để luyện tập nhân đức khiêm tốn mà làm người rốt hết. Một vài hậu quả của tính tự kiêu mà ta đọc thấy trong Thánh kinh là các thần dữ, vì không vâng lời phụng sự Thiên Chúa, nên đã bị đày ải xuống âm phủ. A-đam và E-và đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, cũng vì nghĩ rằng mình có thể trở nên ngang hàng với Thiên Chúa, khi ăn trái cấm. Cội rễ của sự dữ là ghen tương và kiêu ngạo như trong bài trích sách Khôn ngoan hôm nay nêu ra những ý định cuả người kiêu ngạo định làm để gài bẫy, nhục mạ, tra tấn và lên án người công chính. (Kn 2:1-20). Ðó cũng là điều mà thánh Giacôbê tông đồ nhận xét trong thư gủi giáo đoàn: Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi việc xấu xa (Gc 3:16).

Phúc âm hôm nay đưa ra hình ảnh của trẻ em để dạy ta bài học về đức khiêm tốn. Quan sát người ta thấy những đặc tính của con trẻ là tín nhiệm, đơn sơ và chân thành. Trẻ con thường không có tham vọng và không tự phụ. Ðón nhận trẻ em có nghĩa là đón nhận những người giống như trẻ con: người khiêm tốn, người thấp hèn, người nghèo đói, người đau yếu, người yếu thế, người bị bỏ rơi.. Nếu phân tích, ta thấy người khiêm tốn có nhiều đức tính của trẻ con. Người khiêm tốn là ngưòi biết nhận ra mình yếu hèn và tuỳ thuộc vào Chúa trong mọi sự, và hành động theo sự xác tín của mình: không giả tạo, không đóng kịch. Người khiêm tốn là người biết tuỳ thuộc vào quyền năng của Chúa, vào ơn khôn ngoan và chương trình quan phòng của Chúa.

Trinh nữ Maria nêu gương mẫu cho ta về đức khiêm tốn. Trinh nữ không mơ ước địa vị làm mẹ Ðấng cứu thế như giới phụ nữ Do thái thời bấy giờ. Thiên Chúa nhìn thấy lòng khiêm tốn của trinh nữ Maria nên đã chọn trinh nữ làm mẹ Ðấng cứu thế. Khiêm tốn thực sự là sống trung thực với lòng mình và nhìn nhận sự thực về mình: ưu điểm cũng như khuyết điểm. Vì nhìn nhận sự thực về mình nên trinh nữ Maria đã cất tiếng ca tụng Thiên Chúa về những việc trọng đại mà Người đã thực hiện nơi mình trong bài ca Chúc tụng – Magnificat (Lc 1:68-79).

Chính Chúa Giêsu đã đến để dạy loài người bài học phục vụ trong khiêm tốn. Người là Thiên Chúa nhưng đã hạ mình xuống, mặc lấy thân xác yếu hèn của loài người, sinh sống giữa nhân loại. Trong bữa tiệc li, Chúa nêu gương phục vụ trong khiêm tốn bằng cách rửa chân cho các tông đồ và dạy họ rửa chân cho nhau nghĩa là phục vụ lẫn nhau. Như vậy ta thấy Chúa Giêsu đến để đổi ngược lại những giá trị của loài người. Theo lời Chúa dạy thì người ta không bao giờ thỏa mãn trong việc tìm kiếm địa vị và vinh dự, nếu chỉ vì ham muốn vinh dự và địa vị.

Nói như vậy không có nghĩa là Chúa Giêsu ngăn cản người ta làm lớn. Trong xã hội cũng như trong Giáo hội phải có những người làm lớn, những người nắm giữ địa vị nọ kia để điều hành guồng máy tổ chức trong Giáo hội và xã hội. Tuy nhiên Chúa bảo làm lớn là để phục vụ chứ không phải chỉ vì ham chức tước. Làm lớn còn có nhiều cơ hội và phương tiện để phục vụ như có ngân khoản, có người thừa hành và có phương tiện. Chúa bảo ta chỉ tìm được sự bình an và hạnh phúc thực sự khi sống trong gương mẫu khiêm tốn phục vụ. Chúa chỉ cho ta thấy việc làm vĩ đại thật, không phải là việc phô trương cho người khác biết đến, nhưng được tìm thấy trong việc quên mình để phục vụ tha nhân. Và đó là một nghịch lý của Kitô giáo. Ðể nhắc nhở cho mình và cho hàng giáo sĩ và giáo dân lời Chúa dạy về việc khiêm tốn phục vụ, các vị giáo hoàng thường thêm châm ngôn La tinh Servus servorum, có nghĩa là đầy tớ của các đầy tớ vào trước chữ kí tên.

Lời cầu nguyện xin cho được ơn biết noi gương khiêm tốn phục vụ:

Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Chúa.
Chúa đã đến thế gian làm người để dạy bảo nhân loại
bài học phục vụ trong khiêm hạ.
Xin tha thứ những lần con tỏ ra tự kiêu, tự đại và tự phụ
với những người anh chị em con.
Xin dạy con biết nhận ra sự hiện diện của Chúa
nơi người anh chị em con:
những người đau khổ, bất hạnh về thể xác và tinh thần
để con biết phục vụ trong khiêm tốn. Amen

Về mục lục

.

NÊN THÁNH TRONG PHỤC VỤ

Lm. Vũ Xuân Hạnh

Trong Tin Mừng, có lần Chúa mời gọi: Hãy nên thánh thiện như Cha trên trời là Đấng Thánh. Bởi thế, ơn gọi nên thánh là ơn gọi dành cho từng người không trừ ai. Dù vậy không ai được quyên rằng, cuộc sống hôm nay của ta có một giá trị vĩnh cửu.

Vì thế, nếu tội lỗi hôm nay sẽ theo ta đi vào vĩnh cửu thì giá trị của việc lành cũng đưa ta tiến về hạnh phúc vĩnh cửu. Ơn gọi nên thánh là ơn gọi bao hàm lời răn dạy hãy tránh xa sự xấu, và thực hiện những việc lành, để ngày càng tiến đến sự thánh thiện hoàn hảo. Một trong rất nhiều ơn lành mà hôm nay Chúa mời gọi, đó là sự phục vụ: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Chính khi hạ mình làm đầy tớ, nghĩa là hạ mình để phục vụ với tất cả lòng mến, với hết khả năng của bản thân, chính là lúc ta tiến đến sự thánh thánh thiện hoàn hảo như Chúa mời gọi.

Có hai lý do cho biết phục vụ sẽ đưa ta đạt đến đỉnh cao của sự nên thánh:

Lý do 1: Dựa trên Chính lời dạy của Chúa Giêsu: Ai phục vụ, dù là phục vụ những người mang thân phận nhỏ bé nhất, người ấy thật vinh dự, thật cao cả vì được phục vụ chính Chúa Giêsu, qua đó cũng sẽ là người phục vụ chính Thiên Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết điều đó: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.

Lý do 2: Khi sống đời phục vụ, ta nên giống Chúa Kitô. Người xuống thế làm người, không ngoài một lý do này là: “Đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc cho muôn người”. Vì thế, cả cuộc đời Chúa Giêsu, sinh ra, sống, chết, sống lại chỉ nhằm một lý do quan trọng: chuộc lại cho ta ơn thánh thiện hoàn hảo mà Thiên Chúa đã tặng ban từ nguyên khởi. Chúa đã dạy và đã nêu gương để xây dựng thành một bằng chứng hùng hồn, một bài học lớn lao và quý giá. Vì thế, đến lượt mình, ta cũng phải học lấy tinh thầy khiêm nhu, yêu thương và phục vụ như Người.

Có một tấm gương lừng danh trong thời đại chúng ta, mà khi nhắc tới, hiếm có người nào không biết, cũng không ai là không ngưỡng mộ, yêu mến và nể phục. Tôi muốn nói đến tấm gương của Mẹ Têrêsa thành Calcutta. Mẹ đã sống trọn vẹn lời mời gọi của chúa Kitô, vì thế, đến lúc kết thúc cuộc đời, Mẹ đã có thể đến trước Thánh Nhan bằng một niềm hạnh phúc tuyệt diệu, vì cả một đời, Mẹ đã nên giống Chúa Kitô trong tình yêu hiến thân và phục vụ.

Ngày 19.10.2003, Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã được Giáo Hội phong chân phước. Thời gian điều tra và chuẩn bị án phong chân phước cho Mẹ chỉ mất có sáu năm. Một thời gian ngắn như thế, lúc đó là một kỷ lục mà Giáo Hội yêu thương dành cho Mẹ, cũng như qua Mẹ, Giáo Hội dạy chúng ta những bài học lớn bằng chính tấm gương thánh thiện của Mẹ.

Ngày 5. 9. 1997, ngay sau khi tin Mẹ Têrêsa qua đời được loan đi, đã gây một chấn động lớn cho toàn thế giới. Cũng từ ngày đó, người ta đã nghĩ ngay đến việc phong thánh cho Mẹ. Nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới đã bày tỏ lòng thương tiếc vô hạn. Lập tức Đức Gioan Phaolô II đã làm lễ tưởng niệm Mẹ ngay tại biệt thự của mình. Tổng thống Bill Clinton xúc động nói: “Mẹ là người luôn gây kinh ngạc, một trong những bậc vĩ nhân của thời đại này”. Tổng thống Hàn Quốc Kim Young Sam ghi nhận: “Nhân loại sẽ mãi mãi ghi nhớ sự hy sinh cả cuộc đời của Mẹ Têrêsa cho những người bần cùng trên thế giới”. Còn thủ tướng Singapo, Goh chok Tong thì mói: “Mẹ Têrêsa là một trong những người nổi bậc nhất của thế kỷ 20”. Và còn nữa, còn rất nhiều những lời chia buồn của các vị nguyên thủ trên khắp thế giới.

Mẹ Têrêsa là ai mà quang trọng quá vậy? Mẹ chỉ là một nữ tu người Albani, rất bình thường. Mẹ sang Aán độ lập dòng nữ tu Thừa Sai Bác Aùi. Điều đáng chú ý nơi người nữ tu bé nhỏ này là một tâm hồn vĩ đại, một tâm hồn dạt dào lòng yêu thương không nhỏ chút nào. Mẹ đã dành cả đời mình để lo cho những anh chị em cùng khổ. Mẹ đã cúi xuống để đưa người đói rét, bệnh tật, bị bỏ rơi… về lại với cuộc sống con người. Mẹ đã đưa người hấp hối bên lề đường, phố chợ về lại một mái nhà để họ được yêu thương vỗ về và được chết như một con người. Mẹ đã cúi xuống để trả lại hy vọng cho những ai mất hết lòng tin trong cuộc đời. Mẹ đã đưa bàn tay, dẫu đã già nua, nhưng tràn đầy sức mạnh của tình yêu để nâng đỡ bất cứ ai bạc nhược, cô thân, và bất cứ ai đói khát tình người, đói khát yêu thương…

Chính vì vậy, trước dong linh Mẹ, Thủ tướng Albani, Fatos Nano đã bày tỏ nỗi lòng: “Mẹ Têrêsa là con người nhỏ bé nhưng có một tâm hồn lớn lao cao cả”. Chính ông đã muốn đưa thi hài của Mẹ về nước an táng, nhưng không thành vì Mẹ là ân nhân của nhân dân Aán độ. Chính quyền Aán độ đã tuyên bố lễ tang của Mẹ là quốc tang. Hàng ngàn người Aán độ và nhiều người thuộc nhiều quốc tịch, thuộc mọi tầng lớp, bất chấp mưa gió, nối nhau xếp hàng dài hàng cây số trước trụ sở dòng Thừa Sai Bác Aùi ở Calcutta để được viếng xác và để nhìn thấy lần cuối cùng gương mặt người nữ tu vô cùng khả ái ấy. Quả thật Mẹ Têrêsa là tấm gương của thời hiện đại cho những ai muốn sống đời khiêm nhu tự hạ và phụ vụ. Chỉ khi nào đã trở nên người nhỏ bé, ta mới thật là một vĩ nhân. Bây giờ mẹ Têrêsa còn hơn một vĩ nhân: Mẹ trở thành thánh nhân. Gương nhân đức của Mẹ chiếu sáng lấp lánh cho cả loài người.

Chính Chúa Giêsu đã tự hạ đến tột cùng nên Người được Thiên Chúa tôn vinh đến tột đỉnh vinh quang. Vì thế, ai đi con đường khiêm tốn và tự hạ như Chúa, Người ấy cũng sẽ được đưa tới vinh quang tột đỉnh.

Đức Maria, Mẹ Têrêsa, và các thánh là những tấm gương trên mọi tấm ghương về nhân đức và sự thánh thiện. Để đạt tới sự thánh thiện như các ngài, chúng ta hãy khắc sâu Lời Chúa dạy trong hồn mình, để mỗi một ngày một sống lời dạy ấy cách tốt hơn, xứng đáng hơn: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”.

Ước gì lời dạy của Chúa Kitô và tấm gương yêu thương, phục vụ của Người thấm đẫm tâm hồn ta, giống như Mẹ Têrêsa, và các thánh, để nhờ đó ta luôn ý thức sứ mạng Chúa trao là phục vụ anh chị em mình, trong cuộc sống đời thường và trong chức vụ mà mình đang mang, đang gánh như: là một người cha, người mẹ, là bổn phận làm con, bổn phận đào tạo con người, hoặc mình là người buôn bán, làm thuê độ nhật, hay trong vai trò của người nghiên cứu, học tập… Nhờ ý thức như thế, ta sẽ ra sức chu toàn bằng tất cả tài năng, sức lực, suy nghĩ, hành động của bản thân. Vì khi chu toàn ơn gọi Chúa trao là lúc ta nên thánh trong chính ơn gọi của mình.

Về mục lục

.

CHÚNG TA TIN VÀO CHÚA GIÊSU CHỊU ĐÓNG ĐINH

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Ngày xưa, sau khi thấy Chúa Giêsu làm phép lạ, dân chúng đi theo Người rất đông. Họ đi theo vì chờ đợi Chúa Giêsu sẽ cho họ bánh ăn mà không cần làm việc. Cũng vậy, các môn đệ theo Chúa Giêsu vì họ ngưỡng mộ một người thầy trẻ trung, năng động, dám lên tiếng bênh vực cho sự thật và công lý. Các tông đồ mong đợi ngày nào đó Chúa sẽ khởi nghĩa thành công, xưng vương, các ông sẽ được chia sẻ vinh quang và quyền lực với Chúa. Tuy nhiên, khi Chúa nói với mọi người về sứ mạng của Ngài không phải là giành lại ngai vàng và quyền lực tại trần gian, mà là đón nhận cái chết thập giá, thì đã có nhiều người, kể cả các môn đệ dường như thất vọng. Họ không muốn theo một vị Thầy sẽ phải chết trong thất bại đau đớn nhục nhã như vậy, vì thế họ bỏ đi. Không vì bất cứ lý do gì khiến Chúa Giêsu thay đổi chọn lựa của Ngài, Chúa Giêsu chọn đi theo con đường mà Thiên Chúa Cha đã muốn, đó là con đường khiêm hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhân loại.

Bước vào trần gian, Chúa Giêsu đã sống và đi hoàn toàn ngược lại với xu hướng và dòng chảy của thế gian. Người đời tìm kiếm vinh dự, quyền lực, tiền bạc, danh vọng, Chúa Giêsu lại chọn để trở nên một người tôi tớ của Thiên Chúa. Mang thân phận là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không giữ lại cho mình vinh dự nào, Ngài chấp nhận mang lấy thân phận tôi đòi, bị người đời hành hạ nhục mạ, như tiên tri Isaia đã mô tả trong bài ca về Người Tôi Tớ của Thiên Chúa: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó làm vướng chân ta, cản trở công việc của ta, nó chống lại những việc ta làm. Nếu nó là người công chính, Thiên Chúa chắc chắn sẽ cứu nó khỏi tay địch thù. Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó để biết nó hiền lành làm sao, thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào. Ta hãy kết án cho nó chết nhục nhã, vì như nó nói, Thiên Chúa sẽ cứu nó”. Những lời tiên báo này được nói trước đó năm trăm năm, nay được ứng nghiệm nơi cuộc đời của Chúa Giêsu. Tiên tri Isaia đã thấy trước về sứ mạng Đức Giêsu trải qua trong đau đớn, khổ nhục, bị người đời khinh chê, khạc nhổ, loại trừ.

Các môn đệ cũng giống như những Người Do Thái khác, họ mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng lại là Đấng Cứu Thế theo ý của họ. Hôm nay, vì muốn cho các tông đồ có thể bình tâm đón nhận được sự thật, Chúa Giêsu tách riêng các môn đệ ra khỏi đám đông dân chúng để Ngài dạy họ: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người và ba ngày sau Người sẽ sống lại”. Tác giả Tin Mừng nhận định: Các môn đệ không hiểu và sợ không dám hỏi lại. Lời mặc khải này, Chúa Giêsu nói về chính bản thân mình. Chúa nói trước cho các tông đồ biết việc Chúa sẽ bị bắt, bị nộp vào tay người đời và bị giết chết. Theo lẽ tự nhiên, đang lúc thành công không ai muốn nói về thất bại, đang lúc khỏe mạnh không ai muốn nói về cái chết. Chúa Giêsu lại làm ngược lại, Ngài nói về thất bại đang lúc rất thành công, Ngài nói về cái chết đang khi mọi người tung hô và các môn đệ đặt hết hy vọng vào Ngài. Điều đó chứng tỏ rằng, Chúa không mị dân, không lấy những thành công bên ngoài để lôi kéo người khác, nhưng Ngài luôn chỉ cho thấy sự thật về sứ mạng của Ngài là phải bị bắt bớ, đau khổ và bị giết.

Chúa Giêsu không dừng lại đó, Ngài còn mặc khải thêm một điều hết sức quan trọng và cũng là mặc khải chính yếu, đó là: Ngài sẽ sống lại sau ba ngày. Sống lại sau cái chết là mục đích của chương trình cứu chuộc của Chúa chứ không dừng lại ở đau khổ. Thập giá, đau khổ và cái chết chỉ là phương thế để đạt đến sự phục sinh. Đó là điều các tông đồ chưa thể hiểu và cũng chưa thể chấp nhận được. Vì thế, các ông sợ không dám hỏi lại Chúa, hay đúng hơn, các ông không muốn hỏi lại vì không muốn đón nhận đau khổ thập giá.

Các tông đồ dường như đang muốn trốn tránh sự thật về mặc khải của Chúa, các ông không muốn nghe, không muốn đón nhận, nên đã bàn qua chuyện khác. Các ông bàn nhau xem trong anh em ai là người lớn hơn, ai sẽ được trao quyền lực nhiều hơn. Thấy các học trò của mình đang tìm cách tránh né sự thật như vậy, khi về đến nhà, Chúa Giêsu đã gọi nhóm Mười Hai lại, yêu cầu các ông ngồi xuống quanh Ngài và Ngài chấn chỉnh lại suy nghĩ và ham muốn tìm kiếm quyền lực và danh vọng nơi các ông bằng bài học phục vụ: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm kẻ phục vụ mọi người”. Khi dạy như thế, Chúa Giêsu đã hoàn toàn đảo lộn suy nghĩ và quan niệm của các tông đồ trước đây. Các tông đồ theo Chúa với mục tiêu tìm kiếm quyền lực và địa vị, thì giờ đây Chúa muốn các ông phải trở thành rốt hết và là những con người dám phục vụ người khác. Đòi hỏi của Chúa Giêsu là một nghịch lý và cũng là một thách thức cho tất cả những người tin theo Chúa.

Kế đó, Chúa Giêsu xác định lại cho các tông đồ biết mục tiêu và thái độ khi đi theo Chúa là gì? Là phải có một tâm hồn đơn sơ, tín thác vào Chúa như một trẻ nhỏ và đón nhận chính Chúa vào trong cuộc đời của mình. Chúa muốn các môn đệ của Chúa phải có một tâm hồn mở rộng để đón nhận người khác, kể cả các em nhỏ là tầng lớp bị coi thường trong xã hội. Trẻ nhỏ là những người không có gì để trả lại, trẻ nhỏ luôn cần sự trợ giúp của người lớn. Khi dám đón nhận người khác giống như đón nhận một em nhỏ tức là đón nhận người khác một cách vô vị lợi không tình toán và còn sẵn sàng để cho người khác làm phiền mình, chiếm thời gian, sức lực của mình. Chúa Giêsu muốn mỗi chúng ta cũng dám đón nhận Chúa như vậy. Khi dám đón nhận Chúa một cách quảng đại và sẵn sàng phục vụ Chúa như đón nhận trẻ nhỏ, Chúa Giêsu kể như đón tiếp chính Thiên Chúa Cha – Đấng đã sai Ngài.

Thưa quý OBACE, người tín hữu chúng ta không đi tìm đau khổ thập giá, mà là đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu lại chấp nhận trải qua con đường đau khổ thập giá để bước vào trong vinh quang phục sinh. Vì vậy, muốn theo Chúa Giêsu, chúng ta không thể đi đường tắt, cũng không thể đi một con đường nào khác ngoài con đường chúa đã đi. Vì một khi cố tìm kiếm một con đường nào khác, chúng ta sẽ đi lạc, không thể gặp được Đức Giêsu.

Đức Giêsu đã bước vào con đường thập giá vì lòng yêu mến và sự vâng phục hoàn toàn thánh ý Chúa Cha. Qua hành trình đau khổ và cái chết thập giá, Thiên Chúa đã muốn diễn tả tình yêu tột cùng Ngài dành cho nhân loại; và qua cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thể hiện quyền năng tuyệt đối của Ngài vượt trên sự dữ và sự chết. Do đó, những ai tin và bước theo Chúa Giêsu, tức là dám bước theo Chúa trên hành trình thập giá vì lòng yêu mến và vâng phục thì cũng được chia sẻ vào vinh quang phục sinh với Chúa.

Trong thực tế, chúng ta không dễ dàng để đối diện với đau khổ và chết chóc, chúng ta tìm cách tránh né. Lời Chúa hôm nay cho thấy: một khi tin Chúa, theo Chúa, Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm để ta đương đầu với đau khổ và sự chết. Chúng ta không tìm kiếm đau khổ nhưng khi gặp đau khổ, chúng ta dám sống trong phó thác và tin rằng chúng ta không phải đương đầu một mình, nhưng có Chúa cùng đồng hành và trợ giúp chúng ta.

Chúa không hứa hẹn cho chúng ta cuộc sống dễ dãi, nhưng Người chắc chắn những ai dám vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, sẽ được cùng chia sẻ vinh quang phục sinh với Chúa. Theo Chúa, không phải để tìm kiếm danh vọng hay địa vị, nhưng là dám học nơi Chúa để cúi mình phục vụ anh chị em như một người tôi tớ. Các linh mục tu sĩ được mời gọi phục vụ cộng đoàn theo bậc sống của mình; các người sống đời gia đình được mời gọi phục vụ trước hết cho gia đình, kế đến là những người chung quanh mình. Cha mẹ, vợ chồng con cái phục vụ nhau, hy sinh cho nhau và cùng vác thập giá vì nhau bước đi cùng với Chúa, Chúa sẽ làm cho từng nhịp sống của gia đình trở thành những cung điệu yêu thương.

Xin Chúa giúp chúng ta dù sống trong bậc nào, là tu sĩ, linh mục hay sống đời gia đình, là người già hay người trẻ, đều biết đón nhận Đức Giêsu chịu đóng đinh làm gương mẫu và dám vác thập giá cuộc đời của mình bước theo Ngài. Nhờ đó, chúng ta cùng chia sẻ vinh quang phục sinh với Ngài . Amen.

Về mục lục

.

LÀM NGƯỜI PHỤC VỤ

Bông hồng nhỏ

Bé Vân cầm vở toán chạy vào bếp gọi mẹ:

  • Mẹ ơi, bài toán này khó quá!
  • Con ra hỏi bố, bố chỉ cho.
  • Bố chỉ rồi mà con không hiểu.
  • Thì con nói bố chỉ lại, chỉ từ từ thôi.
  • Nhưng… con sợ.

Nỗi sợ làm ta không dám hỏi, dù ta chưa hiểu. Hôm nay, khi nghe Thầy Giê-su loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh lần thứ hai, các môn đệ vẫn không hiểu nhưng các ông sợ không dám hỏi  lại Thầy (x. Mc 9,30-32).

Các ông sợ điều gì vậy? Lần trước khi nghe Thầy loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh, Tông đồ Phê-rô đã kéo riêng Thầy ra mà trách (x.Mc 8, 31-33). Đó là lời trách yêu bởi ông lo lắng cho Thầy nhưng Thầy lại mắng ông là “Xatan, lui lại đằng sau Thầy”. Các ông sợ bị khiển trách hay sợ phải đối diện với sự thật? Theo Chúa, nhiều khi ta cũng chọn cách im lặng không dám hỏi Chúa, để ta được tự do đi theo con đường riêng của mình. Ta vẫn đi theo Chúa nhưng kỳ thực lòng ta lại cách xa Chúa.

Nhìn ngắm hình ảnh đôi bạn cùng sánh bước lúc chiều tà, tay trong tay tỏ niềm tâm sự, ta thấy nó thật đẹp. Có một hình ảnh đẹp hơn mà Thánh sử Mác-cô đã ghi lại nhiều lần: “Đức Giê-su và các môn đệ”, hình ảnh Thầy trò song hành thật đẹp. Thầy đi đâu trò đi theo đó. Hôm nay cung là Thầu đi trước, trò theo sau nhưng dường như bước chân trò có gì đó không cùng nhịp bước với Thầy. Trò không cùng nhịp với Thầy bởi các trò đang bận tâm, theo đuổi những nẻo đường riêng của mình. Người môn đệ vẫn chưa hiểu đường Thầy đi, con đường Thương Khó và Phục Sinh mà Thầy loan báo đến hôm nay là lần thứ hai. Thầy có buồn không khi chẳng có ai hiểu nỗi lòng mình, chẳng có ai san sẻ, làm vơi bớt nỗi ưu tư đang đè nặng tâm hồn? Thầy buồn lắm khi các môn đệ thương mến lại cãi cọ tranh dành nhau chỗ đứng.  Bởi không hiểu chương trình của Thiên Chúa dành cho Đức Ki-tô nên các ông đã hiểu sai con đường Ngài sẽ đi. Con đường Ngài đi không phải là con đường đấu tranh chính trị để giải phóng dân tộc, để xưng vương xưng bá nhưng là con đường phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (x. Mc 10,45).

Thầy hiểu rõ lòng người môn đệ còn u tối, bị danh vọng, tiền tài, tham vọng làm đầu chi phối: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” (Mc 9,33b). Câu hỏi nhẹ nhàng của Thầy khiến các ông làm thinh. Các ông xấu hổ vì bị Thầy bắn trúng tim đen hay xấu hổ vì đã làm Thầy khổ tâm? Chắc hẳn các ông nhìn thấy ánh mắt đượm buồn của Thầy. Thầy đã chẳng quát tháo, mắng mỏ hay giận dữ ngăn cản các ông cãi nhau vì các ông làm Thầy mất mặt. Thầy dạy dỗ các ông cách tế nhị, với tình thương nhưng không. Về đến nhà, nơi các ông có thể ngồi lại với Thầy và ngồi lại bên nhau để mọi xích mích, mọi tranh chấp được tháo gỡ, để tình thương nối liền tất cả. Thầy biết lòng người môn đệ đều muốn làm người đứng đầu nên Thầy ân cần chỉ dạy: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35). Con đường đó chính Thầy đã đi, đang đi và sẽ đi cho đến cùng. Theo Chúa, ta có dám cùng đi với Chúa trọn con đường ấy không? Nếu ta đặt tình yêu vào mỗi bước chân, mỗi việc làm dù nhỏ bé và làm vì Danh Chúa Giê-su là ta đã có Giê-su ở cùng, có Chúa Giê-su ở cùng là ta được chính Chúa Cha ở cùng.

Lạy Chúa Giê-su mến yêu! Chúa yêu con thật quá lạ lùng. Chúa đã chịu treo mình trên Thánh Giá để cho máu đào tuôn chảy, cho tình yêu gột rửa tội đời, cho Thánh Ý Chúa Cha thể hiện, đó là tình yêu đẹp nhất.  Xin cho con cùng đi với Chúa sao cho cùng nhịp bước, cùng nhịp đập trái tim, từng hơi thở mỗi phút giây của đời con đều hòa điệu với Chúa. Nếu có khi nào con lỡ bước, con chưa hiểu điều Chúa muốn, xin ánh sáng Lời Chúa dẫn dắt con để con theo gương Chúa phục vụ vì yêu mến. Amen.

Về mục lục

.

TRỞ NÊN NGƯỜI CAO QUÍ

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Muốn tỏ ra mình là người có giá trị, hay nói khác đi, muốn tự khẳng định giá trị của mình là một nhu cầu hết sức quan trọng của con người và nhu cầu này được biểu hiện bằng nhiều hình thức trong cuộc sống.

Thời Chúa Giê-su, các vị kinh sư và các người biệt phái tự khẳng định mình bằng cách “đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi” (Mt 23, 5-7).

Ngay cả các môn đệ Chúa Giê-su cũng thường tranh luận với nhau xem ai trong họ là người lớn nhất. Điều nầy đã được ghi lại nhiều lần trong Tin mừng (Mc 9, 33-34; Lc 9, 46; Mt 18,1; Lc 22, 24).

Có lần, hai môn đệ Gioan và Giacôbê cùng với mẹ mình đến xin Chúa Giê-su cho ngồi bên tả bên hữu Chúa khi đến thời Ngài được hiển vinh. Bấy giờ, mười môn đệ kia tỏ ra bất bình với Gioan và Giacôbê vì anh em nhà nầy muốn giành trước hai chiếc ghế mà họ đang mơ ước (Mt 20, 20-24; Mc 10, 35-37).

Khát vọng của con người là thế đó. Ai cũng muốn nổi bật, ai cũng muốn vươn cao; không ai muốn bị lu mờ. Nói chung, ai cũng muốn làm gia tăng giá trị của mình.

Đây là một khao khát tự nhiên. Chính Thiên Chúa đã đặt vào tâm hồn con người khát vọng đó để thúc đẩy họ vươn lên thành những người cao cả. Chúa Giê-su cũng kêu gọi các môn đệ vươn tới đỉnh trọn lành: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48).

Làm thế nào để trở thành người cao cả thật sự?

Có người cố làm tăng giá trị của mình bằng cách trang điểm và chưng diện. Tuy nhiên, người ta không thật sự trở nên cao cả nhờ nhan sắc, vì “tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.”

Có người tìm cách làm gia tăng giá trị của mình bằng cách sở hữu thật nhiều vàng bạc của cải, nhưng thực ra, “giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu.”

Có người trau dồi và phát huy tài năng cho người ta nể phục, hoặc cố giành những địa vị cao trong xã hội để nâng giá trị mình lên.

Còn Chúa Giê-su, nhân cơ hội các môn đệ tranh cãi sôi nổi ai là người lớn nhất, Ngài chỉ cho họ một cách để trở thành cao cả thực sự. Đó là “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35).

Lời dạy của Chúa Giê-su xem ra trái nghịch với suy nghĩ của người đời. Thông thường, muốn làm lớn thì phải tôn mình lên để thống trị người khác; đằng nầy Chúa Giê-su dạy phải hạ mình xuống làm tôi tớ hầu hạ mọi người. Thật thế ư?

Ngày 5 tháng 9 năm 1997, cả thế giới xúc động, thương tiếc và bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu xa khi hay tin Mẹ Tê-rê-xa, một nữ tu già nua, thấp bé, nghèo nàn, không có nhan sắc… qua đời tại Calcutta, Ấn-độ ở tuổi 87. Nhà Nước Ấn-độ, một quốc gia phần đông theo Ấn-độ-giáo, đã long trọng tổ chức quốc táng cho Mẹ Tê-rê-xa, một nữ tu công giáo khiêm tốn bình dị, người gốc An-ba-ni! Hơn triệu người dân Ấn-độ tuôn ra đường để tiễn đưa Mẹ Tê-rê-xa đến nơi an nghỉ cuối cùng. Thật là điều không tưởng tượng nổi.

Tại sao Mẹ Tê-rê-xa lại được vinh dự lớn lao như thế?

Vì Mẹ đã thực hành đến mức hoàn hảo điều mà Chúa Giê-su truyền dạy cho các môn đệ trong Tin mừng hôm nay. Đó là hạ mình làm tôi tớ hầu hạ phục dịch những con người khốn khổ nhất thế gian với lòng yêu thương vô hạn.

Cuộc đời của Mẹ Tê-rê-xa Calcutta là một bằng chứng hùng hồn cho thấy rằng giáo huấn của Chúa Giê-su là xác đáng: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35).

Như thế, phục vụ trong yêu thương và khiêm hạ chính là con đường đưa tới vinh quang.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con tỉnh táo nhận ra rằng giá trị con người không tuỳ thuộc vào những thứ “phụ tùng” mà người ta khoác vào thân như các loại y phục hợp thời trang hay các đồ trang sức xa hoa, đắt giá; giá trị con người cũng không tuỳ thuộc vào của cải, bạc vàng châu báu hay địa vị công danh… nhưng cốt yếu là tuỳ vào đức hạnh, vào phẩm chất cao đẹp của mỗi người.

Xin dạy chúng con biết làm gia tăng giá trị bản thân bằng cách hiến thân hy sinh phục vụ mọi người như Chúa đã nêu gương.

Về mục lục

.

ĐẤNG KI-TÔ, NGƯỜI CÔNG CHÍNH CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Kn 2:12.17-20;  Gc 3:16 – 4:3;  Mc 9:30-37)

          Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại Chúa Giê-su tiên báo lần thứ hai về cuộc Thương Khó Người sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem.  Trong mỗi lần Chúa tiên báo, thánh Mác-cô cho chúng ta thấy hai chiều kích, một về chính Chúa Giê-su và hai về phản ứng của các môn đệ Người.  Lần thứ nhất, song song với việc Chúa Giê-su nói đến sứ mệnh của Con Người, tức Đấng Ki-tô, là bài ca Người Tôi Trung trích sách ngôn sứ I-sai-a.  Bài ca nhấn mạnh đến sự nhẫn nhục và vâng lời Thiên Chúa của Chúa Giê-su.  Còn phản ứng của các môn đệ trước lời tiên báo là việc Phê-rô can gián Chúa đừng để cho cuộc Thương Khó xảy ra.  Hôm nay là lần tiên báo thứ hai, chúng ta có bài trích sách Khôn Ngoan mô tả người công chính chịu lăng nhục và bị kết án chết, để nói lên Đức Ki-tô là “người công chính” của Thiên Chúa.  Vậy sách Khôn Ngoan mô tả người công chính ấy thế nào?

          “Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã!”  Đó là lời hô hoán đồng thanh của “phường vô đạo” quyết tâm hại “tên công chính, con Thiên Chúa”.  Vậy thì lý do nào khiến bọn ác nhân kia phải diệt bằng được người công chính?  Bọn họ đã trả lời là “vì nó làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo”.  Đúng thế, Chúa Giê-su đã làm”vướng chân” nhóm Pha-ri-sêu cùng các kinh sư, và Người đã “chống lại” những việc làm giả hình khoa trương của họ (xem Mát-thêu 23:1-36).  Cho nên sau khi đã tìm đủ cách để bắt bẻ, tranh luận và cố hạ uy thế của Chúa Giê-su trước mặt dân chúng mà không làm gì được Người, nên họ cuống cuồng bảo nhau: “Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!”  Thế là các thượng tế quyết định giết Chúa Giê-su và cả anh La-da-rô nữa, vì tại anh mà dân chúng theo Chúa (Gio-an 12:10-11, 19).  Chúa Giê-su đã khiển trách nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư không phải vì Người thù ghét họ, nhưng Người đã lên tiếng như một người Cha đầy lòng thương xót muốn nhắc nhở và kêu mời những đứa con hoang đàng trở về.  Người mong họ từ bỏ lối sống “ghen tương và tranh chấp” để sống theo “đức khôn ngoan” của Thiên Chúa (như thánh Gia-cô-bê nhắc đến trong bài đọc 2).  Quả thực, sống theo đức khôn ngoan, chúng ta sẽ được trở nên “trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình” (Gc 3:16, 17).  Tóm lại, đây là những đặc nét của hình ảnh người công chính đã được thể hiện hoàn toàn nơi Chúa Giê-su, người công chính của Thiên Chúa.

          Nếu bài trích sách Khôn ngoan và bài trích thư thánh Gia-cô-bê đã trình bày Đấng Ki-tô như người công chính, thì việc Chúa Giê-su tiên báo lần thứ hai về cuộc Thương Khó lại cho chúng ta thấy một điểm vô cùng độc đáo về Đấng Ki-tô:  “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.  Có lẽ không có đoạn Tân Ước nào diễn tả tuyệt vời về Đấng Ki-tô hơn là đoạn thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Phi-líp-phê 2:6-8.  Phải, từ địa vị Thiên Chúa, Chúa Giê-su đã được sai đến trần gian để trở nên “người rốt hết” bằng cách nhận lấy “thân nô lệ” và bằng lòng chịu chết ô nhục trên thập giá.  Chúa Giê-su còn “làm người phục vụ mọi người”.  Chúa đã phục vụ mọi người qua sứ mệnh rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh nhân và trừ ma quỷ.  Tột đỉnh của việc phục vụ là Người chấp nhận cái chết ô nhục, để mọi người được cứu chuộc làm con Thiên Chúa.  Đó là cách Người phục vụ nhân loại vì yêu thương họ đến cùng.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Không phải Chúa Giê-su chỉ báo trước cuộc Thương Khó của Người, mà Người còn dạy chúng ta nhiều bài học nữa.  Sau khi Chúa đã báo trước lần thứ hai về cuộc Thương Khó, điều mỉa mai là các môn đệ lại “cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”.  Chắc họ tranh nhau xem ai là người sẽ “kế vị” Chúa sau khi Người bị giết chết!  Thế là Chúa cho họ và cho cả chúng ta một bài học đích đáng!  Hãy làm “người rốt hết” và làm “người phục vụ”.  Chúa không có ý bảo chúng ta phải luôn luôn đứng bét, phải đội sổ…, nhưng chúng ta hãy là người khiêm nhường đích thực.  Nếu làm người khiêm nhường đích thực, thì kết quả tất nhiên là đức khiêm sẽ giúp chúng ta phục vụ người khác với lòng yêu thương, sẽ giúp chúng ta “cúi xuống và rửa chân cho anh em”, cho dù chúng ta có là thầy cô, cha mẹ hay người có địa vị.

          Một bài học khác chúng ta có thể học nơi “người công chính” là Chúa Giê-su.  Đó là bài học can đảm.  Thử hỏi có ai biết mình sẽ “bị nộp vào tay người đời và bị họ giết chết” mà vẫn chấp nhận không?  Chúa Giê-su Ki-tô đã can đảm chấp nhận chết cho chúng ta.  Động lực giúp Người được can đảm chính là tình yêu.  Người chết để làm chứng rằng “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian” và muốn mọi con cái Người được ở bên cạnh Người muôn đời.  Cuộc đời trần thế của Chúa Giê-su là một chứng từ tình yêu vĩ đại chưa từng có.  Đồng thời cuộc sống của Người cũng là một mẫu mực cho hết thảy Ki-tô hữu và là lời mời gọi chúng ta hãy làm chứng nhân tình yêu Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh sống.  Để làm chứng nhân tình yêu, chúng ta hãy tiếp nhận anh chị em “vì danh Thầy”, tức là vì Tình Yêu, để ta cũng được Chúa tiếp nhận!

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 25 TN_B

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Như Chúa Nhật trước, Chúa Nhật XXV tuần này nêu bật viễn cảnh về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh được Đức Giê-su loan báo lần thứ hai theo sách Tin Mừng Mác-cô. Ở nơi chủ đề này, ngầm chứa những tranh cãi phàm nhân có thể dẫn đến ghen tuông, thù hận, thậm chí sát hại đối thủ của mình. Người Công Chính (Bài Đọc I và Tin Mừng) là nạn nhân tiêu biểu cho sự ghen tuông và thù hận này.

Kn 2: 12, 17-20

Trong Bài Đọc I trích từ sách Khôn Ngoan, chính vì cuộc sống trọn tình vẹn nghĩa với đạo mà Người Công Chính bị quân vô đạo bách hại cho đến chết.

Gc 3: 16-18; 4: 3

Đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê là cuộc bút chiến lên án những ghen tuông tranh chấp xuất phát từ những đam mê và những khuynh hướng xấu. Trái lại, Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa là yêu thương anh em mình cho đến quên bản thân mình.

Mc 9: 29-36

Trong Tin Mừng, Đức Giê-su loan báo lần thứ hai cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài, nhưng các ông chẳng những không chịu hiểu mà còn tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm họ. Chúa Giê-su muốn họ hiểu rằng trong Giáo Hội của Ngài người lớn nhất là người hầu hạ mọi người. Đó là bầu khí thân thương của một gia đình trong đó cha mẹ là người lớn nhất lại trở thành người hầu kẻ hạ tận tình phục vụ con cái của mình.

BÀI ĐỌC I (Kn 2: 12, 17-20)

Tác giả sách Khôn Ngoan là một người Do thái sinh trưởng ở thành A-lê-xan-ri-a, ông đã viết tác phẩm của mình vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Thành A-lê-xan-ri-a lúc đó là một trong những trung tâm rực rỡ nhất của văn hóa Hy lạp và đồng thời là một trong những thành phố quan trọng nhất của những người Do thái Hải Ngoại.

Quả thật, cộng đồng Do thái ở đây gìn giữ nét đặc thù của mình. Tuy nhiên, sức cám dỗ của môi trường ngoại giáo chung quanh là một thực tế hằng ngày: tính đa dạng của những lý luận triết học, sự phát triển của các bộ môn khoa học, tôn giáo tổng hợp, sức hấp dẫn của những tôn giáo bí nhiệm, vân vân. Ở thành phố này, số lượng những người bội giáo càng lúc càng đông. Tác giả viết sách Khôn Ngoan để phòng ngừa những sa ngã mới ở nơi những anh em đồng đạo của ông. Với tâm trí sáng suốt của một hiền nhân, ông ra sức chận đứng sự thù ghét càng ngày càng gia tăng ở giữa họ: từ ước muốn dập tắt những lời trách cứ gây phiền hà cho cuộc sống vô đạo của mình, cho đến ước muốn làm khổ và làm hại người công chính lòng dạ sắc son.

  1. Lập luận cực đoan của quân vô đạo

Đoạn trích sách Khôn Ngoan này không là sấm ngôn trực tiếp liên quan đến cuộc Tử Nạn của Đức Ki-tô, nhưng là một phân tích tâm lý mô tả tình trạng tinh thần của những người Do thái bội giáo trước cuộc sống đạo hạnh của người công chính. Cuộc sống trọn tình vẹn nghĩa với đạo của người công chính khiến quân vô đạo chướng tai gai mắt không thể nào chịu nỗi. Lòng căm tức đã đẩy họ đến lập luận quá khích, dẫn họ đến làm khổ và sát hại người công chính: “Ta hãy gài bẫy hại người công chính, vì nó làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm luật Chúa và hạch ta không giữ lễ giáo. Ta hãy xem những lời nó nói có thật không và nghiệm xem cuối cùng nó sẽ ra sao”. Tiến trình thù ghét này một ngày kia được áp dụng chống lại Người Công Chính tuyệt hảo là Đức Giê-su. Vì thế, sứ điệp này mặc lấy một khía cạnh ngôn sứ.

  1. Người công chính chịu đau khổ

“Nếu người công chính là con Thiên Chúa, thì Người sẽ phù hộ nó”. Tước hiệu “con Thiên Chúa” được dành cho dân Chúa chọn, họ hãnh diện vì Thiên Chúa đã công bố họ là con cái của Ngài. Nhưng trong trường hợp này, tước hiệu “con Thiên Chúa” mặc lấy một sấm ngôn, vì đó sẽ là lý do mà Thượng Hội Đồng Do thái sẽ nại đến để kết án tử Đức Giê-su: “Người này tự xưng mình là Con Thiên Chúa”.

“Ta hãy lên án cho nó phải chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm”. Những lời này nhắc nhớ Tv 22 mô tả người công chính bị bách hại kêu gào nỗi khốn khổ của mình, nhưng cũng đặt niềm cậy trông của mình vào Đức Chúa. Chính Thánh Vịnh này mà trên Thập Giá Đức Giê-su thốt lên cách thống thiết: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”.

Những kẻ thù của Đức Giê-su cũng sẽ trích Thánh Vịnh này để nói với nạn nhân của họ đang hấp hối trên thập giá: “Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: Ta là Con Thiên Chúa” (Mt 27: 43). Tác giả sách Khôn Ngoan phác họa trước dung mạo Người Công Chính lý tưởng gần một trăm năm sau đó.

BÀI ĐỌC II (Gc 3: 16-18; 4: 3)

Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Gia-cô-bê. Đoạn trích thư hôm nay chứa đựng những lời khuyên bảo theo hình thức châm ngôn gợi nhớ cách thức mà các bậc hiền nhân Cựu Ước đã sử dụng, nhưng mang hơi thở Tin Mừng. Thánh Gia-cô-bê đã nhiều lần khai triển mối phúc thứ nhất: “Phúc thay những người nghèo khổ!”. Đoạn văn trích dẫn hôm nay minh họa một mối phúc khác: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình!”. Đoạn văn này có hai phần đối nghịch nhau:

  1. Những danh thơm tiếng tốt của Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa (3: 16-18)

Trong phần thứ nhất, tác giả liệt kê những danh thơm tiếng tốt của Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa. Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa “làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, mềm dẻo, mến chuộng điều lành, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình”. Việc liệt kê những phẩm chất của Đức Khôn Ngoan nhắc nhớ bài ca đức mến trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tuông, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13: 4-7). Nhưng thánh Gia-cô-bê đặt dấu nhấn chủ yếu trên việc xây dựng hòa bình: “người xây dựng hòa bình là người gieo giống trong hòa bình; và hoa trái họ thu hoạch được là cuộc đời công chính”.

  1. Những hận thù, ghen ghét của con người (4: 1-3)

Đối nghịch với những phẩm chất của Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa là những xung đột ở bên trong con người, trong đó những ham muốn là nguyên do sâu xa nhất của “những hành động hung ác”. Cung giọng của tác giả trở nên khẩn thiết, văn phong được đẩy cao đến mức ngoa dụ: “Anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột nhau, gây chiến với nhau”. Cách diễn tả dữ dội này, chúng ta cũng gặp thấy ở nơi thư thứ nhất của thánh Gioan: “Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân” (1Ga 3: 15). Những từ ngữ và hình ảnh ở đây thuộc thể loại bút chiến.

Là thủ lãnh của cộng đồng tín hữu Giê-ru-sa-lem, Giáo Hội Mẹ, thánh Gia-cô-bê cảm thấy mình chịu trách nhiệm về những tín hữu ở xa của mình; vì thế, thánh nhân đặt tất cả hồn tông đồ của mình vào những lời kêu gọi sống cuộc đời Ki-tô hữu chân chính.

TIN MỪNG (Mc 9: 30-37)

Trong đoạn trích Tin Mừng hôm nay, ý tình đan quyện vào nhau, tâm tư tình cảm dạt dào cảm xúc. Đức Giê-su thực hiện giai đoạn sau cùng sứ vụ tại miền Ga-li-lê của Ngài. Ngài trở lại lần cuối cùng thành Ca-phác-na-um được xem là bản doanh sứ vụ của Ngài. Từ đó, Ngài sẽ lên Giê-ru-sa-lem để bước vào con đường Thương Khó và Tử Nạn, Phục Sinh và Lên Trời của Ngài. Chúng ta biết rằng trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, Chúa Giê-su chỉ lên Giê-ru-sa-lem một lần, trong khi Tin Mừng Gioan tường thuật Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem nhiều lần vào các đại lễ trong năm.

  1. Loan báo lần thứ hai cuộc Tử Nạn và Phục Sinh

Khi đi ngang qua miền Ga-li-lê, Đức Giê-su tránh gặp gỡ đám đông; Ngài giới hạn giáo huấn của Ngài chỉ trong vòng các môn đệ của Ngài. Khi Thầy trò đang đi trên đường, Ngài gợi lên lần thứ hai viễn cảnh cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài bằng những ngôn từ hầu như y hệt lời loan báo thứ nhất.

“Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời”. Động từ “nộp” ở đây có một ý nghĩa rất mạnh, nhưng được dùng ở thể thụ động “bị nộp” muốn nói lên điều gì? Sau này, thánh Mác-cô sẽ vạch mặt chỉ tên những kẻ nộp Đức Giê-su đưa Ngài đến cái chết: đó là ông Giu-đa (14: 10), các thượng tế (15: 1) và quan tổng trấn Phi-la-tô (15: 15). Tuy nhiên, đây cũng là hình thức thụ động thần linh thông dụng mà người Do thái thường dùng để chỉ Thiên Chúa là tác nhân bằng cách tránh nêu danh Người vì lòng tôn kính. Vì thế, cái chết của Đức Giê-su có thể quy trách cho những kẻ tội lỗi gây ra, nhưng nhất là nằm trong ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Đó cũng là điều mà lời loan báo đầu tiên diễn tả: “Con người phải chịu nhiều đau khổ”. Đây không là cái tất yếu của định mệnh mà Đức Giê-su phải chịu, nhưng là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa mà Đức Giê-su phải thực hiện.

“Vào tay người đời”, đây là diễn ngữ Kinh Thánh để chỉ những kẻ thù không có lòng xót thương. Ở đây kiểu nói này hình thành nên một sự đối chiếu thống thiết với danh xưng “Con Người”. Qua danh xưng “Con Người”, Đức Giê-su nhấn mạnh nhân tính của Ngài. Như bao nhiêu con người khác, Ngài cũng biết đau khổ và sự chết đang chờ đợi Ngài, nhưng vận mệnh của Ngài được hoàn tất theo thị kiến của Đa-ni-en về Con Người trong vinh quang. Vì thế, như trong lần loan báo đầu tiên, trong lời loan báo thứ hai này, sau khi báo trước cuộc Tử Nạn của mình, Đức Giê-su cũng báo trước cuộc Phục Sinh của Ngài. Như vậy Tử Nạn và Phục Sinh là hai mặt của một thực tại bất khả phân.

  1. Nỗi cô đơn của Đức Giê-su

Mỗi lần Chúa Giê-su loan báo rõ ràng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, thánh Mác-cô đều nhấn mạnh đến “sự ngu muội” chậm hiểu của các môn đệ (8: 32; 9: 32). Các ông không hiểu, nhưng không dám hỏi Ngài; thay vì đó, các ông lại nghĩ đến việc khác. Các ông đinh ninh rằng việc đi lên Giê-ru-sa-lem lần này chắc hẳn Thầy mình sẽ thực hiện sứ mạng của Đấng Mê-si-a, Ngài sẽ thiết lập vương triều của Ngài; vì thế, các ông bắt đầu tranh luận với nhau về những đặc quyền đặc lợi, xem ai là người lớn nhất trong nhóm.

Đức Giê-su không dự phần vào cuộc tranh luận của họ; chắc chắn Ngài đi một mình riêng ra. Không ai trong nhóm Mười Hai, những người đã gắn bó với Ngài suốt ba năm nay, hỏi Ngài về vận mệnh đau thương mà Ngài mời gọi họ dự phần vào. Nói cho cùng, ở nơi họ Ngài không gặp thấy sự đồng hội đồng thuyền đồng sinh đồng tử với Ngài. Đây là khúc dạo đầu cho việc bỏ rơi hoàn toàn mà Ngài sẽ nhận biết vào lúc Ngài bị bắt. Chúng ta cảm thấy nỗi đau đớn của Ngài qua cách trình bày giản dị của đoạn Tin Mừng này.

  1. Bài học về sự phục vụ

Khi đến thành Ca-phác-na-um, vào trong nhà, Đức Giê-su hỏi các môn đệ: “Dọc đường, anh em tranh luận với nhau về chuyện gì vậy?”. Các ông làm thinh, không ai dám thú nhận điều làm họ bận lòng trên đường. Nhưng Đức Giê-su không cần ai nói với Ngài. Vả lại, bài học mà Ngài sắp cho họ có thể giúp cho họ hiểu một cách gián tiếp những lời của Ngài mà vào giây phút này, họ đã không thể hiểu được: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.

Với giáo huấn về sự phục vụ này, Đức Giê-su đả đảo ngược cơ cấu phẩm trật thông thường của nhân loại theo đó người đứng đầu là người chiếm những chỗ ngồi danh dự, ăn trên ngồi trước, hưởng những đặc quyền đặc lợi, mà Ngài đã rất dị ứng ở nơi cách sống của giai cấp lãnh đạo Do thái. Có lần Ngài đã nói lên sứ mạng của Ngài: “Con Người đến không để được người ta phục vụ nhưng để phục vụ”.

Đức Giê-su sẽ đưa ra một mẫu gương rõ ràng hơn nữa vào bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ, khi Ngài rời chỗ ngồi danh dự của Ngài, mặc bộ đồng phục của người hầu và cúi xuống rửa chân cho các môn đệ của Ngài (Ga 13: 4-16) kèm theo với lời dạy rõ ràng: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13: 13-15).

Nhưng ngay từ bây giờ, Ngài ban cho họ một bài học đặc biệt, soi sáng mặc khải trên đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường tiến về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, ở đó Ngài đích thân hiện thực sứ điệp của Ngài: Ngài sẽ bị đối xử như người rốt hết và sẽ chịu khổ hình như kẻ nô lệ. Sau điều đó, Ngài sẽ là người đầu hết, trưởng tử của một nhân loại mới. Ngài ngầm hướng tư tưởng của các môn đệ Ngài về sấm ngôn Người Tôi Trung đau khổ của I-sai-a, chịu thương chịu khó kể cả hy sinh mạng sống mình để đem lại ơn cứu độ cho muôn người.

  1. Bài học về đức khiêm hạ

Để có thể nhổ tận gốc rể tính tự cao tự đại và tự mãn của các môn đệ Ngài, Đức Giê-su đưa ra một ví dụ khác. Ngài đem một em nhỏ đặt giữa các ông và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Chúa Giê-su đối lập thế giới người lớn tự phụ và tham vọng với thế giới trẻ thơ. Trẻ thơ có nhiều đức tính mà người môn đệ của Ngài phải học: chúng biết rõ thân phận nhỏ bé của mình, vì thế, chúng không phô trương sự khôn ngoan và quyền hành của mình, nhưng bày tỏ một niềm tin tưởng đơn sơ và chân thành. Hơn thế nữa, trong Tin Mừng, những người phận nhỏ lại là đoàn chiên của Ngài mà Ngài tận tình chăm sóc và hy sinh mạng sống mình cho chúng (Ga 10: 11-15). Đó cũng là những “chiên con” mà Ngài sẽ trao gởi cho thánh Phê-rô chăm sóc với lời căn dặn đến ba lần phải yêu mến đoàn chiên của Ngài như yêu mến Ngài hơn bất cứ ai (Ga 21: 15-16).

Trang Tin Mừng này là một trong những trang làm chứng về sự chân thật của các tác giả sách Tin Mừng. Các Tông Đồ chẳng có lý do gì để mà tự phụ về mình ở nơi những tình tiết này; tuy nhiên họ đã để lại một mẫu gương cho những thế hệ mai sau, họ khiêm tốn nhận ra tâm trí chậm hiểu và thiếu độ nhạy bén của mình.

Sức hấp dẫn và lôi cuốn của Giáo Hội Đức Ki-tô không phải ở nơi việc phô trương những quyền cao chức trọng, nhưng ở nơi thái độ khiêm tốn hạ mình xuống mà phục vụ những anh chị em bé nhỏ cách đơn sơ chân thành. Nói cho cùng, đây là bầu khi thân thương của một gia đình, ở đó cha mẹ là người lớn nhất nhưng đã tự biến mình thành con sen, đứa ở để phục vụ con cái của mình, con cái càng nhỏ thì cha mẹ càng tận tình yêu thương phục vụ hơn nữa.

Về mục lục

.

CON ĐƯỜNG GIÊSU

Lm. Jos. DĐH.

Đường tình yêu là con đường mùi mẫm, nhiều người đang đi, đã đi, và sắp bước vào, có người nhận xét đường tình là con đường thơ mộng, vô cùng lãng mạn, tạ ơn trời đất. Không phải là không có những kẻ thất bại, gặp nhiều trắc trở khổ đau, vì thế mà họ rất thâm thuý khi nói về con đường tình: cá trong lờ đỏ hoe con mắt, cá bên ngoài lúc lắc muốn vô. Thực ra thì con đường công danh sự nghiêp, con đường tình ái, con đường giải thoát khổ đau, đều có ý đưa dẫn người ta đến thành công hạnh phúc. Bước vào trường đời, người ta tính toán, vận sức dụng mưu để đạt tới công thành danh toại, đâu phải là không có lý. Con đường có lý tưởng đến đâu, nhưng thiếu bước chân người hùng đi trên đó, con đường và nhân vật anh hùng sẽ mãi chỉ là vô vọng, hão huyền, không bao giờ có thực !

Trên thế giới này, không có con đường nào đáng nói hơn là con đường hạnh phúc, không có lời nào trầm ấm, ngọt ngào, và dễ nghe hơn lời: “tôi yêu bạn”. Giáo huấn của Đức Giêsu xưa kia không phải là hướng người ta tới con đường nhung gấm lụa là, mà đặt giá trị trên con đường đau khổ thập giá, chết đi rồi sống lại vinh quang. Trải qua nhiều sóng gió ở đời, các đấng bậc của chúng ta đã nghiệm ra rằng: có vấp ngã, mắt mới nhìn sáng suốt, có đau thương lòng mới cứng rắn hơn, có thẳng căng như một sợi dây đàn, mới tạo được những âm thanh kỳ diệu. Các môn đệ có sai sót lỗi lầm, mới cho thấy các ông là người phàm trần, các ông làm ngơ trước con đường khổ đau thập giá hoặc còn tranh chấp với nhau về quyền bính, cho thấy, các ông rất cần Thầy Giêsu uốn nắn, sửa dạy, biến đổi nhiều.

Con đường Giêsu là con đường không có danh lợi thú ở đời này, không những vậy, con đường Giêsu chính là con đường từ bỏ chính mình để được mặc lấy con người mới, con người của tình yêu thương tha thứ trong Giêsu, trong tín thác cậy trông. Con đường Giêsu không tín hiệu vàng, đỏ, xanh, không được tính bằng chiều rộng chiều dài của mưu mô quyền lực, chỉ có những gạch nối yêu thương, hiệp thông, để được nên một với Giêsu thuỷ chung, để được gọi Thiên Chúa là Cha. Ngày hôm nay liệu chúng ta có thể hiểu quyền bính là để phục vụ, chỗ nhất, chỗ nhì ? Theo đường lối Giêsu là trở nên bé nhỏ, biết quan tâm đến anh chị em, xây dựng và bảo vệ một đức ái vẹn toàn, nếu bao lâu chưa được biến đổi và thấm nhuần bài ca dâng hiến của Thầy Giêsu.

Con đường khổ đau thập giá là con đường mà Đức Giêsu đã tiên báo, mời gọi các học trò cùng hiệp thông tiếp bước, con đường đó vĩ đại và cao trọng đến độ các học trò “làm thinh”, im lặng, hay vì các ông còn cần thời gian để suy tư, tìm hiểu ? Người xưa cho rằng: con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ. Với mỗi chúng ta hôm nay, không ai muốn mình bị gọi là ngu dại, cũng trong ý chí vươn lên đỉnh cao của khôn ngoan, hạnh phúc, giá trị của tình yêu đều tuỳ thuộc tự do của mỗi người. Con đường mà Đức Giêsu đi và sẽ đi, mãi mãi là một mầu nhiệm của đức ái kitô, chỉ khi mỗi người thực sự tin tưởng, hiệp thông, chúng ta mới đủ hiểu đâu là bình an, niềm vui trong sứ mạng theo Thầy Giêsu dấn thân phục vụ.

Con đường tình nào Thầy Giêsu đã đi, hẳn không khó trả lời với chúng ta hôm nay, tuy nhiên con đường khổ đau thập giá chỉ có thể hoá giải mọi khúc mắc khi con người biết dặt tương quan trong tin yêu phục vụ. Tương quan yêu thương là tương quan vô vị lợi như lời Thầy Giêsu: “ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải là đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Giá trị của tình yêu tuỳ thuộc vào năng lực tin yêu nhiều, và phục vụ bằng cả trái tim và khối óc của người tự do hiến dâng vì đối tượng mình yêu thương. Đức Giêsu gián tiếp cho các học trò thấy giá trị của tình yêu dâng hiến, một tình yêu đi ngược với quy luật tự nhiên: “Con người sẽ bị nộp vào tay người ta, và họ sẽ giết Người”. Hành động yêu thương trong tự do, cũng là sự vâng phục trọn vẹn trước sứ mạng cứu độ Thiên Chúa Cha uỷ thác.

Không có con đường tắt nào mang lại vinh quang và danh dự, không có sự lười biếng, gian dối nào đưa dẫn người ta đến hạnh phúc ; cũng không thể gọi là môn đệ Đức Giêsu, khi người ta từ chối khổ đau thập giá và ngại dấn thân phục vụ. Bản chất và phong cách sống của mỗi người không phụ thuộc vào thân thế sự nghiệp, nhưng hệ tại vào cách sống tin yêu và thực thi đức ái của mình. Con đường lý tưởng hơn cả theo Đức Giêsu không phải là tìm né tránh khổ đau thập giá, cũng không phải như con thiêu thân tự tìm đến cái chết, quả là vô nghĩa lý. Con đường tự hạ, sống tinh thần người môn đệ luôn tín thác và biết thực thi thánh ý Chúa vẹn toàn, hẳn đó là con đường Giêsu, con đường thuần tuý là yêu thương phục vụ, phát xuất từ nguồn cội Giêsu. Amen.

Về mục lục

.

XIN CHA THA CHO HỌ VÌ HỌ LẦM

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa 

Có người dí dỏm rằng mô-đen (mode)  là sự tái hiện cái đã bị lịch sử đào thải. Hết kiểu tóc dài rồi lại tóc ngắn. Tóc ngắn một thời rồi người ta lại để tóc dài, và sau đó trở về tóc đầu đinh, kiểu húi cua hay láng bóng như chưa mọc tóc. Các kiểu mô-đen y phục cũng tương tự. Các kiểu dáng rộng hẹp, dài ngắn cứ luân phiên thay đổi nhau. Hình như ít có sự gì mới ở dưới trần gian này, nhất là những vấn nạn liên quan đến ý nghĩa cuộc đời con người. Một trong những vấn nạn ấy là nguồn gốc của các hiện hữu, cách riêng của loài người.

Những chuyện xem ra lạ đời như chuyện đồng tính luyến ái đang nở rộ đó đây, đặc biệt tại các nước ở phương trời Âu, Mỷ, thì vốn đã xuất hiện từ xa xưa mà câu chuyện hai thành Sôđôma và Gômôra là một minh chứng. Bàng bạc trong thuyết bất khả tri hay trong chủ nghĩa hoài nghi và rồi cách minh nhiên trong chủ thuyết vô thần, người ta chủ trương rằng các hiện hữu đời này là do bởi tự nhiên hay ngẫu nhiên. Tác giả sách Khôn ngoan xưa đã từng ghi lại nghĩ suy của “quân vô đạo” như sau: “Đời ta thật buồn sầu vắn vỏi: không thuốc nào chữa cho khỏi chết, chẳng ai biết có kẻ nào thoát được cõi âm ty. Bởi ngẫu nhiên ta đã ra đời, rồi lại như chưa hề có mặt…”(Kn 2,1-2). Với cái nhìn về cuộc đời như trên, người ta sẵn sàng hô hào: “Nào đến đây, hưởng lấy của đời này, tuổi còn trẻ, ta cố mà tận dụng hết những chi đang có sẵn trên trần…Ta hãy bức hiếp tên công chính nghèo hèn, kẻ góa bụa, ta đừng buông tha, bọn tóc bạc già nua, cũng chẳng nể. Sức mạnh ta phải là quy luật của công lý, vì yếu đuối chẳng làm nên chuyện gì…Nào ta kết án cho tên công chính chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm” (Kn 2,6-20).

Thời Chúa Giêsu, nhóm Xađốc vốn thân chính quyền. Họ được hưởng nhiều lợi lộc mà dĩ nhiên trong đó, ít nhiều cũng có những lợi lộc bất chính, bất minh. Họ là những người đã chủ trương rằng không có đời sau. Trái lại nhóm Biệt phái thì tin có đời sau. Vấn đề đặt ra đó là vì người ta đã theo một vũ trụ quan hay nhân sinh quan nào đó và rồi cách sống của họ chỉ là hệ quả kéo theo hay là người ta dùng, đúng hơn là lợi dụng một cái nhìn, một quan điểm về thế giới, về con người để biện minh cho thái độ sống của mình? Chúng ta không thể tiên thiên khẳng định điều này hay điều kia đúng. Tuy nhiên với trường hợp của “quân vô đạo” mà sách Khôn ngoan đề cập thì có thể nói là đại đa số trong họ dùng lý lẽ này nọ để biện minh cho lối sống hưởng thụ, bất công, gian ác của mình.

Vậy thử hỏi rằng những người dùng những quan điểm nọ kia để biện minh cho lối sống thiếu lành mạnh, thiếu ngay thẳng của mình, họ có cảm thấy áy náy hay ngượng ngùng khi tuyên bố mọi sự hiện hữu là do ngẫu nhiên chăng? Theo thiển ý, chắc hẳn ít nhiều ngay từ đầu cũng vẫn có. Tuy nhiên với thời gian, khi thực tiễn lại dường như ứng hợp với luận lý của họ một cách nào đó đã khiến họ vững tin vào cái nhìn của mình cũng như an tâm về lối sống của mình. Nếu chuyện ác giả-ác báo lại xảy ra cách nhãn tiền ở đời này, ngay trong quảng đời họ sống, thì chắc chắn những lý lẽ biện minh cho lối sống ích kỷ, hưởng thụ, bất công…sẽ chẳng có thể tồn tại.

Dưới chân thập giá cũng đã có người thách thức, chế giễu chúa Giêsu: “hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: “Ta là Con Thiên Chúa!”(Mt 27,43). Người công chính duy nhất đáng gọi là công chính để nhờ Người mà ơn thứ tha được trao ban cho nhân trần cũng đã thốt lên trong cơn hấp hối: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34).

Ngoài một số lý do về niềm tin độc thần, về thái độ thượng tôn lề luật…các Thượng Tế, luật sĩ, biệt phái khi kết án Chúa Giêsu, họ không thể chối cãi lý do chính yếu ở đằng sau mà ngay cả Philatô cũng thừa biết, đó là: “chỉ vì ganh tị mà họ nộp Người” (Mt 27,18). Việc họ tìm nhân chứng gian để tố cáo Chúa Giêsu hay tìm cách xách động dân chúng để làm áp lực với Philatô và cắt cử quân linh canh mồ càng nói lên sự bất an của họ về việc họ đã làm (x.Mt 26,60; 28,62-66; Mc 15,11). Thế nhưng sự bất an của “quân vô đạo” dần dà qua đi khi những lời kêu van của người công chính trong Thánh Vịnh: “Lạy Thiên Chúa, xin đánh chúng bể miệng, gãy răng…”(Tv 58,7) chưa thấy được nhậm lời, và chuyện “người công chính sẽ thấy Chúa trả oán, họ sẽ rửa chân trong máu ác nhân” (Tv 58,11) là chuyện như của tương lai xa vời vợi hay là chuyện một đôi khi hiếm họa do sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Đã và đang có nhiều người sống trong lầm lạc vì Chúa đã không nhổ cỏ lùng ra khỏi lúa tốt (x.Mt 13,24-30). Phút giây hấp hối trên thập giá, Chúa Giêsu đã cất lời cầu xin: “Lạy Cha, xin hãy tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết” (Lc 23,34). Phải chăng lòng từ nhân của Thiên Chúa vô tình đã trở thành cớ cho người ta lầm lạc? Chắc chắn không thể quy kết một cách mạo phạm, bất kính như thế. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, chậm bất bình và rất mực khoan dung. Người không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống. Chúa Giêsu không chỉ xin Chúa Cha tha cho những kẻ lầm lạc mà còn mở rộng Trái Tim cực thánh để tuôn ban Thánh Thần để mở mắt, mở lòng họ, giúp họ nhận biết sự thật (x.Ga 19,34). Viên sĩ quan bách quản hôm ấy đã đón nhận ánh sáng chân lý và tuyên xưng: “Quả thật, ông này là người công chính” (Lc 23,47).

Trước sự mê lầm của những người được xem như là “quân vô đạo” của mọi thời, mọi hoàn cảnh, là Kitô hữu, chúng ta nhiều khi còn phân vân tìm cách hành xử. Có người chủ trương là chấp nhân sự bất công và dâng lời cầu nguyện cho họ. Có người lại đề cao việc vạch trần, tố cáo sự giả dối, gian ác, bất công, để sự bất công, gian dối không còn đất sống. Theo thiển ý, chúng ta cần thực thi cả hai cách thế bằng một trái tim biết mở ra như Trái Tim cực thánh Đấng cứu độ, nghĩa là với một tình yêu đích thực muốn cho người cô thế, bị áp bức bất công được giải phóng và muốn cho cả “quân vô đạo” được giác ngộ, nghĩa là biết nhận ra chân lý, trở về với nẽo ngay mà được cứu độ.

Về mục lục

.

GHEN TUÔNG – TRANH CHẤP

JM. Lam Thy

Sau khi làm phép lạ chữa cho một người vừa điếc vừa ngọng (bài Tin Mừng CN XXIII.TN-B – Mc 7, 31-37), Đức Giê-su không muốn mọi người xôn xao rồi đi báo cho bọn kinh sư, luật sĩ Pha-ri-sêu biết để họ có cớ làm hại Người, “Đức Giê-su truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả.” Tuy nhiên “Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.” (Mc 7, 36-37). Sự việc diễn ra đúng như sự tiên liệu của Đức Ki-tô, đó là lý do khiến Người quyết định truyền cho các môn đệ băng qua miền Ga-li-lê một cách âm thầm không cho ai biết.

Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXV.TN-B – Mc 9, 30-37) trình thuật việc Đức Giê-su muốn tạm gác việc rao giảng Tin Mừng và chữa bệnh cho dân chúng qua một bên, để có thì giờ dạy dỗ các môn đệ, đặc biệt báo cho các ông biết một viễn cảnh sắp xảy ra mà các ông khó có thể hiểu và chấp nhận. Viễn cảnh đó là “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại.” (Mc 9, 31). Sở dĩ Người làm vậy là có ý giúp các môn đệ chuẩn bị tinh thần, để khi biến cố đó xảy ra thì các ông không quá ngỡ ngàng và thất vọng, mà sẵn sàng đón nhận nó.

Đây không phải lần đầu tiên Người nói việc ấy với các môn đệ, Người đã từng nói rõ với các ông trước đó không lâu (“Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết. ” – Mc 8, 31), nhưng lúc đó các ông tỏ ra ngán ngại, không tin rằng Thầy mình – một “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mc 1, 22) – lại có thể phải chịu đau khổ đến như vậy. Thái độ không chấp nhận này biểu lộ rõ rệt nhất ở Phê-rô, khi ông “kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”, khiến  Đức Giê-su quở trách rất nặng lời: “Xa-tan! Lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mc 8, 31-33). Chính vì lần trước các ông bị quở trách nặng nề như thế, nên lần này “các ông sợ không dám hỏi lại Người” (Mc 9, 32).

Các môn đệ không dám hỏi lại Thầy về cuộc thương khó Người sắp phải chịu vì sợ bị khiển trách, nhưng trong lòng vẫn nghĩ khi Thầy chết rồi thì ai trong nhóm 12 sẽ lên thay, ai sẽ là người lớn nhất? Ấy thế  là “cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”. Đức Ki-tô dư biết các môn đệ bàn tán điều gì, nhưng khi tới thành Ca-phac-na-um, Người vẫn hỏi: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” Các môn đệ chỉ còn nước ngậm miệng làm thinh. Cũng chính vì thế nên Đức Ki-tô mới “gọi nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.” (Mc 9, 33-37).

Vấn đề làm lớn, làm bé vẫn là vấn đề muôn thuở của con người. Thường ở đời, con người ai cũng thích làm lớn, thích ăn trên ngồi trước chứ chẳng ai muốn làm bé và thích ngồi ở dưới. Cái ”miếng đinh chung” luôn luôn và mãi mãi là cái hấp lực vô cùng mạnh mẽ. Quan niệm “một miếng giữa làng hơn một sàng xó bếp” đã trở nên như một phong tục tập quán (tục ngữ) khiến cho giấc mộng “sống ở làng, sang ở nước” luôn ám ảnh con người. Ngày nay, hủ tục mua quan bán tước hay khao vọng đình đám tuy không còn ồn ào như ngày xưa, nhưng vẫn diễn ra bằng nhiều kiểu, nhiều cách, với đủ thứ mưu ma chước quỷ để tranh bá đồ vương, tiếm quyền tiếm chức, tranh danh đoạt lợi, hầu mong được nổi danh nổi tiếng, tiền hô hậu ủng, xe hơi nhà lầu, võng lọng xênh xang.

Kẻ viết bài này vẫn chưa quên câu chuyện xảy ra ở Việt Nam cách đây không lâu: Giám đốc một công ty cỡ bự, một hôm gửi thiệp báo tang đến toàn thể công ty, cho biết con chó cưng của ông ta vừa “từ trần”! Thế là cả công ty – từ phó giám đốc đến anh bảo vệ quèn – xôn xao “khăn đóng áo dài” đổ xô đi phúng điếu bằng những phong bì đủ kích cỡ, trong đó ít nhất cũng phải “nửa tháng lương”. Ôi chao! Không ngờ trong cái xã hội văn minh ngày nay mà vẫn còn cái cảnh hối lộ bẳng kiểu “báo tang, viếng tang một con chó”. Tiếng chửi “đồ chó chết” không ngờ ngày nay lại mang ý nghĩa tâng bốc hơn là chửi rủa. “Chó chết” lại hoá ra nổi đình nổi đám hơn cả ”người chết”! Oái oăm thật!

Tâm lý chung của con người ai chẳng muốn chọn cho mình phần tốt nhất, ai chẳng muốn làm “đại gia” đi ăn tiệc được ngồi vào “cỗ nhất”. Ngay đến các Tông đồ ở cận kề với Người Thầy luôn dạy dỗ môn đệ phải khiêm nhường, vậy mà cũng có hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an muốn được “một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10, 37). Tin tưởng khi Thầy mình được vinh quang sẽ làm Vua, mà lại xin được ngồi bên tả và bên hữu Người, chính là muốn được ngồi “cỗ nhất”, được hưởng “miếng đinh chung” bảnh nhất là ”Tả hữu Thừa tướng”. Không phải chỉ có 2 môn đệ này đâu, mà các môn đệ khác cũng tỏ ra tức tối (“Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an.” – Mc 10, 41). Tức tối tức là ghen tị, là mong muốn mình phải được coi trọng hơn, và “chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh” xảy ra cũng là điều tất nhiên (“Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau.” – Gc 4, 1-3). Quả thật “Ghen tuông thì cũng người ta thường tình” (Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Rõ ràng Đức Ki-tô “nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi” (Lc 14, 7). Vì thế, nên Người mới dạy: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.” (Lc 14, 8-9). Người còn chỉ rõ những người ham ngồi “cỗ nhất”, đó là “những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.” (Lc 20, 46). Ngay đến cả việc đãi khách, mời khách dự tiệc, Người cũng dạy trái ngược với thông lệ của người đời: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có… Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù…” (Lc 14, 12-13).

Lời dạy của Đức Ki-tô mới thoạt nghe sẽ thấy là mâu thuẫn, khó chấp nhận được, chẳng hạn như Người muốn ai đi theo Người thì phải từ bỏ tất cả, từ của cải vật chất đến cha mẹ anh em họ hàng, kể cả từ bỏ chính mình. Trong khi đó, Người lại dạy phải yêu thương mọi người như yêu thương chính bản thân mình, thậm chí còn yêu thương cả kẻ thù của mình nữa. Tuy nhiên, suy nghĩ cho thấu đáo, thì thấy Đức Ki-tô chuyên dùng dụ ngôn với những cách nói tương phản, phản đề, cốt ý nhấn mạnh để nêu bật ý chính (chủ đề). Như Lời dạy trên, nếu trích đầy đủ, sẽ là: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” (Lc 14, 12-14). Và như vậy, mục đích nhắm tới của Lời dạy là “ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” Rõ ràng Đức Giê-su chỉ luôn mong muốn Lời dạy của Người có tác động mạnh mẽ, làm cho người nghe hiểu được ý nghĩa sâu xa và cái mục đích tối hậu cần đạt tới.

Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay, cũng vì thấu hiểu được tâm địa con người như vậy, nên Đức Ki-tô mới dạy: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” (Mc 9, 35). Người chỉ muốn dạy môn đệ đức tính khiêm nhu tự hạ. Và nếu anh biết khiêm nhường chịu lụy, anh sẽ được mời lên ngồi “cỗ nhất”. Anh đừng nghĩ khi được ngồi cỗ nhất là anh sẽ được kẻ hầu người hạ, anh sẽ vênh vang nhìn đời bằng nửa con mắt. Trái lại, “Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa.” (Hc 3, 18), “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.” (Mt 20, 43-44).

Khiêm nhường cũng có nhiều cách thể hiện, có thể thực lòng và cũng có thể màu mè bên ngoài, thậm chí còn có trường hợp giả bộ khiêm nhường để bóng gió móc họng nhau nữa. Và cũng vì thế nên Đức Giê-su Thiên Chúa đã vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người khó nghèo và dùng chính cuộc sống của Người minh hoạ cho những Lời dạy dỗ chân tình về đức khiêm nhường. Người đã khiêm nhường vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu để cái tính kiêu ngạo của loài người hành hạ, đánh đòn, sỉ nhục, đóng đinh Người vào thập giá. Người đã thức tỉnh nhân loại bằng cách hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, thử hỏi đã được bao nhiêu người ý thức được tội kiêu ngạo đứng hàng đầu trong 7 mối tội đầu, hiểu được chính tội kiêu ngạo đã đóng đinh Chúa Giê-su vào thập giá? Và chẳng hiểu có được bao nhiêu con người dám hy sinh chỗ ngồi “cỗ nhất” (chưa dám nói hy sinh mạng sống mình) cho anh em, cho đồng loại, để sẵn sàng xuống ngồi “chỗ cuối” mà  phục vụ mọi người? Quả thực “Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó” (Hc 3, 28).

Lạy Chúa! Cúi xin Chúa luôn soi sáng và hướng dẫn con, để con đừng bao giờ quên dụ ngôn “Người Pha-ri-sêu và người thu thuế” (Lc 18, 9-14). Cũng bởi vì đến ngay như việc thờ phượng Thiên Chúa, con cũng cách này cách khác làm như anh chàng Pha-ri-sêu lên tận cung thánh khoe hết thành tích nọ đến chiến công kia (“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”). Và nếu không tìm ra được chiến công, thành tích (kiểu như rủ nhau đóng góp mua một vài thùng mì tôm, đôi ba bao gạo mốc, năm ba túi quần áo rách, rồi trương biểu ngữ thật hoành tráng đi làm chuyện tế bần, từ thiện), con cũng cố gắng tìm những việc làm thường nhật (đi lễ, đọc kinh sớm tối, bỏ tiền lẻ vào túi kín, hay vênh vang ném từng đồng xu cho những hành khất…) để kể công với Chúa hệt như anh chàng Pha-ri-sêu thủa xưa. Con đã kênh kiệu nhắm tít mắt mà không quay nhìn lại dưới cuốí nhà thờ đang có những ”người thu thuế” quỳ gối đấm ngực than van “Lạy Chúa! Con là kẻ có tội!”

Ôi! “Lạy Chúa! Con là kẻ có tội!” Con biết tội con nặng lắm rồi, vì chỉ thích làm đại gia chớ không thích làm nguời bé mọn, chỉ thích đứng đầu, ăn “cỗ nhất” chớ không thích ngồi sau, ăn cơm thừa canh cặn. Con biết những hành động trên của con đã hàng ngày hàng giờ đóng đinh Chúa, đâm thâu vào Trái Tim Chúa. Cúi xin Chúa không chỉ dạy con mà luôn đồng hành với con để con sẵn sàng thể hiện bằng hành động, bằng chính cuộc sống của con như những kẻ bé mọn, như những “người thu thuế”, như những “bà goá nghèo”, như những “người rốt hết”, để đến ngày sau hết con được Chúa cho đứng bên phải Ngài. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa

Về mục lục

.

SỰ HAM MUỐN KHÔN NGOAN

 Lm. Bosco Dương Trung Tín

Người xây dựng hòa bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hòa bình là cuộc đời công chính” (Gc 3,18).

Người sống công chính thì xây dựng hòa bình và người xây dựng hòa bình là người sống công chính. Người sống công chính thì bình an và người xây dựng hòa bình thì công chính. Hòa bình và công chính, như cặp bài trùng, luôn đi đôi với nhau, có liên hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời. Cũng như các cặp: hòa bình – công lý; bình an – công bằng; ghen tương – tranh chấp; chiến tranh – xung đột.

  Nghĩa là ở đâu có hòa bình, ở đó có công lý. Ở đâu có công lý thì ở đó có hòa bình. Ở đâu có bình an, ở đó có công bằng. Ở đâu có công bằng thì ở đó có bình an. Ở đâu có ghen tương, ở đó có tranh chấp. Ở đâu có tranh chấp, ở đó có ghen tương. Ở đâu có chiến tranh, ở đó có xung đột. Ở đâu có xung đột, ở đó có chiến tranh.

  Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đó có xáo trộn và đủ mọi việc xấu xa. Ở đâu có công chính và hòa bình, ở đó có bình an và có nhiều hoa thơm trái tốt. Tại sao lại có ghen tương và tranh chấp; tại sao lại có chiến tranh và xung đột ? Thánh Gia-cô-bê trả lời, đó là do trong lòng người ta có sự ham muốn.

  Thậy vậy, “khi ta ham muốn mà ta không có, ta sẽ chém giết (chiến tranh); ta ghen ghét chẳng được, nên ta xung đột và gây chiến với người khác” (x.Gc 4,2). Nhưng tại sao ta không có ? Không có vì ta không xin, không làm. Ta xin mà không được vì ta xin không đúng; không làm thì đương nhiên ta không có rồi, khỏi bàn. Không có gì từ trên trời rơi xuống cả, trừ nước mưa thôi.

Xin không đúng là xin thế nào ? Là ta xin để hơn người khác; ta xin là người lớn nhất, giỏi nhất thiên hạ; ta xin cho được giàu sang, xin cho được trúng số, để ta khỏi phải vất vả để làm; để trong phút chốc ta lên tiên, ta lên mây; ta thành tỉ phú; ta từ cô bé lọ lem, trở thành cô công chúa, bà hoàng; từ chó ta lên voi. Từ đây ta khỏi phải làm chi cho mệt, cứ ngồi mát mà ăn bát vàng. Xin như vậy có đúng không ? Chúa có cho không ? Chắc là không rồi.

  Thấy người ta giàu có, giỏi dang, ta ghen, ta tức; ta ham, ta muốn. Trong khi ta không biết rằng người ta đã phải phải khổ cực thế nào mới có được như thế. Đâu phải tự nhiên mà người ta giàu; đâu phải tự nhiên mà người ta giỏi dang đâu. Ta chỉ nhìn thấy cái ngọn, cái trước mắt mà không thấy cái gốc, cái đã qua. Do đó, ta chỉ ngồi mà xin thôi thì làm gì mà ta có được. Ai mà ban cho ta chứ.

  Lại nữa, trong thực tế, có ai trúng số, có ai giàu sang mà hạnh phúc và bình an đâu; lúc nào cũng nơm nớp lo sợ. Nào là sợ người ta đến xin giúp đỡ, đến nhận họ nhận hàng; nào là sợ ăn trộm, sợ bị giết; luôn bất an, ăn không ngon, ngủ không yên. Đó là chưa nói đến việc tập tành các nhân đức. Giàu sang và hạnh phúc như sự xung khắc, không bao giờ đi đôi với nhau. Giàu sang thì không hạnh phúc và hạnh phúc thì không giàu sang.

Có tỉ phú, không để tiền cho con mình trong di chúc, sợ chúng ăn chơi phung phí và hư người. Huống chi là Chúa, làm sao Chúa ban cho ta trúng số được. Nhiều khi ta khôn lỏi, ta xin trúng số để làm việc thiện hay dâng cho nhà thờ một nửa, còn ta được một nửa. Xin gì mà xin khôn thế, thánh thiện thế !!! Thật ra chẳng thánh thiện chút nào cả. Làm việc thiện hay dâng cúng gì thì phải là những gì do mồ hôi, nước mắt mình làm ra thì mới có giá trị; chứ xin Chúa ban, rốt cuộc Chúa mất toi 50%, bộ Chúa không khôn hơn ta sao, Chúa không biết gì sao.

Nếu ta muốn xin kiểu đó thì ta đến xin ông địa, ông ban cho. Chuyện kể rằng, có bà kia đi buôn, đến xin ông địa: xin cho con trúng mẻ này, con sẽ cúng cho ông con 2 chân. Ông địa tưởng rằng chắc sẽ là con gà trống thiến đây, nên cho. Bà ta trúng được mẻ buôn, nên đến tạ ơn ông địa và xin tiếp: xin cho con trúng mẻ này nữa, con sẽ cúng ông con 4 chân. Ông địa nghĩ, chắc sẽ là con trâu, con bò hay con heo đây, nên cho.

Bà ta trúng mẻ tiếp, đến tạ ơn và nói: xin cho trúng mẻ nữa, con sẽ cúng ông 8 chân. Ông địa nghĩ chắc là 2 con bò hay 2 con trâu hoặc 2 con heo, nên cho. Lần này bà ta tiếp tục trúng và đến lạy tạ và nói: xin cho con lần trót, đã thương thì thương cho trót, xin cho con trúng mẻ này nữa con sẽ cúng 10 chân. Ông địa nghe vậy khoái chí, tưởng sẽ là 2 bò, 2 trâu, một gà hay 2 trâu, 2 heo, một gà hoặc 2 bò, 2 heo một gà, nên ban cho. Trúng mẻ này, bà ta hớn hở vui mừng, ra chợ một con cua, đến cúng cho ông địa. Ông địa thấy vậy cười toang hoắc, không ngờ mình bị người ta lừa !!!! Đó là khôn lỏi của con người.

 Thiên Chúa không phải là ông địa, nên không bị ta lừa đâu. Chúa biết trước những khi ta xin mà, ta qua mặt Chúa sao được. Ta đâu có khôn hơn Chúa được. Thánh Phao-lô nói “Cái điên rồ của Chúa còn hơn cái khôn ngoan của ta” mà (x. 1 Cor 1,25).

Cái khôn lỏi của con người chỉ là lừa thầy, phản bạn; lừa chủ, phản Chúa; chỉ có ghen tương và tranh chấp thôi. Có bao nhiêu cũng không; được bao nhiêu cũng không đủ. Có voi lại đòi tiên, vì lòng người vô đáy mà. Tốt hơn ta hãy xin sự khôn ngoan của Chúa, cái khôn ngoan từ trời ấy. “Ơn khôn ngoan Chúa ban làm cho ta trở nên trước là thanh khiết; sau là hiền hòa, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt; không thiên vị cũng không giả hình” (x.Gc 3,17).

Sự khôn ngoan này đáng cho ta ao ước, đáng cho ta ham muốn. Ước gì ta ham muốn sự khôn ngoan này như ta ham muốn tiền bạc, danh vọng thì hay biết mấy. Nói sự khôn ngoan này từ trời, chứ thực sự nó lại ở dưới đất; sự khôn ngoan này đang có ở trong Lời Chúa, ta mà siêng năng đọc, suy gẫm và đem ra thực hành thì ta sẽ được. Ta xin Chúa cho ta biết được kho tàng sự khôn ngoan của Chúa ở trong Lời Chúa và ban cho ta có sức để kiên trì đọc, suy niệm và thực hành Lời Chúa hàng ngày trong đời của ta.

Có sự khôn ngoan này, ta sẽ có bình an, ta sẽ nên thánh nên thiện và nên công chính. Trong con người của ta sẽ không còn ghen tương hay tranh chấp nữa; không còn xáo trộn, cũng không còn những việc làm xấu xa nữa; không có xung đột và gây chiến với người khác nữa. Thế giới sẽ có hòa bình, không còn chiến tranh nữa.

Vậy, ta là con Chúa thì ta hãy ham muốn sự khôn ngoan của Chúa; biết siêng năng đọc, suy niệm và sống Lời Chúa hằng ngày, để ta trở nên người xây dựng hòa bình và sống công chính. Như thế, ta sẽ có bình an ở đời này và hạnh phúc ở đời sau.

Về mục lục

.

THÂN PHẬN CỦA THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI

Nguyễn Văn Nội

“Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người.

Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại” 

I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (9,30-37):

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người. Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: “Dọc đàng các con tranh luận gì thế?” Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất. Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Rồi Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy”.

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (9,30-37):

2.1 Các tông đồ của Đức Giê-su Na-da-rét là những tín hữu Do-thái nhiệt thành, nhưng nông cạn và chưa thấu hiểu Phúc Âm. Suy nghĩ và quan điểm sống của các ông cũng giống như của tất cả những người Do-thái thời bấy giờ và của mọi người trong thế gian này là muốn có nhiều quyền lực, muốn được làm người lớn nhất trong xã hội. Là người lớn nhất hay là người có nhiều quyền lực thì có đủ vinh hoa phú quý, được trọng vọng, được phục vụ tận răng, được ăn trên ngồi trước, được bẩm thưa trước cộng đoàn.

2.2 Nhưng Đức Giê-su Na-da-rét là Thiên-Chúa-làm-người đã giảng dậy một tinh thần và lối sống mới: đó là yêu mến sự khiêm nhường tự hạ:  “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”.  Đức Giê-su Na-da-rét không chỉ dậy các môn đệ như thế mà chính Người còn tự chọn cho mình một nếp sống nhỏ bé, một thân phận ”không ra gì”. Người đã sinh ra trong hang bò lừa ở Bê-lem, đã sống ẩn dật và lao động ở Na-da-rét, đã rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa khắp các làng mạc thành thị Pa-lét-tin, đã bị bắt, bị trói, bị đánh đâp, nhạo báng, xỉ vả, bị tra hỏi và kết án tại Giê-ru-sa-lem, và sau cùng đã bị treo trên cây gỗ ở đồi Gol-go-ta và đã được mai táng trong ngôi mộ mới của người môn đệ cạnh đồi Núi Sọ. Khi suy gẫm về thân phận của Đấng tự nhận/xưng là “Con Người”, chân phước Charles de Foucauld đã đưa ra nhận xét này: “Chẳng ai muốn có một thân phận giống như Người!”  Quả là một nhận xét chính xác!

III. THỰC THI  LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (9,30-37):

3.1 Suốt hơn hai ngàn năm Hội Thánh Công giáo không ngừng rao giảng một Đấng Thiên Chúa bị đóng đinh thập giá (Dieu Crucifíé) và mời gọi các Ki-tô hữu (Hồng y, Giám mục, Linh mục, Tu sĩ và Giáo dân) theo chân Chúa Ki-tô trên con đường khổ nạn (thương khó), noi gương bắt chước Chúa Ki-tô trong nếp sống tự hạ và tự hiến. ”Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình vì/cho người mình yêu.” Cũng có thể nói càng hiến dâng cho Thiên Chúa và tha nhân người môn đệ càng chứng tỏ tình yêu của mình với Chúa và tha nhân. Mức độ tự hiến dâng là thước đo tình yêu của người môn đệ.

3.2 Để theo chân Chúa Ki-tô trên con đường khổ nạn hay để noi gương bắt chước Chúa Ki-tô trong nếp sống tự hạ tự hiến, chúng ta cần rất nhiều sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa.  Chúng ta cũng rất cần sự nâng đỡ của các Thánh Nam Nữ, nhất là các Thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông của chúng ta.

IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (9,30-37):

Lạy Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Chúa đã tự hạ tự hiến trong thân phận chẳng có ai muốn giống như Người, chúng con vô cùng ngưỡng mộ và bái phục Chúa. Chúng con muốn nên giống Chúa, nhưng chúng con không thể.

Chúng con xin Chúa ban Thần Khí của Chúa cho chúng con, để Người giúp chúng con noi gương bắt chước Chúa và đưa chúng con vào con đường thập giá mà Chúa đã đi.

Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần Amen.

Về mục lục

.

 

CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN_B.

Về mục lục

.

 

KHIÊM NHƯỜNG VÀ PHỤC VỤ

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Thánh Mác-cô đã làm độc giả ngạc nhiên khi ghi lại cuộc tranh cãi của các môn đệ xoay quanh đề tài “ai sẽ là người lớn nhất” ngay sau khi Chúa Giêsu tiên báo cuộc khổ nạn thập giá. Người ta đặt câu hỏi: Làm sao các môn đệ lại vô tâm trước những điều Đức Giêsu vừa nói? Thì ra, kể cả lúc Chúa tiên báo cuộc khổ hình đau thương mà Người sắp chịu, các ông vẫn còn mơ về thời Thiên sai theo nhãn giới phàm tục. Vì vậy, nghe Chúa nói về việc Người sẽ bị bắt bớ và bị giết, các ông “không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người”.
 
Nhân cuộc tranh luận của các môn đệ, Chúa Giêsu muốn dạy các ông bài học về khiêm nhường và phục vụ. “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Chính Chúa đã thực hiện nơi bản thân Người bài học này. Là Thiên Chúa uy quyền cao sang, Chúa Giêsu đã hạ mình mặc lấy thân phận con người để sống cùng và sống cho con người, nhằm mưu cầu hạnh phúc của họ. Qua hình ảnh một em bé, Chúa muốn khẳng định, những ai muốn theo Người cần phải sống đơn sơ, phó thác để có thể trở nên môn đệ đích thực của Người. Lý tưởng của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với lối suy nghĩ thông thường của con người. Ở đời, ai cũng muốn nổi hơn người khác về mọi phương diện. Nếu thấy người bên cạnh hơn mình thì họ ghen tương, thậm chí tìm cách gài bẫy để loại trừ. Bài đọc I đã diễn tả điều này. Tác giả sách Khôn ngoan đã ghi lại “lý sự” đầy hằn học của những kẻ gian ác. Họ ghen tương khi thấy người tốt sống đạo hạnh. Những việc làm tốt của người đạo đức lại là một lý do để họ gây chiến. Các nhà chú giải Kitô giáo đã sớm nhận ra người công chính mà sách Khôn ngoan nói đến chính là Đức Giêsu Kitô. Quả vậy, người Do Thái đã phân bì với Chúa và họ vu khống cho Người có âm mưu phản loạn, xách động dân chúng. Kết cục, Chúa Giêsu bị kết án thập giá và Người đã chết cho Chân lý.
 
Chúa Giêsu đã báo cho các môn đệ về cuộc khổ nạn của Người. Qua lời tiên báo này, Người cũng muốn thanh luyện quan niệm trần tục về Đấng Thiên sai. Vị Thiên Chúa sai đến không phải một chính trị gia hay một người thống trị bằng quyền hành hay bạo lực. Người là Thiên Chúa tình yêu, Người cứu độ con người bằng yêu thương và phục vụ. Người cũng mời gọi con người hãy tiếp nối Người để làm cho tình yêu thương thấm đượm trần gian. Thánh Giacôbê đã phê phán thói ganh tị và cãi vã giữa các thành viên của cộng đoàn tín hữu thời bấy giờ (Bài đọc II). Theo vị Tông đồ, nguyên nhân của những cãi vã và xung đột là sự đam mê ích kỷ của con người, nhất là do thiếu tinh thần siêu nhiên và đời sống nội tâm.
 
Trong tuần lễ vừa qua, ngày 14-9 là lễ suy tôn thập giá Chúa Giêsu. Liền ngày hôm sau, tức là ngày 15-9, Giáo Hội tôn kính Đức Trinh nữ Maria với tước hiệu “Đức Mẹ sầu bi”. Đức Giêsu là Thiên Chúa chí thánh đã trở nên “tội nhân” vì con người. Đức Trinh nữ không hề mắc tội lại mang trên thân mình biết bao đau khổ cay đắng để cộng tác với hy sinh của Đức Giêsu, mang lại ơn cứu độ cho trần gian. Đức Maria đã được tuyên xưng như một vị “tử đạo mà không phải chết”, vì Mẹ đã đón nhận đau khổ trong Đức tin và tâm tình vâng phục.
 
Đau khổ gắn liền với thân phận con người. Vừa lọt lòng mẹ, đứa trẻ đã chào đời bằng tiếng khóc. Đã sống trên đời, không ai tránh khỏi đau khổ. Hành trình cuộc đời cũng là hành trình thập giá. Dù muốn hay không, đau khổ vẫn luôn kề bên ta. Cây gỗ Chúa Giêsu vác lên đồi Can Vê năm xưa đã trở thành thánh giá, vì mang lấy thân thể của Đấng cứu độ. Những đau khổ của chúng ta có thể được biến thành ân phúc, nếu chúng ta đón nhận với tinh thần hy sinh mến Chúa yêu người. Nếu chúng ta biết san sẻ cho nhau gánh nặng cuộc đời, sức nặng của thập giá sẽ bớt đi, đau thương sẽ biến thành niềm vui, thập giá sẽ nở hoa, niềm vui phục sinh sẽ rạng rỡ nơi cuộc đời.

Về mục lục

.

ĐẦY TỚ CỦA MỌI NGƯỜI

Gm. Arthur Tonne.

Bác sĩ Charles Mayo cùng với cha và người em xây dựng bệnh viện Mayo nổi tiếng trên thế giới tại Rochester thuộc bang Minnnesota. Một lần có phái đoàn chuyên viên y khoa từ Âu Châu được mời đến nhà bác sĩ Charles Mayo. Theo tục lệ ở đó, khách sẽ để giầy ở ngoài cửa phòng ngủ để ban đêm có người đánh bóng.

Bác sĩ Charles Mayo về sau cùng. Khi về phòng, ông thấy các đôi giầy để đó và đã quá khuya, ông không muốn đánh thức người giúp việc. Ông thở dài, rồi đem các đôi giầy xuống bếp, tự tay ông, thức hết nửa đêm để đánh bóng các đôi giầy của khách.

Đây là một tấm gương Chúa Giêsu nói với bạn và tôi trong Tin Mừng hôm nay: “Nếu ai muốn làm lớn, phải nên kẻ hèn nhất và làm đầy tớ cho mọi người”. Cũng như các Tông đồ chúng ta thường tranh luận ai trong chúng ta là người lớn nhất. Đức Kitô trả lời chúng ta: “Người lớn nhất phải làm đầy tớ cho mọi người”. Bác sĩ Charles Mayo là một trong những bác sĩ nổi tiếng trên thế giới. Thế nhưng ông đã đánh giầy cho khách của ông.

Xin nhắc lại Chúa Giêsu rửa chân cho các Tông đồ trong đêm trước khi Ngài chịu chết vì chúng ta.

Bài đọc I hôm nay liên quan đến: “Người tôi tớ đau khổ”, một danh xưng và đặc tính của Tiên tri Isaia (40,55) đã tiên báo và được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu, Đấng đã trở thành đầy tớ của mọi người bằng cái chết. Tước hiệu “Đầy tớ” này được chỉ về Chúa Giêsu trong sứ vụ các Tông đồ. Theo những nghĩa thích hợp nhất: Chúa Giêsu là đầy tớ của mọi người.

Chúng ta làm thế nào để theo kịp Chúa Giêsu trong vấn đề phục vụ? Chúng ta phục vụ anh em thế nào? Chúng ta đối xử thế nào với những người phục vụ chúng ta?

Người đầy tớ là gì? Là một người được mướn để làm việc, đặc biệt là làm việc trong nhà. Với một ý nghĩa khác: Người đầy tớ được hiểu như một người hăng hái nhiệt tình với người khác, với một mục đích hay với một niềm tin, phục vụ có nghĩa là làm một việc để giúp đỡ, để có lợi hoặc tình nghĩa cho người khác.

Tất cả chúng ta được gọi để làm tôi tớ, ngay cả nhà giải phẫu tài giỏi nhất. Bác sĩ Mayo phục vụ nhân loại không chỉ bằng việc giải phẫu mà còn bằng việc đánh giầy cho khách.

Người mẹ trong gia đình thật sự là người đầy tớ cho cả gia đình. Mỗi một nghề đều có cơ may để phục vụ.

Chú ý đến việc của bạn để làm tốt cho người khác. Nếu không bạn không thể chu toàn tốt công việc của bạn và bạn sẽ mất mục đích của việc làm. Chân lý Chúa Giêsu công bố hôm nay là: “Bạn sẽ không quan trọng nếu bạn không cố gắng phục vụ mọi người”.

Đức Giáo Hoàng, đầu của Giáo Hội Công giáo, một địa vị quan trọng nhất trong thế giới, nhận tước hiệu: “Tôi tớ của các tôi tớ của Chúa”.

Điều này dẫn chúng ta chú ý đến hình thức cao nhất của việc phục vụ: Phục vụ Chúa qua phượng tự và làm việc thiện. Trong giờ này chúng ta phục vụ Chúa bằng cách cùng dâng Thánh Lễ, hình thức cao nhất của việc phục vụ. Đồng thời chúng ta cũng phải đánh giá cao việc phục vụ chúng ta của người hàng xóm, của người hốt rác, của người phát thơ, của người mẹ, của mọi người phục vụ chúng ta.

Mỗi người theo Chúa Kitô phải đặt câu hỏi: “Trong địa vị của tôi, tôi có phải làm sao để thực sự phục vụ người khác.

Xin Chúa chúc lành bạn.

Về mục lục

.

NỀN VĂN MINH MỚI

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Vào năm 2000, hàng tỷ người trên thế giới say mê theo dõi những cuộc tranh tài giữa các vận động viên hàng đầu của hành tinh trong Đại hội Olympic Sydney. Điểm đặc biệt của Olympic cuối cùng của thiên niên kỷ này là có sự tham dự của các vận động viên phụ nữ. Đây là một điểm son không của riêng Olympic mà của cả nhân loại. Điều đó chứng tỏ phụ nữ đang được trân trọng. Càng ngày vị trí của người phụ nữ càng được nâng cao. Nữ giới đang đi vào bình đẳng với nam giới trên hầu hết mọi lãnh vực. Thế giới đang đi vào một nền văn minh mới mà Đức Giêsu tha thiết truyền dạy cho các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thời xa xưa, khi còn sống hoang dã, con người ta đối xử với nhau thật tàn nhẫn. Người ta tranh giành thực phẩm. Người ta tranh chấp đất đai. Tất cả đều theo định luật cạnh tranh sinh tồn. Trong cuộc cạnh tranh thì dĩ nhiên mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé.
Khi con người đã biết tổ chức thành xã hội, sự cạnh tranh được định chế hóa trong giai cấp, quyền chức. Người có quyền có chức bao giờ cũng được lợi. Người dân đen thấp cổ bé miệng bao giờ cũng phải chịu thiệt thòi. Người nghèo không được có tiếng nói. Chính vì thế, ai cũng cố gắng vượt lên trên người khác hoặc bằng tiền bạc hoặc bằng chức quyền. Ai cũng muốn làm người đứng đầu. Ai cũng muốn làm lớn. Vì thế luôn luôn có sự cạnh tranh ngôi thứ. Trong cuộc cạnh tranh, người ta nhìn nhau như đối thủ cần phải chà đạp, cần phải loại trừ.
Hôm nay, khi thấy các môn đệ có dấu hiệu ham hố chức quyền, cạnh tranh ngôi thứ, Đức Giêsu đã nhân cơ hội dạy cho các ông biết tinh thần mới mà người môn đệ trong Nước Thiên Chúa phải có. Đó là: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người”.
Đây thật là một cuộc cách mạng. Vị trí trong xã hội bị đảo lộn. Người đứng đầu không còn phải để ra lệnh, nhưng để phục vụ. Người làm lớn không còn ăn trên ngồi trốc, nhưng chọn chỗ hèn mọn nhất. Người bé nhỏ nhất trở nên người lớn nhất. Người yếu đuối nhất trở nên người được trọng vọng nhất.
Đây là một cuộc cách mạng không đổ máu. Vì người đứng đầu trở thành người phục vụ không phải vì ép buộc nhưng do tự nguyện. Vì người làm lớn xuống chỗ hèn mọn nhất không buồn sầu nhưng trong niềm vui. Thế giới biến đổi không do những đấu tranh giành quyền lợi, nhưng do người có quyền tự nguyện từ bỏ đặc quyền đặc lợi.
Với lời dạy dỗ ấy, Đức Giêsu đã mở ra một nền văn minh mới. Trong nền văn minh mới này, người ta không còn nhìn nhau như những đối thủ phải loại trừ trong cuộc cạnh tranh. Người ta nhìn nhau như những người anh em phải yêu thương nâng đỡ. Sẽ không còn tranh giành. Sẽ không còn xâu xé, chà đạp nhau. Sẽ chỉ có yêu thương. Sẽ chỉ có quan tâm nâng đỡ. Người mạnh sẽ quan tâm dắt dìu người yếu. Người lớn sẽ cúi xuống bồng bế người bé. Chức quyền là để phục vụ lợi ích của mọi người. Địa vị chỉ là sự phân công hợp lý. Mỗi người một việc vì lợi ích của tập thể.
Để làm gương cho ta, chính Đức Giêsu đã tự hạ mình trước. Là Thiên Chúa, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Là Đấng cầm quyền, nhưng Người đã tự nguyện vâng lời. Là thầy nhưng Người đã tự nguyện phục vụ môn đệ. Là người lãnh đạo, nhưng Đức Giêsu không đòi hỏi đặc quyền đặc lợi, trái lại Người sẵn sàng hiến mạng sống để cứu chuộc nhân loại.
Người đã hóa thân làm một con người bé nhỏ, nghèo túng, hèn yếu nhất. Để từ nay, ai đón tiếp một người bé nhỏ nhất là đón tiếp chính Người. Ai giúp đỡ một người yếu hèn nhất là giúp đỡ chính Người. Ai yêu mến một người nghèo túng nhất là yêu mến chính Người.
Với sự hạ mình của Người, số phận con người từ nay thay đổi tận gốc rễ. Người bé nhỏ trở thành đối tượng được quan tâm phục vụ. Người yếu đuối được nâng niu chăm sóc. Người nghèo hèn được kính trọng yêu thương. Vì họ đã trở thành hình ảnh của chính Thiên Chúa.
Từ nay, nhân loại đi vào một nền văn minh mới, nền văn minh của tình thương. Nhân loại không còn tranh chấp nhau, nhưng trở nên anh em đoàn kết thương yêu nhau. Sức khỏe, của cải, chức quyền không phải là những phương tiện để chà đạp, nhưng là những phương tiện phục vụ. Lãnh đạo không còn là một quyền lợi, nhưng trở thành một nhiệm vụ nặng nề vì phải quan tâm phục vụ mọi người.
Suy gẫm Lời Chúa dạy hôm nay hẳn phải khiến ta giật mình lo lắng. Không những ta không đi vào con đường Chúa đã vạch ra, mà rất nhiều khi còn chống lại Lời Chúa dạy bảo. Ta vẫn nuôi những tham vọng thống trị người khác. Ta vẫn muốn chiếm giữ những địa vị quan trọng. Ta vẫn coi thường những người bé nhỏ, hèn yếu. Ta đang đi ngược trở lại thời tiền sử. Ta đang đi ngược lại con đường Chúa đã đi.
Hôm nay Chúa mời gọi ta hãy trở lại con đường của Chúa. Hãy tự nguyện trở thành người bé nhỏ khiêm nhường. Hãy biết nâng dậy những số phận hẩm hiu. Hãy biết kính trọng những mảnh đời nghiệt ngã. Hãy góp phần xây dựng nền văn minh mới, trong đó những người yếu đuối như phụ nữ và trẻ em được quan tâm và được kính trọng.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Ngày nay, trẻ em phụ nữ, những người bệnh tật được quan tâm hơn ngày xưa. Bạn có thấy đó là dấu hiệu Lời Chúa dạy đang được thực hiện không?
  2. Tại sao Chúa Giêsu sinh làm một người bé nhỏ, nghèo hèn?
  3. Tại sao con người không nên tranh chấp nhau nhưng phải yêu thương phục vụ nhau?

Về mục lục

.

MÁU LÀM QUAN

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Nếu hỏi một em bé: “con đi học để làm gì?” , thì đa số các em sẽ trả lời rằng: con đi học để làm ông này bà kia . . .; làm kỹ sư, làm bác sỹ, làm linh mục hay nữ tu . . .; Điểm chung về cái học luôn là một nỗ lực cần phải có để tiến thân, hay để có danh với đời như Nguyễn Công trữ đã nói:

“Đã mang tiếng đứng trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”

Nhất là truyền thống dân tộc Việt Nam luôn trọng sự học. Và đương nhiên cũng rất trọng “cái danh”- làm quan. Cái danh ấy, không chỉ mang lại bổng lộc cho bản thân mà dường như còn cho cả gia tộc, vì “một người làm quan, cả họ được nhờ”.

Vì mong có cái danh mà vợ phải hy sinh cho chồng, cha mẹ hy sinh cho con cái. Họ chấp chận mọi đắng cay để gia đình có người làm quan như trong bài thơ “Trăng sáng vườn chè” diễn tả. Bài thơ này những bà mẹ thường kèm theo lời hát ru hời trong giấc ngủ của con:

Sáng trăng sáng cả vườn chè/ Một gian nhà nhỏ đi về có nhau/ Vì tằm tôi phải chạy dâu/ Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay/ Chồng tôi thi đỗ khoa này/ Bõ công kinh sử từ ngày lấy tôi…

Công bằng mà nói, máu làm quan là bản năng của con người. Khi bắt đầu có nhận thức về nhóm, về tập thể, cộng đồng và xã hội thì luôn có người muốn đứng trên mọi người! Con người luôn muốn thống lĩnh mọi người để được hưởng lợi. Con người đua nhau làm quan xem ra chỉ để được vinh thân phì gia, có mấy ai để xả thân cứu đời.

Dường như các môn đệ đi theo Chúa cũng muốn tìm cái danh. Ai cũng muốn làm người đứng đầu. Ai cũng muốn bổng lộc, sung sướng an nhàn. Họ cũng tranh dành nhau quyền lực. Họ cũng chèn cựa ganh tỵ với nhau để kiếm chỗ nhất trong anh em.

Hôm nay, Chúa Giê-su bảo người theo Chúa là để phục vụ, để hy sinh, để xả thân. Người theo Chúa không phải vinh thân phì gia mà để sống có ích cho đời, đem cái tài của mình để  cống hiến cho nhân loại. Người theo Chúa phải bỏ lại ruộng vườn, thân nhân, gia tài để sống thanh thoát với đời. Người theo Chúa còn phải vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Như vậy, người có danh là để phục vụ, để cống hiến cho đời chứ không phải để hưởng lợi bổng lộc từ danh vọng.

Tinh thần phục vụ mà Chúa Giê-su đòi hỏi các môn đệ là vô điều kiện, là vô vị lợi. Tinh thần ấy sẵn lòng cúi xuống phục vụ mọi hạng người cho dù đó là trẻ em, là những phận người bé nhỏ nhất trong xã hội con người. Tinh thần ấy còn sẵn lòng đón nhận mọi khó khăn, thử thách để chu toàn sứ vụ được giao.

Cuộc đời con người ai cũng mong có được địa vị, có được danh vọng. Điều quan yếu là hãy dùng nén bạc Chúa trao ấy để sinh lợi cho Chúa. Xin đừng tìm kiếm danh vọng để vun quén cho bản thân, để vinh thân phì gia. Danh giá của con người không hẳn ở chức tước mà hệ tại việc mình quảng đại dấn thân cho đời. Đó mới là lý tưởng mà Chúa muốn người môn đệ cần phải theo.

Xin cho chúng ta luôn bé nhỏ để Chúa được lớn lên trong chúng ta. Xin đừng vì danh vọng mà sống ganh ghét, tỵ hiềm gây nên những tranh chấp hận thù đau thương. Nhưng xin cho chúng ta biết sẵn lòng đón nhận chức vụ với tấm lòng gánh lấy trọng trách Chúa trao để phục vụ lợi ích cho tha nhân. Amen.

Về mục lục

.

BÀI HỌC VÀ GƯƠNG PHỤC VỤ

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Người đời có câu : Chính trường cũng là chiến trường. Câu nói đó quả là không sai. Theo dõi các cuộc chay đua quyền lực của những người làm chính trị, chúng ta có thể thấy đó là một cuộc chạy đua khốc liệt. Người chiến thắng trở thành người nắm giữ quyền lực, kẻ thất bại trở nên tan gia bại sản và có khi mất mạng. Chúng ta đang chứng kiến những sự kiện này trên thế giới. Tại Triều Tiên, vì muốn triệt hạ những người có nguy cơ tạo phản, ông Kim- Jung- Un trong mấy năm cầm quyền vừa qua, đã xử tử hàng trăm người, trong đó có cả những người họ hàng thân thuộc và là người cưu mang ông. Tại Trung Quốc, người ta đang nói đến chính sách “đả hổ diệt ruồi” nhằm thanh trừng lẫn nhau. Điều đó cho thấy, quyền lực vẫn là một cám dỗ hết sức mạnh mẽ và thường xuyên trong con người và quyền lực có thể biến con người trở thành ác thú đối với nhau.

Ngày xưa, khi theo Chúa Giêsu, các môn đệ cũng không tránh khỏi cám dỗ tìm quyền lực và danh vọng. Mặc dù đã được tận mắt thấy Chúa Giêsu sống một cuộc sống hết sức thanh bần khó nghèo, được nghe những bài giảng về tinh thần phục vụ, nhưng dường như, những điều đó vẫn chưa thay đổi được suy nghĩ trong các tông đồ.

Tin Mừng tuần trước, các tông đồ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Chúa đã tỏ cho các ông biết Ngài là Đấng Cứu thế khiêm hạ như lời tiên tri Isai mô tả, chứ không như các ông tưởng tượng ra. Hôm nay, Chúa nói rõ hơn về cách thức cứu thế của Ngài : Con người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Ngài, và ba ngày sau khi bị giết, Người sẽ sống lại. Tuy nhiên, các tông đồ dường như bỏ ngoài tai những lời tiên báo của Chúa Giêsu, vì các ông vẫn nuôi hy vọng về chức tước, quyền lực mà các ông nghĩ mình sẽ được. Vì thế, các tông đồ đã ngấm ngầm bàn cãi với nhau để phân chia quyền lực xem ai là người lớn hơn.

Trước suy nghĩ sai lạc của các tông đồ, Chúa Giêsu đã ngồi xuống, gọi các ông lại để “cảnh cáo” các ông. Đây là lần đầu tiên Kinh Thánh kể lại việc Chúa ngồi xuống, gọi các ông lại để dạy bảo. Điều đó chứng tỏ rằng, đây là vấn đề hết sức quan trọng. Vì nếu trong tâm trí các ông còn tìm kiếm địa vị hơn thua, thì các ông sẽ không thể đi theo con đường của Chúa được. Chúa đã chỉnh lại để các ông rõ quan điểm của Chúa : Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm kẻ phục vụ mọi người.

Chính Chúa Giêsu đã chấp nhận từ bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa để mang thân phận con người trong vâng phục Ý Chúa Cha và để phục vụ con người bằng đời sống và bằng đôi tay của mình. Vì thế, các môn đệ của Chúa cũng phải đi theo đường lối phục vụ như thế. Chúa muốn các môn đệ của Chúa cũng phải phục vụ không tính toán thiệt hơn, không chọn nơi phục vụ, cũng không chọn lựa đối tượng để phục vụ. Vì thế, Ngài đưa một em bé để làm ví dụ : Ai tiếp đón một em nhỏ vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Đón tiếp và phục vụ một em nhỏ thì không được lợi gì cả. Phục vụ trẻ nhỏ là công việc không tên, lại bận rộn suốt ngày, mà trẻ nhỏ thì không có gì đền trả. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại kể những việc phục vụ nhỏ bé, không tên, tầm thường ấy như là phục vụ cho chính Ngài và hơn thế nữa là phục vụ chính Thiên Chúa Cha.

Chúa Giêsu đến cứu độ trần gian, Ngài phục vụ và đem hạnh phúc cho tất cả mọi người, Ngài không tranh giành quyền lực với trần gian. Tuy nhiên, các vua chúa và chính quyền trần gian vẫn cứ sợ Ngài gây ảnh hưởng hoặc sợ Ngài chiếm chỗ của mình, nên họ tìm mọi cách để loại trừ Ngài. Sách Khôn Ngoan đã nhìn thấy sự đối nghịch giữa hai lối sống của thế gian và của người công chính : Phường vô đạo lên tiếng nói : Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, nó trách ta vi phạm lề luật.

Các thủ lãnh thế gian thù ghét người công chính chỉ vì người công chính đã sống khác họ, không a dua, đồng lõa với thế gian trong những điều xấu xa và không làm ngơ trước những sai trái của thế gian. Người công chính mà sách Khôn Ngoan nói đến chính là Đức Giêsu. Ngài đã đến ở giữa thế gian, nhưng Ngài đã rao truyền một lối sống khác với thế gian, nên thế gian thù ghét Ngài. Chúa Giêsu đã lên tiếng cảnh cáo lối sống gian tham, buông thả và kêu gọi sống từ bỏ, hy sinh tiết chế. Ngài kêu gọi giũ bỏ mọi sự gian dối, giả trá để sống ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Vì thế, thế gian, cụ thể là các nhà lãnh đạo Do Thái, đã tìm cách giết Ngài.

Cho đến ngày nay, các thế lực trần gian vẫn thù ghét Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài, bởi vì họ vẫn cho rằng, Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài đang tìm cách gây ảnh hưởng hoặc lật đổ họ. Vì vậy, họ tìm cách loại trừ Chúa Giêsu và môn đệ của Ngài. Thế nhưng, Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài không hề nhắm gây ảnh hưởng, cũng không tìm kiếm quyền lực chính trị trần gian, trái lại, chỉ muốn phục vụ mọi người, mọi thành phần như một người tôi tớ. Chúa Giêsu đã biết trước điều đó nên từ bài học và lời dạy đầu tiên cho đến bài học cuối cùng của Ngài vẫn là bài học phục vụ trong khiêm hạ, không đòi hỏi, không tính toán. Bài học cuối cùng để lại cho các tông đồ, là Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các ông và căn dặn : Anh em hãy rửa chân cho nhau, hãy làm như Thầy vừa làm cho anh em.

Thánh Giacôbê trong bài đọc hai đã giải thích thêm về tinh thần phục vụ mà Chúa Giêsu đã dạy : Người môn đệ của Chúa, trong mọi công việc, cần loại bỏ sự ghen tương và tranh chấp. Vì ghen tương, tranh chấp sẽ dẫn đến thù oán và nhiều việc xấu xa khác. Người phục vụ cần học nơi Chúa để biết sống thanh khiết, hiền hoà, khoan dung, là những đức tính làm trổ sinh hoa trái tốt lành. Thánh Giacôbê cũng cho thấy, các cuộc chiến tranh đang diễn ra trên thế giới từ xưa đến nay bắt nguồn từ tham vọng cá nhân của con người. Hoàng đế Neron ngông cuồng đã đem đến chết chóc cho bao nhiêu người, một Napoleon muốn sơn cả thế giới cùng một màu, một Hitle muốn biến thế giới trở thành một dân tộc duy nhất, một cường quốc muốn dùng vũ khí để giữ vai trò làm chủ thế giới… Tất cả là do tham vọng trong con người, từ đó đã nổ ra những cuộc chiến tranh giết chóc.

Tham vọng, quyền lực là cám dỗ chung của mọi người. Vì thế, âm thầm phục vụ luôn là một mời gọi và là thách đố, khiến người môn đệ của Chúa luôn bị giằng co. Tham vọng quyền lực đang diễn ra ngay trong tôn giáo và xã hội, nơi gia đình và nơi mỗi người. Ngoài xã hội, có nhiều người bị say men quyền lực và họ tìm mọi cách, kể cả mọi thủ đoạn, để đạt được quyền lực và giữ được quyền lực. Trong tôn giáo, có các linh mục, tu sĩ không dễ dàng từ bỏ nhiệm vụ, nhiệm sở của mình khi được thuyên chuyển. Trong gia đình, nhiều bậc cha mẹ đã đánh mất tinh thần phục vụ, sự tận tuỵ của người cha người mẹ, thay vào đó là thói gia trưởng gia mẫu trong cách cư xử với vợ chồng con cái, khiến cho gia đình luôn căng thẳng, con cái sợ hãi mỗi khi gặp bố mẹ. Nhiều gia đình, vợ chồng đùn đẩy trách nhiệm giáo dục con cái cho nhau, kể công tính toán với nhau. Cuối cùng, con cái trở thành những kẻ bị đẩy ra ngoài đường chỉ vì cha mẹ tranh chấp nhau.

Không chỉ tham danh, tham địa vị, nhiều người còn bị cám dỗ bởi tham tiền bạc của cải, tham công việc đến độ bỏ qua lề luật giới răn Thiên Chúa. Có những người vì một chút địa vị, họ sẵn sàng từ bỏ ơn gọi Kitô hữu của mình để đạt được một cái danh, một chỗ đứng ngoài xã hội. Họ lao vào công việc nghề nghiệp để ganh đua với mọi người hơn là để phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống.

Nhiều bạn sinh viên ngày nay lao vào con đường học, chỉ với một mục đích duy nhất, là tìm được một chỗ đứng trong xã hội và kiếm được nhiều tiền cho mình, mà không mấy người nghĩ đến việc học tập của họ, sẽ giúp họ phát triển bản thân, phục vụ cộng đồng một cách hiệu quả hơn. Vì háo danh, nên nhiều bạn trẻ đã biến mình trở thành nổi tiếng bằng những hành động thiếu văn hoá, thiếu đạo đức.

Bài học khiêm nhường phục vụ và tấm gương cúi mình phục vụ của Chúa Giêsu vẫn mãi là lời mời gọi cho tất cả chúng ta. Xin Chúa tẩy rửa khỏi chúng ta mọi thứ tham vọng quyền lực, để cho Lời Chúa uốn nắn, chúng ta trở nên những học trò theo sát bước Chúa Giêsu và học nơi Chúa tinh thần phục vụ của Ngài. Amen.

Về mục lục

.

NGƯỜI LỚN HƠN CẢ LÀ AI?

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Thời gian gần đây tôi thường hay phải đi bệnh viện. Những ngày sống trong đó, như bao bệnh nhân khác, tôi đúng là yếu đuối và hoàn toàn lệ thuộc vào sự giúp đỡ của các điều dưỡng, y tá, bác sĩ và những người thân phục vụ… Dưới con mắt của xã hội bệnh viện, tôi đột nhiên biến thành một người rốt hết và yếu hèn nhất. Chính trong bối cảnh đó, cuộc cãi vã giữa các môn đệ khi đi đường ‘xem ai là người lớn hơn cả’, cùng với các ý tưởng Đức Giê-su đã dùng để giải trình vấn nạn đó, đã chiếu một luồng sáng rất mới và rất Tin Mừng vào suy nghĩ của tôi về, thế nào là giá trị đích thực của kiếp sống con người, không những của con người nhân loại mà còn cả của chính Thiên Chúa nữa.

Khi Đức Giê-su cố gắng giải thích cho các môn đệ hiểu rằng, sự vĩ đại đích thực của Thiên Chúa chính là lúc ‘Con Người bị nộp vào tay người đời…’, các ông đã không tài nào nắm bắt được. Cái lô-gích này là hoàn toàn vô lý; làm sao sự khôn ngoan của một Đức Chúa vĩ đại và cao cả lại có thể biểu lộ qua sự thấp hèn và yếu đuối được? Nghịch lý lớn tới độ các môn đệ đâm ra hoảng sợ ‘không dám hỏi lại Người’, và cũng không dám, không muốn tin rằng điều đó thực sự có thể xảy ra (xem Mt 16:21-23). Ki-tô hữu chúng ta ngày nay cũng thế! Ngay cả khi đã biết tường tận về biến cố Thập Giá và Phục Sinh, chúng ta vẫn luôn có khuynh hướng tách hai biến cố này rời khỏi nhau. Thập giá thường được coi chỉ là giai đoạn tạm bợ để Đức Ki-tô có thể đạt tới vinh quang đích thực; và vinh quang này chỉ có khi Người sống lại và lên trời vinh hiển. Ngược hẳn với quan niệm đó, khi đề cập tới giờ tử nạn sắp xảy ra, Đức Giê-su đã có suy nghĩ hoàn toàn khác; Người gọi đó chính là thời điểm (Kairos) mà Con Người được tôn vinh; “Giờ đây Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” (Ga 13:31-32). Như vậy, theo Đức Giê-su, chính trong cái chết thập giá nhuốc khổ mà Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang vĩ đại nhất của mình, vinh quang của một thứ tình yêu tự hiến và xót thương; Phục Sinh chỉ là dấu ấn của vinh quang đó, chứ không phải là cùng đích của nó. Có lẽ chính vì thế mà, khi tường thuật về các biến cố phục sinh, cả bốn sách Tin Mừng đã không hề có một lời mô tả nào về Đức Ki-tô sống lại (kể cả việc Người lên trời vinh hiển, như chúng ta quen nói) như một nhân vật vinh quang khải hoàn đầy uy quyền thống trị.

Vì không vào được tư tưởng của Đức Giê-su nên mà ít ai trong chúng ta có thể hiểu ra rằng, người ‘đứng đầu’ hay ‘làm lớn nhất’ lại phải chính là người ‘rốt hết’, là người cúi mình xuống ‘phục vụ’. Để dễ chập nhận cách lô-gích hơn, chúng ta thường lập luận như sau: để được làm lớn, trước hết ta phải cam lòng phục vụ mọi người, đó là lối xử thế khôn ngoan phổ biến mà dân gian gọi là ‘chịu đấm ăn sôi’, hay ‘luồn cúi cầu vinh’. Chắc hẳn Đức Giê-su đã không suy nghĩ theo thói khôn ngoan người đời như thế (‘cam lòng chịu chết’ ‘Per Crucem ad Lucem’ như chúng ta vẫn quen nói). Tông đồ Phao-lô, một khi đã hiểu biết được phần nào Đức Ki-tô, đã phải lên tiếng giải thích điều nghịch lý này như sau: “Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Ông khảng định, khi Đức Giê-su tuyên bố: ‘người đứng đầu phải là kẻ rốt hết, người lớn nhất phải là kẻ phục vụ’, Người đang đưa ra một định luật tuyệt đối cách mạng. Đây không thể là một lý luận tầm thường, mà chính là mạc khải về giá trị đích thực của Thiên Chúa trước hết, rồi sau đó của mỗi môn đệ Ki-tô chúng ta theo chuẩn mực Tin Mừng.

Rồi khi Đức Giê-su ‘đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó…’ người không chỉ đơn thuần có ý khuyên các môn đệ hãy phục vụ trẻ nhỏ, hạng người được coi là rốt hết trong xã hội Do Thái. Tác giả Mát-thêu trong đoạn song hành đã cho thấy, hàm ý của Người còn thâm sâu hơn nhiều; “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời? Đức Giê-su liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông, và bảo: Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Tròi… Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất Nước Trời” (Mt 18:1-4). Vậy thì ai phục vụ một trẻ nhỏ hay một kẻ nghèo hèn thì không chỉ phục vụ một Đức Ki-tô uy quyền tạm ẩn dấu dưới hình hài hèn hạ, mà là phục vụ một Đức Ki-tô thực sự vinh quang trong sự bé nhỏ, nghèo hèn và tự hủy. Qua việc phục vụ đó, họ đang tham dự vào sự vĩ đại cao sang nhất của Thiên Chúa xót thương và tự hiến; vì đối với một Thiên Chúa cứu độ và tự hiến thì vinh quang lớn nhất chính là lúc Người trở nên rốt hết và cúi xuống phục vụ mọi người.

Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), Đức Ma-ri-a một khi nhìn nhận phận hèn của mình thì đồng thời cũng khám phá ra sự cao cả vĩ đại vô song của kiếp sống mình. Mẹ là người đầu tiên đã nhận thức được, sự cao cả của Thiên Chúa luôn đối nghịch với những gì là ‘biểu dương sức mạnh, quyền thế, giầu có…’, và gần gũi hơn với những gì là ‘khiêm nhu, nghèo đói, thấp kém…’ Lý do duy nhất được đưa ra là, chỉ vì Người là đấng giầu lòng xót thương (Lc 1:46-55). Phao-lô cũng nhìn nhận sức mạnh của mình nằm trong chính sự yếu đuối mình cảm nghiệm, “Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”, tới độ ông còn vui mừng khi phát hiện ra rằng mình yếu đuối, “tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi” (2 Cr 12:9-10). Khi các ngài khảng định như vậy chắc hẳn phải dựa trên một nguyên lý hiện sinh vững chắc lắm, chứ không chỉ trên một thái độ khiêm cung nhất thời.

Là linh mục của Chúa Ki-tô Thập Giá, mỗi lần cử hành Thánh Lễ, tôi luôn được nhắc nhở rằng, Thiên Chúa là Đấng cao sang và vĩ đại nhất chính vì Người đã cúi xuống, tự hủy và trở nên rốt hết! Tư tưởng này phải là định hướng cho toàn bộ đời sống thiêng liêng và họat động mục vụ của tôi.

Lạy Thiên Chúa bé nhỏ và mọn hèn! Chỉ khi nào nghiệm thấy được lòng nhân ái và dịu hiền của Chúa, con mới thấu hiểu được thế nào là vĩ đại và vinh quang đích thực, và cũng chỉ khi đó con mới có thể khảng định rằng, mình đã thực sự hiểu biết về Thiên Chúa. Xin cảm tạ Chúa đã ban cho con ơn gọi Ki-tô hữu để con có thể khám phá ra sự khôn ngoan này. Xin cho con tiếp tục tiến bước trên con đường Tin Mừng phong phú dường bao, khác xa với lối sống tự nhiên của loài người, kể cả những người tốt lành thánh thiện nhất. A-men.

Về mục lục

.

ĐỜI TÔI TIẾN BƯỚC NHƯ MỘT CON LỪA

Văn Hào

Nhà văn Bossuet đã viết: “Ai trong chúng ta không có thói tự kiêu, người đó là thượng đế”. Câu nói của nhà văn ngụ ý rằng, tự bản chất con người chúng ta ai cũng có cái tôi ích kỷ, thích được người khác nể trọng và thán phục. Trong xã hội ngày nay, chúng ta thấy nhan nhản những khẩu hiệu, như “ Cán bộ là đầy tớ của nhân dân” hoặc sống “ Yêu thương để phục vụ”…nhưng trong thực tế, nhiều khi đó chỉ là những khẩu hiệu lý thuyết, và lắm lúc những khẩu hiệu xem ra đao to búa lớn ấy chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch. Tuy nhiên, nếu can đảm và thẳng thắn nhìn lại cách sống của chính chúng ta là các Kitô hữu, đặc biệt nơi các anh em linh mục, chúng ta sẽ thấy rất rõ cái tôi của mình, qua cung cách trịch thượng hoặc qua lối hành xử hách dịch mà chúng ta rất hay biểu tỏ ra bên ngoài.

Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta tiêu chí căn bản để trở nên môn đệ Đức Giêsu: “ Ai muốn làm đầu phải làm người rốt hết, và làm kẻ phục vụ mọi người” (Mc 9,35). Khiêm tốn để phục vụ là bài học căn bản mà chúng ta phải học, học mãi, học cho tới suốt đời, để sao chép lại cách sống của chính Đức Giêsu như Ngài đã từng nói: “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29).

Khiêm nhường, khởi đầu của mọi nhân đức

Thánh Tôma Aquinô diễn tả có vẻ hơi cường điệu. Ngài nói :“ Khi chúng ta chết đi, cái tôi của chúng ta sau 15 phút mới chết hẳn”. Cái tôi ích kỷ và kiêu căng vẫn luôn đeo bám dai dẳng nơi tất cả mọi người. Tội đứng đầu trong bảy mối tội chính là tính kiêu ngạo. Đây chính là tội đầu tiên đã du nhập vào trần gian, và đó cũng là tội mà Thiên Chúa ghét bỏ nhất. Adam đã sa ngã vì kiêu ngạo muốn trở nên ngang bằng với Thiên Chúa. Tháp Babel cũng là biểu tượng của sự kiêu căng khi con người muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Luxiphe là một thiên thần biến chất cũng chỉ vì quá tự phụ. Quả thật, khuynh hướng kiêu ngạo đã ăn sâu nơi bản tính con người, và trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta luôn phải đấu tranh liên lỉ để vượt thắng. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã viết: “ Vì một người duy nhất đã không vâng phục Thiên Chúa mà muôn người trở nên tội nhân” (Rm 5, 19). Con người đó chính là Adam. Tội Adam hay gọi là tội nguyên tổ, khởi đầu của các giống tội, chính là kiêu ngạo và bất tuân. Tính kiêu ngạo đã ăn sâu vào bản tính nhân loại nơi chúng ta.

Có một câu ngạn ngữ tây phương đã viết: “Cái tôi thì đáng ghét” (le moi est haissable). Ai trong chúng ta cũng biết điều này, nhưng không phải giản đơn nếu chúng ta muốn khuất phục cái tôi đáng ghét đó. Thánh Phêrô cũng khuyên dạy các tín hữu: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho ai khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa (1P 5,5-6). Qủa thật, khiêm nhường chính là cửa ngõ dẫn đưa chúng ta đi vào sự thánh thiện, bởi vì khiêm nhường chính là mẹ sản sinh các nhân đức khác (tư tưởng của Tennyson).

Khiêm nhường: linh đạo Thập giá

Sự khiêm nhường mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay không chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản, nhưng đây chính là linh đạo Thập giá. Đó là con đường trọn lành mà Đức Giêsu đã gợi mở để mời gọi chúng ta dấn bước vào: “ Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34).

Hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã đến trần gian để thực hiện sứ mạng cứu thế. Ngài đã khởi đầu cuộc hành trình tại máng cỏ Bêlem và kết thúc sứ mạng nơi đỉnh cao Thập giá. Bêlem và Golgôtha là hai thông số của một thực tại duy nhất : Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Để diễn bày tình yêu, Thiên Chúa cao cả đã tự nguyện mang lấy kiếp người hèn hạ. Một Thiên Chúa đầy uy quyền và dũng lực lại ẩn dấu trong dáng dấp của một bé thơ mỏng manh và yếu ớt. Một đứa trẻ mới sinh ra chưa có thể làm được điều gì. Nó cần đến vòng tay che chở của cha, cần những giọt sữa yêu thương của mẹ để được lớn lên. Trẻ Giêsu còn cần đến cả những hơi thở của những con bò con lừa giữa đêm khuya lạnh giá. Vì thế, trong bài Tin mừng hôm nay, để nói về sự khiêm tốn, Chúa mượn lại hình ảnh của một đứa bé như một chuẩn mẫu: “ Ai tiếp đón một em bé như em này vì danh thầy, là tiếp đón chính thầy” (c.37). Một đứa trẻ trong xã hội Do thái khi xưa hoàn toàn không có một giá trị gì về mặt xã hội. Nhưng Đức Giêsu luôn yêu quý trẻ thơ. Ngài còn đề cao các em nhỏ và mời gọi các môn đệ phải nên giống trẻ thơ.“ Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở nên như trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào nước trời. Vậy ai tự hạ và nên như trẻ nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất trong nước trời” (Mt 18,2-4). Đứa bé còn là hình mẫu về sự nghèo khó mà Chúa nói đến. Một đứa con nít không có vị thế gì trong xã hội. Chúng chẳng bao giờ dám mơ tưởng sẽ làm ông này hay bà nọ. Chúng cũng nghèo xác nghèo xơ, không có tài sản hay tiền bạc trong túi. Tinh thần nghèo khó chính là mối phúc đầu tiên trong tám mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi, và đây cũng chính là linh đạo thập giá, đi đôi với sự khiêm tốn nội tâm mà Chúa nói tới trong Tin mừng hôm nay.

Viễn ảnh thập giá xem ra rất mù tối đối với các học trò của Chúa Giêsu. “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người, và sau ba ngày Người sẽ sống lại”. Thánh Marcô xác nhận: “ Các ông không hiểu lời nói đó (Mc 9,32), bởi vì con đường theo Đức Giêsu còn rất nhiều trầy truột và gian nan. Đối diện trước cái chết, Đức Giêsu đã bị người đời chửi rủa, mạt sát, và coi khinh. Ngài vẫn không cự cãi một tiếng, không chống trả một câu. Sự thinh lặng của Ngài không phải là một sự câm nín thụ động, nhưng đó là ngôn ngữ phong phú nhất để dạy chúng ta bài học khiêm tốn. Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách Khôn ngoan cũng phác vẽ trước viễn ảnh Thập giá này: “Ta sẽ hạ nhục nó và tra tấn nó để biết nó hiền hòa làm sao, và để xem nó nhẫn nhục tới mức nào. Nào ta sẽ kết án cho nó chết một cách nhục nhã” (Kn 2, 19-20). Mầu nhiệm Thập giá hàm ngậm sự tự hủy luôn luôn là một thách đố đối với các học trò của Chúa Giêsu năm xưa cũng như đối với mọi người chúng ta hôm nay. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philip cũng vạch dẫn con đường này, và Ngài mời gọi chúng ta nhìn vào linh đạo Thập giá như là khung căn bản định hình sự khiêm tốn nội tâm: “ Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên Thập tự (Phil 2, 6-8).

Vì vậy, sự khiêm tốn không chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản, nhưng chính là linh đạo Thập giá. Chúng ta học sống khiêm nhường không phải theo gương của vị vĩ nhân này hay lối sống của nhà hiền triết nọ, nhưng chúng ta được mời gọi nhìn vào chính Đức Giêsu chịu đóng đinh để sao chép lại lối sống và tiếp bước dấu chân của Ngài. “ Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

Đời tôi tiến bước như một con lừa

Đây là tựa đề một quyển sách Đức Hồng y Etchegarey đã viết khi suy tư về hành trình ơn gọi của mình. Ngài vay mượn hình tượng một con lừa để mô tả. Người đời vẫn thường nói: “Ngu như bò và dốt như lừa”. Nhưng bò và lừa lại là hai vị thượng khách được ưu tuyển để đến cung chiêm Vua Trời đất khi Ngài mới hạ sinh. Đức Hồng y cũng mượn lại hình ảnh con lừa chở Chúa tiến vào Giêrusalem để nói về hành trình ơn gọi của Ngài. Người dân hai bên đường vỗ tay reo hò, trải áo và cầm cành lá trên tay để nghinh đón. Con lừa vẫn không vênh mặt lên để tự mãn, vì những lời tung hô đó dành cho Chúa chứ không phải cho nó. Nó mãi mãi cũng chỉ là một con lừa mà thôi. Đường vào Giêrusalem đầy sỏi đá làm chân nó đau nhức, nó vẫn không một lời kêu than. Con lừa vẫn cứ âm thầm lặng lẽ mang Chúa trên vai, và tiến bước một cách ngoan thuần. Nó khiêm tốn bước đi để Chúa hướng dẫn, và suốt đời nó mãi mãi vẫn chỉ là một con lừa mà thôi. Cuộc hành trình ơn gọi của mỗi người chúng ta cũng phải giống như vậy. “Đời tôi tiến bước như một con lừa” chính là như thế. Thái độ căn bản chúng ta cần phải có là khiêm tốn để Đức Giêsu hướng dẫn đời mình. Chính Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, như Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, này con xin đến để thi hành thánh ý Cha”. Khi đi vào trần gian, Ngài đã đến “ không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).

Chủ nghĩa ‘cha chú’ (paternalism)

Thánh Phanxicô Assisi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần khiêm tốn và nếp sống khó nghèo. Ông Stalin, một lãnh tụ vô thần, cho dù không tin vào Thiên Chúa, nhưng khi đọc tiểu sử của thánh nhân đã thốt lên: “ Nếu tôi có trong tay 10 người như Phanxicô, tôi sẽ làm thay đổi cả bộ mặt thế giới”. Con người chúng ta ít nhiều ai cũng có bệnh sỹ diện, thích phô trương cái tôi của mình. Căn bệnh trầm kha này không phải chỉ có nơi giáo dân, nơi các ông trương ông trùm, nhưng có ngay cả nơi các anh em linh mục. Một Cha già đã chia sẻ rằng, khi các linh mục được mọi người kính trọng và gọi bằng cha, rất dễ quên đi ơn gọi làm con nơi mình. Ngài nói tiếp “Nhiều cha lại cứ thích ‘chơi cha’ thiên hạ, qua lối hành xử trịch thượng và hống hách, thậm chí còn dùng tòa giảng để chửi bới giáo dân. Đó là lối sống theo chủ nghĩa cha chú (paternalism) mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã kết án rất mạnh mẽ khi Ngài nói với giáo triều Rôma dịp Noel năm ngoái (ngày 22/12/2014). Điều nhận xét trên không phải mang tính cách vơ đũa cả nắm, nhưng rất cần thiết cho mọi người, nhất là các anh em linh mục, để chúng ta biết can đảm và thẳng thắn nhìn lại chính mình khi thi hành tính năng mục tử.

Kết luận : Tôi tớ của các tôi tớ

Sau hết, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria như là khuôn mẫu nội tâm để chúng ta học nơi Ngài bài học khiêm nhu. Mẹ vẫn luôn coi mình chỉ là “tôi tớ” của Thiên Chúa. Bí quyết duy nhất của Đức Maria khi thực hành sự khiêm tốn và vâng phục là luôn thưa lời “xin vâng”, tuyệt đối để Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Mẹ đã cảm nghiệm rất sâu lắng sự khiêm tốn ấy khi cất lên bài ca Magnificat : “Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng, Người nâng dậy những ai khiêm nhu”. Bắt chước Đức Maria, người nữ tỳ (serva) của Thiên Chúa, Đức Thánh Cha Gioan 23 và Đức Phaolô đệ lục khi chuẩn nhận các văn kiện công đồng Vatican II luôn luôn đặt bút ký tên của mình với hàng chữ “ servus servorum” (tôi tớ của các tôi tớ). Còn các Kitô hữu, cách riêng các anh em linh mục, chúng ta đã hành xử và thực thi quyền bính được trao phó cho chúng ta, “những tôi tớ của các tôi tớ” như thế nào?

Về mục lục

.

NGƯỜI LÃNH ĐẠO

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Trang Tin mừng Chúa nhật hôm nay đánh dấu một giai đoạn quan trọng. Chúa Giêsu rời vùng đất phía Bắc tiến về Giêrusalem, nơi đó thập giá đang đợi chờ Người.

Trên hành trình đó đã ba lần Chúa mạc khải cho các môn đệ biết: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người và Người bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại” (x.Mc 8,31-10,34). “Các môn đệ không hiểu và cũng không dám hỏi lại” (Mc 9, 32). Họ đang sôi nổi tranh luận về vương quốc mà Thầy sẽ thiết lập. Ai là thượng thư, ai là bộ trưởng trong vương quốc ấy! Thầy đang hướng về thập giá, khổ nạn. Các môn đệ lại tranh cải xem ai được quyền cao chức trọng hơn cả (x.Lc 22, 24-27; Mc 10,35-40). Chúa đã phải đau lòng biết bao!

Vì thế, để sửa dạy uốn nắn lối suy nghĩ các môn đệ, Chúa hỏi: “Dọc đường anh em bàn tán điều gì vậy?”. Chúa hỏi là ‘bàn tán’ cho nó nhẹ nhàng thôi, chứ thực ra Chúa biết các môn đệ vừa cãi nhau nảy lửa. Các ông im lặng vì xấu hổ về những gì đang tranh luận. Rồi Chúa dạy cho các môn đệ bài học, người lớn nhất là người khiêm tốn phục vụ anh em.

  1. Nền văn minh mới

Chúa Giêsu “ngồi xuống và gọi các môn đệ tới”. Một Rabbi dạy bảo học trò, hay tuyên bố một điều gì quan trọng thì luôn luôn ở tư thế ngồi để giảng dạy. Chúa ngồi xuống thư thái và dạy rằng: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người”. Bằng hình ảnh cụ thể, Chúa đem một em bé đặt giữa các học trò, ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Lời dạy của Chúa Giêsu thật dễ hiểu mà thật khó thực hành. “Yêu thương phục vụ” là môn học khó nhất nhưng lại là môn học phổ thông nhất. Môn học này người môn đệ phải học cả đời mà không có ngày ra trường, học tới chết mà vẫn chưa xong.

Người lớn nhất, người đứng đầu là người phục vụ hết mình. Chức tước, chức vụ, chức vị, chức quyền chỉ là phương tiện để phục vụ. Ai sống tinh thần phục vụ đó là người lớn nhất. Ai không biết phục vụ thì là người nhỏ nhất. Giá trị của một con người không do địa vị chức tước mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó. Chúa Giêsu mở ra một nền văn minh mới. Người lớn nhất không dùng quyền để lãnh đạo, nhưng dùng khả năng để phục vụ. Người lớn nhất không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng trái tim để yêu thương.

  1. Lãnh đạo là người có uy tín

Người lãnh đạo phải là người có uy. Đó là uy tín và uy quyền. Thông thường, người lãnh đạo tự khẳng định được uy tín thì tự nhiên có uy quyền một cách thực thụ nhờ niềm tin của lòng dân. Khi lãnh đạo phải dùng uy quyền thay cho uy tín thì họ tự tạo ra nguyên cớ của sự xung đột.

Dân chúng nể trọng uy tín của người lãnh đạo nhưng họ lại sợ uy quyền. Uy quyền, cường quyền càng dấn lên tới mức cao thì sinh ra thói độc đoán chuyên quyền dẫn đến độc tài. Khi người lãnh đạo đã mất hết uy tín, lẽ ra nên tự biết mà từ chức thì còn vớt vát được chút danh dự. Nhưng khi đã không còn uy tín mà lại gia tăng uy quyền thì chỉ có hại cho xã hội, căng thẳng cho cộng đồng, họ trở thành lố bịch và làm trò cười cho thiên hạ.

Không ai có thể tự vỗ ngực là “ta uy tín nhất”, bởi vì uy tín của cá nhân nằm trong lòng người khác, tùy thuộc sự ghi nhận và đánh giá của cộng đồng xã hội một cách khách quan. Uy tín phải được minh chứng qua quan điểm, tư tưởng, động cơ làm việc, đạo đức, lối sống và chất lượng thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Có những người có chức cao quyền trọng nhưng khi làm việc cụ thể và trong cuộc sống chẳng có uy tín gì, chỉ để lại sự trách cứ, chê cười, đàm tiếu. Có uy tín, tự khắc có uy quyền, một uy quyền tự thân, không phải thứ uy quyền lên gân. Không có uy tín, nhưng vì muốn thể hiện uy quyền nên thường gây hậu họa, làm hỏng cho công việc chung và tác hại khôn lường đối với xã hội và đất nước khi người này thuộc tầng lớp lãnh đạo ở tầm vĩ mô. Trên thực tế không ít người, khi có quyền thì đụng chút việc là dùng quyền uy, hống hách, quan liêu, mệnh lệnh.

Người thích uy quyền thường dùng quyền hành và quyền lực, kể cả quyền lực của đồng tiền. Họ sẽ đưa ra những khả năng đe dọa, mua chuộc như thăng giáng chức tước, lên lương, bố trí, sắp xếp chỗ này, vị trí kia, vừa câu móc, vừa hăm dọa hay cô lập đối tượng khi không “tranh thủ” được. Nếu ai đó làm phật lòng trái ý, hoặc có nguy cơ làm ảnh hưởng uy quyền thì sẽ bị trù úm, bày kế, lập mưu kỷ luật hay ép đương sự xin chuyển đổi công tác hay về “hưu non”.
Người dùng uy lực đồng tiền thường đi kèm lòng tham, tính toán cá nhân vị kỷ, vơ vét và thu vén. Cho nên, những kẻ bất tài, vô dụng, thất đức có đủ thứ thủ đoạn, mánh khóe để khi đã nắm được quyền thì dùng uy quyền trấn áp thiên hạ, “cả vú lấp miệng em”, kéo bè, kết vây cánh…hình thành nhóm lợi ích. Từ tuyển dụng, bổ nhiệm, giao chức cũng chọn trong những người thân trong gia đình, dòng tộc, huyết thống, cùng mục đích, cùng động cơ, cùng mặt bằng “quan trí”, cốt sao thế lực của mình ngày càng được cũng cố và khuynh loát. Sự cố tình tâng bốc nhau, bao che, tung hứng cho nhau, hùa nhau lập mưu kế phạm pháp, tìm mọi mánh khóe, thủ đoạn đục khoét của công, thu lợi bất chính cũng từ đó mà ra.

Khi đã không đủ uy tín mà phải dùng uy quyền đến mức độc đoán, chuyên quyền, người ta sẵn sàng trừ khử, sát phạt, làm hại người khác có đối trọng (kể cả đồng chí, bạn hữu, người thân), mua bán chức quyền, dùng đủ mánh lới tinh vi để giữ ghế, tiến thân,che lấp khuyết điểm, tích lũy của cải bất minh, vùi dập chân lý, phủ nhận lẽ phải một cách khôn lanh và rất ma mãnh !
Thế nhưng, như người đời đã đúc kết: “Uy tín trường tồn, uy quyền đoản vị” – người có uy tín sẽ để lại tiếng thơm lâu dài, người không uy tín mà thích dùng uy quyền thay cho uy tín chỉ được nhất thời, gây thù chuốc oán, tự làm mất hậu phúc, có chăng chỉ được một vài việc trước mắt, không thể có sức bền. Cho nên, làm lãnh đạo cần nâng cao uy tín, phải thu phục được nhân tâm, không nên lộng hành, lạm dụng uy quyền để tự đề cao cá nhân, quên cả lợi ích quốc gia, dân tộc, quên nhân dân, chỉ biết vun xén cho cá nhân, gia đình và nhóm lợi ích gây hậu quả khôn lường cho đất nước và nhân dân.(x. buivanbong.blogspot.com). Đối với các vị lãnh đạo tại Việt Nam, Ông Vũ Ngọc Hoàng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương nhận định ‘Câu nói cửa miệng của dân là liệu có bao nhiêu quan chức “không chạy”? Cách sử dụng cán bộ “cậu này ngoan, cô kia biết điều” của văn hoá tiểu nông làm sao sử dụng được người tài? Trên thực tế, kiểu hình thành đội ngũ cán bộ theo cách thức: “Có tiền chuyển hóa thành có quyền lực. Có quyền lực chuyển hóa thành có tiền. Người có tiền sẽ có quyền lực và người có quyền lực sẽ có tiền. Họ cùng nhau hành động để có quyền lực và có tiền ngày càng nhiều hơn. Đồng tiền cộng với quyền lực tạo thành sức mạnh khống chế, lũng đoạn tổ chức và xã hội…”.

  1. Lãnh đạo là người phục vụ

Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ con đường trở nên lớn lao thật sự. Đó là con đường phục vụ. Con đường phục vụ thay thế cho tham vọng thống trị. Giúp đỡ tha nhân thay cho tham vọng bắt người khác phục vụ chính mình. Chức quyền là để phục vụ lợi ích của mọi người. Địa vị chỉ là sự phân công hợp lý. Mỗi người một việc vì lợi ích của tập thể.

Để làm gương cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã tự hạ mình: “không phải để được phục vụ mà đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc nhiều người” (Mt 20,25-28). Là Thầy nhưng Người đã tự nguyện phục vụ môn đệ. Là lãnh đạo nhưng Người sẵn sàng hiến mạng sống “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Tinh thần phục vụ của Chúa Giêsu được thể hiện rõ nét nhất trong cử chỉ rửa chân “Nếu Thầy là Chúa mà còn rửa chân cho anh em thì anh em phải rửa chân cho nhau”. (Ga 13,14-15). “Ta ở giữa các con như một người phục vụ” (Lc 22,27). Phục vụ lên đến tuyệt đỉnh trong hành vi tự hiến “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).

Quyền bính và phục vụ gắn liền với nhau làm nên bản chất người môn đệ Chúa Giêsu. Người lãnh đạo theo gương Chúa Giêsu là người có tâm, có tầm, có đức và có tài để phục vụ tha nhân theo tinh thần đức ái mục tử. Mục tử rao giảng chân lý và dám sống chân lý ấy cho dù phải hy sinh tính mạng.

Thánh Phêrô đã thấm nhuần lời dạy của Thầy Chí Thánh nên sau này ngài viết những lời tâm huyết cho các mục tử:“Cùng các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Kitô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai. Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi ích thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt tình tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1 Pr 5,1-4). Thánh Phêrô cũng khuyên các tín hữu: “Ơn riêng của Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban.” (1Pr 4, 8-11).

Quyền bính đòi chiếm hữu và kiểm soát. Nhưng trong Giáo hội, quyền bính được xây trên nền tảng tình yêu Chúa. Chính vì thế, Chúa Giêsu mới cần Phêrô xác quyết tới ba lần : “Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21,15-17). Quyền bính được xây dựng trên tình yêu nên người mục tử luôn khiêm tốn phục vụ tha nhân.

Lời dạy của Chúa Giêsu đưa nhân loại đi vào nền văn minh của tình thương. Và kể từ đó, hàng triệu vị Thánh được tôn vinh như là những chứng từ sống động cho hình ảnh “Người lớn nhất” trong nền văn minh mới của Tin Mừng. Mẹ Têrêxa Calcutta trở thành vĩ nhân của thời đại bằng con đường yêu thương và phục vụ người nghèo. Phục vụ luôn gắn liền với yêu thương.Thánh Augustinô nhận định: Trong đời sống người Kitô hữu, có một cuộc chiến đấu giữa hai thứ tình yêu: yêu Thiên Chúa cho đến từ bỏ bản thân mình và yêu bản thân cho đến nỗi chối bỏ Thiên Chúa.

Người thành công nhất là người phục vụ cho đồng loại nhiều nhất. Một vĩ nhân không hệ tại ở địa vị xã hội của người ấy mà là sự cống hiến cuộc đời cho sự phát triển của nhân loại. Giáo hội tuyên phong một người lên bậc hiển thánh chung quy cũng là tuyên dương tinh thần phục vụ của người ấy vì Nước Chúa. Phục vụ để trở nên phong phú, có giá trị, nên hoàn thiện và trở nên gần Chúa Giêsu hơn.

“Nghệ thuật làm lớn” của Chúa Giêsu chính là khiêm tốn phục vụ. Người thật sự cao cả là người dâng đời mình cho lợi ích của cộng đoàn. Thiên Chúa đã tự liên đới với người nhỏ bé, nghèo hèn, không đáng kể nhất. Phục vụ một người không đáng kể nhất cũng là phục vụ chính Thiên Chúa. Con đường tự hạ, làm người bé nhỏ và phục vụ anh em là con đường để trở nên vĩ đại, trở nên người lớn nhất trước mặt Chúa.

Về mục lục

.

NHÂN DANH

Trầm Thiên Thu

Hằng ngày, các tín hữu Công giáo làm dấu Thánh Giá nhiều lần: “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Một tín hữu bình thường thì người ta làm dấu khi thức dậy, khi tham dự Thánh Lễ, khi cầu nguyện, khi đọc kinh, khi ăn (cơm, phở, bánh,…), khi đi ngủ. Một tín hữu biết mình yếu đuối thì họ còn làm dấu khi uống nước, khi ăn vặt, khi chạy xe, khi làm thơ, khi viết nhạc, khi viết bài, khi dịch thuật,… Nói chung, bất cứ làm gì, chúng ta đều làm nhân danh Thiên Chúa chứ không nhân danh bất cứ ai hoặc thứ gì khác, như Thánh Phaolô khuyên: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10:31), và “Hãy làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:14).

Khi nói đến “nhân danh”, chúng ta nhớ tới Tổng lãnh Thiên thần Micae – một đại anh hùng chiến đấu để bênh vực Chân Lý và Công Lý, nhân danh Thiên Chúa. Ngài là người thách đố: “Ai bằng Thiên Chúa?”.

Khi nhân danh người nào hoặc điều gì, cũng có những người “mạo danh” để làm điều sai trái, thay vì làm điều nhân nghĩa. Đó là “nhân danh” cái ác, một dạng giả hình mà chúng ta cần cảnh giác cao độ – cảnh giác với người khác và với chính mình. Thực tế đã và đang cho chúng ta thấy có những kẻ “mạo danh” để trục lợi cá nhân – ngoài đời cũng có đầy mà trong tôn giáo cũng chẳng thiếu.

Thời Cựu Ước, những kẻ xấu đã “nhân danh” sự ác mà vào hùa với nhau: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo” (Kn 2:12). Khi nhân danh điều gì, đôi khi người ta cũng dễ bị ảo tưởng hoặc suy nghĩ lệch lạc. Gọi là nhân danh điều tốt này hoặc sự thiện kia, nhưng thực chất có thể chỉ là nhân danh mình – tức là muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình mà thôi. Dạng này rất tinh vi, chúng ta phải thực sự cảnh giác kẻo “sập bẫy” mưu ma chước quỷ!

Tư tưởng xấu sinh ra ước muốn xấu, ước muốn xấu sinh ra hành động xấu, hành động xấu là nhân danh cái ác. Những kẻ xấu cũng tưởng người khác cũng xấu như mình nên họ nghi ngờ người khác. Họ lý luận: “Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào. Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù. Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó, để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào. Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm” (Kn 2:17-20). Chính Chúa Giêsu cũng đã bị những kẻ xấu thách thức tương tự!

Những người công chính, tâm địa ngay thẳng, nhưng đôi khi vẫn gặp tai ương. Không phải là Thiên Chúa không biết hoặc làm ngơ, nhưng Ngài tôn trọng luật tự nhiên. Khi thực sự cần thiết thì Ngài mới ra tay. Những người tín thác vào Thiên Chúa thì luôn chân thành khấn cầu: “Lạy Thiên Chúa, xin dùng uy danh mà cứu độ, lấy quyền năng Ngài mà xử cho con. Lạy Thiên Chúa, xin nghe con nguyện cầu, lắng tai nghe lời con thưa gửi. Phường kiêu ngạo nổi lên chống đối, bọn hung tàn tìm hại mạng sống con, chúng không kể gì đến Thiên Chúa. Nhưng này có Thiên Chúa phù trì, thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ” (Tv 54:3-6).

Quả thật như vậy, vì Ngài biết rõ ai như thế nào, mạnh hay yếu, và Ngài không bắt chúng ta chịu đựng quá sức mình. Vấn đề quan trọng là chúng ta phải biết nhận ra ơn độ trì của Thiên Chúa, như tác giả Thánh Vịnh thầm hứa: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo!” (Tv 54:8).

Ai tin tưởng và hành động nhân danh Thiên Chúa thì chắc chắn sẽ không lầm đường lạc lối, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8:12).

Cụ thi hào Nguyễn Du đã nhận định và so sánh: “Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI” (Truyện Kiều). Cái “tâm” vô cùng quan trọng trong đời sống con người. Ai cũng có lương tâm, nhưng vấn đề là lương tâm đó đúng đắn hay lệch lạc. Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa. Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình. Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính” (Gc 3:16-18).

Chắc chắn ai cũng biết lợi ích của cái tâm chân chính, nhưng biết là biết vậy, cố gắng áp dụng hay không lại là chuyện khác. Cổ nhân nói: “Tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính”. Từ cái tâm sẽ sinh ra nhiều hệ lụy khác, thậm chí ảnh hưởng cả sức khỏe thể lý.

Thánh Giacôbê tiếp tục phân tích: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau. Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4:1-3). Hệ lụy rạch ròi, tất yếu. Đúng là “lỗi tại tôi mọi đàng” chứ chẳng lỗi tại ai ráo trọi!

Cái thiện ý hoặc thiện tâm rất quan trọng, ngược lại thì rất nguy hiểm với ác ý hoặc dã tâm: “Thiện ý một câu ấm ba đông, lời ác lạnh người sáu tháng ròng”. Trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh, đạo binh chư thần đã đồng ca: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 1:14). Điều đó cho thấy sự thiện tâm là điều kiện tất yếu để được Thiên Chúa yêu thương, nhờ đó mà quyết tâm chỉ nhân danh sự thiện mà thôi.

Trình thuật Mc 9:30-36 cho chúng ta biết về hai vấn đề quan yếu mà chính Chúa Giêsu muốn giáo huấn mỗi chúng ta: Lớn – nhỏ, và thuận – nghịch.

Một lần nọ, Chúa Giêsu và các môn đệ đi băng qua miền Galilê. Ngài không muốn cho ai biết, vì Ngài đang “bật mí” cho các môn đệ biết chuyện hệ trọng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”. Tuy nhiên, các ông y như vịt nghe sấm, chẳng hiểu gì cả. Vả lại, các ông vừa sợ vừa ngại nên không dám hỏi lại Sư Phụ.

Sau đó, Thầy và trò cùng đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Ngài hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?”. Ui da! Rỉ tai nhau thế mà Thầy cũng cũng biết. Chết thật! Vì thế, các ông nhìn nhau nhưng im thin thít, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Thánh sử Mác-cô cho biết rõ là các môn đệ “cãi nhau”, chứng tỏ vấn đề nghiêm trọng chứ không đơn giản. Họ tranh giành về chuyện “cao – thấp”, về chức quyền. Vấn đề này cũng vẫn thường xảy ra trong chúng ta ngày nay.

Ngài ngồi xuống, có lẽ Ngài rất buồn khi thấy các đệ tử vẫn tục lụy, vẫn hám danh và mê lợi như vậy, rồi Ngài gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Đó là đức khiêm nhường. Ý tưởng của Ngài hoàn toàn trái ngược với chúng ta. Kế đó, Ngài đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Một chuỗi hệ lụy kỳ diệu quá!

Đó là vấn đề thứ nhất: Vấn đề lớn – nhỏ, cao – thấp. Vấn đề thứ nhì là thuận – nghịch. Khi đó, ông Gioan nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Nghe vậy, Ngài liền khoát tay và nói ngay: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.

Động thái của Chàng trai trẻ Gioan nhắc nhở chúng ta một điều: Đừng tưởng mình ngon người khác, đừng tưởng mình có quyền hơn người khác. Vì thế mà coi thường người khác, khinh miệt hoặc ghét bỏ người khác. Từ hệ lụy này sinh ra hệ lụy khác. Cứ “tưởng rằng” như vậy là mạo nhận, là ảo tưởng, là kiêu ngạo! Tương tự, TIN mình được Chúa yêu thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG mình được Chúa yêu thì lại là kiêu ngạo. Cái “khoảng cách” giữa TIN và TƯỞNG rất mong manh.

Kiêu ngạo là đối lập với Đức Kitô, vì Ngài là Đấng có “lòng hiều hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29). Đồng thời hãy nhớ lại lời Kinh Ngợi Khen (Magnificat) của Đức Maria: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1:52).

Ước gì mỗi khi gặp nhau, dù là bất kỳ ai, chúng ta có thể chân thành nói với nhau: “Chúng tôi chúc lành cho anh em nhân danh Chúa” (Tv 129:8).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con luôn biết nhân danh Ngài mà thực hiện bất cứ điều gì, từ suy nghĩ tới hành động, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn. Vâng, lạy Thiên Chúa, con thật lòng ước muốn và cố gắng thực hiện như vậy. Xin Ngài hướng dẫn con mọi nơi và mọi lúc. Xin Tổng lãnh Thiên thần Micae nguyện giúp cầu thay. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Vào khoảng 300 năm trước Công nguyên hay trước Chúa Cứu Thế sinh ra, hoàng đế Hy Lạp là Alexander trị vì toàn cõi từ Ai cập cho đến Ấn độ. Và trong khoảng 250 năm, các vua Hy lạp đã cai trị và kiểm soát tất cả vùng Trung đông kể cả Đất thánh. Họ bắt buộc dân của các quốc gia dưới quyền phải chấp nhận theo văn hóa, phong tục và tôn giáo của họ. Người Do thái lúc đó cũng bị cưỡng ép chối bỏ đức tin vào Thiên Chúa. Những người không tuân theo thì bị bách hại và giết chết. Một số người Do thái đã bỏ đạo và thờ thần của Hy lạp. Và bài đọc 1 trích sách Khôn ngoan hôm nay, đề cập đến những người Do thái bỏ đạo này. Họ gài bẫy để tìm cách hãm hại những người trung thành với Thiên Chúa và chế diễu gọi là những người trung thành với Thiên Chúa là “những người công chính.”

Bài đọc một nối kết với bài Tin mừng diễn tả Chúa Giê-su là “Người Công Chính” thật, và tiên báo về sự đau khổ mà Ngài sẽ phải chịu để trung thành với Thiên Chúa Cha và với sứ mệnh của mình. Bài Tin mừng có 2 phần. Phần thứ nhất, Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ biết về sự đau khổ và cái chết của Ngài. Đây là lần thứ 2 Chúa cho các môn đệ biết về vấn đề này. Trong phần thứ 2 của bài Tin mừng, Chúa hỏi các môn đệ về cuộc tranh luận giữa các ông khi đi đường, sau đó Chúa dạy các ông và tất cả chúng ta một bài học quan trọng trong đời sống Ki-tô hữu.

Như chúng ta vừa nghe, trong lúc Chúa muốn cho các môn đệ biết về sứ vụ, một điều quan trọng, thì các môn đệ lại không chú ý, không quan tâm. Họ tranh luận về danh vọng và đưa đến sự ghen ghét, ganh tị lẫn nhau. Sau đó, khi bị Chúa hỏi các môn đệ cũng đã nhận ra điều sai trái, và làm thinh. Chúng ta thấy đối với Chúa, Ngài không buồn hay chán nản vì thái độ của các ông. Ngài đã chọn các ông với tất cả thực chất con người: tham vọng và yếu đuối. Nhưng chắc chắn, Chúa sẽ dạy dỗ và giúp các ông vượt thắng những trở ngại đó. Vì thế nhân dịp này Chúa đã dạy các môn đệ một bài học về ý nghĩa, giá trị đích thực của người môn đệ chân chính, và sự kiện làm cho trở thành lớn hơn, quan trọng hơn. Đó là sự khiêm nhường và phục vụ mọi người.

Sau lời dạy bảo ngắn gọn này, Chúa kêu gọi một em nhỏ đến, đặt em đứng giữa các môn đệ và nói: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy.” Đến đây, tôi xin, thứ nhất, chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong chương trình giáo lý và Việt ngữ, đã lắng nghe lời Chúa kêu gọi, hy sinh thời giờ phục vụ các em nhỏ học sinh, để hướng dẫn và dạy dỗ để các em hiểu biết về giáo lý và đến gần với Chúa hơn. Tôi cũng cám ơn phụ huynh, cha mẹ giúp đỡ trong mọi công việc, và thành tâm kêu gọi tất cả mọi người, hy sinh, khiêm nhường hợp tác với các thầy cô để phục vụ giúp đỡ con em. Và điều thứ hai, như chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng, đón tiếp, phục vụ và giúp đỡ các em là phục vụ và đón tiếp chính Chúa Giê-su. Ngoài ra, em nhỏ là hình ảnh tượng trưng cho những người tầm thường, nghèo khổ và yếu kém trong xã hội, tiếp đón và phục vụ những người này là phục vụ và tiếp đón chính Chúa.

Thật vậy, đối với Chúa, người môn đệ chân chính phải là người có tinh thần phục vụ tha nhân. Và đối tượng phục vụ là những người nhỏ nhất, những người hèn kém và những người nghèo khổ. Chúng ta phải luôn ý thức, phục vụ họ là phục vụ Chúa. Như vậy nếu chúng ta phục vụ trong sự yêu thương và với lòng khiêm nhường chính là vì chúng ta muốn phục vụ Chúa Giê-su trong họ, và nếu ai phục vụ chúng ta thì cũng chỉ vì họ muốn phục vụ Chúa Giê-su trong chúng ta. Cho nên, điều quan trọng không phải là làm lớn, làm nhỏ, mà là chúng ta có tinh thần, lòng nhiệt thành phục vụ và phục với thái độ như thế nào.                                                  

Ông bà anh chị em thân mến. Tâm lý thông thường của con người là tự ái, là tự cao, muốn được chú trọng, thích được khen ngợi, làm lớn và ưa địa vị quan trọng. Đó là cái tật cố hữu của loài người từ ngày tạo thiên lập địa, chứ không phài chỉ là tật xấu của các môn đệ Chúa Giê-su. Thế nhưng những tật xấu này trái ngược với tinh thần Tin Mừng, cho nên Chúa dạy chúng ta muốn trở thành môn đệ, Ki-tô hữu chân chính phải cố gắng loại bỏ, và sống khiêm nhường, quảng đại, biết dùng đời sống và những ơn lành Chúa ban để phục vụ Chúa và anh chị em, cũng như biết sống yêu thương và hiệp nhất.

Trong bài đọc 2, thánh Gia cô bê cho chúng ta biết ở đâu có ganh ghét, ganh tị thì sẽ sinh ra chia rẽ, bất hòa và mọi thứ xấu xa. Những người có tính ganh ghét thì sẽ làm hại không những cho người khác, mà còn cho chính mình vì tự nung nấu một sự xấu trong con người, trở thành bất an, sẽ sinh ra nhiều bệnh tật, và tự giảm giá trị con người của mình. Ganh ghét còn làm hại đến cộng đoàn vì người ganh ghét như một con sâu, một con vi trùng độc hại, âm thầm mà hiểm độc phá hoại tập thể, làm cho tập thể mất đoàn kết, mất bình an, mất hăng hái. Cho nên thật là tai hại cho tập thể nào có một vài người ganh ghét.  Ngược lại, thánh Phao-lô cho chúng ta biết, ở đâu có hiền lành, chính trực thì có an hòa và hạnh phúc. Cho nên, là những Ki-tô hữu, lời Chúa kêu gọi chúng ta phải cố gắng kiến tạo sự hiệp nhất trong yêu thương và hy sinh phục vụ lẫn nhau. Đây là phương cách chúng ta vinh danh và làm sáng danh Chúa.

Ông bà anh chị em thân mến. Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Hai Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng lời sinh xuống trần và khiêm nhường phục vụ chúng ta là những người tội lỗi và yếu hèn như thánh Phao-lô đã nói: “Người là Thiên Chúa nhưng đã chịu lấy xác phàm và trở thành nô lệ.” Trong thời gian rao giảng Tin mừng, Chúa đã chịu chỉ trích và chế diễu, chịu đánh đòn, đóng đinh và chết trên thập giá để hoàn thành sứ mệnh cứu rỗi nhân loại. Tóm lại, Chúa Giê-su dạy chúng ta hãy noi gương Ngài, sống khiêm nhường và sẵn sàng hy sinh phục vụ lẫn nhau. Sứ mênh của người Ki-tô hữu chúng ta là sống để phục vụ Thiên Chúa trong mọi người. Thật vậy, khiêm nhường và hy sinh phục vụ là con đường Chúa đã đi, và cũng là con đường Chúa kêu gọi chúng ta, những người tin và được Chúa yêu thương, hãy can đảm bước đi theo Chúa, để hợp tác với Chúa trong sứ mệnh đem ơn cứu độ và tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Xin Chúa ban nhiều ơn lành cho chúng ta.

Về mục lục

.

 

BÀI HỌC VỀ QUYỀN BÍNH

Lm. Jos. DĐH

Ở trường học, người ta truyền đạt cho các học trò bài học lịch sử, nhằm khơi dậy ý chí anh hùng của các bậc tiền nhân sẽ ở mãi nơi cộng đồng xã hội hôm nay. Bài học được ghi chép từ sách vở, bài học truyền khẩu từ dân gian, đều được xem là những kiến thức, những kinh nghiệm bổ ích, quí báu, góp phần làm phong phú nền văn minh đất nước. Ở trường đời, bài học thu hút hơn cả, đó là bài học mang lại chức quyền, mang lại kinh tế cho gia đình, bài học giúp người ta sớm nổi danh nổi tiếng…..

Bài học ở trường đạo hôm nay, cho thấy tâm trí của các học trò Đức Giêsu đang bị đè nặng bởi tính hơn thiệt, không bận tâm về lời Thầy dạy, các ông còn tranh luận sôi nổi với nhau về quyền bính, chức lớn, chức nhỏ trong tương lai. Thật ra thì sống trên đời quyền cao chức trọng bao giờ cũng là một vấn nạn không nhỏ. Sinh ra làm người, phấn đấu để có kiến thức khả năng, được coi là một nửa thành công; một nửa thành công còn lại chính là biết sống những khả năng hiểu biết của mình. Sống không lỗi với đạo trời, không thẹn với đạo trong tâm, luôn là bài học thiết thực.

Quan niệm dân gian : một người làm quan cả họ được nhờ. Có chức thì có bổng lộc; giầu, giỏi, thì quyền theo sau, vì vậy mà có câu : miệng người giầu sang có gang có thép. Hiểu biết về khả năng của mình, sống đúng với chức quyền mình đang có, chỉ đáng nói khi ta đã trải qua bài học làm người. Cổ nhân để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho con cháu : làm người mà không có nhân cách, mai này sẽ thành độc ác. Làm người mà thiếu nghĩa tình, sẽ thành kẻ bội bạc. Làm người mà không có lễ giáo, sẽ thành kẻ vô phép. Làm người mà không có lý trí, chỉ là kẻ ngu ngốc. Làm người mà không có chữ tín, mai này cũng chỉ kẻ giả dối.

Tâm lý tự nhiên, ai chẳng khao khát hạnh phúc, thích nghe tin vui, nhìn ngắm vẻ đẹp, và rất mong được mãi sở hữu quyền bính, địa vị, bổng lộc vật chất. Các thầy chân chính hay giả hiệu đều chỉ có thể thu hút các học trò bằng khả năng, kiến thức thực thụ của mình, không thể có người thầy cổ vũ, gieo rắc những thất bại, những bế tắc ở phía trước. Khuynh hướng chung chung là hòn đất ném đi, hòn chì ném lại. Thầy giỏi cũng cần có trò ngoan, đầu tư nhiều, có thành quả cao, dù cái đích ai ai cũng hướng về niềm an vui hạnh phúc.

Đức Giêsu không chủ trương sống dị biệt, đi ngược với quan niệm tiền nhân, điều chân thật cao quý được Ngài qui chiếu về bài học : “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã giết Người, ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Làm sao các môn đệ có thể hiểu : chỗ nhất, chỗ trọng, không phải là chỗ của người tài giỏi chức quyền, mà là chỗ dành cho những ai dám trở nên người dốt hết, và làm tôi tớ phục vụ mọi người.

Đức Giêsu không thể trao chức quyền cho các học trò, khi mà đạo làm người các ông chưa thông, khi mà sứ mạng làm môn đệ các ông chưa tỏ ! Quyền làm người là để hiệp thông, để sống phục vụ với những khả năng hiểu biết của mình. Quyền làm con Chúa đâu phải là để thụ hưởng, để thống trị kẻ khác, quyền làm con Chúa là để thông chia niềm vui, tình yêu, và ơn cứu độ đã được ban. Đạo làm người, đạo làm con Chúa không thể phân tách khỏi tâm trí và trái tim mỗi người. Quyền làm con Thiên Chúa và quyền để phục tha nhân, chính là bài học mến Chúa yêu người mà không ai có thể cắt xén, lọc lựa.

Lời mạc khải về Đấng Cứu Thế phải chịu đau khổ, chịu chết và sống lại không phấn khởi cho các học trò, lời giải thích về chức quyền, người làm lớn, quả là một thách thức đối với ơn gọi làm môn đệ. Người làm lớn phải là người biết sử dụng con tim khối óc của mình để phục vụ, khác hẳn với quan niệm quyền để thống trị. Người môn đệ theo Đức Giêsu, phải là người biết dùng lý trí để yêu thương, dùng khả năng, quyền bính của mình để tổ chức, lãnh đạo, khơi dậy tinh thần phục vụ anh chị em trong Đức Kitô.

Từ xa xưa, người ta vẫn quan niệm : trong đạo đức cũng như trong nghệ thuật, vấn đề không ở lời nói mà là ở việc làm. Nhiều người trong chúng ta thuộc lòng câu nói của người xưa : cây cao bóng cả, thuyền to sóng lớn. Không bậc làm cha mẹ nào nuôi dạy con cháu nên người hữu ích mà không trải qua vất vả, ưu tư, lo lắng. Chẳng ai hiểu theo nghĩa đen : tu là cõi phúc, tình là giây oan; đại đa số người theo Chúa Kitô đều hiểu : đau khổ thập giá và vinh quang phục sinh không thể tách khỏi người môn đệ theo Chúa Kitô.

Quan niệm mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, xưa lắm rồi, người ta chỉ nhắc lại sự việc ấy xảy ra thời phong kiến mà thôi. Bao lâu con người còn lữ hành trần thế, bấy lâu chúng ta còn mang trong mình sự bất toàn, thích an nhàn, thích được thống trị kẻ khác. Với thời đại hôm nay, người ta chỉ tâm phục khẩu phục khi công bằng tình yêu thương được thực thi, dễ đón nhận việc làm và lời nói không bất nhất. Chúa Giêsu lưu ý các học trò, và đang nhắc nhớ chúng ta bài học về quyền bính là bài học phục vụ, chỗ nhất, chỗ trọng trong đạo làm người, làm con Chúa, chính là mỗi người biết thực thi sứ mạng yêu thương, giúp nhau sử dụng đúng nén bạc Chúa trao. Amen.

Về mục lục

.

PHỤC VỤ TRONG TINH THẦN KHIÊM TỐN

NOI GƯƠNG ĐỨC GIÊSU

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG : Mc 9,30-37

(30) Đức Giê-su và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Ga-li-lê. Nhưng Đức Giê-su không muốn có ai biết, (31) vì Người đang dạy các môn đệ rằng : “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người, và Người bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại”.(32) Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người. (33) Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Đức Giê-su hỏi các ông : “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy ?” (34) Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. (35) Rồi Đức Giê-su ngồi xuống gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói : “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. (36) Kế đó, Người đem một em nhỏ, đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói : (37) “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.

2. Ý CHÍNH :

Tin Mừng hôm nay tóm trong 3 điểm chính như sau: Một là Đức Giê-su tiên báo lần thứ hai về cuộc khổ nạn và phục sinh mà Người sắp trải qua, nhưng các môn đệ do sợ bị quở trách hay sợ phải đối diện với sự thật không như ý, nên đã không dám hỏi Người. Hai là các ông tưởng Thầy sắp lên làm vua, nên tranh luận nhau xem ai sẽ nắm giữ chức vụ cao trọng hơn. Đức Giê-su đã dạy các ông bài học về sự khiêm nhường phục vụ của người môn đệ. Ba là Người đòi các ông phải quan tâm đến những người nghèo khổ bé nhỏ, tượng trưng bằng một đứa trẻ được Người đặt giữa các ông. Người còn tự đồng hóa mình với những kẻ bé nhỏ này.

3. CHÚ THÍCH :

– C 30-32 : + Con Người : Nhấn mạnh về nhân tính của Đức Giê-su. Như người Tôi Trung của Đức Chúa, Đức Giê-su sẵn sàng chịu đau khổ để đền tội thay cho dân hầu làm cho các tội nhân được nên công chính (x. Is 53,2-12). +Sẽ bị nộp vào tay người đời: “Rơi vào tay người đời” là một số phận hẩm hiu, trái ngược với “Rơi vào tay Đức Chúa” (2 Sm 24,14). Thánh Phao-lô viết: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32). +Bị giết chết và sẽ sống lạ i: Người sẽ bị giết do tay người đời nhưng sẽ sống lại nhờ quyền năng Thiên Chúa (x. Cv 13,27-30). +Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người : Vì chưa có ý niệm gì về mầu nhiệm thập giá nên các môn đệ cảm thấy rất buồn khi nghe Thầy loan báo điều này (x. Mt 17,23). Họ không dám hỏi lại có lẽ vì sợ bị quở trách như ông Phê-rô trước đó (x. Mc 8,33), mà cũng vì sợ phải đối diện với sự thật không như ý mình muốn !

C 33-34 : + “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy ?” : Đặt câu hỏi này với các môn đệ, Đức Giê-su cho thấy Người luôn quan sát từng lời nói và cử chỉ hành động của các ông để giáo huấn. + Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả : Qua thái độ làm thinh, các môn đệ đã nhận ra khuyết điểm của các ông là ham muốn địa vị quyền hành, trái với tinh thần khiêm nhượng phục vụ mà Đức Giê-su luôn nêu gương và chỉ dạy.

C 35-37 : + Đức Giê-su ngồi xuống gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói : Trong tư thế ngồi của một ông thầy (ráp-bi), Đức Giê-su gọi Nhóm Mười Hai môn đệ lại gần mà giáo huấn. + Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người” : Đức Giê-su nhấn mạnh đến tinh thần khiêm tốn phục vụ mà môn đệ của Người phải có là tự hạ, trở thành người tôi tớ hầu hạ mọi người. Ở đây có sự đối nghịch giữa “người đứng đầu” với “người rốt hết”. Đối với Đức Giê-su, giá trị của người lãnh đạo phải dựa trên nền sự khiêm hạ, sẵn sàng phục vụ tha nhân vô điều kiện. + “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy” : Em nhỏ trong câu này không tượng trưng cho sự ngây thơ vô tội, nhưng là biểu tượng cho người nghèo khó tầm thường, những kẻ vô danh tiểu tốt, tàn tật, yếu đuối và bị bỏ rơi… + “Là tiếp đón chính Thầy… tiếp đón Đấng đã sai Thầy” : Đức Giê-su đề cao sự khiêm nhường phục vụ những người nghèo, có giá trị thiêng liêng cao quý như hành động phục vụ Người và phục vụ chính Chúa Cha  Đấng đã sai Người (x. Mt 10,40).

4. CÂU HỎI : 1) Khi tự xưng là Con Người, Đức Giê-su muốn nhấn mạnh điều gì ? 2) Đức Giê-su đã loan báo về sứ mệnh Thiên Sai như thế nào ? 3) Tại sao các môn đệ dù chưa hiểu rõ lại không dám hỏi Thầy về điều các ông vừa nghe ? 4) Dọc đường, các môn đệ tranh luận với nhau điều gì ? Tại sao các ông làm thinh không trả lời câu Thầy hỏi ? 5) Đức Giê-su đòi các mục tử trong Nước Trời phải có cách ăn ở thế nào ? 6) Khi đưa một em nhỏ đặt giữa các ông, Đức Giê-su muốn dạy bài học gì ? 7) Người dạy các ông phải khiêm nhường phục vụ những ai ?

II. SỐNG LỜI CHÚA :

1. LỜI CHÚA : Rồi Đức Giê-su ngồi xuống gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói : “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người(Mc 9,35).

2. CÂU CHUYỆN :

1) MỘT VỊ GIÁM MỤC KHIÊM TỐN PHỤC VỤ NGƯỜI DƯỚI:

Thánh Phanxicô Salêsiô là một giám mục nổi tiếng về lòng khoan dung và đức khiêm nhường phục vụ. Ngày nọ sau giờ làm việc, người giúp việc của Tòa Giám Mục vốn có tật thích ăn nhậu say xỉn đã leo rào ra ngoài quán cóc gần đường đó ăn nhậu với chúng bạn và đã bất cẩn uống rượu quá chén. Khi mò về tới tòa giám mục thì trời đã khuya. Do quá say, anh quên rằng phải leo rào để về nơi ở, nên đã nằm đại ra trước cổng tòa giám mục ngủ ngáy khò khò. Bấy giờ thánh Phanxicô Salêsiô vẫn còn thức đêm làm việc, nghe thấy tiếng ngáy liền đi ra mở cổng và khi nhận ra người giúp việc của ngài đang ngủ say, liền cõng anh ta vào phòng riêng và đặt nằm trên giường của mình. Còn ngài thì tạm nghỉ trên chiếc ghế salon trong phòng khách.

Sáng ngày thức dậy, anh giúp việc rất ngạc nhiên thấy mình đang nằm trên giường của đức giám mục. Anh nhớ ra bữa nhậu say xỉn tối hôm trước, liền vội chạy đến quì trước mặt đức giám mục thú tội để xin tha tội. Và cũng từ ngày đó anh giúp việc đã chừa được tật ưa ăn nhậu say xỉn. Anh không bao giờ còn dám lẻn ra ngoài vui với bạn bè vào lúc đêm tối nữa.

2) BÁC SĨ GIÁM ĐỐC BỆNH VIỆN SẴN SÀNG ĐÁNH GIÀY PHỤC VỤ KHÁCH QUÝ:

Cùng với cha và người em, bác sĩ SA-RI MÊ-Ô (Charies Mayo) đã xây dựng bệnh viện Mê-ô nổi tiếng tại thành phố Rô-sét-tơ (Rochester) Hoa kỳ.

Lần kia, một phái đoàn y khoa được cử đến thăm bệnh viện. Theo truyền thống của bệnh viện, quí khách sẽ để giày trước cửa phòng riêng của mình, và bệnh viện sẽ bố trí nhân viên đến đánh bóng các đôi giày ấy. Tối hôm đó, bác sĩ May-ô làm việc trễ và là người về phòng sau cùng. Ông thấy các đôi giày ở trước các phòng của khách vẫn chưa được nhân viên phụ trách đánh bóng ! Có thể họ đã quên làm việc này chăng ? Ông liền đi kiếm xi và bản chải, rồi lần lượt đến trước mỗi phòng đánh bóng các đôi giày của khách. Khi nhân viên phụ trách đánh giày hôm đó đến làm nhiệm vụ lúc nửa đêm, anh rất ngạc nhiên khi thấy vị bác sĩ giám đốc bệnh viện vẫn đang miệt mài chùi bóng những chiếc giày cuối cùng cho các vị khách quí.

Câu chuyện bác sĩ giám đốc đánh giày này đã trở thành huyền thoại ! Bác sĩ May-ô được ca tụng không những vì có tài chữa bệnh, hoặc do những công trình y khoa to lớn mang lại nhiều lợi ích, mà còn vì lối sống khiêm nhường bình dị của ông. Ông không nề hà làm bất cứ việc gì để phục vụ tha nhân, dù việc ấy không xứng tầm với địa vị của ông.

3. THẢO LUẬN:

1) Bạn sẽ phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khó bệnh tật cách nào để nên môn đệ đích thực của Đức Giê-su (x Ga 13,35)?

2) Là người đứng đầu một tập thể nhỏ là gia đình, đội nhóm, lớp học… và có chút quyền hành, chúng ta sẽ làm gì để noi gương Mục Tử Giê-su chăm sóc phục vụ đòan chiên, “đến cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

4. SUY NIỆM :

 1) CON NGƯỜI THƯỜNG TRANH GIÀNH NHAU ĐỊA VỊ QUYỀN HÀNH:

Thông thường những quan lớn trong xã hội thường muốn được “ăn trên ngồi trước”, muốn được chiếm địa vị cao hơn chúng bạn và khó chịu khi thấy bạn bè thành công hơn mình.

Khi đi theo Thầy Giêsu lên Giêrusalem, các môn đệ cũng tưởng rằng Thầy mình sắp lên làm vua, nên dọc đường các ông tranh cãi nhau xem ai sẽ được giữ chức vụ lớn nhất ! Đức Giê-su hiểu rõ tâm trạng của các ông, nên khi Thầy trò về đến nhà trọ tại thành Ca-phác-na-um, Người đã dạy các ông bài học về sự khiêm tốn phục vụ trong Nước Trời do Người sắp thiết lập. Người muốn các môn đệ là những người sau này lãnh đạo cộng đoàn Hội Thánh phải có lối sống khiêm hạ phục vụ tha nhân: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ phục vụ mọi người” (Mc 9,35), noi theo gương khiêm nhường của Người: “Con Người đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ” (Mc 10,45).

2) MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊSU PHẢI CÓ TINH THẦN KHIÊM TỐN PHỤC VỤ:

Không phải vô cớ mà Đức Giêsu đưa một em nhỏ ra làm gương cho các môn đệ. Thời đó trong xã hội Do thái, trẻ em được xếp đứng hàng sau chót trong bậc thang địa vị. Theo lời giảng dạy của Chúa, kẻ nào vì tự nhận là môn đệ Đức Kitô, cần phải phục vụ những người có địa vị thấp kém nhất như trẻ nhỏ, là đã phục vụ chính Đức Giêsu và Chúa Cha. Người cũng đòi môn đệ phải nên giống như trẻ nhỏ, nghĩa là phải sẵn sàng mở lòng đón nhận Tin Mừng không hậu ý, phải tránh thái độ  nhỏ nhen ích kỷ khi chỉ biết tìm lợi ích cho riêng mình.

Trong bữa Tiệc Ly, Tin Mừng Gioan cũng thuật lại việc Đức Giêsu tình nguyện làm công việc của người giúp việc là quỳ gối rửa chân cho các môn đệ, rồi sau đó Người đã dạy các ông điều răn mới là “hãy yêu thương nhau như Thầy” và khiêm nhường phục vụ nhau (Ga 13,12-15).

Về sau, Tông đồ Phao-lô cũng trình bày gương khiêm hạ vâng phục của Đức Giê-su trong thư Philipphê như sau: “Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hòan tòan trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2,5b-8).

3) TINH THẦN KHIÊM TỐN PHỤC VỤ LÀ GÌ ?:

Là noi gương Đức Giêsu để phục vụ như một đầy tớ giúp việc, hoặc như một bà mẹ tận tình phục vụ đứa con thơ bé, hay người mục tử nhân lành phục vụ đoàn chiên.

– Như một tôi tớ giúp việc: Điều quan trọng của người tôi tớ khi phục vụ là phải khiêm hạ và nhiệt tình làm mọi việc trong phần vụ được chủ yêu cầu, tránh phục vụ theo kiểu ban ơn thể hiện qua thái độ hống hách khinh thường hoặc chê trách người khác. Nhất là tránh thái độ công thần, khi hay khoe khoang công lao thành tích của mình và đòi phải được tập thể tỏ lòng kính trọng biết ơn theo đòi hỏi của mình. Hãy noi gương Chúa Giêsu là Thầy là Chúa mà khiêm hạ quỳ gối rửa chân cho môn đệ trong bữa Tiệc Ly.

– Như một bà mẹ phục vụ con thơ: Động lực phục vụ của bà là tình yêu thương con, nên bà không so đo tính toán hơn thiệt với con, luôn quên mình để tìm lợi ích cho con như câu người đời thường nói về tình yêu thương của bà mẹ hy sinh cho con thơ: “Mẹ nằm chỗ ướt, con nằm chỗ khô”

– Phục vụ như Mục Tử tốt lành Giêsu: Mục tử tốt lành luôn hiểu biết để cảm thông với những khó khăn của đoàn chiên được trao phó cho mình chăn dắt; Luôn lo lắng chăm sóc và dẫn đưa đoàn chiên đến cánh đồng cỏ xanh và suối nước trong; Luôn quan tâm bảo vệ đoàn chiên để chống lại sói dữ đến cắn xé làm cho đoàn chiên tan tác; Sẵn sàng hy sinh thời giờ sức lực đi tìm kiếm chiên lạc, băng bó những con chiên bị thương tích… Tóm lại phải phục vụ như Mục Tử tốt lành Giêsu: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

4) HÃY ĐI VÀ LÀM NHƯ VẬY (Lc 10,37) : 

Để thực hành đức khiêm nhường phục vụ noi gương Đức Giêsu, mỗi người chúng ta cần làm một số việc sau :

– Cần xin ơn Chúa giúp : Hãy năng dâng lời nguyện tắt để xin Chúa Giê-su Phục Sinh đổ ơn Thánh Thần giúp chúng ta khiêm hạ để sẵn sàng phục vụ tha nhân, nhất là những người tàn tật già cả bất hạnh và bị bỏ rơi… đang sống bên cạnh chúng ta.

– Cần phải xét mình mỗi ngày : Để thực tập khiêm nhường phục vụ, mỗi ngày chúng ta nên dành một phút hồi tâm trước khi nghỉ đêm : Hôm nay tôi có nhớ phục vụ kèm theo lời nguyện tắt không? Tôi làm các việc lành để làm vinh danh Chúa hay để tìm tiếng khen của người đời (x Mt 6,1) ? Tôi có sẵn lòng làm những việc vô danh ít người muốn làm không (x Mt 6,2) ? Có cảm thấy ấm ức khi làm những việc tốt mà không ai hay biết không (x Mt 6,3-4) ?

– Cần phục vụ với tình yêu thương : Những người đứng đầu một cộng đòan không nên nại vào lý do mình đã phục vụ cho tập thể nên cũng đòi hỏi mọi người biết ơn và phục vụ lại. Cần tránh thái độ quan liêu, độc đoán và vô trách nhiệm, thiếu đức bác ái mục tử giống như những kẻ chăn thuê đã bị Đức Giê-su nặng lời quở trách (x Ga 10,11-13).

– Tập khen ngợi và đề cao các việc tốt của tha nhân: Chẳng hạn: một người hốt rác có tinh thần trách nhiệm cao khi làm việc, một bà bán hàng rong thành thật trả lại tiền dư cho khách, một thày giáo ý thức trách nhiệm sẵn sàng dạy miễn phí cho các học sinh yếu kém… Hãy biến cuộc sống của chúng ta trở thành thánh lễ nối dài bằng thái độ khiêm tốn phục vụ tha nhân của mình.

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA Giê-su. Xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để nhận ra Chúa nơi những người đau khổ do đói cơm bánh vật chất cũng như thiếu bánh ăn tinh thần là Lời Chúa. Xin cho chúng con biết nhìn thấy Chúa đang bị bỏ rơi trong những người đau khổ. Xin cho chúng con biết mở rộng lòng đón nhận tha nhân, mở trái tim để cảm thông, mở đôi tay để phục vụ mọi người như phục vụ chính Chúa. Ước gì chúng con luôn kết hiệp với Chúa để phục vụ trong âm thầm, hầu xứng đáng được Chúa tha thứ tội lỗi và ban hạnh phúc Nước Trời đời đời cho chúng con.

X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-

Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

GHEN TỴ

Huệ Minh

Cái ác, sự ghen tương nó đã len lỏi vào cuộc sống của con người, vào đời sống của con người từ những ngày tạo thiên lập địa.Cũng chính vì ganh tỵ với Thiên Chúa nên hai ông bà nguyên tổ đã đánh mất đi tình yêu của Thiên Chúa. Cái ác và ghen tương củ ông bà đã để lại cho con cháu những bài học quý giá nhưng rồi dường như chẳng ai muốn học cả. Đơn giản bởi lẽ con người vẫn mãi mãi ghen tương.

Sách Huấn ca vừa nói vói ta : Những kẻ gian ác nói rằng: “Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Vậy chúng ta hãy xem điều nó nói có thật hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó!”

Người công chính bị người ác mưu hại và còn hơn nữa là thách thức Thiên Chúa.

Sự ác, sự ghen tuông tưởng chừng chỉ có ở thời Cựu Ước hay như ông bà nguyên tổ Ađam nhưng rồi cứ kéo dài mãi cho đến thời các môn đệ.

Đã là những người gần gũi, đã là những người thân tín, lẽ ra nhường nhịn nhau, thông cảm cho nhau nhưng rồi lại cứ phải hơn thua, tranh giành.

Hôm nay, sự tranh giành, tính toán hơn thua nhau ta thấy có tự trong hàng ngũ những môn đệ thân tín của Chúa Giêsu. Trên đường đi loan báo Tin Mừng nhưng rồi các ông đã sống sai Tin Mừng và xa rời Tin Mừng mà Thầy Giêsu đang muốn gửi đến cho nhân loại, muốn gửi đến cho các ông và nhất là qua các ông là những người gần gũi.

Ắt hẳn là con người, khi các môn đệ đã nhắm đến chỗ cao, chỗ hơn thì chính trong nội bộ đã gây chia rẽ với nhau rồi. Và khi nội bộ của những người loan báo Tin Mừng gây chia rẽ thì tiếng nói của Lời Chúa, những lời rao giảng về Chúa coi như ra rỗng tuếch.

Ngày nay, điều mà người ta vẫn dễ nhận thấy đường hướng của những người gây chia rẽ là ai trong cuộc sống. Nếu như không tỉnh táo con người sẽ dễ bị cuốn hút đi theo con đường gây chia rẽ đó.

Thật ra mà nói, nếu như con người chấp nhận cái tôi của mình, sự yếu đuối của mình và nhất là không chay theo tiền bạc cũng như quyền lực thì sự hơn thua, ganh tỵ, chia rẽ khó mà có chỗ ngự trị. Ngược lại, nếu như con người ta để cho cái tôi của mình ngày một lớn thì sự chia rẽ đó càng mạnh.

Ngày nay, phải nói rằng sự chia rẽ ngay trong nội bộ gia đình, cộng đoàn đã đến mức báo động đỏ cũng chỉ vì người ta hơn thua tranh giành nhau. Có khi chỉ vài tấc đất thôi nhưng người ta có thể thù oán nhau và hại nhau có khi là mất mạng.

Ngày nay, người ta dễ nổi nóng với nhau cũng như dễ hành xử với nhau trong tư cách là con hơn là người. Cũng dễ hiểu bởi đó là tác động của xã hội nhưng rồi không thể nào đổ lỗi cho xã hội để ta cuốn theo xú u hướng của xã hội như thế.

Đau lòng hơn cả là trong những cộng đoàn tu trì cũng như giữa các đấng các bậc với nhau. Có thể không nói ra nhưng những lời xầm xì của những người trong nhà, của cộng đoàn đã để lọt ra ngoài để cho người ngoài nhìn thấy chính nội bộ cộng đoàn tu trì gây chia rẽ hơn thua nhau.

Chuyện giản đơn là chức vụ, xét cho bằng cùng chức vụ cũng chỉ là cộng đoàn đưa lên để phục vụ cộng đoàn.

Phải nói rằng ngày hôm nay hơn bao giờ hết người ta ghen tuông với nhau đến tột cùng. Chính vì sự ghen tuông mà người ta hành xử với nhau có khi không còn là tình người, là tính người nữa.

Ghen tuông nó len lỏi vào con người rất khéo léo và ẩn nấp dưới cái vẻ đẹp là phục vụ. Cần nhìn lại, lắng đọng tâm hồn để xét về chính bản thân mình xem vai trò của mình trong cộng đoàn, trong gia đình, trong họ đạo … để rồi ta nhìn lại xem ta có tính hơn thua, giành giật hay không.

Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày chúng ta bớt đi cái tính hơn thua, tranh giành trong tâm hồn ta để ta mặc lấy tâm tình hiền từ, nhân hậu và nhẫn nại để đối xử với nhau. Có khi đó, tâm hồn ta mới bình an thật sự và những người sống quanh ta mới bình an. 

Về mục lục

.

PHỤC VỤ MỌI NGƯỜI

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Suy Niệm

Các kỷ lục thế giới cứ được nâng cao hoài,
vì ai cũng muốn phá kỷ lục để được đứng nhất:
chạy nhanh nhất, nhảy cao nhất, ném xa nhất…
Các đĩa nhạc chỉ muốn nằm mãi trong top-ten,
Các cuốn sách chỉ muốn là sách bán chạy nhất.
Ðẹp nhất, giỏi nhất, giàu nhất, thế lực nhất…
Cuộc sống quả là một cuộc tranh đua không ngừng.
Các nhà tâm lý học coi những tranh đua đó
là cần thiết để hình thành nhân cách.
Các nhà xã hội học coi những tranh đua đó
là cần thiết cho sự tiến bộ của xã hội.
Tiếc thay, lắm khi người ta đã dùng bao mưu mô
để đạt được và giữ được vị trí hàng đầu.
Ðôping trong thể thao chỉ là một thí dụ nhỏ.

Ngay trong Nhóm Mười Hai cũng có tranh chấp.
Sau khi Ðức Giêsu loan báo con đường hẹp của khổ đau,
các môn đệ vẫn chưa ra khỏi được con đường của mình.
Ðang lúc đi đường mà các ông cũng cãi nhau
xem ai là người lớn nhất trong nhóm.
Ðức Giêsu tế nhị đợi về tới nhà mới hỏi
như thể Ngài không biết rõ đầu đuôi.
Các môn đệ làm thinh không trả lời.
Ðức Giêsu tôn trọng khoảnh khắc lặng lẽ cần thiết ấy
để mỗi người trở về với bao thèm khát của lòng mình,
đối diện với bao tham vọng đang sôi sục.
Ðức Giêsu ngồi xuống thư thái như một vị thầy.
Ngài chẳng nặng lời với các nhà lãnh đạo Hội Thánh tương lai.
Ngài dạy cho họ con đường trở nên lớn lao thực sự:
“Nếu ai muốn làm người đứng đầu,
thì phải làm người đứng cuối mọi người
và phục vụ mọi người.”

Ðức Giêsu đưa ra một cuộc cách mạng về quan điểm.
Người lớn nhất, người đứng đầu
không phải là người dùng quyền
để lãnh đạo chỉ huy từ trên cao,
nhưng là người đến trước mọi người
và về sau mọi người, để phục vụ.
Khi phục vụ vô vị lợi, tôi được thực sự lớn lên
trước mặt Thiên Chúa, trước mặt anh em.
Người lớn nhất là người phục vụ hết mình nhất.
Chức vụ, chức vị, chức tước, chức quyền
đều không phải là điều xấu,
nếu chúng được dùng như phương tiện để phục vụ.

Nếu người đứng đầu lại phải sống như người đứng cuối,
thì còn ai muốn đứng đầu nữa không?
Thế giới hôm nay rất cần những người muốn đứng đầu
theo kiểu Ðức Giêsu, nghĩa là trong phục vụ khiêm hạ.
Ai trong chúng ta cũng có chút ít quyền hành,
cũng là người đứng đầu một tập thể nho nhỏ.
Ước gì chúng ta không để mình bị hư hỏng vì quyền hành,
nhưng biết dùng quyền hành
để đem lại hạnh phúc cho tha nhân.

 Cầu Nguyện

Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hàng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
nhưng kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật,
công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Ðiều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”

Mẹ Têrêxa Calcutta

Về mục lục

.

Exit mobile version